intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu tính đa dạng thực vật thân gỗ tại Rừng quốc gia Đền Hùng, Phú Thọ

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:78

24
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm đánh giá được tính đa dạng sinh học về thành phần loài, dạng sống, công dụng và giá trị bảo tồn của hệ thực vật thân gỗ tại Rừng quốc gia Đền Hùng từ đó đề xuất được các giải pháp bảo tồn và phát triển tài nguyên thực vật có hiệu quả. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu tính đa dạng thực vật thân gỗ tại Rừng quốc gia Đền Hùng, Phú Thọ

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN QUYẾT TIẾN NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG THỰC VẬT THÂN GỖ TẠI RỪNG QUỐC GIA ĐỀN HÙNG, PHÚ THỌ Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng Mã số: 60.62.68 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. HOÀNG VĂN SÂM Hà Nội, 2011
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN QUYẾT TIẾN NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG THỰC VẬT THÂN GỖ TẠI RỪNG QUỐC GIA ĐỀN HÙNG, PHÚ THỌ LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội, 2011
  3. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Đa dạng sinh học và bảo tồn đa dạng sinh học hiện nay đã và đang được rất nhiều nước quan tâm và nó đã trở thành chiến lược trên toàn thế giới. Nhiều tổ chức quốc tế ra đời để hướng dẫn, giúp đỡ và tổ chức việc đánh giá, bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học trên toàn phạm vi thế giới. Một số tổ chức thế giới về đa dạng sinh học như: Hiệp hội quốc tế bảo vệ thiên nhiên (IUCN), Chương trình môi trường Liên hợp quốc (UNEP), Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF), Viện tài nguyên di truyền quốc tế (IPGRI) v.v…Năm 1992, tại hội nghị thượng đỉnh toàn cầu ở Rio de Janeiro đã thông qua công ước về bảo tồn đa đạng sinh học. Việt Nam là một trong năm nước chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của việc suy giảm đa dạng sinh học. Đa dạng sinh học được hiểu là sự biến đổi giữa các sinh vật ở tất cả mọi nguồn, bao gồm cả hệ sinh thái trên đất liền, trên biển và các hệ sinh thái khác, sự đa dạng thể hiện trong từng loài, giữa các loài và các hệ sinh thái. Trong những năm gần đây, đa dạng sinh học trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đang bị suy giảm một cách nghiêm trọng, nguyên nhân chủ yếu là do con người sử dụng không hợp lý. Đứng trước những hiểm họa do việc suy giảm đa dạng sinh học gây ra, những năm gần đây, nước ta cũng đã thay đổi và bổ sung nhiều chính sách nhằm bảo vệ và phát triển đa dạng sinh học, tham gia vào các tổ chức thế giới về bảo tồn đa dạng sinh học. Nghiên cứu về hệ thực vật rừng là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu cho công tác nghiên cứu và bảo tồn đa dạng sinh học. Việc nghiên cứu về hệ thực vật giúp người ta hiểu rõ được thành phần và tính chất của hệ thực vật ở từng nơi, từng vùng nhằm xây dựng mô hình về khai thác, sử dụng, phát triển và bảo vệ nguồn tài nguyên thực vật một cách bền
  4. 2 vững, không gây ảnh hưởng đến môi trường sống, phục hồi các hệ sinh thái đã bị suy thoái, mang lại lợi ích lâu dài cho con người. Ngày nay, mặc dù với sự phát triển vượt bậc của các ngành công nghiệp chế biến khác, phục vụ đời sống con người, nhưng nhu cầu về sử dụng các sản phẩm của thực vật thân gỗ vẫn ngày càng gia tăng. Do đó việc tìm hiểu đa dạng về nhóm cây này vẫn phải được đề ra, một mặt phục vụ cho đời sống ngày càng cao của nhân dân, mặt khác phải bảo vệ, tôn tạo được nguồn tài nguyên thực vật thân gỗ đảm bảo cân bằng sinh thái, cải tạo nuôi trồng, giữ cho rừng luôn bền vững, cho năng suất cao. Khu Rừng quốc gia Đền Hùng là một trong những trung tâm đa dạng sinh học không chỉ của vùng Đông Bắc mà còn cho cả Việt Nam. Bên cạnh đó tài nguyên rừng nơi đây còn mang giá trị to lớn trong việc nâng cao giá trị của khu Di tích Đền Hùng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu bảo tồn hệ thực vật nói chung và thực vật thân gỗ nói riêng là hết sức quan trọng. Xuất phát từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài: “Nghiên cứu tính đa dạng thực vật thân gỗ tại Rừng quốc gia Đền Hùng, Phú Thọ”.
