Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu quy luật biến động dòng chảy ở một số lưu vực điển hình của Việt Nam
lượt xem 3
download
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm phát hiện được mối liên hệ giữa đặc điểm lưu vực (độ che phủ rừng, chế độ mưa, diện tích, chu vi, hình dạng lưu vực, độ dốc, độ chênh cao) với quy luật biến động dòng chảy, góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho các giải pháp quản lý và sử dụng bền vững lưu vực. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu quy luật biến động dòng chảy ở một số lưu vực điển hình của Việt Nam
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ----------------------------- NGUYỄN VĂN ĐOÀN NGHIÊN CỨU QUY LUẬT BIẾN ĐỘNG DÒNG CHẢY Ở MỘT SỐ LƯU VỰC ĐIỂN HÌNH CỦA VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội - 2011
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP --------------------------- NGUYỄN VĂN ĐOÀN NGHIÊN CỨU QUY LUẬT BIẾN ĐỘNG DÒNG CHẢY Ở MỘT SỐ LƯU VỰC ĐIỂN HÌNH CỦA VIỆT NAM Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ Tài nguyên rừng Mã ngành: 60.62.68 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN QUANG BẢO Hà Nội - 2011
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Lũ lụt và hạn hán là những thiên tai gây thiệt hại nhiều nhất đến đời sống kinh tế - xã hội mà hàng ngàn đời nay con người đã và đang phải chống chọi và tìm cách thích ứng. Những tai biến, sự cố môi trường này ngày một diễn ra nhiều hơn đặc biệt tại những khu vực có lượng mưa lớn và tập trung. Việt Nam, với 3/4 diện tích tự nhiên là vùng đồi núi, lại nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới mưa mùa và được đánh giá là một trong năm quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu, nên hạn hán và lũ lụt là một trong những yếu tố đe dọa đến sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước. Bản chất của lũ lụt và hạn hán là quá trình dâng lên hoặc suy giảm bất thường của dòng nước mà quá trình này gây thiệt hại về kinh tế, suy thoái môi trường, ảnh hưởng đến đời sống của con người. Các chỉ số phản ánh đặc điểm của dòng chảy như: hệ số biến động dòng chảy, tốc độ tăng lũ, hệ số giảm lũ, thời gian trễ lũ, tổng lưu lượng dòng chảy tại các lưu vực có mối quan hệ với đặc điểm lưu vực như hiện trạng lớp phủ thực vật, độ dốc, độ chênh cao, diện tích, chu vi, hình dạng và chế độ mưa của lưu vực. Tuy nhiên ảnh hưởng của đặc điểm lưu vực đến dòng chảy là không giống nhau, có những nhân tố ảnh hưởng mạnh và có tính chất quyết định tính chất dòng chảy và có những nhân tố có mức độ ảnh hưởng thấp hơn. Việc nghiên cứu ảnh hưởng của lưu vực đối với các chỉ số phản ánh đặc điểm dòng chảy có ý nghĩa to lớn và là cơ sở khoa học cho các giải pháp quản lý, sử dụng lưu vực, đặc biệt là việc quy hoạch hệ thống dân sinh, kinh tế-xã hội, dự báo và xây dựng các biện pháp phòng tránh thiên tai, quản lý nguồn nước. Ở Việt Nam, những nội dung nghiên cứu này còn khá mới mẻ, những kết quả thu được còn hạn chế, các biện pháp quản lý và sử dụng lưu vực còn thiếu
- 2 cơ sở khoa học nên chưa hiệu quả. Để góp phần xây dựng cơ sở lý luận cho các giải pháp quản lý và sử dụng lưu vực, đặc biệt là phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, tôi chọn và thực hiện đề tài “Nghiên cứu quy luật biến động dòng chảy ở một số lưu vực điển hình của Việt Nam”.
