intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu một số giải pháp quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng tại xã Yên Nhân, thuộc vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

19
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài tiến hành nghiên cứu những giải pháp quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng ở vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên. Góp phần thúc đẩy quá trình nâng cao nhận thức và kiến thức của cộng đồng, tạo điều kiện cho việc kết hợp những kinh nghiệm truyền thống với khoa học hiện đại để hình thành những cách thức mới trong quản lý rừng. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu một số giải pháp quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng tại xã Yên Nhân, thuộc vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ----------------------------- TRỊNH NHÂN TƯỜNG “NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ RỪNG TRÊN CƠ SỞ CỘNG ĐỒNG TẠI XÃ YÊN NHÂN, THUỘC VÙNG ĐỆM KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN XUÂN LIÊN, TỈNH THANH HÓA” LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội, 2012
  2. 1 ĐĂT VẤN ĐỀ Yên Nhân là một xã thuộc vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa, nằm trong lưu vực thượng nguồn Sông Khao, vùng phòng hộ đầu nguồn Sông Chu. Về tài nguyên, môi trường và cộng đồng dân cư ở đây đang có một tiềm năng to lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội. Với diện tích đất lâm nghiệp rộng lớn chiếm 85% tổng diện tích đất tự nhiên, phần lớn là đất rừng tự nhiên. Đây là nguồn tài nguyên quý giá và phong phú nhất của địa phương. Mặt khác địa bàn xã nằm trong khu vực có điều kiện khí hậu, đất đai thuận lợi là tiềm năng để phát triển nhiều loại cây rừng, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu và chăn nuôi. Cùng với truyền thống đoàn kết dân tộc và những kiến thức bản địa phong phú, lao động dồi dào cũng là nguồn tài nguyên quan trọng góp phần phát triển kinh tế xã hội va ổn định cuộc sống cho người dân địa phương. Tuy nhiên trong nhiều năm qua do khai thác và sử dụng rừng chưa hợp lý, hoạt động săn bắn và khai thác gỗ trái phép mỗi ngày một gia tăng đã làm cho diện tích rừng tự nhiên của xã Yên Nhân bị thu hẹp, chất lượng rừng suy giảm, khả năng cung cấp lâm sản, các chức năng phòng hộ, cải tạo môi trường sinh thái, vv… không đáp ứng được nhu cầu; tình trạng hạn hán, lũ lụt xảy ra hàng năm gây nhiều thiệt hại cho hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp, dẫn đến tình rạng kinh tế xã hội chậm phát triển, đời sống nhân dân nghèo nàn, lạc hậu. Để khắc phục đói nghèo người dân phải khai thác lâm sản, săn bắn động vật trong khu bảo tồn thiên nhiên. Ngoài ra còn săn bắn động vật hoang dã từ khu bảo tồn thiên nhiên di chuyển ra vùng đệm, tạo ra sự di chuyển một chiều của động vật hoang dã từ khu bảo tôn thiên nhiên ra vùng đệm và bị mất dần qua hoạt động săn bắn của người dân. Quá trình đó đã làm cho tài nguyên động vật rừng ngày càng cạn kiệt, gây khó khăn cho công tác quản lý rừng nói chung và công tác bảo tồn tính đa dạng sinh học nói riêng. Trước những thay đổi đó con người ngày càng hiểu được tầm quan trọng của rừng. Ngày nay nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách và dự án cho hoạt động quản lý bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng. Thế nhưng hiện tượng săn bắn,
  3. 2 khai thác gỗ trái phép vẫn thường xuyên xảy ra làm cho tài nguyên rừng vẫn tiếp tục suy giảm. Những kết quả nghiên cứu gần đây đã cho thấy một trong những nguyên nhân chủ yếu là do chưa phát huy được năng lực cộng đồng, lực lượng xã hội gần nhất với người dân. Các dòng họ, các già làng, các tổ chức quần chúng và mỗi thành viên có thể khuyến khích và giám sát nhau thực hiện chính sách của nhà nước và những quy định của cộng đồng có lợi cho hoạt động bảo vệ và phát triển tài nguyên. Vậy làm thế nào để nâng cao năng lực nội sinh của cộng đồng, phát huy những tiềm năng sẵn có và lôi cuốn cộng đồng tham gia vào các hoạt động quản lý tài nguyên rừng vì mục tiêu phát triển bền vững của địa phương. Đây là những băn khoăn, trăn trở không chỉ của chính quyền các cấp, các nhà khoa học mà của cả người dân địa phương. Nhằm góp phần giải quyết vấn đề trên đề tài: “Nghiên cứu một số giải pháp quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng tại xã Yên Nhân, thuộc vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa” đã được thực hiện. Đề tài tiến hành nghiên cứu những giải pháp quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng ở vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên. Góp phần thúc đẩy quá trình nâng cao nhận thức và kiến thức của cộng đồng, tạo điều kiện cho việc kết hợp những kinh nghiệm truyền thống với khoa học hiện đại để hình thành những cách thức mới trong quản lý rừng, thúc đẩy việc liên kết các ngành các cấp, phát huy tổng hợp những nguồn lực tự nhiên, kinh tế - xã hội và nhân văn cho việc sử dụng tối ưu tài nguyên thiên nhiên vì sự phát triển bền vững của địa phương và đất nước.