  5. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Quan điểm về đa dạng sinh học Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu và bảo vệ đa dạng sinh học cũng như nhận thức được tính đa dạng sinh học trở nên hết sức quan trọng trên toàn thế giới. Từ xa xưa, con người đã biết khai thác tài nguyên sinh vật để phục vụ cuộc sống và sự phát triển của mình. Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, kinh tế và nhu cầu mà con người ngày càng ham hiểu biết về thế giới tự nhiên. Tuy nhiên, càng hiểu biết về thế giới tự nhiên con người lại càng khai thác tận diệt tài nguyên, vì thế, nguồn đa dạng sinh học ngày càng suy giảm. Theo IUCN (1994) đã đưa ra định nghĩa ĐDSH như sau: “Đa dạng sinh học là thuật ngữ chỉ sự phong phú của sự sống trên trái đất của hàng triệu loài thực vật, động vật, vi sinh vật cùng nguồn gen của chúng và các hệ sinh thái mà chúng là thành viên. Từ đó, đa dạng sinh học được định nghĩa là sự đa dạng của các sinh vật từ tất cả các nguồn, trong đó bao gồm các hệ sinh thái trên cạn, dưới biển, các thuỷ vực khác và các phức hệ sinh thái mà chúng cấu thành. Đa dạng sinh học bao gồm sự đa dạng của loài, giữa các loài và các hệ sinh thái ”. Theo định nghĩa của Quỹ Quốc tế về bảo tồn thiên nhiên WWF (1989) đề xuất như sau: “Đa dạng sinh học là sự phồn vinh của sự sống trên trái đất, là hàng triệu loài thực vật, động vật và vi sinh vật, là những gen chứa đựng trong các loài và là hệ sinh thái vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong môi trường”. Trong chương trình hành động đa dạng sinh học Việt Nam có nêu ra một khái niệm về đa dạng sinh học: “Đa dạng sinh học là tập hợp tất cả các nguồn sinh vật sống trên hành tinh, gồm tổng số loài động vật và thực vật, tính đa dạng và sự phong phú trong từng loài, tính đa dạng hệ sinh thái của
  6. 4 cộng đồng sinh thái khác nhau, hoặc tập hợp các loài sống ở các vùng khác nhau trên thế giới với các hoàn cảnh khác nhau”. Định nghĩa này đã đề cập đến ba vấn đề về đa dạng sinh học là đa dạng gen, đa dạng loài và đa dạng hệ sinh thái. Tuy nhiên, định nghĩa trên còn dài dòng, không rõ ràng, dễ nhầm lẫn giữa tính phong phú và tính đa dạng; còn một điểm không rõ nữa là định nghĩa trên chỉ nói đến hai nhân tố là động vật và thực vật trong giới sinh vật mà bỏ quyên quần xã sinh vật và các loài sinh vật khác như nấm và vi sinh vật. Định nghĩa về đa dạng sinh học được sử dụng thông thường nhất, ngắn gọn và đầy đủ nhất là định nghĩa về đa dạng sinh học trong công ước về bảo tồn đa dạng sinh học được thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu ở Rio de Janeiro (1992): “Đa dạng sinh học là sự biến đổi giữa các sinh vật ở tất cả mọi nguồn, bao gồm hệ sinh thái trên đất liền, trên biển và các hệ sinh thái nước khác, sự đa dạng thể hiện trong từng loài, giữa các loài và các hệ sinh thái”. Định nghĩa này tương đối đầy đủ và rõ ràng. 1.2. Tổng quan về nghiên cứu đa dạng thực vật 1.2.1. Trên thế giới Việc nghiên cứu hệ thực vật trên thế giới đã có từ lâu. Người ta đã tìm thấy các tài liệu mô tả về thực vật xuất hiện ở Ai Cập khoảng 3000 năm trước Công nguyên và ở Trung Quốc khoảng 2000 năm trước Công nguyên. Song những công trình có giá trị xuất hiện vào thế kỷ 19 - 20 như: Thực vật chí Honkong (1861), Thực vật chí Australia (1866), Thực vật chí rừng Tây Bắc và Trung tâm Ấn Độ (1874). Theo hướng nghiên cứu thống kê và mô tả thực vật phải kể đến các công trình như: Thực vật chí Đông Dương của Lecomte và cộng sự (1907 -1952), Thực vật chí Malaisia (1948 – 1972), Thực vật chí Vân Nam (1979 - 1997).