- 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Bản chất của nghiên cứu quy luật biến đổi dòng chảy trên các lưu vực là nghiên cứu quá trình thủy văn của lưu vực. Hiện nay nghiên cứu vấn đề này thường được tập trung vào một số nội dung sau: 1.1. Trên thế giới 1.1.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của rừng tới dòng chảy 1.1.1.1. Quan điểm về khả năng giữ nước của rừng Vai trò giữ nước của rừng được hiểu là khả năng lưu giữ và tích luỹ nước ở bất kỳ dạng nào - làm tăng lượng nước trong đất, giảm bốc thoát hơi nước, tăng mực nước ngầm, giảm dòng chảy bề mặt, hạn chế xói mòn đất, qua đó làm tăng và ổn định dòng chảy sông suối, cũng như làm sạch nước (Mon-tra- nop, 1960, 1973 - dẫn theo Vương Văn Quỳnh, 1999 [29]; Khanbecop, 1984 [14]; Bonell M, 1993 [45]). Khả năng giữ nước của rừng có thể được phản ánh thông qua các tiêu chí như giảm tỷ lệ dòng chảy mặt, tăng lượng nước ngầm, giảm cường độ và tần xuất xuất hiện lũ trên các sông suối, ổn định dòng chảy giữa các mùa trong năm. Tuy nhiên khả năng giữ nước của rừng có giới hạn, nó phụ thuộc nhiều vào đặc điểm cấu trúc rừng và đặc điểm của đất rừng như (độ xốp, cấu tượng đất, tốc độ thấm nước, hàm lượng mùn, độ dày tầng đất). Những đặc điểm về cấu trúc lớp phủ thực vật, đất và địa hình quyết định dung tích chứa nước của rừng và đất rừng (Vu Chí Dân và Vương Lễ Tiên, 2001 [2]). 1.1.1.2. Phương pháp nghiên cứu
- 4 Theo Thomas Dunne (1992) [71], Menachem Agassi (1996) [63], C.A.A Ciesiolka và C.W Rose (1998) [48], F.Agus và cộng sự (1998) [51], có hai phương pháp cơ bản để nghiên cứu khả năng giữ nước của rừng: Một là, nghiên cứu lưu vực: Khả năng giữ nước của rừng được đánh giá thông qua theo dõi sự thay đổi lưu lượng nước hoặc biến đổi tốc độ dòng chảy của sông suối trước và sau khi mưa, hoặc giữa mùa mưa và mùa khô, và lượng vật chất xói mòn được vận chuyển tại đầu ra của lưu vực. Với phương pháp này người ta chỉ có thể thấy được tác động tổng hợp của các trạng thái rừng mà không định lượng được khẳ năng giữ nước của từng trại thái riêng biệt. Hai là, nghiên cứu quá trình thuỷ văn trên sườn dốc: Nghiên cứu này được thực hiện bằng cách bố trí các ô mẫu nghiên cứu và tiến hành đo đạc chi tiết trên các ô đó nhiều lần. Phương pháp này cho kết quả nghiên cứu chính xác hơn, đặc biệt là ảnh hưởng của từng kiểu rừng đến quá trình thủy văn rừng như: lượng nước được giữ lại trên tán, tỷ lệ dòng chảy mặt, tỷ lệ dòng chảy ngầm, sói mòn đất….v.v. Tuy nhiên phương pháp này đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn và phức tạp hơn phương pháp đầu. Đặc điểm thuỷ văn rừng được biểu hiện thông qua vòng tuần hoàn nước (John D. Hewlett, 1982 [57]) hay tuần hoàn thuỷ văn (G.Fiebiger, 1993 [52]). Quá trình tuần hoàn thuỷ văn rừng là một quá trình bắt đầu từ khi nước mưa đi vào hệ sinh thái rừng, đến quá trình nước thấm xuống đất, hình thành dòng chảy mặt và dòng chảy ngầm, hình thành dòng chảy sông suối, bốc hơi nước vật lý và sinh lý và trở về khí quyển ...v.v. Nghiên cứu thủy văn rừng cần xem xét một cách tổng hợp của nhiều yếu tố như: Chế độ khí hậu, thời tiết, độ dốc, độ cao của lưu vực, hình dạng của lưu vực, đặc điểm đất và đặc điểm lớp thảm thực vật của lưu vực đó (Phạm Văn Điển, 2006 [10]).
- 5 1.1.1.3. Những kết quả nghiên cứu điển hình Nghiên cứu về thủy văn rừng trên thế giới đã thu được những thành quả quan trọng, các nghiên cứu đi từ định tính đến định lượng đặc biệt là đã một phần định lượng được các thành phần cân bằng nước trong hệ sinh thái rừng và xác định, dự báo xói mòn đất. Có thể kể ra một vài công trình nghiên cứu điển hình sau: a. Lượng nước mưa giữ lại trên tán rừng Lượng nước mưa giữ lại trên tán là một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh khả năng giữ nước của rừng. Lượng nước mưa được giữ lại trên tán càng nhiều có thể tạo điều kiện để cho nước ngấm vào đất càng lớn, do đó làm giảm tỷ lệ dòng chảy mặt, giảm nguy cơ sói mòn đất, đặc biệt là trên các vùng đất dốc. Theo Bruijnzeel (1990b) [46], nhiều công trình nghiên cứu về lượng nước chảy men thân trên thế giới đều cho kết quả từ 1 - 3% so với tổng lượng mưa. Các công trình nghiên cứu khả năng giữ nước của tán rừng lá kim ôn đới cho kết quả lượng nước mưa được giữ lại trên tán giao động từ 20 - 40% tổng lượng nước mưa (Gash và cộng sự, 1980; Rutter và cộng sự, 1971; Teklehaimanot, 1991 - dẫn theo Vương Lễ Tiên và cộng sự, 1991 [34]). Tại Trung Quốc nghiên cứu khả năng ngăn giữu nước mưa của tán rừng ở các đới khí hậu khác nhau cho kết quả tán rừng có thể ngăn giữ 11,4 - 34,3% tổng lượng nước mưa, hệ số biến động 6,68 - 55,05%. Trong đó tỷ lệ nước mưa đươ ̣c giữ lại trên tán của rừng lá kim thường xanh á nhiệt đới, trên núi cao ở miền Tây là lớn nhất, rừng hỗn giao cây lá rộng thường xanh với cây lá rộng rụng lá á nhiệt đới, miền núi là nhỏ nhất (Vu Chí Dân - Christoph Peisert - Dư Tân Hiểu (2001) [1]. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, lượng nước được giữ lại trên tán rừng tùy thuộc vào lượng mưa, cường độ mưa, đặc điểm cấu trúc rừng. Hiện