  4. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỪNG TRÊN CƠ SỞ CỘNG ĐỒNG 1.1. Nhận thức chung về quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng 1.1.1. Khái niệm về quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng Rừng là một bộ phận tài nguyên mà đặc điểm của chúng quyết định đến đặc điểm của nhiều cán bộ tài nguyên khác, chúng có ý nghĩa nhất đối với sự tồn tại của thiên nhiên nói chúng và con người nói riêng, chúng cũng dễ bị biến đổi nhất dưới những tác động của con người và có nhu cầu khẩn thiết nhất về quản lý hiệu quả. Chính vì vậy trên thế giới, lịch sử quản lý rừng được phát triển từ rất sớm. Đầu thế kỷ XVIII, các nhà Lâm học Đức [41] đã đề xuất nguyên tắc lợi dụng lâu bền đối với rừng thuần loài đều tuổi, cũng vào thời điểm đó các nhà Lâm học Pháp [42] cũng đã đề ra phương pháp kiểm tra điều chỉnh sản lượng đối với rừng khác tuổi khai thác chọn. Trong thời kỳ này, hệ thống quản lý rừng phần lớn dựa trên các mô hình kiểm soát quốc gia, vai trò sự tham gia của cộng đồng trong quản lý rừng không được chú ý, Chính phủ giữ quyền pháp lý độc nhất kiểm soát toàn bộ các khu rừng tự nhiên của quốc gia. Giai đoạn từ giữa thế kỷ XX trở lại đây, khi tài nguyên rừng ở nhiều Quốc gia đã bị giảm sút một cách nghiêm trọng, môi trường sinh thái và cuộc sống của đồng bào miền núi bị đe dọa thì phương thức quản lý tập trung như trước đây không còn thích hợp nữa. Người ta đã tìm mọi cách cứu vãn tình trạng suy thoái tài nguyên rừng thông qua việc ban bố một số chính sách nhằm động viên và thu hút người dân tham gia quản lý và sử dụng tài nguyên rừng. Phương thức quản lý rừng cộng đồng (hay lâm nghiệp cộng đồng) xuất hiện đầu tiên ở Ấn Độ và dần dần thay đổi thành các hình thức quản lý khác nhau như Lâm Nghiệp trang trại, Lâm nghiệp xã hội ở (Nepan, Thái Lan, Philippin,…). Hiện nay, ở các nước đang phát triển, khi sản xuất Nông, Lâm nghiệp còn chiếm vị trí quan trọng đối với người dân nông thôn miền núi, thì quản lý rừng theo phương thức phát triển Lâm nghiệp xã hội là một hình thức mang tính bền vững nhất về cả phương diện kinh tế, xã hội lẫn môi trường sinh thái [27].
  5. 4 Những nghiên cứu gần đây ở các nước đang phát triển đã chỉ rõ, trong quá trình xây rựng và hoàn thiện chính sách, luật pháp về quản lý tài nguyên thiên nhiên, thì thiếu sự tham gia của cộng đồng là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm hiệu lực của các chính sách bảo vệ quản lý tài nguyên thiên nhiên. Khi có những giải pháp thích hợp thì cộng đồng chính là lực lượng động viên, hỗ trợ, giám sát, và thậm chí cả cưỡng chế các thành viên thực hiện những hoạt động quản lý bền vững tài nguyên. Ngược lại, vai trò của cộng đồng có thể hoàn toàn bị mờ nhạt trong hoạt động quản lý tài nguyên. Đôi khi họ còn trở thành lực lượng đối lập lại với nhà nước trong hoạt động quản lý tài nguyên. Kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả đã khặng định ở phần lớn các vùng nông thôn miền núi của Philippines, Indonesia, Lào, Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan, v.v…, những cộng đồng địa phương giữ một vị trí quan trọng trong quản lý tài nguyên thiên nhiên [44]. Khái niệm cộng đồng được hiểu là một nhóm người sống trên cùng một khu vực, và thường cùng nhau chia sẻ các mục tiêu chung, các luật lệ xã hội chung có thể có mối quan hệ gia đình với nhau (D’arcy Davis Case, 1990). Còn quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng là một quản lý tài nguyên rừng dựa vào những tổ chức và luật lệ cộng đồng mà trong đó phát huy được năng lực nội sinh của cộng đòng cho hoạt động quản lý. Những giải pháp quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng luôn chứa đựng những sắc thái của phong tục, tập quán, ý thức tôn giáo, nhận thức, kiến thức của người dân, đặc điểm quan hệ gia đình, họ hàng, làng xóm, của chính sách, luật pháp v.v…(Edwin Shanks, 1992). Trong khi các nước công nghiệp phát triển đề cao vai trò của cá nhân, thì các nước đang phát triển mà đặc biệt là ở vùng Châu Á –Thái Bình Dương, gia đình và cộng đồng được đánh giá cao. 1.1.2. Vai trò của chính sách nhà nước đối với quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng Quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng được xây dựng dựa trên cơ sở phong tục tập quán của người dân địa phương. Có những phong tục tập quán phù hợp với yêu cầu của quản lý bền vững tài nguyên rừng. Nhưng cũng có những phong tục tập
  6. 5 quán ngược lại với yêu cầu của quản lý bền vững tài nguyên rừng. Vì vậy, quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng phải hướng vào phát huy được những phong tục tập quán có lợi, và giảm dần những phong tục tập quán cản trở hoạt động quản lý bền vững tài nguyên (IUCN,1991). Tuy nhiên, phong tục, tập quán, nhận thức, kiến thức của nhân dân không phải là bất biến. Chúng thay đổi không ngừng cùng sự tiến bộ của xã hội. Vì vậy, những giải pháp quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng không chỉ phù hợp với đặc điểm nhận thức và kiến thức của người dân mà còn phải hướng đến làm thay đổi chúng theo chiều hướng có lợi cho hoạt động quản lý bền vững tài nguyên (IUCN,1991). Quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng sẽ không thực hiện được nếu thiếu sự hậu thuẫn của các chính sách và thể chế Nhà nước. Các tổ chức cộng đồng không phải là cơ quan quyền lực, không có công cụ chuyên chính riêng. Trong nhiều trường hợp tổ chức cộng đồng không giải quyết được một cách triệt để những vấn đề phức tạp của quản lý tài nguyên. Khi có các tổ chức cộng đồng phải hợp tác với các cơ quan chính quyền để giải quyết những vấn đề vượt khỏi quyền hạn của mình. Vì vậy, các quy định của cộng đồng phải được xây dựng trên cơ sở tính đến sự hỗ trợ của các chính sách và thể chế hiện thời của Nhà nước, không trái với các quy định của Nhà nước. 1.1.3. Chiến lược và chính sách cho quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng Chiến lược và chính sách quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng của các nước trong khu vực đều tiến hành theo những hướng sau: - Bổ sung và sửa đổi chính sách để tăng quyền quản lý rừng cho người dân và các cộng đồng. Những giải pháp chủ yếu để tăng quyền quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng là: cấp giấy chứng nhận quyền quản lý sử dụng rừng và đất rừng lâu dài cho hộ gia đình và cộng đồng, quy hoạch phát triển có sự tham gia của người dân, xây dựng những tổ chức và hương ước đảm bảo quyền sử dụng và phát triển tài nguyên rừng, xây dựng những hợp đồng trách nhiệm giữa gia đình, cộng đồng với nhà nước [28].