  7. 5 Ở Nga, từ 1928 đến 1932 được xem là giai đoạn mở đầu cho thời kỳ nghiên cứu hệ thực vật cụ thể. Tolmachop A.I. 1974 cho rằng “chỉ cần điều tra trên một diện tích đủ lớn để có thể bao trùm được sự phong phú của nơi sống nhưng không có sự phân hoá về mặt địa lý”. Ông gọi đó là hệ thực vật cụ thể. Tolmachop A.I. đã đưa ra một nhận định là số loài của một hệ thực vật cụ thể ở vùng nhiệt đới ẩm thường là 1500 – 2000 loài. Brummitt (1992), chuyên gia của phòng bảo tàng thực vật Hoàng gia Anh, trong cuốn “Vascular plant families and genera” đã thống kê tiêu bản thực vật bậc cao có mạch trên thế giới vào 511 họ, 13.884 chi, 6 ngành là Khuyết lá thông (Psilotophyta), Thông đá (Lycopodiophyta), Cỏ tháp bút (Equisetophyta), Dương xỉ (Polypodiophyta), Hạt trần (Gymnospermae) và Hạt kín (Angiospermae). Trong đó ngành Hạt kín (Angiospermae) có 13.477 chi, 454 họ và được chia ra 2 lớp là: lớp Hai lá mầm (Dicotyledoneae) bao gồm 10.715 chi, 357 họ và lớp Một lá mầm (Monocotyledoneae) bao gồm 2.762 chi, 97 họ. Nghiên cứu về phân loại dạng sống ở trên thế giới cũng có nhiều kiểu khác nhau. Điển hình là cách phân loại, lập phổ dạng sống của Raunkiaer (1934). Theo ông, dấu hiệu để phân loại được chọn là vị trí của chồi so với mặt đất trong thời gian bất lợi của năm. Hệ thống phân loại đó có thể được trình bày tóm tắt như sau: A. Cây có chồi trên đất Ph (Phanérophytes) B. Cây có chồi sát đất Ch (Chaméphytes) C. Cây có chồi nửa ẩn H (Hémicryptophytes) D. Cây chồi ẩn Cr (Cryptophytes) E. Cây một năm Th (Thérophytes) Trong đó cây có chồi trên đất Ph (Phanérophytes) được chia thành các dạng nhỏ:
  8. 6 a- Cây gỗ lớn chồi trên đất Meg (Mégaphanérophytes) b- Cây gỗ vừa có chồi trên đất Mes (Mésophanérophytes) c- Cây nhỏ có chồi trên đất Mi (Microphanérophytes) d- Cây thấp có chồi trên đất Na (Nanophanérophytes) Raunkiaer còn gộp những cây gỗ thuộc 2 dạng Mégaphanérophytes và Mésophanérophytes thành nhóm cây gỗ lớn và vừa có chồi trên đất (MM). e- Cây có chồi trên đất leo cuốn Lp (Lianes phanérophytes) f- Cây có chồi trên đất sống nhờ và sống bám Ep (Epiphytes phanérophytes) g- Cây có chồi trên đất thân thảo Hp (Phanérophytes herbacés). h- Cây có chồi trên đất thân mọng nước Sp (Phanérophytes succlents). Raunkiaer đã tính toán cho hơn 1000 loài cây ở các vùng khác nhau trên trái đất và lập được phổ dạng sống tiêu chuẩn (SN) như sau: Ph Ch H Cr Th SN % 46 9 26 6 13 hay SN = 46 Ph + 9 Ch + 26 H + 6 Cr + 13 Th. Đây là một cơ sở để so sánh các phổ dạng sống của các thảm thực vật giữa các vùng khác nhau trên trái đất. Phổ dạng sống của các vùng được kí hiệu là SB. Thường thường ở vùng nhiệt đới, trong rừng ẩm thì Ph là 80%, Ch là 20%, còn H, Cr và Th hầu như không có. Trái lại, trong vùng khô hạn thì Th và Cr có thể có một tỷ lệ khá cao, còn Ph lại giảm xuống. Điều này được thể hiện qua một số dẫn liệu về phổ dạng sống của một số hệ thực vật ở các vùng khác nhau trên trái đất: 1. Miền nhiệt đới Guana SB = 88 Ph + 12 Ch 2. Miền nhiệt đới ẩm
