Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu tác động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại VQG Bidoup-Núi Bà , tỉnh Lâm Đồng
lượt xem 6
download
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là xác định được các hình thức và mức độ tác động của người dân địa phương vào TNR thuộc quyền quản lý của VQG Bidoup- Nú i Bà , tỉnh Lâm Đồng. Xác định được các nguyên nhân chính dẫn đến những tác động bất lợi tới TNR. Đề xuất được các giải pháp giải thiểu các tác động bất lợi và thu hút người dân tham gia vào quản lý TNR tại VQG Bidoup - Núi bà, tỉnh Lâm Đồng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu tác động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại VQG Bidoup-Núi Bà , tỉnh Lâm Đồng
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN HẠNH TÂM NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI DÂN ĐIẠ PHƯƠNG ĐẾN TÀI NGUYÊN RỪNG TẠI VQG BIDOUP – NÚI BÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC MÃ SỐ: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ BẢO LÂM
- i LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Nguyễn Hạnh Tâm
- ii LỜI CẢM ƠN Luận văn này được thực hiện và hoàn thành theo chương trình đào tạo Thạc sỹ ngành Lâm Học của Trường Đại học Lâm nghiệp, Xuân Mai, Chương Mỹ, Hà Nội. Nhân dịp hoàn thành luận văn, tác giả bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Bảo Lâm - người đã tận tình hướng dẫn và dành tình cảm tốt đẹp cho tác giả từ khi hình thành, phát triển ý tưởng, xây dựng đề cương, tổ chức triển khai và hoàn thiện luận văn. Xin trân trọng cảm ơn tập thể cán bộ Cơ sở 2 Trường Đại học Lâm nghiệp đã tạo điều kiện, động viên, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này. Xin trân trọng cảm ơn PGS.TS.Vũ Nhâm đã tư vấn, góp ý trong quá trình hoàn thiện bản luận văn này. Đối với địa phương, tác giả chân thành cảm ơn: Vườn Quốc gia BiDoup – Núi Bà, Hạt kiểm lâm VQG BiDoup – Núi Bà, UBND huyện Lạc Dương; UBND các xã Đạ Chais, Đạ Sar, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng và bà con ở địa phương nơi tác giả đã đến thu thập số liệu để thực hiện luận văn. Xin cảm ơn các cán bộ, công nhân viên VQG BiDoup -Núi Bà đã giúp đỡ và hỗ trợ tác giả thu thập số liệu tại hiện trường. Xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp, gia đình đã động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và thực hiện luận văn. Tuy đã nghiêm túc thực hiện với tất cả nỗ lực của bản thân, nhưng do trình độ và thời gian hạn chế, vì vậy bản luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của Quý Thầy, Cô giáo, các nhà khoa học, các bạn bè đồng nghiệp và xin chân thành tiếp thu các ý kiến đóng góp đó./. Xin trân trọng cảm ơn! Tác giả
- iii MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan………………………………………………………………….. i Lời cảm ơn……………………………………………………………………. ii Mục lục………………………………………………………………………... iii Danh mục các chữ viết tắt…………………………………………………….. v Danh mục bảng……………………………………………………………….. vi Danh mục hình……………………………………………………………….. vii ĐẶT VẤN ĐỀ ……………………….…………….………………...………. 1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu trên thế giới…………………………… 3 1.1.1. Các nghiên cứu liên quan đến sự cần thiết thành lập KBT và VQG 3 1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến sự tham gia của người dân trong các 4 KBT và VQG 1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam …………………………… 7 1.2.1 Hệ thống chính sách và các vấn đề liên quan đến Rừng đặc dụng 7 1.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến quan hệ người dân và TNR 10 CHƯƠNG 2. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, GIỚI HẠN, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu …………………………………………………… 17 2.2. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu ……………………………………. 17 2.3. Giới hạn nghiên cứu..…………………………………………………… 17 2.4. Nội dung nghiên cứu …………………………………………………… 18 2.5. Quan điểm và Phương pháp nghiên cứu ……………………………… 18 2.5.1. Quan điểm và Phương pháp luận ……………………………………… 18 2.5.2. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………… 23 CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN KT-XH CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU 3.1. Đặc điểm tự nhiên của VQG BiDoup – Núi Bà……………………… 30 3.1.1. Vị trí địa lý …………………………………………………………………… 30 3.1.2. Địa hình ………….…………………………………………………………… 31 3.1.3. Khí hậu và thủy văn ………………………………………………………… 31 3.2. Đặc điểm kinh tế xã hội …………… ..………………………………… 31 3.2.1. Dân số……………………… ………………………………………………… 31 3.2.2. Thành phần dân tộc…………………………………………………………… 32 3.2.3. Dân trí………………………………………………………………………… 32 3.2.4. Lao động ……………………………………………………………………… 32 3.2.5. Giới …………………………………………………………………………… 32