  7. 6 - Kết hợp những giải pháp hỗ trợ kinh tế để khuyến khích với những giải pháp hành chính cứng rắn, chú trọng phát triền đồng bộ cả giải pháp khoa học công nghệ, giải pháp kinh tế và giải pháp xã hội cho quản lý rừng. - Những chương trình quản lý tài nguyên và chương trình phát triển nói chung của địa phương được xây dựng theo phương pháp cùng tham gia ở tất cả các giai đoạn lập kế hoạch. Người ta xem đây là phương pháp cho phép phát huy đầy đủ nhất những nội lực của cộng đồng cho quản lý bền vững tài nguyên rừng. 1.2. Quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng ở một số nước trên thế giới 1.2.1. Quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng ở một số nước trong khu vực Trong giai đoạn hiện nay quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng đang được xem như là một giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, hỗ trợ giải quyết tình trạng suy thoái tài nguyên. Đã có không ít những mô hình quản lý tài nguyên trên cơ sở cộng đồng thành công ở Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc,… (Hirsch, 1999). Đây là những bài học quý báu cho quá trình xây dựng những giải pháp quản lý bền vững tài nguyên rừng trên cơ sở cộng đồng ở Việt Nam. Không giống như các phương thức quản lý rừng truyền thống chỉ quan tâm đến các vấn đề kỹ thuật và lực lượng chuyên trách liên quan tới quản lý hệ sinh thái tự nhiên. Quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng đòi hỏi phải có sự kết hợp hài hòa giữa vấn đề kỹ thuật với vấn đề xã hội, trong đó đặc biệt chú ý phát huy vai trò của kiến thức bản địa và tổ chức quần chúng ở địa phương [1]. Những người dân bản xứ cùng cộng đồng của họ và những cộng đồng địa phương khác có vai trò quan trọng trong quản lý rừng và bảo vệ môi trường, bởi lẽ họ đã được tích lũy vốn kiến thức truyền thống cùng với kinh nghiệm thực tế qua nhiều năm. Chính phủ các nước cần nhận ra và khuyến khích sự tham gia của họ trong chiến lược quản lý tài nguyên và phát triển bền vững [43]. Vì vậy, con đường tốt nhất hiện nay để giảm tình trạng suy thoái tài nguyên rừng là phải dựa vào những người dân sống trong rừng, gần rừng và gắn bó với rừng. Do vậy, cần phải thực hiện chính sách phân quyền và trao quyền cho họ trong việc quản lý và phục hồi các nguồn tài nguyên quý báu ấy [43],[44]. Nhiều cuộc hội
  8. 7 thảo quốc tế về Lâm nghiệp cộng đồng đã đi đến những nhận định chung về yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự thành công của Lâm nghiệp cộng đồng, một trong những yếu tố đó là: - Chính phủ các nước phải đưa ra những cam kết về mặt pháp lý ổn định, lâu dài như quyền sử dụng đất và các chủ trương phát triển nông thôn, miền núi dưới dạng các luật và các văn bản dưới luật để mọi người yên tâm đầu tư và sử dụng mảnh đất của mình một cách lâu dài. Các chính sách về quản lý rừng mỗi khi ban hành phải thu hút được sự tham gia đông đảo của người dân địa phương, đặc biệt là các gia đình nghèo lâu nay sống bằng nghề rừng. - Việc hoạch định chính sách quản lý rừng phải thông qua đàm thoại và khảo sát thực tế tại các cộng đồng địa phương để tìm hiểu rõ nhu cầu và khả năng của người dân, tránh các chủ trương gò ép, duy ý chí được đưa từ trên xuống. - Các cấp quản lý trực tiếp (cấp thôn bản và cấp hộ gia đình) có vai trò đặc biệt quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc động viên và huy động các nguồn lực của nhân dân, đến việc quản lý và sử dụng đất và rừng, đến việc giải quyết tranh chấp hay xung đột trong nội bộ cộng đồng. Cho tới nay, cấp thôn bản ở một số nước trong đó có Việt Nam vẫn chưa chính thức được công nhận nằm trong bộ máy hành chính nhà nước; tuy nhiên, nó là một tổ chức tự quản của dân, do dân bầu ra cùng nhau bàn bạc và ra quyết định. Chính vì vậy nhà nước phải làm sao phát huy hết vai trò to lớn nội tại của tổ chức này [15]. 1.2.2. Đặc điểm về chính sách quản lý rừng ở một số nước trong khu vực - Ở Ấn Độ Đặc điểm nổi bật trong chính sách quản lý rừng của Ấn Độ đó là sự duy trì mối quan hệ thực chất giữa rừng với người dân các bộ tộc và những ngườ nghèo sống ở trong rừng và gần rừng, bảo vệ quyền lợi và nhận rừng và hưởng lợi từ rừng lâu đời của họ [15]. Ấn Độ đã coi cộng đồng như một đối tác quản lý những vùng đất rừng của Chính phủ. Chính phủ cho phép các cộng đồng được sử dụng tất cả các sản phẩm không phải là gỗ, còn việc phân chia quyền lợi cây gỗ lại có sự thay đổi nhiều giữa các bang (CRES, 1997). Tại Ấn Độ, người ta nghiên cứu một số biện