  9. 7 SB = 61 Ph + 6 Ch + 12 H + 5 Cr + 16 Th. 3. Miền xa mạc (Li Bi) SB = 12 Ph + 21Ch + 20 H + 5 Cr + 42 Th. 4. Miền ôn đới (Đan Mạch) SB = 7Ph + 3 Ch + 50 H + 22 Cr + 18 Th. 5. Miền Bắc cực SB = 1 Ph + 22 Ch + 60 H + 15 Cr + 2 Th. (Nguồn: Nguyễn Bá Thụ, 1995) 1.2.2. Ở Việt Nam Việt Nam là quốc gia có mức độ đa dạng sinh học cao so với các nước trên thế giới. Việc nghiên cứu về hệ thực vật ở Việt Nam đã có từ lâu. Ta có thể nhắc tới một số tác giả như: Tuệ Tĩnh (1417) trong cuốn “Nam dược thần hiệu” đã mô tả tới 579 loài cây làm thuốc, Lý Thời Chân (1595) trong cuốn “Bản thảo cương mục” đã đề cập đến hơn 1000 vị thuốc thảo mộc… Song việc điều tra nghiên cứu thực vật có tính quy mô lớn ở nước ta mới chỉ bắt đầu vào thời Pháp thuộc. Trước hết phải kể đến các công trình: “Thực vật chí Nam bộ” của Leureiro [42]; Thực vật chí rừng Nam bộ của các tác giả Pierre L. [44]. Một trong công trình lớn nhất về quy mô cũng như giá trị là công trình nghiên cứu hệ thực vật Đông Dương của các tác giả Pháp Lecomte et al. [41], kết quả của nghiên cứu này là bộ “Thực vật chí đại cương Đông Dương”, trong kết quả nghiên cứu này theo Lecomte thì vùng Đông Dương có hơn 7.000 loài. Đây là bộ sách có ý nghĩa lớn với các nhà thực vật học; hiện nay, bộ sách này vẫn còn có giá trị với những người nghiên cứu thực vật Đông Dương nói chung và hệ thực vật Việt Nam nói riêng. Tiếp theo đó là bổ sung của Humbert H. Viện Điều tra Quy hoạch rừng Việt Nam (1971 – 1988) đã công bố 7 tập “Cây gỗ rừng Việt Nam” giới thiệu khá chi tiết cùng với tranh vẽ minh
  10. 8 hoạ. Đến năm 1996, công trình này được dịch ra tiếng Anh do Vũ Văn Dũng chủ biên. Võ Văn Chi (1997) đã công bố “Từ điển cây thuốc Việt Nam” (Ngô Tiến Dũng, 2006). Theo hướng nghiên cứu đa dạng phân loại ở các vùng của Việt Nam có công trình của Phan Kế Lộc (1973) “Bước đầu thống kê số loài cây đã biết ở miền Bắc Việt Nam”. Tác giả đã thống kê được 5.609 loài thuộc 1.660 chi và 240 họ. Trên cơ sở bộ Thực vật chí Đông Dương, Thái Văn Trừng (1978) trong công trình “Thảm thực vật rừng Việt Nam” đã thống kê ở khu hệ thực vật có 7.004 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 1.850 chi và 289 họ. Ngành Hạt kín có 6.366 loài (chiếm 90,89%), 1.727 chi (chiếm 93,35%) và 239 họ (chiếm 82,70%). Ngành Hạt trần có 39 loài (chiếm 0,56%), 18 chi (chiếm 0,97%), 8 họ (chiếm 2,77%) và còn lại là nhóm Quyết thực vật. Năm 1984, Nguyễn Tiến Bân, Trần Bình Đại, Phan Kế Lộc cùng tập thể các tác giả đã xuất bản tập “Danh lục thực vật Tây Nguyên” công bố 3.754 loài thực vật bậc cao có mạch bằng một nửa số loài của hệ thực vật Việt Nam. Công trình này khảo sát bao quát cả một hệ thực vật rừng phong phú vào bậc nhất nước ta nên rất có ý nghĩa. Trong công trình “Thực vật ở đảo Phú Quốc” (1985), tác giả Phạm Hoàng Hộ đã thống kê được 929 loài thực vật bậc cao có mạch, trong đó có 112 loài cây trồng, 817 loài cây có phân bố tự nhiên và ghi nhận thêm 19 loài mới cho Việt Nam, không kể Nấm. Đáng chú ý nhất là bộ “Cây Cỏ Việt Nam” của Phạm Hoàng Hộ (1991 – 1993) xuất bản tại Canada, bao gồm 3 tập (6 quyển), đã thống kê mô tả được 10.419 loài thực vật bậc cao có mạch ở Việt Nam. Trong 2 năm 1999 đến 2000, ông đã chỉnh lý, bổ sung và tái bản tại Việt Nam. Bộ sách gồm 3 quyển, đã thống kê mô tả 11.611 loài thuộc 3.179 chi, 295 họ và 6 ngành. Năm 1999, trong cuốn “Một số đặc điểm cơ bản của hệ thực vật Việt Nam”, Lê Trần Chấn đã thống kê được ở Việt Nam có 10.192 loài, 2.298 chi