- iv 3.2.6. Sinh kế…………………………… …………………………………………… 33 3.2.7. Sự phụ thuộc vào rừng…………… ………………………………………… 33 3.3. Hiện trạng tài nguyên rừng VQG BiDoup – Núi Bà ..………………. 33 3.3.1. Hiện trạng rừng và sử dụng đất rừng VQG..……………………………… 33 3.3.2. Tài nguyên đa dạng sinh học………………………………………………… 36 3.3.3. Tình hình phân bố các loài LSNG…………………………………………… 37 3.3.4. Hiện trạng và tiềm năng du lịch………….………………………………… 38 3.4. Hiện trạng sử dụng đất các xã nghiên cứu...………………………….. 39 3.5. Sơ lược đặc điểm kinh tế xã hội các hộ điều tra……………………… 40 CHƯƠNG 4. KẾT QUẢN NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Đánh giá công tác quản lý bảo vệ TNR VQG……...………………… 43 4.1.1. Công tác xây dựng lực lượng……………………………………………… 43 4.1.2. Xử lý vi phạm trong công tác bảo vệ rừng ………………………………… 44 4.1.3. Công tác phòng chống cháy rừng…………………………………………… 46 4.1.4. Công tác Khoán bảo vệ rừng……………………………………………… 47 4.1.5. Thực trạng công tác quản lý bảo vệ rừng………………………………… 48 4.2. Các hình thức và mức độ tác động…………………...………………… 49 4.2.1. Sử dụng đất rừng để canh tác nương rẫy ………………………………… 49 4.2.2. Tác động khai thác lâm sản………………………………………………… 50 4.2.3. Tác động sử dụng rừng và đất rừng để chăn thả gia súc ……………… 53 4.3. Nguyên nhân dẫn đến những tác động bất lợi ……………...….…… 54 4.3.1. Cơ cấu đất canh tác…………………………………………………………… 54 4.3.2. Cơ cấu thu nhập……………………………………………………………… 55 4.3.3. Cơ cấu chi phí………………………………………………………………… 57 4.3.4. Quan hệ giữa thu nhập và chi phí…………………………………………… 59 4.3.5. Ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất đến thu nhập từ rừng và tổng thu nhập HGĐ tại khu vực nghiên cứu ………………………………………………… 60 4.3.6. Những nguyên nhân cơ bản khác dẫn tới những tác động bất lợi của người dân địa phương đến TNR, VQG…………………………………………… 64 4.4. Đề xuất các giải pháp KT-XH nhằm giảm thiểu những tác động bất lợi của người dân địa phương đến TNR tại VQG BiDoup – Núi Bà…….. 70 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết luận………………………………………………………………………. 80 Kiến nghị……………………………………………………………………... 81 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
- v DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Ký hiệu Chú giải BV&PTR: Bảo vệ và phát triển rừng ĐDSH : Đa dạng sinh học HGĐ : Hộ gia đình KBT : Khu bảo tồn KT-XH : Kinh tế - Xã hội LSNG : Lâm sản ngoài gỗ QLBVR : Quản lý bảo vệ rừng TNR : Tài nguyên rừng UBND : Uỷ ban nhân dân VQG : Vườn Quốc gia ̣ TS. Nguyễn Thi Bảo Lâm
- vi DANH MỤC CÁC BẢNG TT Tên Bảng Trang 2.1. Bảng điểm và phân loại các tiêu chí 24 2.2. Đánh giá các tiêu chí và lựa chọn xã nghiên cứu 24 2.3. Đánh giá các tiêu chí và lựa chọn thôn đại diện 25 2.4. Kết quả lựa chọn các hộ điều tra các thôn đã lựa chọn 26 3.1. Hiện trạng rừng và sử dụng đất VQG BiDoup-Núi bà, năm 2010 34 3.2. Hiện trạng trữ lượng các trạng thái rừng VQG BiDoup-Núi bà 35 3.3. Hiện trạng sử dụng đất 02 xã nghiên cứu 39 3.4. Tóm tắt số đặc điểm KT-XH ở cá hộ điều tra 41 4.1. Thống kê vi phạm trong công tác QLBVR, VQG BiDoup-Núi Bà 44 4.2. Thống kê tổng hợp các vụ cháy rừng tại VQG BiDoup-Núi Bà 47 4.3. Thực trạng công tác khoán bảo vệ rừng ở VQG BiDoup-Núi Bà 48 4.4. Phân tích SWOT về công tác QLBVR tại VQG BiDoup-Núi Bà 48 4.5. Tình hình sử dụng đất rừng 49 4.6. Diện tích canh tác của các HGĐ trên rừng và đất rừng VQG 50 4.7a. Số lần và khối lượng khai thác gỗ của các hộ điều tra 51 4.7b. Số lần và khối lượng khai thác củi của các hộ điều tra 52 4.7c. Số lần và khối lượng khai thác lâm sản làm thực phẩm 52 4.7d. Số lần và khối lượng khai thác cây thuốc, sâm 52 4.7e. Số lần và khối lượng săn bắt động vật của các hộ điều tra 52 4.8. Mức độ chăn thả gia súc trên rừng 53 4.9. Hình thức sử dụng đất của các hộ điều tra 54 4.10. Cơ cấu sử dụng đất theo đối tượng các hộ điều tra 55 4.11. Cơ cấu tổng thu nhập theo nhóm HGĐ 56 4.12. Cơ cấu tổng chi phí theo nhóm HGĐ 58 4.13. Phân bố hộ gia đình theo các mức thu nhập 60 4.14. Tổng hợp các trị số trong quan hệ từng nhân tố với thu nhập từ rừng 61 4.15. Tổng hợp các trị số trong quan hệ từng nhân tố với tổng thu nhập 62 4.16. Nhu cầu và khả năng đáp ứng lương thực của HGĐ 65
