intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu tác động của người dân xã Đức Bình, Đức Thuận đến tài nguyên rừng thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông, tỉnh Bình Thuận

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:86

12
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài làm rõ mối quan hệ giữa người dân sống gần rừng và tài nguyên rừng; đồng thời là cơ sở khoa học và thực tiễn cho chính quyền địa phương và Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông đề ra các giải pháp bảo vệ và phát triển rừng bền vững. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu tác động của người dân xã Đức Bình, Đức Thuận đến tài nguyên rừng thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông, tỉnh Bình Thuận

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP TRẦN MINH TUẤN NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI DÂN XÃ ĐỨC BÌNH, ĐỨC THUẬN ĐẾN TÀI NGUYÊN RỪNG THUỘC KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN NÚI ÔNG, TỈNH BÌNH THUẬN LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội, 11. 2011
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP TRẦN MINH TUẤN NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI DÂN XÃ ĐỨC BÌNH, ĐỨC THUẬN ĐẾN TÀI NGUYÊN RỪNG THUỘC KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN NÚI ÔNG, TỈNH BÌNH THUẬN CHUYÊN NGÀNH LÂM HỌC MÃ SỐ: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. BÙI VIỆT HẢI Hà Nội, 11.2011
  3. 1 MỞ ĐẦU Là một nước nhiệt đới với 3/4 diện tích đất đai là đồi núi, trong đó có rừng, Việt Nam rất giàu có về đa dạng sinh học. Nguồn tài nguyên này không những có vai trò quan trọng đối với toàn xã hội, có ý nghĩa quốc gia, mà còn là nguồn sinh kế chủ yếu của con người, đặc biệt đối với các cộng đồng sống trong và gần rừng. Từ năm 1962 đến nay (2007), Việt Nam đã thành lập một hệ thống các khu rừng đặc dụng, gồm hơn 105 Vườn quốc gia (VQG) và Khu Bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) [9]. Hầu hết các VQG và KBTTN này nằm ở vùng núi và là nơi có các cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống. Vì vậy, việc lợi dụng tài nguyên rừng để đáp ứng yêu cầu của cuộc sống đã và đang là một thực tiễn xảy ra hàng ngày hàng tháng ở những nơi này . Đối với người dân địa phương sống trong các vùng đệm của VQG hay KBTTN, việc tác động vào rừng nhiều hay ít phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, kể cả tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn hóa, tôn giáo. Bắt đầu từ những thay đổi về vị trí nhà ở, về thói quen chiếm hữu đất đai canh tác, nguồn sản phẩm sẵn có từ rừng, dẫn tới nhiều thay đổi khác liên quan tới tập quán canh tác, sinh kế và văn hóa. Tài nguyên rừng (TNR), nguồn sống chủ yếu của người dân vùng núi bao đời nay dường như không còn là của họ. Trong khi đó, các sinh kế tạo nguồn thu nhập khác chưa bù lại được sự thiếu hụt lớn lao này. Chính vì vậy, đã có mâu thuẫn giữa VQG, KBTTN và các cộng đồng địa phương. Khi chưa tìm được tiếng nói chung đối với việc bảo tồn TNR thì việc tồn tại những tác động bất lợi của người dân vào rừng như là một tất yếu. Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông nằm trên địa bàn huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận được thành lập muộn hơn so với các KBT khác trong cả nước. Căn cứ quyết định số 50/2001/QĐ-TTg ngày 10/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh phạm vi ranh giới và đổi tên thành Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông. Thực hiện Quyết định 674/QĐ-UBND ngày 13/3/2007 của UBND tỉnh Bình Thuận về việc điều chỉnh quy hoạch 3 loại rừng của tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2006-2010.
  4. 2 KBTTN Núi Ông có tổng diện tích là 25.327 ha, trong đó: diện tích rừng đặc dụng: 24.017 ha, diện tích rừng sản xuất: 1.310 ha [27]. Do vị trí nằm ở vùng địa hình chuyển tiếp từ phía Nam dải Trường Sơn đến Đông Nam bộ, nên hệ động và thực vật rừng phong phú ở đây có quan hệ chặt chẽ với hệ động, thực vật của dãy Trường Sơn Nam và miền Đông Nam bộ. Việc thành lập KBTTN với chức năng để bảo tồn tính đa dạng sinh học, bảo tồn quần thể cây họ Dầu và họ Đậu đặc trưng của miền Đông Nam Bộ, bảo đảm tác dụng phòng hộ từ xa cho thủy điện Trị An và cho tỉnh công nghiệp Đồng Nai. KBTTN Núi Ông nối liền với BQL rừng Hàm Thuận-Đa Mi, BQL rừng phòng hộ Sông Móng-kapet của Bình Thuận làm thành vùng sinh thái rộng gần 100.000 ha và là môi trường sinh sống cho các loài động vật rừng. Do lịch sử hình thành KBTTN Núi Ông nằm trên địa bàn 6 xã của 2 huyện Tánh Linh và Hàm Thuận Nam với số dân sống trong khu vực của KBTTN khoảng 9.957 hộ. Tình hình phân bố dân cư như vậy gây khó khăn rất lớn cho công tác quản lý bảo vệ rừng (KBTTN Núi Ông, 2010). Mặc dù tỉnh đã triển khai nhiều chương trình dự án để tạo công việc, nâng cao đời sống người dân trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo vệ rừng, nhưng chỉ giải quyết tạm thời trong một thời gian nhất định. Trong đó có việc giao khoán rừng bảo vệ nhưng đã không đạt được kết quả như mong đợi, người dân lại vào rừng chặt cây, đốn củi, canh tác trái phép. Nhìn chung các chương trình, dự án chưa giải quyết được vấn đế cơ bản đời sống của người dân, vì vậy, việc tác động trái phép vào rừng vẫn tiếp tục xảy ra và dẫn đến làm suy giảm TNR [27]. Các ngành, các cấp của tỉnh Bình Thuận và huyện Tánh Linh có chiến lược quan tâm đầu tư cho công tác quản lý bảo vệ rừng và đã cơ bản ngăn chặn phá rừng, nhưng việc xâm hại rừng lén lút vẫn xảy ra. Câu hỏi đặt ra là những nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng đó? và có thể có giải pháp nào làm giảm thiểu được những tác động bất lợi của người dân địa phương tới TNR của KBTTN Núi Ông hay không?.
  5. 3 Để trả lời những câu hỏi trên, đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu tác động của người dân xã Đức Bình và Đức Thuận đến tài nguyên rừng của Khu Bảo tồn thiên nhiên Núi Ông, tỉnh Bình Thuận” được lựa chọn. Giả thuyết chính được đặt ra cho đề tài này là sự tác động của cộng đồng có thể nâng cao đời sống của cộng đồng vốn phụ thuộc vào tài nguyên rừng; ngược lại cũng có thể đem lại một kết cục là tài nguyên bị suy giảm cả chất và lượng. Theo đó, chiều hướng, hình thức và mức độ tác động phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội và quan hệ hai chiều giữa người dân và tài nguyên rừng. Để có đủ cơ sở lý luận khoa học, đề tài này cố gắng thực hiện việc nghiên cứu một cách có hệ thống ở trường hợp cụ thể của một cộng đồng và đặt nó trong bối cảnh quản lý chung của tỉnh, huyện và Ban quản lý KBT. Đề tài hy vọng rằng, cách đặt vấn đề này có thể cung cấp các thông tin thiết yếu để làm nền tảng xây dựng những giải pháp phù hợp trong việc quản lý và phát triển hệ sinh thái rừng tự nhiên theo hướng bền vững và ổn định, phát huy những chức năng có lợi do chúng mang lại.
  6. 4 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên liên quan cứu trên thế giới 1.1.1 Quan điểm của nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của lý thuyết hệ thống; quan điểm sinh thái nhân văn; quan điểm bảo tồn và phát triển; phương pháp tiếp cận có sự tham gia. (i) Vận dụng lý thuyết hệ thống Hệ thống được hiểu là cấu trúc hoàn chỉnh của tự nhiên, nó bao gồm nhiều bộ phận chức năng liên kết với nhau một cách có tổ chức và trật tự tồn tại và vận động theo những qui luật thống nhất. Mỗi hệ thống luôn bao gồm những hệ thống thành phần (nhỏ hơn) hay còn gọi là hệ thống phụ. Mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong hệ thống và mỗi hệ thống lại nằm trong hệ thống lớn hơn [17]. Sự tác động của người dân đến TNR là hoạt động trong hệ thống kinh tế xã hội và tác động tới hệ thống tự nhiên. Nó là hoạt động trong hệ thống kinh tế, bởi vì mức độ tác động của người dân gắn liền với các hoạt động kinh tế của con người như sử dụng đất rừng canh tác, khai thác lâm sản, chăn thả gia súc…Sự tác động này cũng phụ thuộc vào sinh kế, mức sống nhu cầu thị trường, khả năng đầu tư, lợi nhuận trước mắt và hiệu quả kinh tế thường quyết định tới hình thức sử dụng TNR của người dân địa phương. Ngược lại, mức độ giàu có của TNR cũng tác động mạnh mẽ tới nguồn thu của người dân địa phương. Chính quan hệ chặt chẽ giữa tác động của người dân địa phương đến TNR với các yếu tố kinh tế nên có thể làm giảm thiếu tác động bất lợi tới tài nguyên rừng bằng cách tác động vào các yếu tố kinh tế. Đây là lý do đề tài nghiên cứu các nguyên nhân kinh tế dẫn tới những tác động bất lợi của người dân địa phương đến tài nguyên rừng và nghiên cứu đề xuất giải pháp kinh tế để giảm thiếu tác động bất lợi này.
  7. 5 Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động xã hội vì các hoạt động này là của con người. Sự tác động bị chi phối bởi các yếu tố xã hội như nhận thức của người dân về tầm quan trọng của TNR, ý thức về luật pháp, trách nhiệm của cộng đồng, tập quán sử dụng TNR. Sự tác động của người dân địa phương còn phụ thuộc vào những vấn đề như thể chế và chính sách, chính sách đối với người dân trong KBT, hệ thống quản lý, việc thực thi luật Bảo vệ và Phát triển rừng. Các tổ chức cộng đồng và những qui định của cộng đồng cũng có ảnh hưởng tới những tác động của người dân địa phương vào TNR. Sự hiện diện của chúng sẽ hỗ trợ nhà nước trong việc tuyên truyền chính sách, gắn kết người dân thành cộng đồng thống nhất trong việc thực thi quản lý bảo vệ TNR. Vì vậy, đề tài nghiên cứu các nguyên nhân xã hội chi phối sự tác động của người dân địa phương đến TNR và nghiên cứu các giải pháp xã hội nhằm làm giảm thiểu những tác động bất lợi đối với TNR này [21]. TNR là một hệ thống tự nhiên, trong đó các thành phần có mối quan hệ chặt chẽ. Bất cứ tác động nào từ bên ngoài tới TNR dẫn đến sự thay đổi các thành phần và chức năng của hệ thống. TNR vốn tồn tại khách quan và vận động theo qui luật tự nhiên. Vì vậy để bảo tồn TNR, những tác động của con người phải phù hợp với qui luật tự nhiên và giảm thiếu những tác động bất lợi tới nó [21]. (ii) Quan điểm sinh thái nhân văn Thực tế cho thấy, các hoạt động kinh tế xã hội trong cộng đồng hay trong mỗi hộ gia đình đều rất đa dạng và phong phú. Nó phản ánh đặc điểm sinh thái và mối quan hệ kinh tế xã hội. Điều này chỉ ra rằng, các hoạt động trong cộng đồng chịu sự chi phối của nhiều yếu tố và có một yếu tố nào đó giữ vai trò quan trọng trong cộng đồng này vào thời điểm này nhưng lại không phải quan trọng trong thời điểm khác hoặc trong cộng đồng khác. Để nghiên cứu sự tác động bất lợi của người dân đến TNR, chúng tôi dựa theo tháp sinh thái – nhân văn của Park đề xuất năm 1936 (dẫn theo Võ Văn Thoan và Nguyễn Bá Ngãi (2003) [17]; Ngô Ngọc Tuyên (2007) [21]).
  8. 6 ¶nh hưởng Các yếu tố Phát triển kinh tế - xã hội địa phương và -Các yếu tố văn bảo tồn hoá TNR -Các yếu tố thể Tác động Bậc đạo đức chế, chính sách bất lợi của -Các yếu tố kinh Bậc thể chế người dân tế địa phương Bậc kinh tế -Các yếu tố sinh tới TNR thái- công nghệ Bậc sinh thái Hình 1.1: Tháp sinh thái – nhân văn (mô hình của Park, 1936) Theo Võ Văn Thoan và Nguyễn Bá Ngãi (2003), mô hình sinh thái - nhân văn được Park thiết kế theo hình tháp dựa trên các hoạt động xã hội của cộng đồng chịu sự chi phối của 4 bậc của các nhóm nhân tố theo trình tự: Bậc sinh thái, bậc kinh tế, bậc thể chế chính sách và bậc đạo đức. Mô hình này đề cập đến quan hệ giữa sắp xếp thứ bậc các nhóm nhân tố với các hoạt động của cá nhân và sự bền vững [17]. Dựa trên hình tháp này có thể giải thích: Quan hệ giữa tác động bất lợi của người dân đến TNR và phát triển kinh tế - xã hội địa phương là quan hệ có xu hướng nghịch; tức là khi kinh tế - xã hội địa phương càng phát triển, điều kiện sống về vật chất, tinh thần được đảm bảo và công tác bảo tồn TNR được thực hiện tốt thì tác động bất lợi tới TNR sẽ giảm. Bậc sinh thái là sự tác động bất lợi của người dân địa phương vào TNR đều có cơ sở sinh thái và chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố kinh tế - xã hội. Cơ sở sinh thái được giải thích bằng các yếu tố vật lý sinh học và chia làm 2 loại: (i) những yếu
  9. 7 tố không thể kiểm soát được như khí hậu, thuỷ văn, địa hình…và (ii) những yếu tố có thể kiểm soát được cần nghiên cứu bằng các giải pháp khoa học công nghệ. Bậc kinh tế như sinh kế, mức sống của người dân địa phương, nhu cầu thị trường, những nhân tố này có ý nghĩa đối với sự tác động của người dân địa phương tới TNR. Bậc thể chế được giải thích là các yếu tố về thể chế, chính sách, tổ chức cộng đồng … ảnh hưởng gián tiếp tới những tác động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng. Bậc đạo đức được hiểu là tập quán, sự nhận thức hay ở mức độ cao hơn nữa là văn hóa của các cộng đồng dân cư. Mọi tác động của các yếu tố khác có thể làm thay đổi thái độ và nhận thức của cộng đồng. Theo logic của tháp sinh thái nhân văn thì bất kỳ giải pháp nào nhằm giảm thiểu những tác động bất lợi tới TNR, bảo tồn và phát triển TNR đều phải dựa trên cơ sở sinh thái và bảo đảm được các yếu tố về kinh tế xã hội của người dân địa phương (Ngô Ngọc Tuyên, 2007 [21]). (iii) Quan điểm bảo tồn và phát triển Theo Gilmour và Nguyễn Văn Sản (1999), quan điểm bảo tồn và phát triển là để liên kết việc bảo tồn tài nguyên và những nhu cầu phát triển của địa phương, bao gồm ba thành phần chính (cách tiếp cận) sau [3]: - Thứ nhất là, nếu nhu cầu phát triển cộng đồng tại địa phương đó có thể đáp ứng bởi các nguồn thay thế khác thì ảnh hưởng của nó lên tài nguyên sẽ được giảm bớt và tài nguyên được bảo tồn: Cách tiếp cận các giải pháp thay thế sinh kế. - Thứ hai là, nếu cộng đồng rất khó khăn về mặt kinh tế, không thể nào quan tâm đến mặt bảo tồn được vì những nhu cầu thiết yếu của cộng đồng còn chưa được đáp ứng thì trước hết cần phải nỗ lực cải thiện nền kinh tế - xã hội của họ đủ tốt để họ có thể quan tâm hơn đến việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên: Cách tiếp cận phát triển kinh tế.
  10. 8 - Thứ ba là, cộng đồng địa phương đó cũng đồng ý với việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên nếu như họ có thể tham gia một cách tích cực vào việc qui hoạch và quản lý sử dụng tài nguyên và được chia sẻ lợi nhuận từ tài nguyên đó. Theo cách này, tài nguyên có thể được bảo tồn trong khi một số nhu cầu cơ bản của người dân được đáp ứng thông qua việc sử dụng và khai thác tài nguyên một cách hợp lý và bền vững: Cách tiếp cận tham gia qui hoạch. (iv) Phương pháp tiếp cận có sự tham gia Sự tham gia định nghĩa như một quá trình, thông qua đó các chủ thể cùng tác động và chia sẻ những sáng kiến phát triển và cùng quyết định. Điều quan trọng là người dân địa phương có khả năng trao đổi các triển vọng của họ về TNR với các nhà nghiên cứu, các cơ quan quản lý và ngược lai, các cơ quan này có thể hiểu và đáp ứng các nguyện vọng được nêu ra. Năm 1996, Hosley đưa ra 7 mức độ của sự tham gia từ thấp đến cao, đó là tham gia có tính chất vận động, tham gia bị động, tham gia qua hình thức tư vấn, tham gia vì mục tiêu được hưởng các hổ trợ từ bên ngoài, tham gia theo chức năng, tham gia hổ trợ, tự huy động và tổ chức (dẫn theo Bùi Việt Hải, 2007 [6]). Trong nghiên cứu này, phương pháp tiếp cận cùng tham gia được áp dụng, trong đó người dân địa phương tham gia ở mức độ 3, tức là tham gia qua hình thức tư vấn, cung cấp thông tin. Các phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA) sẽ được sử dụng để thu thập thông tin cho nghiên cứu. Các phương pháp này giúp thu thập và phân tích thông tin của chính người dân địa phương, nên thông tin có thể sử dụng được cho nhiều nhu cầu của địa phương như sự ủng hộ về quyền sử dụng tài nguyên, các giải pháp giải quyết xung đột [4], [6], [12]. 1.1.2 Các kết quả nghiên cứu ở rừng đặc dụng Trên thế giới, các kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn của các VQG và KBTTN khẳng định rằng, để quản lý thành công cần dựa trên mô hình quản lý gắn bảo tồn đa dạng sinh học với bảo tồn văn hóa của người dân địa phương .Ở
  11. 9 Kakadu (Australia), những người thổ dân chẳng những được chung sống với VQG một cách hợp pháp mà họ còn đựơc thừa nhận là chủ rừng của VQG và được tham gia quản lý thông qua các đại diện của họ trong ban quản lý. Tại VQG Wasur (Indonesia) vẫn tồn tại 13 làng bản với cuộc sống gắn với săn bắn cổ truyền [9]. Ở Châu Á, sự tham gia của người dân địa phương vào công tác bảo tồn đa dạng sinh học là một biện pháp cần thiết và thường có hiệu quả. Lý do để khuyến khích sự tham gia này là nỗ lực của các cơ quan chính phủ nhằm đưa dân chúng ra khỏi các KBT đã không mang lại kết quả như mong muốn trên cả phương diện quản lý TNR và kinh tế xã hội. Việc đưa người dân vốn quen sống trên địa bàn của họ đến một nơi mới chẳng khác nào “bắt cá khỏi nước“ và khi đó các lực lượng khác có thể xâm lấn và khai thác TNR mà không có người bảo vệ. Người dân địa phương có nhiều kiến thức cổ truyền về việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các thể chế cộng đồng đã tỏ ra có hiệu quả trong việc quản lý các nguồn tài nguyên này [19], [28]. Năm 1989, Cục lâm nghiệp của Hoàng Gia Thái Lan (The Royal Forest Department) thành lập các khu bảo tồn để bào vệ diện tích rừng còn lại. Điều này đã dẫn tới xung đột giữa các cộng đồng địa phương với các ban quản lý. Một thử nghiệm của dự án “Quản lý rừng bền vững thông qua sự cộng tác” thực hiện tại Kheio Wildlife Sanctuary, tỉnh Chaiyaphum ở Đông Bắc Thái Lan đã được tiến hành. Kết quả chỉ ra rằng, điều căn bản để quản lý bền vững tài nguyên là phải thu hút sự tham gia của các bên liên quan và đặc biệt là phải bao gồm cả phát triển cộng đồng địa phương bằng các hoạt động làm tăng thu nhập của họ (dẫn theo Nguyễn Thị Phượng [14]). Theo đó, các nguyên tắc được lập ra trong công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội quốc gia năm 1992-1996 là “Khuyến khích người dân cộng tác với chính phủ, trong bảo tồn tài nguyên thiên nhiên thông qua việc đề cao vai trò của các tổ chức nhân dân, tổ chức phi chính phủ, từ trung ương đến địa phương; trong việc quyết định các dự án quản lý tài nguyên thiên nhiên cũng như trong việc theo dõi, giám sát và đánh giá thành công của dự án
  12. 10 này”. Nhận rõ sự cần thiết phải xem xét điều kiện kinh tế xã hội xung quanh KBT, các nhà quy hoạch quản lý đã bắt đầu đề xuất và thiết lập các vùng đệm để ngăn chặn sự xâm hại từ bên ngoài vào các KBT [19]. Tại Nepan, Apple Gate và Gilmour (1987) trong khi nghiên cứu kinh nghiệm tác nghiệp trong việc quản lý phát triển rừng tại vùng đồi Nepan đã hình thành mối quan hệ giữa rừng và các hệ canh tác hỗn hợp ở trung du miền núi. Tác giả cho rằng, các hệ canh tác phụ thuộc nhiều vào rừng đang bị suy thoái nhanh. Sự bền vững lâu dài của các hệ canh tác phụ thuộc vào việc gia tăng về diện tích dưới bất cứ các dạng che phủ thực vật nào [28]. Ở Philippines, chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học nêu rõ rằng: ”Điều chủ chốt dẫn đến thắng lợi cho bảo tồn đa dạng sinh học là phải bảo đảm rằng các cộng đồng địa phương, những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi mọi quyết định về chính sách liên quan đến môi trường, sẽ tham gia vào quá trình lập kế hoạch và quản lý đối với bảo tồn đa dạng sinh học” [19]. Theo Peluso (1986), tại Indonesia đã công bố một bản tóm tắt các kết quả của việc nghiên cứu về lâm nghiệp xã hội (LNXH) tại 12 điểm dự án ở Java và Sulawesi. Các ảnh hưởng qua lại giữa đất và rừng của nhà nước như: rừng sản xuất, rừng trồng, rừng tự nhiên đều đã được nghiên cứu. Sản phẩm là những mặt hàng sinh lời được và khó quản lý đối với cơ quan lâm nghiệp nhưng có giá trị to lớn đối với nhân dân địa phương. Kế hoạch hành động đa dạng sinh học ở Indonesia cũng ghi nhận rằng: “Việc tăng cường sự tham gia của công chúng, đặc biệt là cộng đồng sinh sống bên trong và phụ thuộc vào các vùng có tính đa dạng sinh học cao, là mục tiêu chính của kế hoạch hành động và là điều kiện tiến quyết đối với việc thục hiện kế hoạch [19], [28]. Bink Man (1988) trong tài liệu giới thiệu nghiên cứu định hình chi tiết về làng Ban Pong, tỉnh S. Risaket, Thái Lan chỉ ra rằng các tầng lớp nghèo phải phụ thuộc vào rừng để chăn thả gia súc và thu hái tài nguyên lâm sản như: củi đun và hoa quả trong rừng. Tuy nhiên, đây là một minh họa rất cần thiết của người dân địa
  13. 11 phương tham gia vào việc lập kế hoạch và thiết kế các dự án phát triển (dẫn theo Bùi Minh Tân, 2009 [16]). Năm 1986, trong tác phẩm “LNXH và hành động của cộng đồng” các tác giả Dorji, Chavada, Thinley và Wangchuks cho rằng: Rừng chủ yếu là nguồn cung cấp gỗ xây dựng và làm hàng rào, cung cấp củi, nơi chăn thả và chuồng trại cho gia súc. Chúng cũng cung cấp một phần lớn những yêu cầu về thức ăn gia súc, lợi tức, công ăn việc làm và đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đất và nước trên vùng đất dốc [28]. 1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam 1.2.1. Hệ thống chính sách và các vấn đề liên quan đến rừng đặc dụng Việt Nam trải qua nhiều năm chiến tranh, kinh tế đất nước ở những năm đầu sau chiến tranh khó khăn. Dân số Việt Nam hầu hết là nông dân, dân số tăng nhanh, nhu cầu về đất canh tác đất nông nghiệp, về lương thực, nhu cầu về gỗ, lâm sản ngoài gỗ (LSNG) ngày một gia tăng đối với cộng đồng dân cư sinh sống giáp rừng và gần rừng của các KBT, VQG từ đó gây sức ép lên TNR [26]. Việc đầu tư quản lý bảo vệ và phát triển các khu rừng đặc dụng được nhà nước quan tâm. Việc xây dựng triển khai, thực thi các chính sách, pháp luật của nhà nước được coi trọng. Nhưng rừng vẫn bị xâm hại, một trong những nguyên nhân là đời sống người dân sống trong rừng và ven rừng chưa được cải thiện. Vì thế, dẫn đến có nhiều vi phạm và vi phạm nghiêm trọng vào rừng. Việt Nam đã thành lập các khu rừng đặc dụng. Tháng 7/1962, Quyết định số 72/TTg của Thủ tướng Chính phủ thành lập khu rừng cấm Cúc Phương rộng 25.000 ha, sau này trở thành VQG đầu tiên của nước ta. Các năm sau đó, Chính phủ còn ra các quyết định thành lập các khu rừng cấm như VQG Cát Bà (1968), Nam Cát Tiên (1978); VQG Côn Đảo (1984); VQG Yok Don (1991); KBTTN đất ngập nước Xuân Thuỷ (1994); KBTTN Tràm Chim Tam Nông (1994) v.v. Ngoài ra, các nhà khoa học trong và ngoài nước đã phát hiện nhiều khu rừng có giá trị cao về đa dạng sinh học không những đối với Việt Nam mà còn trong cả khu vực và thế giới như:
  14. 12 KBTTN Vũ Quang (Hà Tĩnh); Pù Mát (Nghệ An); Phong Nha (Quảng Bình); Xuân Liên, Phù Luông (Thanh Hóa)… Từ đó đến nay, nước ta đã có trên 30 VQG và hàng trăm khu rừng đặc dụng được thành lập (dẫn theo Nguyễn Thị Phượng, 2003 [14]). Công tác bảo tồn phải được thực thi trên cơ sở các quy định pháp luật. Luật Bảo vệ và Phát triển rừng sửa đổi ban hành ngày 03/12/2004. Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ban hành ngày 11/01/2001 đã đề cập đến việc Ban quản lý xây dựng các quy định về phạm vi sử dụng rừng đối với người dân địa phương sinh sống trong các KBT, VQG. Năm 2006 Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg về quy chế quản lý rừng, thay thế Quyết định số 08/2001/QĐ- TTg; trong đó quản lý rừng đặc dụng được quy định rất cụ thể: - Rừng đặc dụng bao gồm các loại: VQG, KBTTN, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học… - Trong VQG và KBTTN được chia thành các phân khu chức năng sau: phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái và phân khu dịch vụ - hành chính. 1.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến quan hệ người dân và tài nguyên rừng Ở nước ta trong những năm gần đây, các nhà khoa học, nhà quản lý đã chú trọng đến quan điểm bảo tồn – phát triển và nghiên cứu thực hiện các giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế - xã hội của người dân địa phương. Theo kết quả nghiên cứu của Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên và các cộng tác viên (1997) đã để cập đến các sản phẩm từ rừng và sức ép của người dân địa phương vào rừng. Các tác giả đã chỉ ra rằng, diện tích rừng già ở miền núi phía Bắc Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng do việc khai thác gỗ, củi và các lâm sản khác như: tre nứa, nấm, cây dược liệu, động vật hoang dã và được xem như là nguồn sinh kế chủ yếu của người dân miền núi [1].
  15. 13 Trần Ngọc Lân (1999) và các cộng sự đã kết luận rằng: Các nông hộ trong vùng đệm KBT Pù Mát có sự gắn bó chặt chẽ với rừng, nguồn thu nhập từ khai thác lâm sản và canh tác nương rẫy đóng vai trò quan trọng trong tổng thu nhập của mỗi nông hộ. Hiện nay, các nông hộ đang có sự chuyển đổi về sinh kế, song mới chỉ có rất ít ở các hộ có hiểu biết và có vốn đầu tư [11]. Đỗ Anh Tuấn (2001) đã thực hiện một nghiên cứu điểm tại KBT Pù Mát cho đề tài: Nghiên cứu ảnh hưởng của bảo tồn tới kế sinh nhai của cộng đồng địa phương và thái độ của họ về chính sách bảo tồn. Tác giả chủ yếu đánh giá sự thay đổi sinh kế của người dân địa phương do sự hưởng lợi của KBT và mức độ chấp nhận của cộng đồng qua việc phân tích mối quan hệ giữa cộng đồng và tài nguyên rừng. Nghiên cứu đã xác định các tỷ trọng thu nhập từ tài nguyên rừng trong tổng thu nhập chung của thôn, nhưng chưa cụ thể cho từng dân tộc và từng nhóm kinh tế hộ. Tác giả cho rằng, hầu hết người dân địa phương vẫn còn sử dụng TNR một cách hợp pháp. Tại thời điểm nghiên cứu, 34% tổng thu nhập hằng năm của một hộ gia đình trong vùng đệm và 62% tổng thu nhập của một hộ gia đình trong vùng bảo vệ nghiêm ngặt là từ rừng. Việc thành lập KBTTN (năm 1997) đã làm giảm 30% - 71,4% diện tích đất và khoảng 50% thu nhập từ rừng của người dân địa phương. Mặc dù đã có một vài chương trình hỗ trợ được thực hiện tại KBTTN, nhưng chúng chưa bù lại được những mất mát do thành lập KBTTN [19]. Vấn đề giảm đất canh tác của các cộng đồng do hình thành VQG là một thực tế đang diễn ra ở nhiều nơi. Nghiên cứu của Đỗ Thị Hà (2002) cho rằng, sau khi thành lập VQG Tam Đảo, đất của các hộ trong thôn bị mất đi, thu nhập về lâm nghiệp tập trung vào một số chủ rừng, ảnh hưởng tới sự phân công lao động trong hộ gia đình [5]. Với đề tài: “Đánh giá vai trò kinh tế của lâm sản ngoài gỗ ở hai thôn người Dao tại xã Ba Vì” của Trần Ngọc Hải và cộng sự (2002); tác giả cho rằng: Lâm sản ngoài gỗ, đặc biệt là nhóm tre hương và cây dược liệu đóng vai trò rất quan trọng trong kinh tế hộ gia đình [8].
  16. 14 Nguyễn Thị Phượng (2003) khi: “Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương vùng đệm đến tài nguyên rừng VQG Ba Vì – Hà Tây” đã vận dụng phần mềm SPSS trong việc tổng hợp và xử lý số liệu về hình thức tác động và các nguyên nhân tác động. Tác giả chỉ ra rằng: cộng đồng ở đây chủ yếu sống bằng nghề nông nhưng diện tích đất nông nghiệp rất ít và năng suất lúa rất thấp. Vì vậy, để giải quyết nhu cầu cuộc sống hằng ngày họ tác động tới tài nguyên rừng dưới nhiều hình thức như: sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hóa, khai thác sản phẩm với mục đích tiêu dùng, chăn thả gia súc…trong đó hình thức sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hóa cho tỷ trọng thu nhập cao nhất trong cơ cấu thu nhập của cộng đồng (36,4%). Tuy nhiên, đề tài chưa đánh giá được mức độ tác động tới tài nguyên rừng của các dân tộc, các nhóm hộ khác nhau [14]. Theo Quách Đại Ninh (2003) khi đánh giá tác động của chính sách giao đất lâm nghiệp đến quá trình phát triển kinh tế hộ gia đình. Qua nghiên cứu một số hộ gia đình có đất lâm nghiệp và không có đất lâm nghiệp trong địa bàn xã Bắc An, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; tác giả kết luận rằng chính sách giao và khoán đất lâm nghiệp đã làm thay đổi nhận thức của người dân vào rừng. Sau khi nhận đất, các hộ gia đình yên tâm sản xuất và sử dụng đất một cách hợp lý nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Tuy nhiên, đề tài chưa đưa ra được một số mô hình sản xuất mà người dân ưa thích, đồng thời phù hợp với điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội của vùng nghiên cứu để các hộ gia đình tham khảo và phát triển sản xuất [13]. Hoàng Quốc Xạ (2005) với nghiên cứu “Tác động của cộng đồng địa phương đến tài nguyên rừng vùng đệm VQG Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ”, đã có sự kết hợp tốt giữa phân tích định tính và định lượng trong việc tồ chức các hình thức tác động và nguyên nhân tác động, tạo cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp giảm thiểu tác động bất lợi đến tài nguyên rừng và hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội của địa phương [23]. Gần đây nhất, nghiên cứu của Bùi Minh Tân (2009) về “tác động và sự phụ thuộc của người dân đến tài nguyên rừng Khu bảo tôn thiên nhiên Vĩnh Cửu, Đồng Nai” đã cho một số kết luận như sau [19]:
  17. 15 - Sự tham gia vào rừng của nhóm hộ giàu là ít hơn so với nhóm hộ trung bình và nghèo, nhóm hộ giàu ít tác động vào rừng hơn nhưng thu nhập vẫn cao hơn nhóm hộ trung bình và nghèo. - Không có sự phụ thuộc về phương diện thống kê giữa tổng thu nhập vào thu nhập từ đất lâm nghiệp, giữa tổng thu nhập vào thu nhập từ khai thác lâm sản và giữa tổng thu nhập vào thu nhập từ chăn thả gia súc trong rừng. - Các nguyên nhân dẫn tới những tác động bất lợi có: (i) Cơ cấu phân phối đất canh tác rất không đều giữa các loại đất canh tác của nông hộ; (ii) Diện tích đất canh tác rất nhiều ở đất lâm nghiệp và vườn hộ, ngược lại có quá ít ở đất hoa màu và đặc biệt là lúa nước. Tóm lại Qua các nghiên cứu về tác động qua lại giữa con người và TNR cả trên thế giới và ở Việt Nam trong thời gian qua, kết quả đã đề cập đến nhiều mặt khác nhau của vấn đề nghiên cứu. - Trước hết, các nghiên cứu trên thế giới đã phân tích định tính về sự phụ thuộc của các cộng đồng dân cư vào tài nguyên và khẳng định cần thiết phải có sự tham gia của người dân vào các hoạt động bảo tồn TNR. Tuy nhiên, còn ít các nghiên cứu định lượng xác định những tác động của cộng đồng vào TNR và những nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tác động đó. - Tiếp theo, một số nghiên cứu đã phân tích phương pháp lý luận và thực tiễn để nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và TNR. Tuy nhiên, các nghiên cứu tập trung nhiều ở vùng đệm của các VQG hoặc KBT mà chưa chú ý mở rộng ở các địa phương khác nhau, loại rừng phòng hộ, rừng sản xuất. - Các nghiên cứu ở Việt Nam đã thực hiện đã phân tích, đánh giá sự phụ thuộc của cộng đồng địa phương vào rừng và đất rừng. Nhưng chưa đưa ra được các giải pháp để giảm thiểu tác động bất lợi của người dân địa phương đến tài nguyên rừng. Một số nghiên cứu trong những năm gần đây đã để cập đến vấn đề tác động
  18. 16 của cộng đồng địa phương tới tài nguyên rừng nhưng chỉ giới hạn ở tác động của cộng đồng địa phương ở vùng đệm đến các VQG hoặc KBTTN. - Mặt khác, các nghiên cứu cũng chưa xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu, chỉ số để đánh giá mức độ tác động của các dân tộc khác nhau, loại hộ khác nhau nên các giải pháp còn chung chung, không tập trung vào giải quyết những khó khăn thực tế của người dân. Vì vậy, những vấn đề này cần tiếp tục được nghiên cứu trong thời gian tới.
  19. 17 Chương 2 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU 2.1. Đặc điểm tự nhiên Khu BTTN Núi Ông 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên Diện tích 25.327 ha, bao gồm: 30 tiểu khu, thuộc địa bàn hành chính 2 huyện Tánh Linh và Hàm Thuận Nam, có vị trí địa lý như sau: - Vĩ độ Bắc : 100 59’ - 11010’. - Kinh độ Đông: 1070 32’ - 1070 52.’ + Địa hình Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông có nhiều đỉnh núi cao 1000 m, đặc biệt có đỉnh Núi Ông cao 1.302m. + Khí hậu Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới điển hình với đặc trưng có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. * Chế độ nhiệt Nhiệt độ trung bình năm 25,40C. Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối 37,80C. Nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối 9,60C. *Chế độ mưa ẩm. Lượng mưa bình quân năm 2.185 mm Lượng mưa cao nhất 2.854 mm Lượng mưa thấp nhất 1.308 mm Số ngày mưa trong năm 148 ngày.
  20. 18 Chủ yếu tập trung vào các tháng 7, 8, 9 Lượng bốc hơi bình quân năm 840 mm Ẩm độ không khí bình quân năm 83,6% * Chế độ nhật chiếu. Tổng giờ nắng bình quân năm 2.124 giờ. Số giờ nắng bình quân ngày 5,9 giờ. * Chế độ gió Có hai hướng gió chính hàng năm là Đông Nam và Tây bắc. - Gió Đông Nam thổi từ tháng 5 đến tháng 11. - Gió Tây Bắc thổi từ 12 đến tháng 4 năm sau. Tốc độ gió trung bình 2,3 m/s. Bão và sương muối ít xuất hiện. + Thủy văn Nguồn nước trong KBTTN Núi Ông khá dồi dào, có nguồn nước quanh năm, bao gồm các sông như: sông La Ngà, sông Các, sông Phan, sông Mong, sông Dịch, sông Kapét. Mực nước ngầm trong khu vực thấp, được phân bố ở độ sâu từ 3 – 5 m. Đây là yếu tố thuận lợi để thực vật rừng sinh trưởng và phát triển. 2.1.2. Tài nguyên động thực vật + Động vật Hệ động vật khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông gồm có 247 loài động vật: Lớp Số bộ Số họ Số loài Thú- Mammalia 11 26 68 Chim- Aves 17 42 131 Bò sát- Reptilia 3 13 33 Ếch nhái- Amphibia 1 4 15 Đặc điểm hệ động vật Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông nằm ở cực Nam Trung bộ, tiếp giáp khu Nam bộ nên lòai động vật ở đây mang tính chuyển tiếp giữa
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2