  11. 9 và 285 họ thuộc 7 ngành thực vật bậc cao có mạch. Trong đó, ngành Khuyết lá thông (Psilotophyta) có 1 loài, 1 chi, 1 họ; ngành Thông đá (Lycopodiophyta) có 54 loài, 4 chi, 2 họ; ngành Thuỷ phỉ (Isoetophyta) có 1 loài, 1 chi, 1 họ; ngành Cỏ tháp bút (Equisetophyta) có 2 loài, 1 chi, 1 họ; ngành Dương xỉ (Polypodiophyta) có 632 loài, 138 chi, 28 họ; ngành Hạt trần (Gymnospermae) có 52 loài, 22 chi, 8 họ; ngành Hạt kín có 9.450 loài, 2.131 chi, 244 họ. Gần đây (2001 – 2005), tập thể các tác giả thuộc Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường – ĐHQGHN, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật – Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, trên cơ sở tập hợp các mẫu tiêu bản thực vật cùng với các tài liệu đã xuất bản bộ “Danh lục các loài thực vật Việt Nam” gồm 3 tập. Bộ sách đã thống kê đầy đủ nhất các loài thực vật có ở Việt Nam với tên khoa học cập nhật nhất. Nghiên cứu về tính đa dạng thực vật tại các Vườn Quốc gia (VQG), Khu Bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam cho đến đến nay đã có nhiều công trình. Điển hình phải kể tới các nghiên cứu của Nguyễn Nghĩa Thìn - Nguyễn Bá Thụ ở VQG Cúc Phương (1995); Năm 1995, trong luận án phó tiến sỹ khoa học nông nghiệp với đề tài “Nghiên cứu tính đa dạng thực vật ở Vườn Quốc gia Cúc Phương” tác giả Nguyễn Bá Thụ đã thống kê được trên diện tích 222 km2 có 1.944 loài thực vật bậc cao thuộc 912 chi, 219 họ, 86 bộ của 7 ngành thực vật bậc cao và đã bổ sung thêm 270 loài thực vật cho hệ thực vật Cúc Phương so với danh lục thực vật năm 1971. Trong số đó có 127 loài, 74 chi, 31 họ thuộc ngành Rêu (Bryophyta). Đồng thời tác giả đã phân tích khá đầy đủ sự đa dạng về dạng sống, yếu tố địa lý, thành phần cũng như cấu trúc rừng. Lê Thị Huyên ở VQG Cát Bà (1998), Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự ở VQG Bạch Mã (2003), Nguyễn Nghĩa Thìn - Nguyễn Thanh Nhàn ở VQG Pù Mát (2004), Nguyễn Văn Thanh ở VQG Xuân Sơn (2005).
  12. 10 1.2.3. Ở Đền Hùng Đối với việc nghiên cứu về thực vật ở Rừng quốc gia Đền Hùng phải kể đến công trình nghiên cứu của Viện Điều tra Quy hoạch rừng Việt Nam tháng 6/2001. Theo số liệu thống kê sơ bộ ban đầu, thực vật Rừng quốc gia Đền Hùng có 636 loài (trong đó có 180 loài được gây trồng), 424 chi, 144 họ thuộc 5 nghành thực vật bậc cao có mạch trong đó có nhiều loài cây bụi và dây leo. Một số nghiên cứu của sinh viên trường Đại học Lâm nghiệp cũng được triển khai tại Rừng quốc gia Đền Hùng. Trong đó phải kể đến các công trình nghiên cứu như: “Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc, công dụng của cây rừng làm cở sở cho công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng tại khu vực đền Hùng Vương Lâm thao – Phú Thọ” của Vương Duy Hưng năm 2000; “Tìm hiểu một số đặc điểm tái sinh rừng tự nhiên làm cơ sở cho công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng trong Khu di tích lịch sử đền Hùng Vương – Lâm Thao – Phú Thọ” của Nguyễn Duy Công năm 2000; “Sơ bộ nghiên cứu đánh giá tình hình sinh trưởng của một số loài cây bản địa trồng dưới tán rừng tại Khu di tích lịch sử Đền Hùng – Phú Thọ” của Đặng Thị Tuyết năm 2004;… Nhìn chung, các nghiên cứu về tài nguyên thực vật ở Rừng quốc gia Đền Hùng chưa nhiều, đặc biệt là các nghiên cứu về tính đa dạng thực vật thân gỗ. Chính vì vậy mà việc quản lý bảo vệ những loài thực vật thân gỗ, đặc biệt là những loài thực vật thân gỗ có giá trị bảo tồn và kinh tế cao tại Đền Hùng vẫn còn nhiều hạn chế. Xuất phát từ những lý do trên, việc triển khai một đề tài nghiên cứu về tính đa dạng thực vật thân gỗ tại khu vực Rừng quốc gia Đền Hùng là hết sức cần thiết. Đề tài nghiên cứu sẽ góp phần bổ sung và hoàn thiện thêm cho danh lục thực vật tại Đền Hùng, cung cấp những thông tin về đa dạng thực vật thân gỗ nói chung và hiện trạng của các loài thực vật thân gỗ quý hiếm nói riêng, làm cơ sở cho việc quản lý bảo vệ các loài thực vật thân gỗ và những nghiên cứu tiếp theo tại khu vực Rừng quốc gia Đền Hùng.