  9. 8 pháp nhằm tạo ra hoặc tăng thêm các tổ chức địa phương có hiệu lực lâu dài cho quản lý rừng công cộng [40]. - Ở Nhật Bản Nhật Bản hiện có 25.21 triệu ha rừng, trong đó rừng cộng đồng chiếm 10%, rừng tư nhân 60% và rừng quốc gia chỉ chiếm 30% [19]. Từ sự đam mê và quan tâm đến văn hóa, người Nhật đã học được cách cải tiến việc sử dụng bền vững và bảo tồn nguồn tài nguyên rừng rất lớn. Vì vậy, thực tế các mục tiêu chính trong luật pháp rừng và quản lý tài nguyên ở Nhật Bản đều được công bố rõ ràng để đẩy mạnh phát triển bền vững dựa trên cơ sở lợi ích cộng đồng ngay từ những năm 1980 [38]. - Ở Philippine Từ những năm 1970 Chính phủ Philippine đã quan tâm đến phát triểm Lâm nghiệp xã hội, Nhà nước xây dựng các dự án Lâm nghiệp xã hội tổng hợp do Bộ tài nguyên thiên nhiên chủ trì và phối hợp với các bộ có liên quan, phân chia thành từng vùng phát triển Lâm nghiệp xã hội do giám đốc vùng phụ trách, xây dựng mạng lưới đến cấp huyện. Philippine chú trọng chuyển giao kỹ thuật nông lâm kết hợp và kỹ thuật canh tác đất dốc (SALT) đến người nông dân để phát triển nông nghiệp. Năm 1982, chính phủ xây dựng dự án phát triển Lâm nghiệp xã hội quốc gia công nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho cộng đồng. - Ở Thái Lan Sử dụng đất đai được thông qua chương trình làm rừng, hộ nông dân được giao đất nông nghiệp, đất thổ cư, đất để trồng rừng. Người nông dân có trách nhiệm quản lý đất, không được chặt hoặc sử dụng cây rừng. Người nông dân nhận đất được Chính phủ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên đất rừng của Nhà nước ở những nơi phù hợp cho việc trồng cây nông nghiệp lưu niên. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp, đã làm tăng mức độ an toàn cho người thuê đất trong thời gian sử dụng. Do vậy đã ảnh hưởng tích cực đến việc khuyến khích đầu tư và tăng sức sản xuất của đất (CRES. 1997). 1.3. Quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng ở Việt Nam 1.3.1. Các tổ chức cộng đồng ở Việt Nam
  10. 9 - Cộng đồng dân tộc: Hiện nước ta có 54 dân tộc. cộng đồng dân tộc lại có những đặc điểm riêng về văn hóa, tổ chức xã hội, tiếng nói, tập quán truyền thống và quan hệ sản xuất - Cộng đồng làng, bản: + Làng, xóm ở miền xuôi là hình thức cộng đồng được hình thành trên cơ sở của phương thức canh tác lúa nước, đã có nhiều thể chế tồn tại lâu đời trong xã hội nông thôn Việt Nam. + Thôn, bản ở miền núi là hình thức cộng đồng được hình thành ở miền núi, trên cơ sở quan hệ sắc tộc, và kinh tế tự nhiên, tụ cấp, tự túc, có ảnh hưởng sâu sắc đến việc quản lý, bảo vệ xây dựng và phát triển rừng. Ngoài hai hình thức chủ yếu trên còn có các loại hình cộng đồng khác như cộng đồng tôn giáo, cộng đồng họ tộc, cộng đồng giới tính, v.v… Một số loại hình cộng đồng đã được phát triển thành những tổ chức như các đoàn thể, có mục tiêu và điều lệ rõ ràng, hoạt động theo quy chế tổ chức chính trị xã hội hay các tổ chức kinh tế. Một số đoàn thể đã tham gia và có nhiều đóng góp cho việc phát triển lâm nghiệp tại các địa phương trong thời gian qua như Hội nông dân, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, v.v… 1.3.2. Quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng ở Việt Nam Tính cộng đồng của các dân tộc Việt Nam đã là yếu tố quan trọng tạo cơ sở cho những thành quả đã đạt được trong công cuộc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng. Vì vậy, vấn đề phát huy vai trò của các cộng đồng để quản lý nguồn tài nguyên này là vấn đề vừa mang ý nghĩa phát huy truyền thống, vừa có thể tạo ra cách quản lý tài nguyên có hiệu quả hơn. Phù hợp với những xu hướng phát triển của thế giới [26]. Ngày nay ở Việt nam, quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng đã được nhận thức như một trong những giải pháp hiệu quả để quản lý tài nguyên thiên nhiên vùng cao. Đó là cách quản lý mà mọi thành viên cộng đồng đều được tham gia vào quá trình phân tích đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân và hình thành giải pháp