- vii DANH MỤC CÁC HÌNH TT Tên hình Trang Tháp sinh thái nhân văn trong nghiên cứu tác động của người dân 2.1. 21 đến TNR 3.1. Bản đồ Vườn quốc gia BiDoup - Núi Bà 30 3.2. Biểu đồ cơ cấp đất đai VQG BiDoup - NúiBà 34 3.3. Trữ lượng rừng theo phân khu chức năng 36 3.4. Biểu đồ cơ cấu đất đai 02 xã nghiên cứu 40 4.1. Biểu đồ số vụ vi phạm luật BV&PTR tại VQG 45 4.2. Biểu đồ số tiền xử phạt vi phạm tại VQG 46 4.3. Biểu đồ số hộ điều tra vào rừng khai thác, sử dụng lâm sản 51 4.4. Cơ cấu tổng thu nhập theo nhóm HGĐ 57 4.5. Cơ cấu tổng chi phí theo nhóm HGĐ 59
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Hệ thống rừng đặc dụng của Việt Nam đã được thành lập và hoạt động trong gần 50 năm qua theo quy định của Luật Bảo vệ và phát triển rừng và Luật Đất đai. Chức năng và nhiệm vụ chính của hệ thống rừng đặc dụng là bảo vệ và bảo tồn các hệ sinh thái rừng, đa dạng sinh học, cảnh quan thiên nhiên và các giá trị văn hóa, lịch sử môi trường. Hiện nay, cả nước có trên 13 triệu ha rừng, trong đó có 2,2 triệu ha rừng đặc dụng và hình thành được 164 khu, gồm 30 Vườn Quốc gia, 58 Khu dự trữ thiên nhiên, 10 Khu bảo tồn loài, 46 Khu bảo vệ cảnh quan và 20 khu rừng nghiên cứu khoa học. Hầu hết các khu rừng đặc dụng đã được tổ chức, quản lý và được nhà nước cấp kinh phí hoạt động nhằm bảo vệ rừng, bảo tồn các giá trị đa dạng sinh học[3]. Qua quá trình hoa ̣t đô ̣ng đã có nhiều thành tựu đạt được trong công tác quản lý bảo tồn hệ thống rừng đặc dụng, vai trò của các KBT, VQG trong phát triển kinh tế ở cấp quốc gia và địa phương ngày càng được khẳng định. Song việc bảo vệ, quản lý các KBT, VQG đã và đang gặp không ít khó khăn từ phía người dân và cộng đồng địa phương sinh sống xung quanh KBT, VQG thậm chí ngay cả trong khu bảo tồn, VQG đã tạo sức ép nặng nề lên các KBT, VQG[21]. Từ những thay đổi của họ về vị trí nhà ở, về thói quen chiếm hữu đất đai canh tác, phát nương làm rẫy, săn bắt động vật, chặt gỗ, lấy củi, thu lượm các sản phẩm LSNG từ rừng và do đó ảnh hưởng đến công tác bảo vệ. Tài nguyên rừng là nguồn sống chủ yếu của người dân sống trong và gần rừng từ bao đời nay, giờ đây dường như đã không còn là của họ. Họ đa số là người nghèo, dân trí thấp, họ cho rằng việc thành lập KBT, VQG không đem lại lợi ích gì cho họ, mà chỉ bị thiệt thòi vì không được tự do khai thác một phần tài nguyên thiên nhiên như trước nữa[21]. Trong khi đó, các sinh kế tạo nguồn thu nhập khác cho người dân địa phương chưa bù đắp được sự thiếu hụt lớn lao này. Chính vì vậy, đã gây ra mâu thuẫn giữa khu bảo tồn, VQG với người dân địa phương - những người
- 2 đã và đang sống phụ thuộc một phần vào nguồn TNR. Do đó, việc tồn tại những tác động bất lợi của người dân vào TNR là tất yếu [24]. VQG BiDoup-Núi Bà được thành lập theo quyết định số 1240/2004/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ, Mục tiêu nhiệm vụ trong đó có bảo tồn các hệ sinh thái rừng trong vùng khí hậu á nhiệt đới, bảo tồn các sinh cảnh rừng nguyên sinh và các nhiệm vụ khác[34] Tuy nhiên, VQG Bidoup – Núi Bà có địa bàn vùng lõi và vùng đệm khá lớn với diện tích 97.038 ha theo quyết định thành lập, nằm trên địa bàn các xã: Xã Lát, Đưng Knớ, Đạ Sar, Đạ Chais của huyện Lạc Dương và do chủ trương phát triển vùng đệm và chia tách địa giới hành chính đến nay có thêm các xã Đạ Nhim, Thị trấn Lạc Dương và một phần nhỏ xã Đạ Tông, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng. Các xã đều nằm ở vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn và dân cư thưa thớt. Người dân sống ở trong và giáp ranh VQG chủ yế u là dân tộc K’Ho, ...sinh kế của ho ̣ ở đây chủ yếu làm rẫy như trồng Cafe, trồng Bắp, trồng Khoai, trồng rau...và dựa vào rừng như thu hái các lâm sản phụ như : lấy Lan, Rớn... đem bán, nhà cửa chủ yếu vẫn là nhà gỗ, trình độ dân trí còn thấp, lực lượng lao động trẻ ở đây nhiều, hầu hết các gia đình rất là đông con. Để thực hiện tốt những nhiệm vụ bảo tồn thì cần phải tìm ra được các giải pháp nhằm giảm thiểu những tác động bất lợi của người dân địa phương tới TNR ở VQG Bidoup – Núi Bà nói riêng và các KBT, VQG nói chung . Nhằ m tìm hiể u và góp phần làm rõ những tồn tại nêu trên, đề tài “Nghiên cứu tác động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại VQG Bidoup-Núi Bà, tỉnh Lâm Đồ ng” được thực hiện là có cơ sở và cần thiết.