  13. 11 Chương 2 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Hệ thực vật thân gỗ tại Rừng quốc gia Đền Hùng, Phú Thọ. 2.2. Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá được tính đa dạng sinh học về thành phần loài, dạng sống, công dụng và giá trị bảo tồn của hệ thực vật thân gỗ tại Rừng quốc gia Đền Hùng từ đó đề xuất được các giải pháp bảo tồn và phát triển tài nguyên thực vật có hiệu quả. 2.3. Nội dung nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài chúng tôi thực hiện 4 nội dung sau: - Điều tra, xây dựng danh lục các loài thực vật thân gỗ tại khu vực nghiên cứu. - Đánh giá tính đa dạng sinh học về thành phần loài, dạng sống, công dụng và giá trị bảo tồn của hệ thực vật thân gỗ tại Rừng quốc gia Đền Hùng. * Nghiên cứu, xây dựng bộ dữ liệu các loài thực vật thân gỗ có giá trị bảo tồn cao tại Rừng quốc gia Đền Hùng. - Đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát triển tài nguyên thực vật có hiệu quả tại khu vực nghiên cứu. 2.4. Phương pháp nghiên cứu: 2.4.1. Điều tra ngoại nghiệp * Xác định địa điểm và tuyến thu mẫu Trên cơ sở bản đồ địa hình kết hợp với việc lập các tuyến điều tra để tiến hành nghiên cứu và thu mẫu.
  14. 12 Nguyên tắc lập tuyến: Tuyến điều tra phải đại diện, đi qua hầu hết các dạng sinh cảnh chính và địa hình trên toàn bộ diện tích nghiên cứu, theo đai cao và theo sinh cảnh. Có thể chọn nhiều tuyến theo các hướng khác nhau, nghĩa là các tuyến đó cắt ngang các vùng đại diện cho khu vực nghiên cứu. Đề tài tiến hành điều tra theo các tuyến như sau: + Tuyến thứ nhất: Từ cổng chính lên đền Thượng rồi xuống đền Giếng, dài 1,7 km. + Tuyến thứ hai: Từ núi Chùa bé đi lên đền Thượng, dài 1 Km. + Tuyến thứ ba: Bắt đầu từ ngã 5 đền Giếng đi dọc theo hướng Tây khu vực nghiên cứu, dài 2,5 Km. + Tuyến thứ tư: Bắt đầu từ ngã 5 đền Giếng đi dọc theo hướng Đông khu vực nghiên cứu, dài 2,5 Km. Trên các tuyến điều tra lập 15 OTC, diện tích 1000m2. Trong OTC tôi tiến hành điều tra, thu thập mẫu tất cả các loài thực vật thân gỗ. * Dụng cụ thu mẫu: Cặp hay túi đựng mẫu, giấy báo, dây buộc, nhãn, kim chỉ, bút chì 2B, sổ ghi chép, cồn, kéo cắt cành. * Nguyên tắc thu mẫu: - Mỗi mẫu phải có đầy đủ các bộ phận, nhất là: cành, lá, hoa và có quả càng tốt. - Mỗi cây nên thu từ 3 – 5 mẫu. - Các mẫu thu trên cùng một cây thì đánh cùng một số hiệu mẫu. Khi thu mẫu phải ghi chép ngay những đặc điểm dễ nhận biết ngoài thực địa như: đặc điểm vỏ cây, kích thước cây, nhất là các đặc điểm dễ mất sau khi sấy mẫu như: màu sắc, mùi vị… * Cách xử lý và bảo quản mẫu: Sau một ngày lấy mẫu cần đeo nhãn cho mỗi mẫu. Nhãn có thể chỉ ghi số hiệu mẫu của tác giả còn các thông tin khác sẽ ghi vào sổ riêng hoặc trên nhãn ghi đầy đủ các thông tin như sau:
  15. 13 - Số hiệu mẫu. - Địa điểm (tỉnh, huyện, xã,…) và nơi lấy (thung lũng, sườn hay đỉnh núi hoặc đồi, …) - Ngày lấy mẫu. - Đặc điểm quan trọng: cây gỗ hay dây leo, độ cao, đường kính, màu lá, hoa, quả, … - Người lấy mẫu. Khi ghi phải dùng bút chì mềm, tuyệt đối không dùng bút bi, bút mực để tránh bị mất khi ngâm tẩm về sau. 2.4.2. Xử lý trong phòng thí nghiệm Mẫu tiêu bản thu thập trong quá trình điều tra được mang về và xử lý tại Trung tâm Đa dạng sinh học, Trường Đại học Lâm nghiệp. Nội dung công việc gồm: + Ép mẫu và sấy mẫu. + Phân loại mẫu theo họ và chi. + Giám định mẫu tiêu bản được thực hiện bởi tác giả cùng với sự giúp đỡ của các chuyên gia về Phân loại Thực vật của Trung tâm Đa dạng sinh học, Bộ môn Thực vật rừng đồng thời đối chiếu mẫu nghiên cứu với bộ mẫu đang lưu trữ tại Trung tâm Đa dạng sinh học. + Phân tích mẫu: Dựa trên một số nguyên tắc; phân tích từ tổng thể đến chi tiết, từ cái lớn đến cái nhỏ, phân tích phải đi đôi với nghi chép. + Tra tên khoa học: Sau khi đã phân tích mẫu chúng tôi tiến hành tra tên khoa học dựa theo các khóa xác định. 2.4.3. Xây dựng danh lục và đánh giá đa dạng hệ thực vật * Chỉnh lý tên khoa học và xây dựng danh lục:
  16. 14 Tên đầy đủ của loài được áp dụng theo Danh lục các loài thực vật Việt Nam (tập I – 2001, tập II – 2003 và tập III – 2005), Tên cây rừng Việt Nam [11] và trang web quốc tế về tên Thực vật www.ipni.org . Danh lục thực vật thân gỗ của Đền Hùng được xây dựng theo hệ thống phân loại của Takhtajan (2009). Các ngành thực vật được sắp xếp từ ngành Dương xỉ (Polypodiophyta), ngành Hạt trần (Gymnospermae) và ngành Hạt kín (Angiospermae). Đối với ngành Hạt kín (Angiospermae) được chia ra 2 lớp: lớp Hai lá mầm (Dicotyledoneae) và lớp Một lá mầm (Monocotyledoneae). Các họ trong từng ngành, các chi trong từng họ và các loài trong từng chi được sắp xếp theo thứ tự ABC. Trong danh lục thể hiện được tên khoa học, tên Việt Nam, dạng sống, giá trị sử dụng, mức độ đe dọa. * Đánh giá đa dạng về phân loại: Theo Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [43], bao gồm: o Thống kê và đánh giá thành phần loài, chi, họ của các ngành từ thấp đến cao và tính tỷ lệ phần trăm. o Tính chỉ số đa dạng ở cấp họ (số loài trung bình của một họ), cấp chi (số loài trung bình của một chi). o Đánh giá đa dạng các họ, chi: thống kê 10 họ, 10 chi giàu loài nhất, tiêu biểu cho hệ thực vật. * Đánh giá sự đa dạng về dạng sống: Dạng sống là một đặc trưng nói lên bản chất sinh thái của hệ thực vật cũng như thảm thực vật của hệ sinh thái đó. Mỗi hệ sinh thái là do các loài trong tương quan với các nhân tố sinh thái của nơi sống đó tạo nên. Nó được thể hiện trên từng cá thể loài và các loài đó tập hợp nên những quần xã riêng biệt phản ánh môi trường sống nơi đó. Cho đến nay, khi phân tích bản chất sinh thái của mỗi hệ thực vật, nhất là hệ thực vật của vùng nhiệt đới người ta vẫn thường dùng hệ thống các dạng sống của Raunkiaer (1943) (ghi theo Thái Văn Trừng, 1999).
  17. 15 Bảng 2.1. Thang phân chia dạng sống theo Raunkiaer (1934) (Thái Văn Trừng, 1999) Dạng sống Ký hiệu Nhóm cây chồi trên Ph Những cây gỗ, dây leo, thảo, bì sinh, ký sinh có chồi tồn tại Phananerophytes nhiều năm cách đất từ 25cm trở lên. Gồm các dạng sống Chồi trên to: là cây gỗ cao trên 25m Meg Chồi trên vừa: là cây gỗ cao 8 – 25m Mes Chồi trên nhỏ: cây gỗ cao 2 – 8m Mi Chồi trên lùn: cây bụi Na Cây bì sinh sống lâu năm Ep Cây kí sinh, bán ký sinh sống lâu năm Pp Cây thân thảo sống lâu năm cao trên 25cm Hp Cây mọng nước sống lâu năm cao trên 25cm Suc Dây leo sống lâu năm, leo cao trên 25cm Lp Nhóm cây chồi sát đất Ch Gồm những cây có chồi cách mặt đất 0 – 25cm, mùa bất Chamaephytes lợi thường được lá khô che phủ Nhóm cây chồi nửa ẩn Hm Cây có chồi nằm dưới, ngay sát mặt đất, mùa bất lợi Hemicryptophytes thường được lá khô che phủ Nhóm cây chồi ẩn Cr Cây có chồi nằm sâu trong đất (hoặc trong bùn, nước), Cryptophytes mùa bất lợi phần khí sinh tàn rụi hết nhưng còn phần thân ngầm ở dưới đất, sẽ tái sinh vào mùa thuận lợi sau đó Nhóm cây chồi một năm Th Cây chỉ sinh trưởng, ra hoa kết quả trong vòng một năm Therrophytes rồi chết, chỉ còn hạt để duy trì sang mùa thuận lợi sau đó
  18. 16 Trong dạng sống, cơ sở quan trọng nhất để sắp xếp các nhóm dạng sống đó là xem trong thời kỳ khó khăn cho cuộc sống loài đó tồn tại dưới dạng sống nào: Chỉ là hạt nghỉ hay có cả chồi, nếu có chồi thì chồi nằm ở vị trí nào so với mặt đất, có được bảo vệ hay không… Chúng tôi chọn cách phân chia này để xây dựng phổ dạng sống cho hệ thực vật thân gỗ của Rừng quốc gia Đền Hùng . * Đánh giá về tài nguyên thực vật Bao gồm tài nguyên có giá trị sử dụng và nguồn tài nguyên quý hiếm của hệ thực vật. Thống kê các loài có giá trị sử dụng từ bảng danh lục thực vật thân gỗ Đền Hùng bằng các tư liệu chuyên ngành như: “Từ điển cây thuốc Việt Nam”; “1900 loài cây có ích”; “Cây cỏ có ích Việt Nam”; “Danh lục các loài thực vật Việt Nam”; “Tài nguyên cây gỗ rừng Việt Nam”; “Cây cỏ Việt Nam”; “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”; “ Lâm Sản Ngoài Gỗ Việt Nam”; … Các tiêu chuẩn để đánh giá giá trị tài nguyên thực vật được trình bày trong bảng 2.2 cụ thể như sau: Bảng 2.2. Giá trị sử dụng các loài trong hệ thực vật thân gỗ TT Nhóm công dụng Kí hiệu 1 Cho gỗ G 2 Cho thuốc T 3 Cho tinh dầu Td 4 Cho dầu béo D 5 Cho tinh bột B 6Cho rau ăn R 7 Làm cảnh và bóng mát C 8 Cho quả Q 9 Cho nhựa N 10 Cho sợi S 11 Cho màu M 12 Cho tanin Tn 13 Cho nguyên liệu Nl
  19. 17 * Nghiên cứu tài nguyên thực vật về mức độ nguy cấp của các loài thực vật thân gỗ quý hiếm: Từ bảng danh lục, kiểm tra tên từng loài dựa vào danh sách các loài đã được chỉ định trong danh lục của các chỉ tiêu (Danh lục đỏ): Sách Đỏ Việt Nam 2007; Nghị định 32 CP của chính phủ; IUCN 2009 Red list Data. * Nghiên cứu, xây dựng cơ sở dữ liệu về các loài thực vật thân gỗ có giá trị bảo tồn cao tại Rừng quốc gia Đền Hùng: Kế thừa các tài liệu về thực vật của (Phạm Hoàng Hộ 1999, 2000; Lê Mộng Chân, Lê Thị Huyên 2000; PROSEA; Hoàng Văn Sâm và cộng sự 2004, Thực vật rừng, Sách đỏ Việt Nam… các trang web như: www.vfu.edu.vn, www.botany.vn, www.ipni.org, …) về các hạng mục: Đặc điểm hình thái, đặc tính sinh học và sinh thái học, phân bố, tình trạng. Bên cạnh đó chúng tôi kết hợp với những kết quả nghiên cứu thực địa điều tra tình hình của các loài tại khu vực nghiên cứu để mô tả đặc điểm nhận biết, đặc điểm sinh học, phân bố và giá trị của từng loài cây gỗ quý hiếm tại khu vực nghiên cứu.
  20. 18 Chương 3 KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU 3.1.Điều kiện tự nhiên 3.1.1. Vị trí địa lý, hành chính Rừng quốc gia Đền Hùng thuộc địa phận xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Tọa độ địa lý là: - Từ 210 24’ 08” đến 210 28’ 76” vĩ độ Bắc. - Từ 1040 77’ 55” đến 1040 81’ 68” kinh độ Đông. - Phía Đông giáp xã Kim Đức và xã Vân Phú (thành phố Việt Trì). - Phía Tây giáp xã Tiên Kiên (huyện Lâm Thao). - Phía Nam giáp xã Chu Hóa (thành phố Việt Trì) và thị trấn Hùng Sơn (huyện Lâm Thao). - Phía Bắc giáp xã Phù Ninh (huyện Phù Ninh). Rừng quốc gia Đền Hùng có tuyến quốc lộ số 2, quốc lộ 32C và tỉnh lộ 309 chạy qua; cách tuyến đường sắt Hà Nội- Lào Cai 5km về phía Tây Bắc. Nhìn chung, Rừng quốc gia Đền Hùng có vị trí thuận lợi về giao thông đi lại. 3.1.2. Địa hình, địa mạo Theo kết quả nghiên cứu của Trạm nông hóa thổ nhưỡng, Rừng quốc gia Đền Hùng nằm ở vùng bán sơn địa, vùng chuyển tiếp giữa núi rừng với đồng bằng, điều này đã tạo cho cảnh quan địa lý nơi đây khá phong phú, đa dạng nhiều hình vẻ. Khu vực Đền Hùng có rừng núi giống như mạn ngược, có vùng đồi gò đặc trưng của trung du, có vùng đồng bằng, sông ngòi giống như miền xuôi. Sự thuận lợi về vị trí địa lý và đa dạng về địa hình đã góp phần tạo nên cảnh quan hài hòa như một bức tranh thủy mặc.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2