  11. 10 để phát huy mọi nguồn lực của địa phương cho bảo vệ, phát triển và sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên thiên nhiên vì sự phồn thịnh của mỗi gia đình và cộng đồng. Để trao quyền quản lý rừng cho cộng đồng Nhà nước đã thực hiện chính sách giao đất giao rừng. Đây là một trong những chính sách lớn tạo môi trường thuận lợi cho quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng Việt Nam. Chủ trương giao đất khoán rừng đã được Đảng và Nhà nước ta đề ra và thực hiện từ năm 1968, qua mỗi giai đoạn phát triển, Nhà nước lại có những điều chỉnh, bổ xung kịp thời chu phù hợp với thực tế. Nhìn tổng quát, quá trình giao đất giao rừng có thể chia thành các giai đoạn sau: Thời kỳ 1968 – 1982: Đây là thời kỳ phát triển kinh tế kế hoạch hóa tập trung trên cơ sở phát triển kinh tế quốc doanh và hợp tác xã. Đất nông nghiệp, lâm nghiệp được giao cho hai thành phần kinh tế cơ bản: Quốc doanh và hợp tác xã (kể cả tập đoàn sản xuất sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng), chưa giao đất cho hộ gia đình [23]. Thời kỳ 1982 -1992: Trong lâm nghiệp nhà nước ta đã có chính sách giao đất giao rừng cho các hợp tác xã và các hộ gia đình trong hợp tác xã để sản xuất nông, lâm nghiệp, nhất là vào giai đoạn cuối thời kỳ này, chủ trương, chính sách giao đất giao rừng đến hộ gia đình đã được cụ thể và đẩy mạnh hơn. Thời kỳ 1993 đến nay: Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, ngành lâm nghiệp chuyển từ khai thác lợi dụng rừng là chính sang lâm nghiệp xây dựng phát triển rừng, nông lâm kết hợp, từ lâm nghiệp lấy quốc doanh làm chính sang lâm nghiệp xã hội gắn liền với phát triển kinh tế nhiều thành phần đi lên sản xuất hàng hóa, phát triển kinh tế hộ gia đình, làm vườn rừng, trại rừng, nông lâm kết hợp. Trong báo cáo chiến lược phát triển lâm nghiệp đã khẳng định quản điểm: Phát triển lâm nghiệp xã hội, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh rừng, tổ chức cho đồng bào dân tộc sống ở trong rừng và gần rừng có đời sống ổn định, chuyển họ từ người phá rừng thành người bảo vệ rừng. Một trong những mục tiêu của các ngành lâm
  12. 11 nghiệp là: “Đưa 1 triệu hộ nông dân vào kinh doanh nghề rừng theo phương thức nông lâm kết hợp, tạo việc làm cho 2 triệu lao động với 6 - 7 triệu nhân khẩu, gắn với công tác định canh định cư vùng đồng bào dân tộc ít người” [20]. Nhìn chung kết quả giao đất lâm nghiệp trên đã làm cho rừng có chủ thực sự, tạo ra nhiều hình thức sở hữu rừng, tạo điều kiện khai thác tiềm năng, đất đai, lao động, tiền vốn tại chỗ. Cùng với các chính sách tích cực khác của nhà nước trong thời gian qua đã làm cho độ che phủ của rừng tăng lên nhanh chóng (từ năm 1992 đến năm 2010 độ che phủ của rừng tăng từ 28% lên 39,1%) . Trồng rừng được đảm bảo với tỷ lệ thành rừng cao, tạo công ăn việc làm nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của nhân dân, một bộ phận dân cư đã giàu lên từ nghề rừng, mở ra hướng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường tiêu thụ ở nhiều nơi, góp phần xóa đói giảm nghèo, từng bước góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn, miền núi. 1.3.3. Những nghiên cứu chính liên quan đến quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng ở Việt Nam Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về công tác giao đất lâm nghiệp ở nước ta, mỗi chính sách nghiên cứu đều có cách tiếp cận riêng và có những nhận định riêng về tác động và kết quả chính sách này đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội của cùng trung du miền núi. - Năm 1998, Việt Nam chính thức tham gia “Chương trình hành động lâm nghiệp nhiệt đới” của cộng đồng Quốc tế. Dự án “Tổng quan về lâm nghiệp Việt Nam” với mã hiệu VIE -08-037 đã được tiến hành và kết thúc vào năm 1991, dự án đã có những đóng góp quý báu vào việc đánh giá hiện trạng lâm nghiệp Việt Nam thời điểm lúc đó và đưa ra những khuyến cáo về việc định hướng phát triển ngành lâm nghiệp cho đến năm 2000 và một số năm tiếp theo. - Dự án “Đổi mới chiến lược ngành lâm nghiệp” đây là dự án xuất phát từ yêu cầu cấp bách đối với nước ta sau khi luật bảo vệ và phát triển rừng đã được ban hành, mục tiêu của dự án là tìm hiểu học tập và hợp tác để tìm ra các giải pháp chiến lược thực thi có hiệu quả mục tiêu phát triển ngành lâm nghiệp, trong điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam.