- 6 nay việc mô phỏng lượng nước mưa bị giữ lại trên tán rừng, người ta thường sử dụng mô hình Rutter và mô hình giải tích Gash (M.J. Waterloo, 1999) [62]. Tỷ lệ phần trăm của lượng nước mưa lọt tán so với tổng lượng mưa của các loại rừng thường đạt từ 75% trở lên và tỷ lê ̣ này phụ thuộc vào cấu trúc tán lá, chỉ số diện tích lá, đặc điểm mưa và nhân tố gió; Năng lượng của lượng nước mưa lọt tán ở rừng cây gỗ một tầng thường lớn hơn năng lượng của mưa ngoài nơi trống (Jordan và C.F Herrera, 1981) [58]. b. Lượng nước hút giữ bởi vật rơi rụng trong rừng Lớp thảm mục có một ý nghĩa to lớn đối với đời sống của các sinh vật rừng và quá trình thủy văn rừng. Lớp thảm mục không chỉ có tác dụng thấm nước, là lớp ma sát ngăn cản dòng chảy, mà khi chúng phân hủy sẽ tạo cho đất rừng tơi xốp hơn, do vậy làm tăng dung tích chứa nước của đất. Kết quả nghiên cứu ở vùng hồ Mật Vân - Trung Quốc ghi nhận rằng, khối lượng nước lưu giữ trong lớp thảm mục có thể đạt tới 2 - 4 lần khối lượng khô của bản thân nó, tỷ lệ khối lượng nước được giữ lại trong lớp thảm mục tối đa bình quân là 309,54% (Vu Chí Dân & Vương Lễ Tiên, 2001) [2]. Những nghiên cứu về lượng nước hút giữ của lớp thảm mục trong rừng trồng phòng hộ trên cao nguyên Hoàng Thổ của Trương Hồng Giang (1989) [11], cho thấy rằng, tỷ lệ này hơn 191%. c. Lượng nước chảy trên bề mặt đất và nước ngầm Nhìn chung, đất rừng tự nhiên có khả năng thấm nước rất cao và ít khi xuất hiện dòng chảy bề mặt (Douglass, 1977 [49]; Pritchett, 1979 [65]). Tuy nhiên, khi rừng bị chặt hạ và trở nên thưa thớt và độ dốc mặt đất lớn, có thể tạo ra dòng chảy mặt (Ruxton, 1967 [66]; Imeson, A.C và Vis, 1982 [56]). Nói chung, đất rừng có tốc độ thấm nước lớn hơn so với các loại hình sử dụng đất khác, tốc độ thấm nước ổn định của đất rừng có thể đạt 80
- 7 mm/giờ trở lên (Dunne, 1978) [50]. Kết quả nghiên cứu của Trần Huệ Tuyền (1994) [41] cho thấy, đất rừng có độ hổng ngoài mao quản lớn, thì tốc độ thấm nước và lượng nước thấm của đất rừng sẽ tăng lên. Theo kết quả nghiên cứu, mỗi hecta đất rừng có thể tích giữ được lượng nước 641 - 679 tấn/năm (Vu Chí Dân và Vương Lễ Tiên, 2001) [2]. Những kết quả nghiên cứu thủy văn và nghiên cứu môi trường sử dụng chất đồng vị phóng xạ cho thấy, trong một số trường hợp, dòng chảy mạch nước ngầm chính là nguồn gốc chủ yếu của lũ lưu vực; Quá trình lũ chủ yếu là do “nước cũ” (Old water) bị "nước mới" thay thế đẩy ra ngoài tạo nên (Skash và cộng sự, 1986, dẫn theo Phạm Văn Điển, 2006 [10]). 1.1.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của đặc điểm lưu vực đến dòng chảy Đặc điểm của lưu vực như kích thước, độ dốc, hình dạng, lớp thảm thực vật và chế độ khí hậu (lượng mưa, thời gian mưa và mùa mưa) là những nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến đặc điểm của dòng chảy trên mỗi lưu vực như sản lượng nước của lưu vực, đỉnh lũ, độ muộn lũ..... Lĩnh vực nghiên cứu này đã được tiến hành rộng dãi trên thế giới để phát hiện ra mối liên hệ giữa đặc điểm dòng chảy với đặc điểm của lưu vực (Hewlett và cộng sự, 1984, 1977 [55] và [54]; Wolock, 1995 [72]; Singh, 1997 [67]; Bruijnzeel, 2004 [47]; Andreassian, 2004 [42]). Có rất nhiều yếu tố của lưu vực mà khi thay đổi sẽ làm thay đổi đặc điểm dòng chảy. Nghiên cứu ảnh hưởng của kích thước lưu vực đến quá trình thủy văn đã được thực hiện bởi Pilgrim và cộng sự (1982) [64]. Nhóm tác giả này đã kết luận rằng “kích thước của lưu vực có thể ảnh hưởng rõ rệt không chỉ đến đặc điểm của dòng chảy trung bình mà còn ảnh hưởng đến biến động dòng chảy. Khi kích thước lưu vực nhỏ, mức độ thay đổi của dòng chảy sông suối phụ thuộc rõ rệt vào lượng mưa và sự biến thiên của giòng lũ