- 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Trên thế giới 1.1.1. Các nghiên cứu liên quan đến sự cần thiết thành lập KBT và VQG Trên thế giới, VQG đầu tiên được thành lập ở Mỹ năm 1872, đó là VQG Yellowstone. Để thiết lập VQG này người ta đã sử dụng bạo lực ép buộc hai cộng đồng tộc người Crow và người Shoshone phải rời bỏ mảnh đất nơi họ đang sinh sống. Sau đó ở nhiều nước khác trên thế giới cũng sử dụng phương thức quản lý theo mô hình này để thành lập các KBT và VQG và thiết lập các luật lệ ngăn cấm người dân địa phương không được thâm nhập vào KBT, VQG và tiếp cận TNR do đó dẫn đến những hậu quả tất yếu là cộng đồng người dân địa phương có những mâu thuẫn với các KBT và kết quả bảo tồn tài nguyên đã không đạt được mục đích[23]. Năm 1976, Hai tác giả Gadgil và VP. Vartok đưa ra trong tác phẩm: “Những lùm cây thiêng miền Tây dãy Ghats ở Ấn Độ” của mình những nhận định các đám rừng từ dưới 0,5 ha đến 10 ha dưới dạng lùm cây thiêng để thờ các vị thần của lùm cây được người dân địa phương ở Ấn Độ bảo vệ được chu đáo. Các hoạt động thờ cúng tại những lùm cây thiêng đó được hình thành từ các xã hội chuyên về săn bắn và hái lượm. Việc lấy ra bất cứ sản phẩm nào đều bị cấm kỵ. Do nạn phá rừng ngày càng tăng ở Ấn Độ, di sản còn lại của rừng tự nhiên chính là những lùm cây đó và nó đã trở nên quan trọng trong việc thu lượm một số sản phẩm như: Cây thuốc, lá rụng, gỗ khô…Việc khai thác gỗ đã bị cấm nhưng đôi khi vẫn xảy ra tình trạng khai thác gỗ trộm [29]. Ở Thái Lan, vào những năm 1945 độ che phủ của rừng lên tới 60%, đến năm 1995 chỉ còn 26%. Đã có hơn 170.000 km2 rừng bị tàn phá. Năm 1989, Cục Lâm nghiệp của Hoàng gia Thái Lan quyết định thành lập KBT để bảo vệ diện tích rừng còn lại. Điều này dẫn tới xung đột giữa các cộng đồng người dân địa phương sống trong vùng đệm. Một thử nghiệm của Dự án “ Quản lý rừng bền vững thông qua sự cộng tác” (Sustainable Forest Management through Collaborative efforts’ Project)
- 4 thực hiện tại Phu Kheio Wildlife Sanctuary, tỉnh Chaiyaphum ở miền Đông-Bắc Thái Lan. Kết quả chỉ ra rằng, điều căn bản để quản lý bền vững tài nguyên là phải thu hút sự tham gia của các bên liên quan và đặc biệt là phải bao gồm cả phát triển cộng đồng người dân địa phương bằng các hoạt động làm tăng thu nhập của họ [41] Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển đã trở thành vấn đề nổi lên trong các cuộc hội thảo, diễn đàn khoa học trong những năm gần đây. Vào tháng 6 năm 1992, tại Hội nghị Liên hiệp quốc tế về Môi trường và Phát triển bền vững ở Rio De Janeiro (Brasin), vấn đề này đã chính thức được công nhận, các chính phủ đã đưa ra một kế hoạch hành động cải thiện sinh kế của người dân trên cơ sở duy trì các tiến trình chức năng và sức sản xuất của đất đai và các loại tài nguyên thiên nhiên khác [31]. 1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến sự tham gia của người dân trong các KBT và VQG Trong giai đoạn từ những năm 1970 – 1990 một trào lưu trong tiếp cập phát triển Lâm nghiệp dựa vào nhu cầu của người nghèo được nhiều quốc gia quan tâm, từ đó đã có nhiều nghiên cứu gắn với việc nhằm nỗ lực làm thay đổi chiến lược bảo tồn. Chiến lược bảo tồn mới dần được hình thành và khẳng định tính ưu việt, đó là quản lý KBT và VQG phải được liên kết với các hoạt động sinh kế của người dân địa phương, cần thiết có sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên cơ sở tôn trọng nền văn hoá của cộng đồng trong quá trình xây dựng các quyết định. Colfer C.J.P (1980) trong tác phẩm: “Thay đổi và nông lâm kết hợp bản địa” tại Đông Kalimamtan, đã nhận định qua mô tả việc đi thu hái lâm sản phụ rằng những sản vật lấy được coi như là những mặt hàng không phải trả tiền, ai cũng có thể thu lượm được. Thế nhưng, những quyền đó không được quy định cụ thể, nó đã trở thành một thông lệ, trong đó có cả việc dùng gỗ làm nhà, có lúc dùng để biện hộ cho việc thu hoạch gỗ và bán[29]. Trong nghiên cứu của Denr và TCSD,(1994) về bảo tồn đa dạng sinh học ở Philippines cho thấy trong chiến lược Quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học là để đạt được thắng lợi trong mục tiên bảo tồn đa dạng sinh học thì phải bảo đảm rằng
- 5 những người chịu ảnh hưởng nhiều nhất về chính sách liên quan đến môi trường chính là các cộng đồng địa phương, vì vậy họ phải được quyết định và sẽ tham gia vào quá trình lập kế hoạch và quản lý đối với bảo tồn đa dạng sinh học.(Dẫn theo Lê Sỹ Trung 2005) [30] Apple Gate G.B và Gilmour D.A (1987) trong khi nghiên cứu kinh nghiệm tác nghiệp trong việc quản lý phát triển rừng tại vùng đồi Nepan đã hình thành mối quan hệ giữa rừng và các hệ canh tác hỗn hợp ở trung du miền núi. Tác giả cho rằng, các hệ canh tác phụ thuộc nhiều vào rừng đang bị suy thoái nhanh. Sự bền vững lâu dài của các hệ canh tác phụ thuộc vào việc gia tăng về diện tích dưới bất cứ các dạng che phủ thực vật nào[29] Trong kế hoạch hành động đa dạng sinh học ở Indonesia, tác giả Bappenas, (1993) đã ghi nhận tăng cường sự tham gia của công chúng, đặc biệt là người dân sinh sống bên trong và phụ thuộc vào các vùng có tính đa dạng sinh học cao, là mục tiêu chính của kế hoạch hành động và là điều kiện tiên quyết đối với việc thực hiện kế hoạch (dẫn theo Lê Sỹ Trung) [30]. FAO( 2003), nhấn mạnh sự khác biệt về bản chất giữa hai loại mô hình giảm nghèo dựa vào rừng (FBPA–Forest-Based Poverty Alleviation). Người dân trong diện “tránh hay giảm thiểu đói nghèo” vẫn còn ở dưới hay gần với ranh giới nghèo và khá, nhưng có thể đã khá hơn so với tình trạng không có các nguồn TNR. Ngược lại, tình hình kinh tế xã hội của nhưng người đã vượt nghèo, được cải thiện đáng kể và mang tính chất lâu dài. Do vậy giảm nghèo dựa vào rừng nên được hiểu theo nghĩa rộng hàm chứa nhiều ý nghĩa rất khác nhau và bao gồm cả hai loại hình được mô ta ở trên. Ngoài ra, cũng cần hiểu rằng giảm nghèo dựa vào rừng (FBPA) không bao giờ là một quá trình riêng lẻ. [40]. Trên Thế giới đã có nhiều nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của các KBT và VQG đã khẳng định rằng cần phải dựa trên mô hình quản lý gắn bảo tồn đa dạng sinh học với bảo tồn văn hoá của người dân địa phương để đạt được mục tiêu bảo tồn. Mô hình này được thực hiện thành công ở một số các VQG, như ở Ở VQG Kakadu thuộc Australia, những người thổ dân ở đây họ được chung sống
- 6 hợp pháp với VQG không những thế họ còn được thừa nhận là chủ hợp pháp của VQG đồng thời được cử đại diện tham gia vào ban quản lý và thực hiện quá trình quản lý VQG. Hay tại VQG Wasur của Indonesia có 13 làng bản vẫn được phép tồn tại và cuộc sống của họ vẫn gắn liền với hoạt động săn bắn cổ truyền [22]. Hiện nay biện pháp cần thiết và mang lại hiệu quả nhất là trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học phải có sự tham gia của người dân địa phương. Trong suốt nhiều năm tồn tại của các KBT cho thấy nỗ lực của các cơ quan chính phủ nhằm đưa dân chúng ra khỏi các KBT đã không mang lại kết quả như mong đợi trên cả phương diện quản lý TNR và kinh tế xã hội và đó cũng chính là lý do để khuyến khích sự tham gia của người dân địa phương. Việc người dân vốn đang quen với cuộc sống gắn với rừng cũng như các tập tục lâu đời của họ, nay phải chuyển tới một nơi ở mới và họ cho rằng chẳng khác nào “Bắt cá khỏi nước“ , mặt khác khi có các lực lượng khác có thể xâm lấn và khai thác TNR mà không có người bảo vệ thì cũng dẫn đến tình trạng TNR bị xâm hại mà điều kiện sống của người dân lại không được cải thiện[30]. Một điều nữa cho thấy cộng đồng, người dân địa phương đã gắn bó lâu đời với tự nhiên và thấu hiểu sâu sắc tự nhiên. Họ đã góp phần quan trọng vào việc gìn giữ các hệ sinh thái của trái đất thông qua sử dụng nguồn tài nguyên một cách bền vững và tôn trọng tự nhiên dựa trên nền tảng bản sắc dân tộc. Chính vì vậy mà xung đột giữa mục tiêu bảo tồn với sự tồn tại của người dân địa phương sống trong và xung quanh ranh giới KBT đã không xẩy ra. Hơn thế, họ phải được coi là những đối tác bình đẳng và được hưởng lợi trong quá trình xây dựng và thực hiện các chiến lược bảo tồn có những tác động đến đất đai, lãnh thổ, nguồn nước, duyên hải và các nguồn lợi khác, đặc biệt tác động đến quá trình xây dựng và quản lý các KBT [14]. Từ những năm 1990 trở lại đây chiến lược phát triển lâm nghiệp bền vững đã được xây dựng ở nhiếu các quốc gia trên thế giới, nhằm đến các mục tiêu công bằng xã hội trong quyền hưởng dụng TNR, hiệu ích kinh tế trong sử dụng TNR và bền vững về sử dụng tài nguyên môi trường. Một trong các mục tiêu của lâm nghiệp là phát triển nông thôn, xoá đói giảm nghèo tăng cường phân cấp quản lý hướng đến
- 7 việc giao một phần rừng và đất rừng giao cho các địa phương theo hướng lâm nghiệp cộng đồng, Chính phủ các nước và các nhà tài trợ đầu tư cho các dự án phát triển lâm nghiệp cộng đồng. Từ các nghiên cứu cho thấy, tính cấp thiết do suy giảm nguồn TNR và đa dạng sinh học các Quốc gia đã phải có những chiến lược để bảo tồn bằng việc thành lập các KBT, VQG. Tuy nhiên, xung quanh hầu hết các KBT, VQG là người dân địa phương đã gắn bó lâu đời với tự nhiên và thấu hiểu sâu sắc tự nhiên cần phải được quan tâm đúng mức. Các nghiên cứu cũng làm nổi rõ sự phụ thuộc vào tài nguyên rừng của người dân và cũng khẳng định việc người dân tham gia hoạt động quản lý TNR là cần thiết nhưng để họ thực sự gắn bó thì phải đảm bảo được đời sống cho họ, nếu không họ sẽ phải tác động vào rừng. 1.2. Ở trong nước. 1.2.1 Hệ thống chính sách và các vấn đề liên quan đến Rừng đặc dụng Ở Việt Nam đến nay đã có trên 100 KBT, VQG. Trong đó, VQG Cúc Phương là khu rừng đặc dụng đầu tiên được thành lập từ tháng 7/1962 (lúc đó là khu rừng cấm Cúc Phương). Tiếp theo đó là việc thành lập các khu rừng cấm Nam Cát Tiên; VQG Cát Bà; VQG Côn Đảo, VQG YokDon, KBTTN đất ngập nước Xuân Thuỷ; ….và VQG BiDoup – Núi Bà được thành lập năm 2004. Theo nghị định số 117/2010/NĐ-CP, của chính phủ về tổ chức quản lý rừng đặc dụng thì: Rừng đặc dụng là loại rừng được xác lập theo quy định của Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, có giá trị đặc biệt về bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng Quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng; nghiên cứu khoa học; bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du lịch, kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường. Chương trình đầu tư xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam giai đoạn 2008 – 2020, với mục tiêu xác định: Đến năm 2020, hoàn thành cơ bản việc xây dựng cơ sở hạ tầng và thiết lập hệ thống quản lý bảo vệ có hiệu quả diện tích 2,2 triệu ha rừng và đất rừng được quy hoạch cho hệ thống rừng đặc dụng trên phạm vi cả nước; đảm bảo quản lý và sử dụng bền vững diện tích
- 8 rừng đặc dụng hiện có, góp phần nâng tỷ lệ đất có rừng của cả nước lên 42 - 43% vào năm 2010 và 47% vào năm 2020[2]. Các cơ sở pháp lý trong công tác bảo tồn bao gồm: Luật Bảo vệ và phát triển rừng (BV&PTR) được Quốc hội thông qua và ban hành ngày 03/12/2004; Luật Đa dạng sinh học ban hành ngày 13/11/2008; Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/08/2006 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý rừng; Thông tư số 99/2006/QĐ-BNN 06/11/2006 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT, hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế quản lý rừng; Nghị định Số: 117/2010/NĐ- CP ngày 24 tháng 12 năm 2010 của chính phủ về tổ chức quản lý hệ thống rừng đặc dụng ... Căn cứ quy chế quản lý rừng ban hành kèm theo quyết định 186/2006/QĐ-TTg thì rừng đặc dụng được phân loại thành các loại: VQG, KBT thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học [5]. Trong VQG và KBT thiên nhiên được chia thành các phân khu chức năng: 1) Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: Là khu vực có diện tích vừa đủ để bảo vệ nguyên vẹn hệ sinh thái tự nhiên như mẫu chuẩn sinh thái quốc gia, được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để theo dõi diễn biến tự nhiên của rừng và hệ sinh thái ; Đối với rừng đặc dụng ở vùng đất ngập nước, phạm vi và quy mô của phân khu bảo vệ nghiêm ngặt được xác định theo mục tiêu, đối tượng, tiêu chí bảo tồn và điều kiện thuỷ văn. 2) Phân khu phục hồi sinh thái : Là khu vực được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để khôi phục các hệ sinh thái rừng thông qua việc thực hiện một số hoạt động lâm sinh cần thiết. 3) Phân khu dịch vụ - hành chính: Là khu vực để xây dựng các công trình làm việc và sinh hoạt của ban quản lý, các cơ sở nghiên cứu - thí nghiệm, dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí. VQG và KBT thiên nhiên phải xây dựng vùng đệm cho khu rừng [5].
- 9 - Vùng đệm là vùng rừng, vùng đất hoặc vùng đất có mặt nước nằm liền kề với vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên; bao gồm toàn bộ hoặc một phần các xã, phường, thị trấn nằm sát ranh giới với vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên. - Vùng đệm được xác lập nhằm ngăn chặn, giảm nhẹ sự xâm hại của con người tới vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên. - Ban quản lý khu rừng đặc dụng tổ chức cho cộng đồng dân cư vùng đệm tham gia các hoạt động bảo vệ, bảo tồn, sử dụng hợp lý lâm sản và các tài nguyên tự nhiên, các dịch vụ du lịch sinh thái để góp phần nâng cao thu nhập và gắn sinh kế của người dân với các hoạt động của khu rừng đặc dụng. - Cơ quan chính quyền nhà nước trên địa bàn vùng đệm lập dự án đầu tư phát triển sản xuất và cơ sở hạ tầng nông thôn để ổn định cuộc sống cho cộng đồng dân cư, đồng thời thiết lập quy chế trách nhiệm của cộng đồng dân cư và từng hộ gia đình trong việc bảo vệ và bảo tồn khu rừng đặc dụng. - Diện tích của vùng đệm không tính vào diện tích của khu rừng đặc dụng. Tại các khu rừng đặc dụng nước ta hiện nay đã có nhiều thay đổi do sức ép của sự gia tăng dân số, nhu cầu về gỗ, LSNG ngày một gia tăng đối với cộng đồng dân cư sinh sống trong KBT và VQG. Việc đầu tư quản lý bảo vệ và phát triển các khu rừng đặc dụng còn hạn hẹp. Một số chính sách về khoán bảo vệ rừng đang được thực hiện : - Quyết định số 202/QĐ-TTg ngày 02/5/1994 của Thủ Tướng Chính Phủ, Ban hành quy định về việc khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng. đối tượng được nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng, trồng rừng bao gồm hộ gia đình; cá nhân; các cơ quan; đơn vị thuộc lực lượng vũ trang; các trường học; các tổ chức xã hội; các tổ chức kinh tế. Những hộ đồng bào dân tộc còn du canh du cư, những người đang sinh sống tại chỗ, những người ở nơi khác đến lập nghiệp lâu dài được ưu tiên nhận khoán [7]. - Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg ngày 23 /11/2005 của Thủ Tướng Chính Phủ về việc thí điểm giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng trong buôn, làng là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở các tỉnh tây nguyên. Đối
- 10 tượng Những hộ đồng bào dân tộc thiểu số hiện đang sinh sống tại xã có rừng, có nhu cầu được giao rừng và khoán bảo vệ rừng; trước hết ưu tiên đồng bào là người dân tộc thiểu số nghèo tại chỗ thuộc các đối tượng quy định tại các Quyết định số 132 và 134 của Thủ tướng Chính phủ[8]. - Quyết định số 661/QĐ-TTg ngày 29 tháng 7 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng; Quy định chính sách hưởng lợi và tiêu thụ sản phẩm đối với rừng đặc dụng và rừng phòng hộ là ưu tiên khoán cho các hộ thuộc diện định canh, định cư, các hộ nghèo, hộ ở gần rừng và hộ đã nhận khoán trước đây để bảo vệ khoanh nuôi tái sinh rừng đặc dụng, rừng phòng hộ ở vùng rất xung yếu và xung yếu[9]. - Quyết định số 380/QĐ-TTg ngày 10/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chính sách thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng và quyết định số 415/QĐ-UBND ngày 12/2/2010 của UBND tỉnh Lâm Đồng về phê duyệt kế hoạch thực hiện chính sách thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng tỉnh Lâm Đồng năm 2010.[35]. Nay là Nghị định 99/2010/NĐ-CP ngày 24/09/2010 của Chính phủ về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đang thu hút được người dân địa phương tham gia vào quản lý bảo vệ rừng. Tuy nhiên, việc triển khai, thực thi các chính sách, pháp luật của nhà nước chưa đồng bộ, kịp thời. Vì thế, dẫn đến vẫn còn có nhiều vi phạm nghiêm trọng vào rừng đặc dụng. 1.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến quan hệ người dân và TNR Kể từ khi các VQG, KBT được thành lập có nhiều nhà khoa học quan tâm tới việc nâng cao hiệu quả quản lý của các KBTTN và VQG theo quan điểm bảo tồn - phát triển nghĩa là phải đảm bảo dung hoà mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên thiên nhiên với phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng và người dân địa phương. Theo Donovan D., Rambo A.T, Fox J., Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên (1997), khi đề cập đến các sản phẩm từ rừng và sức ép của người dân địa phương vào rừng. đã nêu rõ: Diện tích rừng già ở miền núi phía Bắc Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng do việc khai thác gỗ, củi và các lâm sản khác như: tre nứa, nấm, cây dược liệu,
- 11 động vật hoang dã và được xem như là nguồn sinh kế chủ yếu của người dân miền núi [13] . D.A. Gilmour và Nguyễn Văn Sản (1999), nhận định về sự thiếu phù hợp với các phương thức kiếm sống ở địa phương: Những người sống theo lối du canh du cư không được lợi gì nhiều khi được giao đất rừng, bởi vì khi nhận chăm sóc và quản lý một diện tích rừng nhỏ họ sẽ mất đi sự tự do vốn có, và có khả năng làm giảm độ màu mỡ của đất nhiều hơn là duy trì nó. Họ sẽ sử dụng khoảnh đất được giao để canh tác nhiều lần mà không áp dụng các biện pháp giữ gìn độ màu mỡ của đất [12]. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng nhiều cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng không quen với khái niệm coi trồng rừng là một việc kinh doanh có hiệu quả Dường như thị trường cho gỗ và các sản phẩm rừng chưa được nghiên cứu đầy đủ. Người trồng rừng phải chịu tổn thất do thiếu thông tin và kiến thức để có thể tạo doanh thu và lợi nhuận lớn hơn từ các rừng trồng [40] Những người sống trong và quanh rừng vẫn coi tài nguyên rừng là của thiên nhiên, ai gặp thứ gì quí thì lấy, gặp thú thì săn, thấy củ thì đào, không có ý niệm gì về đảm bảo tái sinh. Trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn người dân nông thôn, đặc biệt là vùng núi, phần lớn là người nghèo, sống phụ thuộc vào thiên nhiên, vào tài nguyên rừng, dù họ có kiến thức về bảo vệ đa dạng sinh vật, về tầm quan trọng của rừng đối với môi trường thì sự từ bỏ thói quen vào rừng hái củi, lấy dược liệu, thực phẩm, vật liệu làm nhà, hoặc kiếm vật phẩm để bán tăng thu nhập vẫn là điều chưa thể có trong thực tế. Vì vậy, chấm dứt tình trạng hái lượm LSNG chưa thành hiện thực, mặc dù ở VQG hay KBT thiên nhiên, nơi đã có quy chế về bảo vệ TNR chặt chẽ[10] . Đinh Đức Thuận và nhóm nghiên cứu (2005), đánh giá: Đa số các hộ khi xây dựng chiến lược sinh kế đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức và phát triển nguồn nhân lực trong tương lai. Cải thiện cơ sở hạ tầng như đường giao thông, mạng lưới điện, thuỷ lợi, trường học , y tế, hệ thống thông tin là giải pháp chiến lược được tất cả các nhóm quan tâm. Tuy nhiên đối với mỗi nhóm
- 12 hộ cũng có những chiến lược sinh kế riêng. Trong đó, nhóm hộ nghèo ưu tiên cho giải pháp an toàn lương thực, hỗ trợ giống và kỹ thuật cho sản xuất, vay vốn ưu đãi để đầu tư vào chăn nuôi, hỗ trợ y tế, thuốc men; nhóm hộ mới thoát nghèo ưu tiên cao cho nâng cao kỹ thuật nông lâm nghiệp, đa dạng hoá các nguồn thu, cải cách thủ tục hành chính trong sản xuất và lưu thông hàng hoá; Nhóm hộ khá ưu tiên cho đa dạng hoá các nguồn thu, nhất là các ngành nghề phi nông nghiệp, đầu tư cho học hành của con cái, trao đổi kinh nghiệm sản xuất.[28] D.A. Gilmour và Nguyễn Văn Sản (1999), Khi thực hiện một nghiên cứu về quản lý vùng đệm tại 3 VQG: Ba Vì, Bạch Mã và Cát Tiên. Kết quả nghiên cứu đã phản ánh khá rõ nét thực trạng vùng đệm ở Việt nam như: Tình hình KT-XH, tình trạng bảo tồn tại các VQG và vùng đệm; hoạt động phát triển trong các vùng đệm; tổ chức, thể chế cho quản lý vùng đệm… Các kết luận đưa ra mới dừng lại ở tầm vĩ mô như nguyên tắc, phương hướng chung [12]. Trong một nghiên cứu của Đỗ Anh Tuân (2001) tại KBT thiên nhiên Pù Mát về vấn đề: Nghiên cứu ảnh hưởng của bảo tồn tới kế sinh nhai của cộng đồng địa phương và thái độ của họ về chính sách bảo tồn. Tác giả đã đánh giá sự thay đổi sinh kế của người dân địa phương được hưởng lợi từ KBT với mức độ chấp nhận của cộng đồng qua phân tích mối quan hệ giữa cộng đồng và tài nguyên rừng. Nghiên cứu đã xác định các tỷ trọng thu nhập từ TNR trong tổng thu nhập chung của thôn, nhưng chưa cụ thể cho từng dân tộc và từng nhóm kinh tế hộ. Tác giả cho rằng, người dân địa phương hầu như vẫn còn sử dụng TNR một cách hợp pháp. Tại thời điểm nghiên cứu, Thu nhập bình quân hằng năm từ rừng của một HGĐ thuộc vùng đệm chiếm 34% tổng thu nhập hộ và trong vùng bảo vệ nghiêm ngặt chiếm 62% tổng thu nhập hộ. Việc thành lập KBT thiên nhiên Pù Mát (năm 1997) đã làm giảm 50% thu nhập từ rừng do diện tích đất canh tác của họ giảm đi từ 30% - 71,4%, mặc dù có một vài chương trình hỗ trợ được thực hiện tại KBT thiên nhiên, nhưng chưa bù lại được những thiệt hại của họ[31] Nguyễn Bá Ngãi và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu về khả năng thu hút các cộng đồng địa phương vào quản lý và sử dụng đất lâm nghiệp tại khu phục
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 369 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 411 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 541 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 516 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 299 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 341 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 318 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 234 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 245 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 191 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn