intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu tính đa dạng sinh học thú tại Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông, tỉnh Quảng Trị làm cơ sở khoa học cho các giải pháp quản lý, bảo tồn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:96

38
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm xác định tầm quan trọng của KBTTN ĐaKrông về mặt bảo tồn tính đa dạng sinh học thú. Phân cấp mức độ đe doạ đến một số nhóm loài thú. Xác định các khu vực ưu tiên bảo tồn thú trong khu bảo tồn. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu tính đa dạng sinh học thú tại Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông, tỉnh Quảng Trị làm cơ sở khoa học cho các giải pháp quản lý, bảo tồn

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN ĐẮC MẠNH NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG SINH HỌC THÚ TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN ĐAKRÔNG TỈNH QUẢNG TRỊ LÀM CƠ SỞ KHOA HỌC CHO CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ BẢO TỒN LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI – 2008
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN ĐẮC MẠNH NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG SINH HỌC THÚ TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN ĐAKRÔNG TỈNH QUẢNG TRỊ LÀM CƠ SỞ KHOA HỌC CHO CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ BẢO TỒN Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ Tài nguyên rừng Mã số: 60. 62. 68 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Cán bộ hướng dẫn: PGS. TS. Nguyễn Xuân Đặng Hà Nội - 2008
  3. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ trường Đại học Lâm nghiệp, cán bộ Viện sinh thái&tài nguyên sinh vật- Viện khoa học và công nghệ Việt Nam. Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Phó giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Xuân Đặng - Phòng Động vật học Có xương sống- Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật đã hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn. Tiếp theo, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới Th.s Đỗ Quang Huy, TS. Đồng Thanh Hải- Trường Đại học Lâm nghiệp đã đóng góp những ý kiến quí báu giúp tôi hoàn thiện công trình. Xin bày tỏ lòng cảm ơn Bộ môn Động vật rừng, khoa Đào tạo sau đại học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi trong học tập và thực hiện luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Khu bảo tồn thiên nhiên Đa Krông, phòng Kỹ thuật, Hạt kiểm lâm Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông, Ủy ban nhân dân xã Ba Lòng, xã Húc Nghì, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Trị đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu phục vụ xây dựng luận văn. Cảm ơn sự tài trợ về thiết bị nghiên cứu của tổ chức IDEA WILD cho nghiên cứu này. Xin được cảm ơn các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ và khuyến khích động viên tôi trong suốt quá trình học tập và làm luận văn. Tôi xin được gửi lời cảm ơn những người thân trong gia đình đã động viên, chia sẻ, giúp đỡ tôi cả về tinh thần và vật chất để tôi yên tâm hoàn thành luận văn. Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn tới tất cả những sự giúp đỡ quý báu đó! Hà Nội, tháng10 năm 2008 NGUYỄN ĐẮC MẠNH
  4. CÁC TỪ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN ĐDSH : Đa dạng sinh học GIS : Hệ thống thông tin địa lý (Geographic Information System) GPS Hệ thống định vị toàn cầu (Global Information System) HGĐ : Hộ gia đình HST : Hệ sinh thái IUCN : Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên quốc tế (The World Conservation Union) KBT : Khu bảo tồn KBTTN : Khu bảo tồn thiên nhiên KTXH : Kinh tế xã hội NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nxb : Nhà xuất bản PRA : Đánh giá nông thôn có sự tham gia (Participatory Rural Appraisal) QLBT : Quản lý bảo tồn RRA Đánh giá nhanh nông thôn (Rapid Rural Appraisal) VQG : Vườn quốc gia WWF : Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (World Wide Fund for Nature) WRI Viện tài nguyên thế giới (World Resources Institute) UBKHKT Uỷ ban khoa học kỹ thuật
  5. MỤC LỤC ĐẶT VẤN ĐỀ 1 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3 1.1 Đa dạng sinh học và bảo tồn đa dạng sinh học 3 1.2 Lịch sử nghiên cứu đa dạng sinh học thú ở Việt Nam 6 1.3 Lịch sử nghiên cứu đa dạng sinh học thú ở Quảng Trị và khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông 12 CHƯƠNG 2 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ- XÃ HỘI CỦA KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN ĐAKRÔNG 14 2.1 Điều kiện tự nhiên 14 2.2 Điều kiện kinh tế- xã hội 25 CHƯƠNG 3 MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28 3.1 Mục tiêu nghiên cứu 28 3.2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 28 3.3 Nội dung nghiên cứu 30 3.4 Phương pháp nghiên cứu 31 CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 41 4.1 Thành phần phân loại của khu hệ thú ở KBTTN ĐaKrông 41 4.2 Giá trị bảo tồn của khu hệ thú ở KBTTN ĐaKrông 45 4.3 Yêu cầu sinh thái và hiện trạng quần thể của các loài thú ưu tiên bảo tồn tại KBTTN ĐaKrông 49 4.4 Các đe doạ đối với khu hệ thú và đa dạng sinh học ở khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông 56 4.5 Khu vực ưu tiên bảo tồn thú trong KBTTN ĐaKrông 65 4.6 Vấn đề khai thác, sử dụng và quản lý tài nguyên sinh vật của cộng đồng địa phương 72 4.7 Đánh giá hiện trạng công tác quản lý bảo tồn đa dạng sinh học ở khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông 81 KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ 84 TÀI LIỆU THAM KHẢO 87 PHỤ LỤC 92
  6. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Việt Nam được xem là điểm nóng về đa dạng sinh học, theo thống kê có khoảng 10% trong tổng số các loài sinh vật đã biết trên thế giới. Tuy nhiên, đa dạng sinh học ở Việt Nam đã và đang bị suy thoái một cách nhanh chóng. Sự suy thoái của các hệ sinh thái tự nhiên đặc biệt suy thoái rừng nhiệt đới là nguyên nhân cơ bản gây suy thoái đa dạng sinh học Việt Nam trong những năm qua (Richard B.P, 1999). Ngoài ra, nguyên nhân sâu xa gây tổn thất đa dạng sinh học ở Việt Nam cũng như hầu hết các nước khác trên thế giới đó là mâu thuẫn giữa cung và cầu mà thể hiện rõ nhất chính là việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Những điều đó cộng với sự yếu kém trong công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng đã làm cho nhiều nhóm loài động- thực vật ở Việt Nam đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông được thành lập ngày 04 tháng 9 năm 2001, theo Quyết định số 768/QĐ-UB của ủy ban nhân nhân tỉnh Quảng Trị nhằm bảo tồn mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng nhiệt đới núi thấp có giá trị đa dạng sinh học cao và đặc trưng cho vùng Trung Trường Sơn Việt Nam. Được đánh giá là một trong 200 vùng sinh thái trọng yếu của thế giới, khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông cũng là khu vực nhạy cảm và rất dễ bị tác động. Phần đông người dân sống ở vùng đệm của khu bảo tồn là đồng bào dân tộc thiểu số Vân Kiều và Pa Kô, có trình độ dân trí thấp, canh tác nông nghiệp lạc hậu, đời sống chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong đó việc săn bắt động vật rừng và phá rừng làm nương rẫy là truyền thống của người Vân Kiều và PaKô tại đây. Ban quản lý khu bảo tồn đã được thành lập từ năm 2002 (theo quyết định số 4343/QĐ-UB ngày 5/7/2002 của uỷ ban nhân nhân tỉnh Quảng Trị) nhưng tài nguyên rừng của khu bảo tồn vẫn tiếp tục bị suy giảm; các đàn thú quý hiếm như Bò tót, Sao la, Vượn ngày một ít đi, rừng ở vùng thấp đã chuyển
  7. 2 thành nương rẫy và các cánh rừng nguyên sinh ở vùng cao nay đang chuyển dần sang kiểu rừng thứ sinh nhân tác (Ban quản lý KBTTN ĐaKrông, 2006). Do vậy, nếu không thực hiện ngay các giải pháp quản lý bảo tồn hợp lý thì trong tương lai không xa tài nguyên rừng khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông sẽ bị suy thoái. Thú (Mammalia) là lớp động vật có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì sự cân bằng của hệ sinh thái rừng, có giá trị kinh tế cao và là đối tượng rất nhạy cảm với các tác động của con người cũng như những biến đổi của môi trường nên chúng thường được ưu tiên quản lý bảo tồn hơn so với các nhóm động vật khác. Những nghiên cứu về khu hệ thú khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông còn hạn chế. Ngoài một số đợt điều tra thống kê thành phần loài mà chủ yếu tập trung vào các loài thú lớn, chưa có những nghiên cứu đánh giá về tính đa dạng sinh học thú và các đặc điểm sinh thái nhân văn của khu hệ làm cơ sở cho việc xây dựng các biện pháp quản lý, bảo tồn hữu hiệu khu hệ thú này. Vì vậy, chúng tôi đã chọn thực hiện đề tài “Nghiên cứu tính đa dạng sinh học thú tại Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông, tỉnh Quảng Trị làm cơ sở khoa học cho các giải pháp quản lý, bảo tồn”. Với mong muốn cung cấp các thông tin đầy đủ hơn về tình trạng khu hệ thú nhằm phục vụ công tác qui hoạch, quản lý bảo tồn thú nói riêng và tài nguyên rừng nói chung tại khu bảo tồn.
  8. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC Thuật ngữ “đa dạng sinh học” được sử dụng lần đầu tiên từ năm 1988 (Wilson,1988) và đã trở thành vấn đề được nhiều người quan tâm khi Chương trình Nghị sự 21 công bố tại Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu ở Rio de Janeiro, Brasil năm 1992. Từ đó đến nay, có rất nhiều khái niệm được đưa ra về ĐDSH, trong số đó WWF (1989) đề xuất như sau: “Đa dạng sinh học là sự phồn thịnh của sự sống trên trái đất, là hàng triệu loài thực vật, động vật và vi sinh vật, là những gen chứa đựng trong các loài và là những hệ sinh thái vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong môi trường” [28]. Như vậy khi nói đến đa dạng sinh học chúng ta phải đề cập đến 3 cấp độ; đa dạng về gen, đa dạng về loài và đa dạng về hệ sinh thái. Đa dạng về gen là sự khác biệt về vật chất di truyền trong nội bộ của một loài. Tính đa dạng gen biểu hiện ra ngoài tự nhiên chính là những quần thể cùng loài nhưng sống ở các sinh cảnh (vùng) khác biệt nhau và những biến dị của các cá thể trong cùng một quần thể. Đa dạng về loài chỉ mức độ phong phú về loài trong một sinh cảnh hay khu vực nhất định. Tính đa dạng loài được biểu hiện trên hai khía cạnh; thứ nhất là số lượng loài và mối quan hệ họ hàng giữa các loài, thứ hai là cấu trúc tổ thành giữa các loài. Đa dạng về hệ sinh thái được phản ánh bởi sự đa dạng về sinh cảnh qua mối quan hệ tương hỗ giữa sinh vật và môi trường. Việc phân chia các hệ sinh thái là rất khó khăn vì ranh giới giữa chúng không rõ ràng. Tuỳ thuộc vào nhóm sinh vật nghiên cứu (đối tượng nghiên cứu), đúng hơn là mối quan hệ
  9. 4 của nhóm sinh vật đó với môi trường mà có cách phân chia sinh cảnh (hay hệ sinh thái) hợp lý. Trong đề tài này tính đa dạng sinh học thú được mô tả chính là số loài thú và mối quan hệ họ hàng giữa chúng, cấu trúc tổ thành các loài thú trong khu vực, các đàn thú sống ở các sinh cảnh khác biệt nhau, một số cá thể thú có đặc điểm khác biệt so với các cá thể trong loài và số sinh cảnh có thể phân chia được khi nghiên cứu mối quan hệ của thú với môi trường sống. Sau khi Công ước Đa dạng sinh học được ký kết (1993), thuật ngữ “đa dạng sinh học” đã được đưa vào văn bản pháp luật của các quốc gia (các bên) tham gia công ước. Việt Nam cũng là một thành viên của Công ước Đa dạng sinh học, nên thường sử dụng khái niệm: “Thuật ngữ dùng để mô tả sự phong phú và đa dạng của giới tự nhiên. Đa dạng sinh học là sự phong phú của mọi cơ thể sống từ mọi nguồn, trong các hệ sinh thái trên đất liền, dưới biển và các hệ sinh thái dưới nước khác và mọi tổ hợp sinh thái mà chúng tạo nên. Đa dạng sinh học bao gồm sự đa dạng trong loài (đa dạng di truyền hay đa dạng gen), giữa các loài (đa dạng loài) và các hệ sinh thái (đa dạng hệ sinh thái). Đa dạng sinh học bao gồm cả các nguồn tài nguyên di truyền, các cơ thể hay các phần của cơ thể, các quần thể hay các hợp phần sinh học khác của hệ sinh thái, hiện đang có giá trị sử dụng hay có tiềm năng sử dụng cho loài người” [3]. Vào những năm cuối của thế kỷ XX, khái niệm ĐDSH đã đề cập đến mối quan hệ tương hỗ giữa hệ thống tự nhiên và hệ thống xã hội, gắn yếu tố con người (human) với ĐDSH. Trong một khái niệm về ĐDSH của WRI (2005) có đề cập “…loài người phụ thuộc hoàn toàn vào quần xã sinh vật – sinh quyển,…đa dạng sinh học là một giới hạn bao trùm sự giàu có về sinh vật tự nhiên, điều đó củng cố cho sức khỏe và sự sống của con người…”. [44]
  10. 5 Blaikie và Jeanemaud (1995) đã minh họa điều đó bằng sơ đồ về ĐDSH như sau: Hệ thống tự nhiên Hệ thống xã hội  Di truyền  Văn hóa  Loài  Công nghệ  Quần thể  Kinh tế  Quần xã  Kiến thức bản địa  Hệ sinh thái  Thông tin  …  … ĐA DẠNG SINH HỌC LÀ KẾT QUẢ CỦA SỰ TƯƠNG TÁC GIỮA HAI HỆ THỐNG TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI Sơ đồ 1-1: Quan niệm về ĐDSH theo Blaikie and Jeanemaud (1995) Nguồn: Hoàng Văn Thắng, Phạm Bình Quyền, Trương Quang Học, 1998 [33] Như vậy, có thể thấy rằng: ĐDSH bao gồm sự phong phú của thế giới sinh vật; thể hiện bằng tất cả các dạng, các mức độ và sự tổ hợp của chúng trong mối tương hỗ giữa chúng với môi trường tự nhiên và xã hội. Đó không chỉ là tổng số của các HST, các loài, các vật chất di truyền mà còn bao gồm tất cả các mối quan hệ phức tạp bên trong và giữa chúng với nhau, với thế giới vô sinh và với con người. Biến động của ĐDSH phụ thuộc vào mối tương tác nói trên. Mặt khác, sự phát triển của các hệ thống xã hội là không đồng đều và có những đặc thù riêng do đó mức độ tác động đến ĐDSH ở mỗi nơi là khác nhau. Ở Việt Nam, trình độ phát triển xã hội còn hạn chế về khoa học công nghệ, công tác qui hoạch và quản lý tài nguyên thiên nhiên đã ảnh hưởng đến sự suy giảm ĐDSH. Tuy nhiên, Việt Nam lại có một hệ thống kiến thức bản địa và văn
  11. 6 hóa truyền thống đa dạng đã góp phần làm phong phú hơn và hình thành các khu vực có tính đặc thù về ĐDSH – nhân văn khác nhau. Quan điểm ĐDSH là sự tương tác giữa hai hệ thống tự nhiên và xã hội đã khắc phục sự hạn chế và tính cô lập trong bảo tồn nặng về kỹ thuật, mà đã chỉ ra rằng cần có cách tiếp cận tích hợp, cần đặt nghiên cứu bảo tồn ĐDSH trong một mối quan hệ hữu cơ giữa hai hệ thống tự nhiên và xã hội. Nghiên cứu này, ngoài việc mô tả tính đa dạng sinh học thú về mặt tự nhiên còn mô tả các đặc điểm sinh thái nhân văn của khu hệ, để làm cơ sở khoa học cho các giải pháp quản lý bảo tồn thú tại KBTTN ĐaKrông. 1.2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC THÚ Ở VIỆT NAM Lịch sử nghiên cứu đa dạng sinh học thú ở Việt Nam gắn liền với lịch sử nghiên cứu động vật giới Việt Nam và có thể chia thành 3 giai đoạn chính như sau: 1) Trước năm 1954: Bước đầu nghiên cứu lập danh lục thú của cả nước; 2) Từ 1955 đến 1975: Nghiên cứu khu hệ thú các địa phương ở Miền Bắc; 3) Từ 1975 đến nay: Nghiên cứu khu hệ thú các địa phương trên toàn quốc phục vụ qui hoạch sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo tồn đa dạng sinh học. • Thời kỳ trước năm 1954 Cuối thế kỷ 19, với sự xâm chiếm của thực dân Pháp các nhà khoa học nước ngoài bắt đầu xâm nhập nước ta và tiến hành các cuộc điều tra thăm dò động vật giới Việt Nam như: Milne-Edwards, 1867-1874; Morice, 1875; Billet, 1896-1898; Butan, 1900-1906; De Pousargue, 1904; Menegaur, 1905- 1906; Bonhote, 1907; Kloss, 1920-1926,... Tới đầu thế kỷ 20, việc xây dựng danh lục vẫn được tiếp tục bởi Osgood, 1932; Delacour, 1940, 1951; Bourret, 1942-1944;.... Một số nghiên cứu tiêu biểu trong thời kỳ này như: Nghiên cứu của đoàn Pavie (Đoàn nghiên cứu về lịch sử tự nhiên của Đông Dương) từ năm 1879 đến năm 1898 tại Đông Dương (gồm Việt Nam, Lào,
  12. 7 Camphuchia, Thái Lan và phần biên giới Thái Lan- Miến Điện). Tại Việt Nam, đoàn Pavie hoạt động chủ yếu ở miền Nam. Những tài liệu về thú do đoàn Pavie thu thập đã giao cho De Pousargue nghiên cứu và kết quả được công bố trong bộ sách của Pavie xuất bản năm 1904. Có thể coi đó là công trình nghiên cứu thú đầu tiên, tương đối hoàn chỉnh ở Đông Dương về mặt khu hệ. Trong đó, De Pousargue đã thống kê được 200 loài và loài phụ thú (kể cả thú nuôi) phân bố ở Đông Dương. Riêng ở Việt Nam đã phát hiện được 117 loài và loài phụ. Năm 1932, H. Osgood đã tập hợp rất nhiều những tài liệu nghiên cứu trước đó (của H. Stevens, F.R. Wulsin, Delacour, Delacour et Lowe, đoàn Kelley- Roosevelt) và đưa ra thông báo chung về thú (Osgood, 1932). Trong tài liệu này Osgood đã ghi nhận được 251 loài và loài phụ, trong đó có 19 dạng mới. Trong phạm vi Việt Nam đã gặp tới 172 loài và loài phụ, kèm theo những địa điểm sưu tầm. Đây là một công trình có giá trị về mặt nghiên cứu phân loại và khu hệ. Từ năm 1945 đến 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra ác liệt trên toàn quốc đã làm gián đoạn các hoạt động khảo sát động vật hoang dã ở Việt Nam. • Thời kỳ từ 1955 đến 1975 Sau khi miền Bắc được giải phóng (1954), các hoạt động nghiên cứu về thú hoàn toàn do những cán bộ khoa học Việt Nam đảm nhiệm. Lực lượng điều tra nghiên cứu thời kỳ này chủ yếu là Phòng Động vật học của UBKHKT Nhà nước; Khoa Sinh vật học- Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội; Viện Điều tra Quy hoạch rừng- Tổng Cục Lâm nghiệp và Khoa Sinh vật học- Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội. Ngoài ra, còn một số cơ quan khác trong lĩnh vực công tác cũng có liên quan nhiều đến việc sưu tầm thú, mà chủ yếu là thú gặm nhấm dạng chuột như; Viện vệ sinh dịch tễ học, Viện sốt rét- ký sinh trùng,
  13. 8 Viện quân y. Kết quả nghiên cứu về thú trong thời kỳ đầu miền Bắc giải phóng còn nhiều hạn chế, do lực lượng cán bộ mỏng, địa bàn điều tra hẹp, chỉ tập trung vào thu thập mẫu vật và thống kê thành phần loài. Từ sau năm 1959, đã có một số đợt điều tra tổng hợp về động vật với lực lượng cán bộ và số cơ quan tham gia ngày càng lớn. Phạm vi điều tra được mở rộng trên toàn miền Bắc. Nội dung điều tra cũng phong phú hơn, bao gồm cả điều tra thành phần loài, nghiên cứu sinh học, sinh thái, phát hiện trữ lượng và khả năng khai thác sử dụng các loài có giá trị kinh tế. Đặc biệt, UBKHKT Nhà nước đã tổ chức và chủ trì “Đoàn điều tra liên hợp động vật-ký sinh trùng” với sự tham gia của 5 cơ sở nghiên cứu lớn, trong đó Bộ môn Động vật học của Trường Đại học Tổng hợp và Phòng Động vật học của UBKHKT Nhà nước đảm nhận phần điều tra động vật có xương sống. Trong thời gian các năm 1962-1966, Đoàn đã thực hiện được 5 đợt điều tra tại 12 tỉnh miền Bắc: Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu, Yên Bái, Sơn La, Thanh Hoá, Quảng Bình, Hà Tĩnh và Nghệ An. Kết quả của các đợt điều tra trong thời kỳ 1955-1975, đã được các nhà khoa học trong nước phân tích và công bố (Đào Văn Tiến, 1960-1985; Đặng Huy Huỳnh, 1968-1981; Lê Hiền Hào, 1962-1973; Cao Văn Sung, 1976- 1980; Phạm Trọng Ảnh, 1974;... ). Mỗi tác giả công bố kết quả nghiên cứu về một nhóm thú riêng, đặc biệt Đào Văn Tiến (1985) đã tập hợp các công trình điều tra cơ bản động vật học và công bố toàn miền Bắc có 129 loài [31] Ở miền Nam, do bị đế quốc Mỹ chiếm đóng nên công tác điều tra nghiên cứu thú hầu như không được tiến hành. Đáng chú ý Van Peenen và cộng sự (1965-1969) đã khảo sát ở một số tỉnh và ghi nhận được 151 loài thú [43]. • Thời kỳ từ 1975 đến nay Sau khi miền Nam giải phóng (1975), đất nước được thống nhất thì công tác nghiên cứu đa dạng sinh học thú đã có những bước phát triển lớn. Địa bàn
  14. 9 nghiên cứu được mở rộng ra toàn quốc và các nghiên cứu hướng đến mục tiêu ứng dụng để phục vụ công tác qui hoạch sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo tồn đa dạng sinh học. Tuy nhiên các công trình được công bố ở thời kỳ đầu chủ yếu dựa trên kết quả khảo sát thú ở miền Bắc trước đó, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của các tác giả: Đào Văn Tiến (1985), Đặng Huy Huỳnh (1986), Cao Văn Sung (1980), Phạm Trọng Ảnh (1982),... Trong những năm tiếp theo, để đáp ứng nhu cầu của dân số ngày càng tăng, để hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng nền kinh tế còn yếu của mình nhân dân Việt Nam vẫn phải tiếp tục khai thác một cách mạnh mẽ tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên rừng. Vì thế rừng đã bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh nay lại càng thu hẹp hơn, tài nguyên động vật hoang dã bị giảm sút nhanh chóng đặc biệt là nhóm thú. Nhận thức được việc mất rừng là tổn thất nghiêm trọng đang đe doạ sức sinh sản lâu dài của các nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo, năm 1986 Chính phủ Việt Nam đã thành lập một hệ thống 87 khu rừng đặc dụng với diện tích 1.169.000ha. Nhưng hầu hết các khu rừng này hoạt động kém hiệu quả do thiếu kinh phí và thiếu cán bộ kỹ thuật, người quản lý không biết cụ thể hiện trạng tài nguyên trong khu vực mình quản lý. Trong giai đoạn này, công trình “Sách Đỏ Việt Nam-Phần Động vật” của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (1992) và công trình “Danh lục các loài thú (Mammalia) Việt Nam” của Đặng Huy Huỳnh và các cộng sự (1994) ra đời đã góp phần giải quyết những khó khăn trên. Bản danh lục gồm 12 bộ, 37 họ và 223 loài thú đã tìm thấy ở Việt Nam tính đến năm 1994, trong đó có 77 loài nằm trong Sách Đỏ Việt Nam, 1992 [18]. Đây là công trình đầu tiên thống kê thành phần phân loại thú trên toàn lãnh thổ Việt Nam và chỉ ra một số loài thú cần ưu tiên bảo vệ.
  15. 10 Đặc biệt, trong giai đoạn này đã phát hiện thêm nhiều loài thú mới cho Việt Nam và một số loài mới cho khoa học. Việc phát hiện và mô tả một số loài và phân loài thú lớn mới cho khoa học như: Sao la (Pseudoryx nghetinhensis Vu Dung et al., 1993), Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis Do Tuoc et al.,1994), Mang trường sơn (Muntiacus truongsonensis Giao et al., 1998), Chà vá chân xám (Pygathrix cinereus Nadler, 1997), Cầy tây nguyên (Viverra tainguensis Sokolov, Roznov & Pham, 1997), Thỏ vằn (Nesolagus timminsii Averianov et al., 2000), ... đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của thế giới đối với khu hệ thú Việt Nam. Năm 2000, Lê Vũ Khôi đã cập nhật những phát hiện mới của khu hệ thú Việt Nam để cho ra công trình: “Danh lục các loài thú ở Việt Nam”. Bản danh lục gồm 252 loài (289 loài và phân loài) thú thuộc 40 họ và 14 bộ. Với mỗi taxon tác giả trình bày; tên khoa học đầy đủ theo danh pháp quốc tế, tên tiếng Việt và các dân tộc Việt Nam, tên tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nga. Đây như là “Cuốn từ điển” tên các loài thú Việt Nam [20]. Trong những năm gần đây, quan điểm về đa dạng sinh học và bảo tồn nguồn tài nguyên thú hoang dã tại Việt Nam có nhiều thay đổi theo xu thế chung của thế giới. Để đạt được mục tiêu sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo tồn đa dạng sinh học, thì ngoài các nghiên cứu cơ bản về tài nguyên thú hoang dã cần có những nghiên cứu về kinh tế- xã hội, đặc biệt các nghiên cứu xác định nguyên nhân gây suy giảm tính đa dạng sinh học. Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường- Đại học Quốc gia Hà Nội là một trong những cơ quan của Việt Nam đi đầu trong hướng tiếp cận này. Phạm Bình Quyền và Trương Quang Học (1998) đã nhận định: “Nguyên nhân của sự thất thoát đa dạng sinh học là một phức hệ đặc trưng cho từng địa phương hay từng khu vực,...”
  16. 11 “Tại Việt Nam, nguyên nhân trực tiếp bao gồm: các hoạt động nông nghiệp mà quan trọng nhất là mở rộng đất canh tác vào đất rừng, đất ngập nước, gây ô nhiễm do hoá chất nông nghiệp, thay thế các giống cây con địa phương bằng các giống mới cao sản; khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên như khai thác gỗ, các sản phẩm ngoài gỗ, săn bắn; sự tàn phá trực tiếp của chiến tranh, ô nhiễm môi trường; xây dựng cơ sở hạ tầng, đường giao thông,... Nhưng đằng sau các nguyên nhân này là những nguyên nhân sâu xa về kinh tế xã hội và chính sách như sự đói nghèo, tăng dân số,...Hơn thế nữa, các nguyên nhân này có mối quan hệ chặt chẽ và có sự tác động qua lại với nhau qua các hệ thống thang bậc phức tạp nhất định (địa lý, thời gian, chế độ chính trị,...”[27]. Tuy nhiên, đây là các nguyên nhân chung gây suy thoái đa dạng sinh học trên toàn lãnh thổ Việt Nam chứ không cụ thể cho nhóm thú. Và cũng như các tác giả đã nhận định thì nguyên nhân gây suy giảm đa dạng sinh học sẽ thay đổi theo từng địa phương hay khu vực. Bảng 1.1. Tổng hợp kết quả nghiên cứu về đa dạng sinh học thú tại Việt Nam Thời kỳ Số liệu cơ bản Phương pháp nghiên cứu Nguồn thông tin Trước1954 117 loài& loài phụ Khảo sát thực địa Pousargue (1904) 172 loài& loài phụ Tổng hợp tài liệu H. Osgood (1932) 129 loài ở miền Bắc Tổng hợp tài liệu& Khảo sát Đào Văn Tiến 1955- 1975 thực địa (1985) 151 loài ở miền Nam Khảo sát thực địa Van Peenen và cs (1969) 223 loài thuộc 37 họ Tổng hợp tài liệu& Phân tích Đặng Huy Huỳnh và 12 bộ mẫu vật và cs (1994) 1975- nay 252 loài thuộc 40 họ Tổng hợp tài liệu Lê Vũ Khôi (2000) và 14 bộ Các nguyên nhân Khảo sát thực địa & Tổng hợp Phạm Bình Quyền gây suy thoái đa tài liệu và cs (1998) dạng sinh học
  17. 12 1.3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC THÚ Ở TỈNH QUẢNG TRỊ VÀ KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN ĐAKRÔNG Trước năm 1994, công tác nghiên cứu khảo sát thú ở tỉnh Quảng Trị đã được tiến hành. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ dừng lại ở khảo sát thực địa để cùng với những cuộc khảo sát thực địa ở các địa phương khác hình thành nên các công trình về thú ở miền Bắc hay toàn Việt Nam. Năm 1994, tổng kết các kết quả điều tra khảo sát thú ở Việt Nam, Đặng Huy Huỳnh và cộng sự đã công bố 62 loài thú được ghi nhận có ở Quảng Trị. Sau 1995, công tác nghiên cứu thú tại Quảng Trị tiếp tục được phát triển với sự tham gia của các nhà khoa học trong nước và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế (Birdlife Quốc tế tại Việt Nam, Quỹ Quốc tế về Bảo vệ Thiên nhiên,…). Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng chỉ tập trung vào 2 khu vực chính là huyện ĐaKrông và huyện Hướng Hoá với mục tiêu xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên và quản lý bảo tồn đa dạng sinh học trong vùng nghiên cứu. Tiêu biểu là các nghiên cứu của: Đặng Huy Huỳnh và cộng sự (2002), Le Trong Trai et al. (1999), Đặng Huy Phương (2005), Đặng Huy Huỳnh và Nguyễn Mạnh Hà (2005), Nguyễn Mạnh Hà (2004, 2005, 2007), Nguyễn Xuân Đặng và cộng sự (2007), Lê Mạnh Hùng và cộng sự (2002, 2004). Bảng 1.2. Tổng hợp kết quả nghiên cứu về đa dạng sinh học thú tại ĐaKrông Năm Số liệu cơ bản Phương pháp nghiên cứu Nguồn thông tin 1999 43 loài thú Khảo sát thực địa Le Trong Trai et al. (1999) 2005 60 loài thú Tổng hợp tài liệu Đặng Huy Phương (2005) 2005 - 66 loài thú Khảo sát thực địa. Đặng Huy Huỳnh - Các nguyên nhân và Nguyễn Mạnh gây suy thoái đa Hà (2005) dạng sinh học thú 2007 82 loài thú Tổng hợp tài liệu& Khảo sát Nguyễn Xuân Đặng thực địa và cs (2007)
  18. 13 Như vậy, hầu hết các nghiên cứu về đa dạng sinh học thú ở KBTTN ĐaKrông mới dừng lại ở việc thống kê thành phần loài. Đặng Huy Huỳnh và Nguyễn Mạnh Hà (2005) có đề cập đến các nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học thú, tuy nhiên các nguyên nhân này là những vấn đề chung gây suy thoái đa dạng sinh học do đó ít có ý nghĩa trong việc đề xuất các giải pháp quản lý bảo tồn nhóm thú. Lê Trọng Trải và cộng sự (1999) ngoài thống kê thành phần loài thú còn thống kê các hợp phần khác của đa dạng sinh học như; thực vật bậc cao, chim, bò sát, ếch nhái, bướm của cả hai khu ĐaKrông và Phong Điền. Ngoài ra công trình còn đánh giá giá trị của đa dạng sinh học và các đặc điểm kinh tế- xã hội tại khu vực để làm cơ sở quy hoạch thành lập khu bảo tồn. Tuy nhiên các đánh giá này mang tính tổng thể và chú trọng vào mục tiêu quản lý bảo tồn nhóm chim hoang dã. Vì vậy nghiên cứu về tính đa dạng sinh học thú tại khu vực sẽ xác định lại sự có mặt và vắng mặt của các loài thú nơi đây. Hơn nữa, nghiên cứu sẽ đánh giá giá trị bảo tồn của khu hệ thú, xác định các khu vực ưu tiên bảo tồn thú và mô tả các đặc điểm sinh thái nhân văn của khu hệ thú.
  19. 14 Chương 2 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ- XÃ HỘI CỦA KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN ĐAKRÔNG 2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN 2.1.1. Vị trí địa lý KBTTN ĐaKrông nằm về phía Nam huyện ĐaKrông tỉnh Quảng Trị, có toạ độ địa lí: 16023' - 16009’ vĩ độ Bắc và 106052' - 107009’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp huyện Cam Lộ và Triệu Phong. Phía Nam giáp huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế). Phía Tây giáp sông ĐaKrông và đường Hồ Chí Minh. Phía Đông giáp KBTTN Phong Điền (huyện Phong Điền- Thừa Thiên Huế). Như vậy, KBTTN ĐaKrông nằm ở khu vực giáp ranh giữa 4 huyện, 2 tỉnh và cách biên giới Việt – Lào gần nhất là 8 km (cửa khẩu La Lay) Diện tích KBTTN ĐaKrông là 37.640 ha, bao gồm một phần hoặc toàn bộ diện tích của 7 xã; Hải Phúc, Ba Lòng, Triệu Nguyên, Tà Long, Húc Nghì, A Bung (thuộc huyện Đa Krông, tỉnh Quảng Trị) và xã Hồng Thuỷ (thuộc huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế).
  20. 15 Hình 2- 1: SƠ ĐỒ QUY HOẠCH KBTTN ĐAKRÔNG
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2