  13. 12 - Đề tài “Định hướng và các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn miền núi” tác giải Trần Thanh Bình đã đưa ra một số khuyến nghị nhằm góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội nông thôn miền núi [31]. - Đề tài “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần xây dựng chính sách quản lý và khuyến khích phát triển rừng của các hộ gia đình nông dân” của nhóm tác giả Nguyễn Đình Tư và Nguyễn Văn Tuấn được thực hiện với các mục tiêu: + Nghiên cứu, phân tích các cơ sở lý luận vào cơ sở thực tiễn của việc xây dựng hệ thống chính sách, chế độ quản lý và khuyến khích phát triển rừng cho các hộ gia đình nông dân. + Trên cơ sở tổng kết đánh giá hệ thống chính sách, chế độ hiện hành, bước đầu đề xuất các khuyến nghị về việc hoàn thiện hệ thống chế độ, chính sách quản lý và khuyến khích phát triển rừng của các hộ gia đình nông dân [32]. - Công trình “Tăng cường công tác giao đất lâm nghiệp và khuyến khích trồng rừng trên đất được giao”, của tác giải Đoàn Diễm đã đưa ra những tồn tại trong việc quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp, đưa ra những kiến nghị đẩy nhanh tiến độ quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp trong thời gian tới. - Dự án phát triển Lâm nghiệp xã hội Sông Đà bắt đầu vào năm 1993. Dự án này đã chú ý làm việc với “ Nhóm sử dụng rừng” hơn là với các đơn vị quản lý hành chính lâm nghiệp. Dự án tiến hành những thu xếp về tổ chức khi thực hiện quy hoạch sử dụng đất và giao đất có người dân tham gia, sau đó tiến hành lập những “nhóm bảo vệ rừng” và hỗ trợ dân bả xây dựng những quy chế bảo vệ rừng. Những quy chế này dựa vào việc quản lý, bảo vệ rừng của cộng đồng để nâng cao sự tự giác của dân bản và tăng cường sự kiểm soát của dân bản tránh sự phá hoại rừng từ những bản bên cạnh. Củng cố tổ chức cấp thôn bản và xã là việc làm cần thiết tiếp theo. Những Ban quản lý thôn bản mà ít nhất có một thành viên chịu trách nhiệm về lâm nghiệp trong bản được thiết lập khi tiến hành lập kế hoạch phát triển thôn bản hàng năm. Trong quá trình xây dựng kế hoạch dự án sử dụng 4 tiêu chí chính để
  14. 13 giới thiệu tăng cường thực thi quản lý Lâm nghiệp cộng đồng đó là: Quyền sử dụng, nghiên cứu địa phương, khả năng của cộng đồng và điều kiện địa lý khu vực. Nhìn chung, quản lý rừng và đất rừng trên cơ sở cộng đồng là một vấn đề tổng hợp và phụ thuộc nhiều vào khuôn khổ thể chế, chính sách của từng quốc gia, từng địa phương. Do vậy, không thể sao chép nguyên vẹn một mô hình nào từ nơi này sang nơi khác. Tuy nhiên, việc chia sẻ kinh nghiệm, chia sẻ những bài học thành công hay thất bại trong cả nước và khu vực là rất cần thiết trong bối cảnh chính sách lâm nghiệp đang cải cách và hoàn thiện như hiện nay. Điều đáng chú ý là phải có những nghiên cứu tổng hợp đánh giá và đúc kết kinh nghiệm, bổ sung và xây dựng những chính sách mới phù hợp cho mỗi vùng [36]. Vì vậy quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng được xem như nền tảng của sự phát triển vì nó đảm bảo đáp ứng được những nhu cầu lợi ích cho cộng đồng, góp phần xóa đói giảm nghèo và khắc phục được tình trạng khánh kiệt tài nguyên trong những phương thức sử dụng kém bền vững. 1.3.4. Những bài học kinh nghiệm cho quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng ở Việt Nam Từ kết quả phân tích trên đây có thể rút ra những bài học chủ yếu cho quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng ở Việt Nam như sau: - Quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng là phương thức quản lý dựa vào những tổ chức và luật lệ cộng đồng. Nó cần thiết cho cả quản lý tài nguyên thuộc sở hữu Nhà nước, sở hữu cộng đồng và sở hữu tư nhận và đặc biệt có ý nghĩa ở vùng sâu, vùng xa, nơi mà ý thức pháp luật hoặc khả năng thực thi pháp luật chưa cao. - Quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng sẽ thành công khi lấy lợi ích cộng đồng làm mục tiêu và lồng ghép được với mục tiêu của quốc gia và khu vực. - Quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng sẽ thành công khi có hai yếu tố quyết định là tổ chức cộng đồng và luật lệ cộng đồng cho quản lý rừng, Chúng phải do cộng đồng xây dựng lên và phù hợp với những thể chế và chính sách của Nhà nước về quản lý tài nguyên nói chung, tài nguyên rừng nói riêng.
  15. 14 - Quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng sẽ thành công khi nó đảm bảo chia sẻ hợp lý các lợi ích từ hoạt động quản lý. Công đồng không thể tích cực tham gia quản lý rừng khi không nhìn thấy lợi ích cho chính mình trong quản lý rừng. - Sự hợp tác trong quản lý tài nguyên rừng giữa Nhà nước với cộng đồng, giữa các đối tượng hưởng lợi là yếu tố quan trọng đảm bảo sự thành công của quản lý rừng dựa vào cộng đồng. - Quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng cần phải được phối hợp với các phương thức quản lý khác mà trước hết là phương thức quản lý dựa vào chính sách và thể chế Nhà nước, phương thức phát huy mọi tiềm năng quản lý của các hộ gia đình.