- 8 có xu hướng tăng lên khi lượng mưa tăng và ngược lại” (Wood và cộng sự, 1988 [73]). Tại Quebec, Lajoie và cộng sự (2007) [59] đã phân tích đặc điểm dòng chảy theo từng tháng giữa các giòng sông tự nhiên, các giòng sông có kiểm soát và kết luận rằng kích thước của lưu vực có mức độ ảnh hưởng toàn bộ đến sự thay đổi của quá trình thủy văn và mức độ thay đổi theo mùa của dòng chảy. Với hình dạng lưu vực, Tabios và cộng sự (1988) [70] đã phát hiện ra rằng ở những lưu vực có hình dạng dài ảnh hưởng rõ rệt đến sự biến đổi của dòng chảy hơn là các lưu vực hình tròn. Sự trì hoãn dòng chảy ở những lưu vực tập trung (hình tròn) có hiệu quả hơn các lưu vực có hình dạng dài (Goff và cộng sự, 2006 [53]). Ảnh hưởng của rừng đối với dòng chảy trên các lưu vực: Sau khi xem sét các tài liệu trên thế giới về rừng và mối quan hệ dòng chảy, Sun và cộng sự (2007) [68] đã chỉ ra rằng tăng diện tích rừng có khả năng làm giảm sản lượng nước và tốc độ giòng lũ. Bằng cách tổng kết kết quả nghiên cứu của một số tác giả khác (Trendle and King, 1985; Fritsch, 1990; Robinson và cộng sụ, 1991; Hornbeck và cộng sự,1997 – dẫn theo Trần Quang Bảo, 2006 [43]), Andreassian (2004) [42] kết luận rằng sự mất rừng thường làm tăng tần xuất lũ và đỉnh lũ. Ảnh hưởng của chế độ mưa đến dòng chảy: sự gia tăng của lưu lượng dòng chảy chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi sự tăng lên của nước ngầm tại vùng cao hơn sự tăng lên của lượng mưa (Pilgrim và cộng sự, 1982 [64]). Dựa vào việc so sánh 50 lưu vực lớn trên thế giới, Guillemette và cộng sự (2007) (dẫn theo Trần Quang Bảo, 2006 [43]) nhận thấy rằng đỉnh lũ bắt đầu từ khi mưa với những trận mưa có lượng mưa đủ lớn cho đến khi mưa bao trùm khoảng 30% lưu vực. Ngoài ra còn nhiều tài liệu khoa khọc liên quan đến rừng và nước, đặc biệt là tài liệu phân tích ảnh hưởng của phân bố rừng đến sản lượng nước của lưu vực.
- 9 Các nhà quản lý lưu vực thủy văn rất quan tâm đến mối liên hệ giữa lượng mưa và giòng chả. Hewlett và cộng sự (1977, 1984) [54], [55] phân tích giưa lượng mưa và lưu lượng dòng chảy dựa trên số liệu mưa ghi chép của 30 năm tại vùng rừng đầu nguồn tại miền Nam Appalacians và kết luận rằng cường độ mưa theo giờ và theo phút không ảnh hưởng rõ ràng đến lưu lượng dòng chảy. Lượng mưa, dòng chảy ban đầu, mùa và khoảng thời gian mưa có mối liên hệ khoảng 86.4% với tổng lưu lượng dòng chảy. Một nghiên cứu về lượng mưa và lưu lượng dòng chảy tại một lưu vực tại Nepal chỉ ra rằng dòng chảy của lưu vực (mm) có mối tương quan cao nhất với lượng mưa (mm) và cường độ mưa lớn nhất trong 60 phút. Mức độ thay đổi của đỉnh lũ (%) có xu hướng giảm với sự tăng của lượng mưa hàng năm và lượng mưa lớn nhất hàng ngày. Cường độ thay đổi của đỉnh lũ (%) có su hướng giảm với sự tăng dần của lượng mưa hàng năm và dòng chảy cực đại hàng ngày trong năm ở mùa xuân thường xuyên hơn so với giữa mùa đông (MacDonald và cộng sự, 1997) [60]. 1.2. Ở Việt Nam 1.2.1. Nghiên cứu vai trò giữ nước của rừng Ở Việt Nam nghiên cứu về khả năng giữ nước của lớp phủ thực vật được thực hiện chủ yếu theo 2 hướng tiếp cận chính chính là nghiên cứu trên quy mô lưu vực và nghiên cứu trên quy mô khu rừng. 1.2.1.1. Vai trò giữ nước của rừng trên lưu vực Những nghiên cứu về vai trò của rừng tới việc thay đổi chế độ dòng chảy mặt tại các lưu vực nước và ảnh hưởng đến lượng nước của sông ngòi đã được thực hiện bởi Nguyễn Viết Phổ (1992) [25]; Vũ Văn Tuấn (1977, 1981, 1982) [36], [37], [38]. Những nghiên cứu này đã cho thấy vai trò điều tiết nước hữu hiệu của thảm thực vật rừng, đặc biệt là việc cung cấp nước cho sông, suối vào mùa khô.