  16. 15 CHƯƠNG 2 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu 2.1.1. Mục tiêu chung Phát huy năng lực nội sinh của cộng đồng nhằm quản lý bền vững tài nguyên rừng, phục vụ phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái ở xã Yên Nhân thuộc vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, tỉnh Thanh Hoá. 2.1.2. Mục tiêu cụ thể của đề tài - Làm rõ được thực trạng quản lý rừng ở xã Yên Nhân, những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý rừng ở địa phương. - Đánh giá vai trò của cộng đồng, những yếu tố thúc đẩy và cản trở sự tham gia của cộng đồng trong hoạt động quản lý rừng ở địa phương. - Đề xuất những giải pháp lôi cuốn cộng đồng tích cực tham gia quản lý rừng ở địa phương. 2.2. Đối tượng nghiên cứu Đề tài lựa chọn xã Yên Nhân, là xã vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá, là một địa bàn đang có yêu cầu cấp bách về quản lý hiệu quả tài nguyên rừng để làm đối tượng nghiên cứu. Đây là xã có diện tích tự nhiên rộng lớn, tài nguyên rừng còn tương đối phong phú, nhưng tiềm năng sản xuất của rừng chưa được phát huy, người dân sống chủ yếu vào hoạt động sản xuất nông nghiệp. Con người ở đây phần lớn là dân tộc Thái với những tập quán canh tác lạc hậu, kém bền vững không có điều kiện tiếp cận với kỹ thuật mới, họ là những người có sức tác động mạnh mẽ nhất đến biến đổi tài nguyên thiên nhiên và cũng là những người chịu nhiều thiệt thòi do tác động của quá trình phát triển.
  17. 16 2.3. Nội dung nghiên cứu và giới hạn của đề tài 2.3.1. Nội dung nghiên cứu Để đạt được mục tiêu đề ra, đề tài tiến hành nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau đây: - Nghiên cứu thực trạng quản lý rừng và sự tham gia của cộng đồng ở khu vức nghiên cứu. - Nghiên cứu vai trò của cộng đồng, nhân tố cản trở hoặc thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng vào quản lý bền vững tài nguyên rừng ở địa phương. - Đề xuất một số giải pháp lôi cuốn cộng đồng vào quản lý tài nguyên rừng. 2.3.2. Giới hạn của đề tài Trong khuôn khổ gới hạn của thời gian và điều kiện nghiên cứu đề tài chỉ tập trung vào phân tích thực trạng quản lý rừng, những nguyên nhân và giải pháp cho việc nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên rừng mà không xác định những biện pháp kỹ thuật cụ thể hay những điều khoản chi tiết của các chính sách kinh tế xã hội cho quản lý rừng. Kết quả chính sách của đề tài sẽ là những giải pháp định hướng cho việc tăng cường năng lực và lôi cuốn cộng đồng vào hoạt động quản lý bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, hình thành môi trường thuận lợi cho phát triển phương thức quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng. 2.4. Phương pháp nghiên cứu 2.4.1. Phương pháp luận Theo quan điểm hệ thống rừng vừa là một bộ phận của hệ thống tự nhiên vừa là một bộ phận của hệ thống kinh tế xã hội; hay nói cách khác, rừng là bộ phận của hệ thống kinh tế - sinh thái - nhân văn. - Rừng là một bộ phận của hệ thống tự nhiên, bởi vì sự tồn tại và phát triển cuả nó phụ thuộc những quy luật của tự nhiên, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau trong hệ thống tự nhiên như hệ thống tự nhiên nh địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, sinh vật, v.v… Do quan hệ chặt chẽ với các yếu tố tự nhiên mà có thể quản lý rừng bằng tác động vào các yếu tố tự nhiên. Trên quan điểm hệ thống có thể xem những giải pháp quản lý rừng như là những giải pháp điều khiển hệ thống tự nhiên
  18. 17 theo chiều hướng thúc đẩy sinh trưởng, phát triển và hình thành năng suất của hệ sinh thái rừng. - Rừng cũng là một bộ phận của hệ thống kinh tế vì sự tồn tại và phát triển của nó gắn liền với các hoạt động kinh tế của con người như trồng rừng, khai thác lâm sản, làm nương, đốt rẫy, đốt than, săn bắt chim thú, v.v…Các hoạt động này lại phụ thuộc vào mứcc sống, cơ cấu ngành nghề, nhu cầu thị trường, khả năng đầu tư, lợi nhuận v.v… Ngoài ra, rừng cũng tác động mạnh mẽ tới các yếu tố kinh tế thông qua cung cấp nguyên liệu, năng lượng và thông tin cho nhiều hoạt động kinh tế của con người. nó có tác động tới nhiều yếu tố của hệ thống kinh tế từ sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng, tích luỹ v.v… Vì quan hệ chặt chẽ với các yếu tố trong hệ thống kinh tế nên có thể quản lý rừng bằng việc tác động vào những yếu tố kinh tế. Đây là lý do vì sao việc nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế đến hiệu quả của hoạt động quản lý rừng và xây dựng những giải pháp kinh tế cho quản lý rừng được xác định như một trong những nhiệm vụ chủ yếu của đề tài. - Rừng cũng là một thực thể xã hội, sự tồn tại và phát triển của rừng phụ thuộc nhiều vào hoạt động của con người. Hoạt động của họ theo hướng bảo vệ và phát triển rừng hay làm suy thoái huỷ hoại nó luôn bị chi phối bởi nhiều yếu tố xã hội như nhận thức về giá trị của rừng, ý thức với luật pháp nhà nước, trách nhiệm với cộng đồng, kiến thức về kinh doanh rừng, những phong tục, tập quán liên quan đến quản lý rừng v.v…Rừng và hiệu quả của hoạt động quản lý rừng cũng phụ thuộc vào những vấn đề thể chế và chính sách như hoạt động của hệ thống tổ chức nhà nước trong lĩnh vự quản lý bảo vệ rừng, các chính sách đất đai, chính sách sở hữu và sử dụng rừng ở địa phương. Rừng và hiệu quả của quản lý rừng còn phụ thuộc vào sự hiện diện của các tổ chức cộng đồng và những quy định của cộng đồng. Chúng hỗ trợ Nhà nước trong việc tuyên truyền vận động người dân, động viên và giám sát họ thực hiện những chính sách nhà nước. Tổ chức và luật lệ cộng đồng sẽ gắn kết những hộ gia đình đơn lẽ thành lực lượng mạnh mẽ đủ sức thực hiện những chương trình quản lý rừng vì quyền lợi của mỗi gia đình và cộng đồng. Do rừng có liên quan chặt chẽ với các yếu tố xã hội nên có thể quản lý rừng bằng
  19. 18 tác động vào những yếu tố xã hội. Đây là lý do ví sao trong đề tài này việc phân tích ảnh hưởng của những yếu tố xã hội đến hiệu quả của quản lý rừng được coi là một nội dung quan trọng. Những giải pháp xã hội cho quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng sẽ là những giải pháp tác động vào các mối quan hệ xã hội để lôi cuốn cộng đồng vào hoạt động quản lý bảo vệ tài nguyên rừng. 2.4.2. Phương pháp thu thập thông tin trong luận văn Đề tài sử dụng một số phương pháp để thu thập các thông tin phục vụ nghiên cứu như sau: 2.4.2.1. Phương pháp kế thừa tư liệu Phương pháp kế thừa tư liệu được sử dụng để thu thập những thông tin về hoạt động quản lý rừng của một số nước trong khu vực, những thông tin cơ bản về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và nhân văn của địa phương,… - Những tài liệu và kinh nghiệm quản lý rừng của các nước trong khu vực: Thái Lan, Ấn Độ, Philippine v.v… - Những tài liệu về chính sách lâm nghiệp Việt Nam: tổng kết chính sách giao đất khoán rừng, chính sách thuế lâm nghiệp, luật bảo vệ và phát triển rừng. - Đề tài đã sử dụng báo cáo tổng hợp công tác hàng năm của Uỷ ban nhân dân huyện Thường Xuân, các tài liệu niên gián thống kê của tỉnh Thanh Hoá, báo cáo tổng kết hàng năm của những chương trình và dự án lớn đã thực hiện ở địa phương. - Những tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và nhân văn của địa phương: Tài liệu khí hậu thuỷ văn, kết quả điều tra đất, thực vật, động vật, tài liệu thống kê tài nguyên đất đai, dân số và lao động, chính sách kinh tế - xã hội, tài liệu về lịch sử làng xã v.v… - Những tài liệu khác có liên quan đến quản lý rừng ở địa phương: Chương trình phát triển lâm nghiệp tỉnh Thanh Hoá, tổng quan dự án 661, chiến lược phát triển lâm nghiệp tỉnh Thanh Hoá đến năm 2020, v.v… 2.4.2.2. Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA)
  20. 19 Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) được sử dụng để thu thập nhanh những thông tin ban đầu về các vấn đề hiện trạng tự nhiên, kinh tế, xã hội có liên quan đến quản lý rừng ở địa phương. Đề tài đã phỏng vấn 4 cán bộ quản lý ở huyện Thường Xuân, 8 cán bộ xã Yên Nhân và phỏng vấn 42 hộ gia đình có mức sống khác nhau ở xã Yên Nhân. - Đối tượng phỏng vấn: + Cán bộ quản lý: cán bộ quản lý nhà nước ở cấp huyện, cấp xã, các trưởng thôn và cán bộ quản lý chuyên ngành ở địa phương. + Cán bộ khoa học kỹ thuật: Cán bộ ở Hạt kiểm lâm khu vực; cán bộ khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên ; cán bộ phòng nông nghiệp huyện Thường Xuân; cán bộ địa chính;… Họ là những người đã thực hiện những biện pháp quản lý rừng và giám sát những biến đổi của tài nguyên rừng ở địa phương. + Những hộ gia đình được phỏng vấn và là các hộ có mức sống khác nhau, đại diện cho những trình độ nhận thức, mức độ khai thác tài nguyên và trình độ quản lý tài nguyên khác nhau. - Các chủ đề phỏng vấn như sau: + Các vấn đề xã hội của quản lý tài nguyên như chính sách, luật pháp, quy định của cộng đồng, làng xóm, phong tục, tập quán, ý thức tôn giáo, quan niệm của dòng họ, kiến thức, kinh nghiệm và trình độ của bản thân, của gia đình, quan hệ tương hỗ của họ hàng, làng xóm và của cộng đồng xã hội v.v…, + Các vấn đề kinh tế của quản lý tài nguyên như kinh tế thể chế, kinh tế hộ gia đình, hoạt động thị trường, dòng hàng hoá và dịch vụ trong quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng v.v… + Những kiến thức bản địa có liên quan đến quản lý rừng như kỹ thuật khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên động vật, thực vật, công nghệ canh tác, kỹ thuật chăn nuôi, kỹ thuật sử dụng các dòng năng lượng, đấu tranh với thiên tai v.v… + Thực trạng quản lý rừng ở xã Yên Nhân, ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội nhân văn đến hiệu quả quản lý rừng và những giải pháp nhằm góp phần quản lý sử dụng bền vững tài nguyên rừng ở địa phương.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2