- 10 Nghiên cứu của Phạm Ngọc Dũng (1993) [3] cho thấy ở nước ta, cây rừng có khả năng tiêu thụ một lượng nước rất lớn. Đất rừng cũng là một nhân tố ảnh hưởng rất rõ rệt đến dòng chảy mặt. Sự khác nhau về tính chất, chủ yếu là tính chất vật lý của các loại đất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến xói mòn đất và sự hình thành dòng chảy. Vũ Văn Tuấn và Phạm Thị Lan Hương (1998) [39], Trần Thục và Huỳnh Thị Lan Hương (1999) [33] đã nghiên cứu ảnh hưởng của rừng đến dòng chảy và các mối quan hệ này đã được mô tả bằng những mô hình toán một cách có cơ sở khoa học. Nguyễn Ngọc Lung và cộng sự (1995) [17] đã dựa vào mức độ thấm, thoát nước và sự thoái hoá của các loại đất dưới rừng để cho điểm và đánh giá vai trò của nhân tố đất ảnh hưởng tới xói mòn và dòng chảy. Vai trò của rừng trong việc giữ nước là rất quan trọng. Nghiên cứu của Võ Minh Châu (1993 - dẫn theo Vương Văn Quỳnh, 1999 [29]) cho thấy sự suy giảm diện tích rừng đầu nguồn sông Ngàn Mọ từ 23.971 ha xuống còn 6.000 ha đã làm cho lượng nước hồ Kẻ Gỗ giảm đi đáng kể, giảm từ 340 triệu m3 nước xuống còn 60 triệu m3, do đó không đảm bảo nước cho sản xuất nông nghiệp trên diện tích 6.000 ha. Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình Quế và Vũ Tấn Phương (2002) [32] đã đưa ra dẫn liệu lưu lượng dòng chảy tại nơi có rừng thấp hơn từ 2,5 đến 27 lần so với khu vực canh tác nông nghiệp, rừng tự nhiên có tác dụng tốt hơn rừng trồng trong việc giảm dòng chảy mặt; dòng chảy kiệt ở nơi có rừng cao hơn ở nơi không có rừng. Trong ấn phẩm mới đây của Trung tâm sinh thái và môi trường rừng thuộc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (FSIV) và Chương trình sử dụng đất và lâm nghiệp thuộc Viện Quốc tế về Môi trường và Phát triển (IIED)
- 11 (2002) [35], với tiêu đề "Liệu rừng có phòng hộ đầu nguồn được không?", sau khi phân tích bốn ví dụ điển hình nhóm tác giả đã kết luận như sau: Những bằng chứng về thuỷ văn rừng và chức năng phòng hộ đầu nguồn của rừng chưa được nghiên cứu đầy đủ ở Việt Nam. Mặc dù chúng ta không thể khái quát được tất cả những khu vực đầu nguồn trong mọi hoàn cảnh, song kiến thức dự đoán tốt nhất hiện nay của chúng ta là: (1) - Rừng không làm tăng thêm dòng chảy mặt mà thực tế rừng thường làm giảm dòng chảy mặt; (2) - Rừng có thể hoặc không thể điều tiết được lưu lượng nước theo mùa; (3) - Rừng không tốt hơn các loại thảm thực vật khác trong việc hạn chế xói mòn đất; (4) - Rừng không phải là yếu tố quan trọng như là yếu tố khí hậu trong việc kiểm soát lũ, song nó có thể có tác động nhất định ở những lưu vực nhỏ. Nhận định trên đây có hai điểm không thích đáng. Một là, nếu rừng không tốt hơn các loại thảm thực vật khác trong việc hạn chế xói mòn đất, thì tại các vùng đất dốc đất đai sẽ bị suy thoái theo thời gian và kéo theo hệ sinh thái rừng trên đó cũng suy thoái và có thể biến mất, điều này trái với thực tế. Chúng ta dễ dàng bắt gặp được ở những hệ sinh thái rừng tự nhiên, đặc biệt là rừng giầu và rừng trung bình thường có tầng đất dày, độ xốp cao thậm chí ở những vị trí có độ dốc cao và lượng mưa lớn. Do vậy kết luận này có thể chỉ đúng cho một số loại rừng trồng hoặc rừng thứ sinh nghèo kiệt, cần loại trừ rừng tự nhiên ra khỏi nhận định trên. Hai là, nếu coi yếu tố khí hậu có vai trò kiểm soát lũ thì không có tính thuyết phục bằng việc coi khí hậu là nhân tố có ảnh hưởng hoặc là nguyên nhân gây ra lũ lụt trên các lưu vực. Vương Văn Quỳnh và cộng sự, 2010 [31] khi nghiên cứu về tỷ lệ diện tích rừng rừng quy đổi cần thiết cho mỗi lưu vực dựa trên các nhân tố ảnh hưởng đến tần xuất xuất hiện lũ và yêu cầu giảm lũ là để tần suất xuất hiện lũ thấp hơn 1.5% đã xây dựng được biểu thức xác định tỷ lệ diện tích các thảm thực vật quy đổi và tỷ lệ diện tích rừng rừng quy đổi cần thiết như sau:
- 12 (TLTVQDct) = ((0.225233 + 0.010177*sqrt(DtichLV) + 0.047206*(doc) -0.45526*(HSHD)+ 0.000804* (Lmua))-1.5)/ 0.04443 (1-1) Trong đó: TLTVQDct là tỷ lệ cần thiết của rừng và thảm thực vật (%) DtichLV là diện tích lưu vực (ha) Doc là độ dốc trung bình của lưu vực (độ) HSHD là chỉ số hình dạng lưu vực, được xác định bằng tỷ lệ giữa chu vi lưu vực với chu vi hình tròn có diện tích bằng diện tích lưu vực Lmua là lượng mưa của lưu vực. Vì tỷ lệ diện tích các loại đất khác chiếm khoảng 5% tổng diện tích lưu vực, còn lại 95% bao gồm diện tích các loại rừng, diện tích đất trống và diện tích đất nông nghiệp nên có thể xây dựng được công thức xác định tỷ lệ diện tích rừng quy đổi cần thiết cho lưu vực như sau. (TLRQĐct)=(100*(TLTVQDct)-5510)/42 (TLRQĐct)=(100*(((0.225233 + 0.010177*sqrt(DtichLV) + 0.047206*(doc) - 0.45526*(HSHD)+ 0.000804* (Lmua))-1.5)/ 0.04443)-5510)/42 (1-2) Trong đó: TLRQĐct là tỷ lệ diện tích rừng quy đổi cần thiết (%) TLTVQDct là tỷ lệ cần thiết của rừng và thảm thực vật (%) 1.2.1.2. Nghiên cứu khả năng giữ nước quy mô khu rừng Từ năm 1970 – 1985, Bộ môn Khí tượng thuỷ văn rừng thuộc Viện nghiên cứu Lâm nghiệp Việt Nam đã tổ chức nghiên cứu thực nghiệm về thuỷ văn rừng ở xã Tứ Quận, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang và ở núi Tiên, Hữu Lũng, Lạng Sơn. Các tác giả tập trung chủ yếu vào việc tìm hiểu lượng nước chảy bề mặt và lượng đất xói mòn dưới tán rừng Bồ đề trồng thuần loài đều tuổi và một số trạng thái rừng tự nhiên (Bùi Ngạnh, Vũ Văn Mễ, 1995
- 13 [23]; Bùi Ngạnh và Nguyễn Danh Mô, (1977) [21]; Bùi Ngạnh và Nguyễn Ngọc Đích, (1985) [22]; Lê Đăng Giảng và Nguyễn Thị Hoài Thu (1981) [12]). Kết quả cho thấy sự thay đổi dòng chảy mặt trong phạm vi từ 5 - 20% phụ thuộc vào đặc điểm của trạng thái rừng, trong đó rừng tự nhiên luôn có tỷ lệ dòng chảy mặt thấp nhất. Trên cơ sở đó các tác giả đã đề xuất những mô hình bố trí các đai rừng giữ nước trên sườn dốc. Khi nghiên cứu đặc điểm thuỷ văn của một số trạng thái rừng ở Tây Nguyên, Võ Đại Hải và Nguyễn Ngọc Lung khẳng định vai trò điều tiết nước của rừng rất lớn, lượng nước mưa bị tán rừng ngăn cản dao động từ 5,7% đến 11,6% tuỳ thuộc vào từng loại rừng, lượng nước tạo thành dòng chảy ngầm và các dạng khác từ 88,2% đến 92,5% tổng lượng nước mưa, lượng nước mưa tạo thành dòng chảy mặt ở những nơi có rừng rất thấp, qua đó hạn chế khả năng hình thành lũ và lũ quét (Võ Đại Hải (1996) [13] , Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải (1997) [18]). Từ kết quả nghiên cứu này các tác giả đã bước đầu đưa ra cơ sở khoa học cho việc xây dựng rừng phòng hộ giữ nước, giữ đất ở nước ta và tác giả đã xây dựng được bảng tra hệ số thảm thực vật (hệ số C) tương ứng với đặc điểm và cấu trúc của một số thảm rừng. Tuy vậy, do số các dạng rừng nghiên cứu chưa được nhiều, đặc biệt là các dạng rừng trồng nên khả năng ứng dụng trong thực tiễn chưa cao. Trong nghiên cứu về đặc điểm thuỷ văn rừng Thông đuôi ngựa 14 tuổi tại núi Luốt - Xuân Mai - Hà Tây, Phùng Văn Khoa (1997) [15] đã xác định được lượng nước giữ lại trên tán rừng thông biến động từ 10 - 20% tổng lượng mưa và phụ thuộc vào lượng mưa, lượng nước mưa lọt qua tán biến động từ 80 - 90%, lượng nước chảy men thân cây biến động từ 3 - 5%, lượng nước thoát hơi của thực vật chiếm 30 - 40% tổng lượng mưa, lượng nước bốc hơi nước từ mặt đất rừng biến động từ 30 - 35%, lượng nước chảy bề mặt
- 14 chiếm từ 3 - 10% phụ thuộc chặt chẽ vào độ che phủ của cây bụi thảm tươi. Lượng nước còn lại trong đất chiếm xấp xỉ 10 - 15%. Vương Văn Quỳnh và cộng sự (1994a, 1994b, 1996, 1997, 1999) [25], [26], [27], [28], [29] đã xây dựng phương trình dự báo xói mòn đất ở Việt Nam. Trong trường hợp trên một diện tích đồng nhất chỉ có một kiểu rừng và không làm đất hàng năm, thì cường độ xói mòn đất được xác định như sau: 6 2 2,31.10 .K . d (1-3) TC 2 ( CP TM). X H Trong đó: d là cường độ xói mòn đất (mm/năm); là độ dốc mặt đất (độ); TC là độ tàn che của tầng cây cao, lớn nhất là 1,0; H là chiều cao bình quân của tầng cây cao, tính bằng mét; CP là tỷ lệ che phủ mặt đất của lớp thảm tươi cây bụi, lớn nhất là 1,0; TM là tỷ lệ che phủ của lớp thảm khô trên mặt đất, lớn nhất là 1,0; X là độ xốp tổng số của lớp đất mặt (0 - 5 cm), (%); K là chỉ số xói mòn của mưa được xác định theo công thức: 12 K ( Ri / 25,4)[916 331.Lg[5,8263 2,481Ln( Ri) / 25,4]] / 100 (1-4) 1 Trong đó, Ri là lượng mưa tháng thứ i trong năm, tính bằng mm/tháng. Trong trường hợp trên một diện tích đồng nhất có hơn hai kiểu rừng thì cường độ xói mòn bình quân được xác định theo công thức sau: n Sidi d i n (1-5) Si 1 Trong đó Si là diện tích của kiểu rừng thứ i, di là cường độ xói mòn đất của kiểu rừng i, n là số kiểu rừng.
- 15 Từ công thức tính cường độ xói mòn đất, Vương Văn Quỳnh và cộng sự (1999) [29] đã xác định tiêu chuẩn bảo vệ đất của rừng và lớp phủ thực vật nói chung thoả mãn điều kiện d < 0,8 mm/năm (tốc độ hình thành đất nhiệt đới trong điều kiện có canh tác, Hudson N, 1981). Nguyễn Ngọc Lung và cộng sự (1995) [17] đã thiết lập bãi đo dòng chảy và xói mòn đất tại xã Bình Thanh, vùng ven hồ thuỷ điện tỉnh Hoà Bình. Các tác giả đã thiết lập 4 ô thí nghiệm định vị với diện tích 100 m2 (10 x 10 m) phân bố ở độ dốc từ 12 - 150. Mỗi ô thí nghiệm đại diện cho một trạng thái rừng (keo lá tràm, keo tai tượng, luồng, trẩu). Kết quả nghiên cứu cho thấy lượng đất xói mòn của bốn trạng thái rừng biến động từ 152,09 - 400,12 kg/ha, thấp nhất ở rừng keo lá tràm và cao nhất ở rừng trẩu; lượng nước chảy bề mặt biến động từ 765,4 - 990,2 m3/ha, thấp nhất ở rừng keo lá tràm và cao nhất ở rừng trẩu. Kết quả nghiên cứu này đã được Võ Đại Hải (1996) [13] kế thừa khi thực hiện đề tài luận án “Nghiên cứu các dạng cấu trúc hợp lý của một số thảm thực vật rừng chủ yếu ở Việt Nam”. Phạm Văn Điển (1998, 1999, 2000, 2001và 2003) [4], [5], [6], [7] và [8] đã nghiên cứu đặc điểm thuỷ văn của một số thảm thực vật rừng tại xã Vầy Nưa, vùng ven hồ thuỷ điện thuộc huyện Đà Bắc, tỉnh Hoà Bình. Tác giả đã chọn ba đối tượng thảm thực vật để nghiên cứu là rừng Keo tai tượng trồng thuần loài đồng tuổi (8 tuổi); trảng cây bụi phục hồi tự nhiên sau nương rẫy, thời gian phục hồi đã được 8 năm; trảng cỏ sau nương rẫy. Sau khi lượng hoá từng thành phần cân bằng nước của tuần hoàn thuỷ văn và thiết lập mối quan hệ định lượng của từng thành phần cân bằng nước với những nhân tố có ảnh hưởng quan trọng, tác giả đã đề xuất tiêu chuẩn cấu trúc của lớp thảm thực vật rừng giữ nước. Tiêu chuẩn này được dựa trên cơ sở sự biến đổi của hệ số dòng chảy bề mặt theo ba nhân tố chủ yếu là độ dốc mặt đất, độ xốp tầng đất mặt (0 - 10 cm) và tổng của độ tàn che tầng cây cao với độ che phủ của cây
- 16 bụi thảm tươi. Kết quả nghiên cứu này đã có ý nghĩa nhất định trong việc làm sáng tỏ đặc điểm thuỷ văn của một số thảm thực vật ở xã Vầy Nưa. Tuy nhiên, do thời gian và phương tiện nghiên cứu có hạn, nên đề tài chỉ xây dựng được số lượng rất hạn chế ô thí nghiệm trong điều kiện không có sự khác biệt lớn về điều kiện lập địa và đặc điểm cấu trúc của lớp thảm thực vật rừng. Điều này đã dẫn đến những hạn chế nhất định trong quá trình phân tích quy luật thuỷ văn rừng và xây dựng tiêu chuẩn rừng giữ nước. Phạm văn Điển (1998, 1999, 2000, 2001 và 2003) [4], [5], [6], [7] và [8] khi nghiên cứu về khả năng giữ nước của một số thảm thực vật ở vùng phòng hộ hồ thuỷ điện tỉnh Hoà Bình đã cho kết luật: Tỷ lệ phần trăm lượng nước giữ trên tán thảm thực vật dao động từ 2,91 - 18,55% tổng lượng mưa trong năm, tăng dần từ trảng cỏ, cây bụi, rừng trồng đến rừng tự nhiên. Lượng nước giữ hữu hiệu của vật rơi rụng chỉ đạt từ 2,5 - 83,2 mm/ha/năm, tương đương với tỷ lệ 0,1 - 4,6% tổng lượng mưa. Điều đó cho thấy rằng, vật rơi rụng có khả năng giữ nước rất hạn chế. Tổng lượng nước giữ trên tán và vật rơi rụng của các trạng thái rừng từ 60,9 - 455,3 mm/ha/năm, tương đương với 3,04 - 22,70% tổng lượng mưa. Lượng nước chảy bề mặt bình quân của các trạng thái rừng biến động từ 104,7 - 574,7 mm/ha/năm, tương đương với hệ số dòng chảy mặt từ 5,2 - 28,7%. Hệ số dòng chảy mặt cao nhất ở trảng cỏ, giảm xuống ở trảng cây bụi, rừng trồng và thấp nhất ở rừng tự nhiên. 1.2.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của đặc điểm lưu vực đến dòng chảy Ở Việt Nam, từ trước đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về mối quan hệ giữa đặc điểm của lưu vực và đặc điểm của chế độ mưa đến dòng chảy đã được thực hiện. Chỉ có một số nghiên cứu sơ bộ được thực hiện nhằm làm sang tỏ về vai trò thủy văn của rừng đối với đặc điểm dòng chảy và khả năng giữ nước của rừng (Nguyễn Viết Phổ, 1992 [25]; Võ Đại Hải, 1996 [13]; Vương Văn Quỳnh, 1996 [27]).
- 17 Năm 2007 trong công trình “Nghiên cứu xác định diện tích rừng cần thiết cho các địa phương” (Vương Văn Quỳnh và cộng sự, 2007) [30] nhóm tác giả áp đã nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng tới tính chất thuỷ văn của rừng trên hệ thống 105 ô tiêu chuẩn điển hình ở các tỉnh Hoà Bình, Quảng Ngãi và Đắk Lắk. Việc phân tích mối liên hệ giữa các đặc trưng dòng chảy gồm tổng lượng dòng chảy, hệ số biến động dòng chảy, hệ số tăng lũ, hệ số giảm lũ và độ muộn đỉnh lũ với các nhân tố ảnh hưởng là lượng mưa, diện tích rừng quy chuẩn, hệ số phân bố đều của rừng, độ chênh cao trung bình, độ dốc trung bình, hệ số hình dạng lưu vực, bề dày tầng đất trung bình đã cho một số nhận xét sau. - Hệ số biến động dòng chảy liên hệ chặt với với hình dạng lưu vực, diện tích lưu vực, tỷ số giữa độ che phủ rừng và hệ số đồng đều, mức chênh cao tuyệt đối bình quân và độ dốc bình quân của lưu vực. - Hệ số tăng lũ liên hệ với các nhân tố hình dạng lưu vực, diện tích lưu vực, tỷ số giữa độ che phủ rừng và hệ số đồng đều, mức chênh cao tuyệt đối bình quân, độ dốc bình quân, R=0.48. - Lưu lượng dòng chảy cực đại liên hệ chặt với các hệ số hình dạng lưu vực, diện tích lưu vực, tỷ số giữa độ che phủ rừng và hệ số đồng đều, mức chênh cao tuyệt đối bình quân, độ dốc bình quân, lưu lượng dòng chảy trước khi mưa và lượng mưa. - Phương pháp dự báo lưu lượng dòng chảy cực đại (một dạng của dự báo lũ) có thể được xây dựng từ phương trình liên hệ chặt giữa nó với lượng mưa, mực nước sông trước mưa, độ dốc trung bình, mức chênh cao trung bình, hình dạng lưu vực và tỷ lệ che phủ rừng quy đổi. Sai số của dự báo được xác định là khoảng 20%. - Với giả thiết rằng sẽ không xảy ra lũ nguy hiểm nếu hệ số biến động dòng chảy của lưu vực không vượt quá 200%, nhóm nghiên cứu đã căn cứ
- 18 vào phương trình liên hệ giữa hệ số biến động dòng chảy với tỷ lệ che phủ rừng quy đổi và các yếu tố đặc trưng lưu vực để xác định tỷ lệ diện tích rừng quy đổi cần thiết. Kết quả cho thấy phụ thuộc vào các yếu tố đặc trưng lưu vực và chỉ số mưa mà tỷ lệ diện tích rừng quy đổi cần thiết ở các lưu vực có thể dao động từ 20 đến 50%. Nhìn chung, nghiên cứu về khả năng giảm lũ của rừng ở Việt Nam chỉ mới thực sự bắt đầu trong vài chục năm gần đây. Tuy nhiên, chúng cũng đã đạt được những thành tựu nhất định, đặc biệt về phương pháp nghiên cứu. Nó không chỉ kế thừa được kinh nghiệm của thế giới trong nghiên cứu thuỷ văn rừng, mà còn vận dụng một cách sáng tạo những kỹ thuật mới trong xây dựng cơ sở dữ liệu và phân tích thông tin để nghiên cứu khả năng giảm lũ của rừng. Vương Văn Quỳnh và cộng sự, 2010 [31] khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa lượng mưa và lưu lượng dòng chảy tại 15 lưu vực điển hình của Việt Nam đã kết luận rằng lưu lượng dòng chảy liên hệ chặt chẽ với lượng mưa. Thời kỳ có lượng mưa cao cũng là thời kỳ có lưu lượng dòng chảy lớn. Liên hệ giữa lưu lượng dòng chảy với lượng mưa tương đối chặt. Hệ số tương quan trong các phương trình thực nghiệm dao động từ 0.7 – 0.9. Tuy nhiên đỉnh lũ thường lệch so với đỉnh mưa một khoảng thời gian nhất định. Ở các lưu vực nghiên cứu Miền Bắc và Miền Trung đỉnh lũ thường chậm hơn đỉnh mưa chừng 1-2 ngày, còn ở Tây Nguyên thường chậm hơn 15-20 ngày. Nhóm tác giả khi nghiên cứu sự hình thành lũ trong lưu vực đã phân tích liên hệ của các nhân tố ảnh hưởng là tỷ lệ rừng quy đổi (%), diện tích (ha), độ dốc (độ), hệ số hình dạng, lượng mưa (mm) với tần suất lũ, kết quả phân tích thống kê cho thấy mức liên hệ của tần suất xuất hiện lũ với các nhân tố anh hưởng có mức liên hệ rõ rệt, chỉ tiêu kiểm tra Significance F nhỏ hơn so với mức 0.05 và phương trình thực nghiệm để xác định tần suất xuất hiện cường độ tăng lũ vượt quá 5m3/g2 dựa vào đặc điểm của các nhân tố lưu vực được xác định như sau:
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 370 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 412 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 542 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 299 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 342 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 319 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 235 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 246 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 191 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn