Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu xác định giống và kỹ thuật canh tác cây Cao Su giai đoạn kiến thiết cơ bản tại tỉnh Lai Châu
lượt xem 3
download
Luận văn nghiên cứu xác định được tiểu vùng có khả năng trồng và phát triển cao su tại tỉnh Lai Châu. Tuyển chọn được bộ giống cao su giai đoạn kiến thiết cơ bản có khả năng thích nghi tại tỉnh Lai Châu. Bước đầu đề xuất kỹ thuật trồng, chăm sóc cây cao su giai đoạn kiến thiết cơ bản cho tỉnh Lai Châu. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của luận văn này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu xác định giống và kỹ thuật canh tác cây Cao Su giai đoạn kiến thiết cơ bản tại tỉnh Lai Châu
- BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ------------------ TRẦN VĂN HÙNG NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH GIỐNG VÀ KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY CAO SU GIAI ĐOẠN KIẾN THIẾT CƠ BẢN TẠI TỈNH LAI CHÂU LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI - 2010
- BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -------------------- TRẦN VĂN HÙNG NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH GIỐNG VÀ KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY CAO SU GIAI ĐOẠN KIẾN THIẾT CƠ BẢN TẠI TỈNH LAI CHÂU Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ QUỐC DOANH HÀ NỘI - 2010
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Trong thời gian qua, sản lượng cao su thiên nhiên nước ta tăng liên tục, đưa Việt Nam trở thành một trong 5 nước đứng đầu thế giới về sản xuất cao su. Năm 2007, tổng diện tích cao su cả nước là 549,7 nghìn ha (trong đó diện tích cho khai thác 373,3 nghìn ha), sản lượng ước đạt 601,7 nghìn tấn mủ khô (Tổng cục Thống kê, 2008). Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm cao su cũng liên tục tăng trong những năm qua, năm 2006 đạt 1,27 tỷ USD, năm 2007 đạt 1,4 tỷ USD và 2008 đạt 1,57 tỷ USD. Chính vì vậy mà hiện nay cây cao su đang được coi là một loài cây trồng nhằm phát triển kinh tế tại nhiều địa phương trong cả nước. Trước đây cây cao su chủ yếu được trồng ở các vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Sau năm 1975 nó được phát triển ra các tỉnh Trung Trung Bộ và Bắc Trung Bộ và đến nay cây cao su tiếp tục được phát triển rộng ra các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, đặc biệt là tại tỉnh Lai Châu. Việc phát triển trồng cây cao su tại tỉnh Lai Châu cần phải có những tính toán và cơ sở khoa học cho phù hợp. Hiện nay, tỉnh đã có kế hoạch và chương trình cụ thể để trồng và phát triển cao su. Tuy nhiên, đến nay còn rất ít nghiên cứu về xác định giống và kỹ thuật canh tác ở giai đoạn kiến thiết cơ bản, nên khó có thể tư vấn hoặc cung cấp những dịch vụ kỹ thuật cho các địa phương về định hướng, quy hoạch, biện pháp kỹ thuật để trồng và phát triển cao su trong vùng. Để góp phần giải quyết vấn đề cấp bách trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu xác định giống và kỹ thuật canh tác cây Cao Su giai đoạn kiến thiết cơ bản tại tỉnh Lai Châu”.
- 2 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Nguồn gốc, xuất sứ Cao su (Hevea brasiliensis) vốn là cây mọc hoang dại trong lưu vực sông Amazon - Brazil và các vùng kế cận, chính nhà thám hiểm Christopher Columbus và các thuỷ thủ khi đi khám phá các vùng đất châu Mỹ vào các năm 1493 - 1496 đã phát hiện ra chất cao su từ những quả bóng làm từ nhựa cây của thổ dân đảo Haiti. Đến đầu thế kỷ 19, Brazil là nước duy nhất xuất khẩu cao su cho công nghiệp thế giới. Thử nghiệm đầu tiên trong việc trồng cây cao su ra ngoài phạm vi Brasil diễn ra vào năm 1873. Sau một vài nỗ lực, 12 hạt giống đã nảy mầm tại vườn thực vật Hoàng gia Kew. Những cây con này đã được gửi tới Ấn Độ để gieo trồng, nhưng chúng đã bị chết. Thử nghiệm thứ hai sau đó đã được thực hiện, khoảng 70.000 hạt giống đã được gửi tới Kew năm 1875. Khoảng 4% hạt giống đã nảy mầm, và vào năm 1876 những cây giống đã được gửi tới Ceylon và gửi tới các vườn thực vật tại Singapore. Sau khi đã thiết lập sự có mặt ở các nơi bản địa của nó, cây cao su đã được nhân rộng khắp tại các thuộc địa của Anh. Cây cao su có mặt tại các vườn thực vật ở Buitenzorg, Malaysia năm 1883. Vào năm 1898, một đồn điền đã được thành lập ở Malaysia, và ngày nay phần lớn các khu vực trồng cao su nằm tại Đông Nam Á và một số tại khu vực châu Phi. Hiện nay có 24 quốc gia trồng cao su tại 3 châu lục: Á, Phi và Mỹ La Tinh. Tổng diện tích toàn thế giới khoảng 9,4 triệu ha, trong đó Châu Á chiếm 93%, Châu Phi 5%, Mỹ La Tinh quê hương của cây cao su chưa đến 2% diện tích cao su thế giới. Việc mở rộng diện tích cao su vùng Nam Mỹ gặp khó khăn do bị hạn chế bởi bệnh cháy lá Nam Mỹ (SALB). Indonesia có diện tích cao su lớn nhất thế giới, tiếp theo là Thái Lan, Malaisia, Trung Quốc, Ấn Độ
- 3 và Việt Nam. Hầu hết diện tích cao su của các nước đều nằm trong vùng truyền thống trồng cao su. Hiện nay, nhiều nước đang mở rộng diện tích cao su ra ngoài vùng truyền thống như một công cụ để bảo vệ môi trường và nâng cao thu nhập của người dân. 1.2. Đặc điểm thực vật học Cây cao su khi ở tình trạng hoang dại tại vùng nguyên quán thì mật độ cây thưa thớt và với chu kỳ sống trên 100 năm, nên có dạng cây rừng lớn. + Thân cây cao su thuộc loại thân gỗ, to, cao. Ở những cây lâu năm thân có thể cao tới 20 - 30m và đường kính thân tới 1m. Thân là phần kinh tế chính của cây cao su cho mủ và gỗ. + Vỏ gồm 3 lớp chính: Lớp da bần: là lớp vỏ ngoài cùng tập hợp các tế bào chết, để bảo vệ lớp trong. Lớp vỏ cứng: là lớp vỏ giữa, da cát, có chứa một số mạch mủ. Lớp vỏ mềm: Là lớp vỏ trong cùng, da lụa, chứa nhiều mạch mủ, nơi cung cấp latex. Mạch mủ xếp nghiêng từ phải qua trái tính từ dưới lên làm thành một góc 50 so với đường thẳng đứng. + Lá cao su mọc cách, có 3 lá chét, cuống dài có hình bầu dục, đuôi nhọn, mặt nhẵn, gân song song, có chức năng quang hợp góp phần sinh trưởng tổng hợp mủ cao su. + Hoa cao su thuộc loại đơn tính, đồng chu, thụ phấn chéo (hoa đực, hoa cái mọc riêng rẽ trên cùng một cành). + Quả cao su thuộc loại quả nang, có lớp vỏ dày cứng trong có chứa các hạt, khi chín vỏ tự nứt hạt có thể tách ra ngoài. + Hạt cao su hình trứng hơi tròn, khi chín có màu nâu, ở ngoài là vỏ sừng cứng, có vân, bên trong có nhân gồm phôi nhũ và cây mầm. + Bộ rễ cao su bao gồm rễ trụ và rễ bàng:
- 4 Rễ trụ dài từ 3 - 5m. Rễ bàng ăn rộng từ 4 - 6m. Bộ rễ chiếm 10 - 15% tổng sinh khối của cây; nhìn chung bộ rễ cao su khoẻ, tái sinh sản lớn, tuy không phát triển sâu rộng như một số cây khác. Khi được nhân trồng trên sản xuất, do việc tính toán hiệu quả của cây trên việc sử dụng đất và vốn đầu tư nên cây cao su được trồng trong điều kiện khác hẳn với tình trạng hoang dại, cụ thể: - Mật độ trồng dày (18 - 25m2/cây và 500 - 600 cây/ha). - Chu kỳ sống của cây cao su được giới hạn là từ 30 - 35 năm, chia làm 2 thời kỳ là thời kỳ kiến thiết cơ bản (5 - 7 năm tuỳ theo điều kiện sinh thái và chăm sóc) và thời kỳ kinh doanh, đây là thời gian khai thác mủ cây (từ 25 - 30 năm). Do phải thích nghi với điều kiện sống nên kích thước và hình dáng cây cao su trong sản xuất trở nên nhỏ hơn so với cao su hoang dại, tối đa chỉ cao 25 - 30m và đạt vanh tối đa là 1,0m khi vào cuối chu kỳ khai thác. Khác với cây cao su hoang dại ở dạng cây thực sinh có thân cây hình nón với vanh thân giảm dần từ thấp lên cao, các cây cao su nhân trồng có dạng cây ghép với thân cây hình trụ có một mối ghép (chân voi) phình to ra ở ngay phía trên mặt đất và kích thước thân cây từ thấp đến cao thay đổi không đáng kể (Tổng công ty cao su Việt Nam, 2004) [18]. 1.3. Điều kiện sinh thái Do nguồn gốc ở vùng nhiệt đới cho nên cho nên khi nhân trồng nên chọn các vùng trồng có điều kiện phù hợp: a) Khí hậu Cây cao su cần nhiệt độ cao và ít biến động với nhiệt độ thích hợp nhất là từ 25 - 300C, trên 400C cây khô héo, dưới 100C nếu kéo dài cây sẽ bị nguy hại như héo và rụng lá, chồi ngọn ngưng sinh trưởng,... Ở nhiệt độ 250C năng
- 5 suất mủ của của cây đạt mức cao nhất, nhiệt độ mát dịu vào sáng sớm cũng giúp cây cao su cho năng suất mủ cao nhất. Các vùng trồng cao su lớn hiện nay phần lớn là ở vùng khí hậu nhiệt đới. b) Lượng mưa Cây cao su có thể trồng ở nhũng vùng đất có lượng mưa từ 1500 - 2000mm/năm, nếu lượng mưa thấp hơn thì cần phải phân bố đều trong năm, đất phải giữ nước tốt. c) Gió Gió nhẹ 1 - 2m/s có lợi cho cây cao su vì giúp cho vườn cây thông thoáng, khi gió cấp 5 - 6 sẽ làm lá cao su xoăn lại, rách lá, chậm tăng trưởng, trồng cao su ở những nơi có gió mạnh thường xuyên, gió to, gió lốc sẽ gây hư hại cho cây, gãy cành, trốc gốc nhất là ở những vùng đất nông rễ cây cao su không phát triển sâu và rộng được. d) Giờ chiếu sáng Ánh sáng đầy đủ giúp cây ít bệnh, tăng trưởng nhanh và sản lượng cao, giờ chiếu sáng tốt cho cây cao su bình quân là 1800 - 2800 giờ/năm, tốt nhất là vào khoảng 1600 - 1700 giờ/năm. e) Đất đai Cây cao su có thể phát triển trên các loại đất khác nhau ở vùng khí hậu nhiệt đới ẩm ướt nhưng thành phần và hiệu quả kinh tế của cây là một vấn đề cần lưu ý khi nhân trồng cao su trên quy mô lớn, do vậy việc chọn lựa các vùng đất thích hợp cho cây cao su cần được đặt ra. + Cao trình: Cây cao su thích hợp với vùng đất có cao trình tương đối thấp (dưói 600m). Càng lên cao càng bất lợi do độ cao càng tăng thì nhiệt độ càng giảm và gió mạnh. Tuy nhiên hiện nay với những tiến bộ về giống có thể đưa cao trình trồng cao su lên cao hơn giới hạn cũ.
- 6 + Độ dốc: Độ dốc đất có liên quan đến độ phì đất, đất càng dốc xói mòn càng mạnh khiến các dinh dưỡng trong đất nhất là trong lớp đất mặt bị mất đi nhanh chóng. Khi trồng cao su trên các vùng đất dốc cần phải thiết lập các hệ thống bảo vệ đất chóng xói mòn như làm đường đồng mức, băng chắn nước... vừa bảo vệ được đất không bị xói mòn vừa dễ cạo mủ, thu mủ và vận chuyển về nơi chế biến. + Lý và hoá tính đất: pH giới hạn để trồng cao su là từ 3,5 - 7,0; tốt nhất là từ 4,5 - 5,5. Độ dày tầng đất cũng là một yếu tố quan trọng để giúp cho sự tăng trưởng của rễ cao su, hiện nay đất có tầng canh tác từ 0,8m trở lên là có thể xem là đạt yêu cầu để trồng được cao su. Đối với cây cao su, các chất dinh dưỡng trong đất không phải là yếu tố giới hạn nghiêm trọng, tuy nhiên trồng cao su trên các loại đất nghèo dinh dưỡng cần đầu tư nhiều phân bón sẽ làm tăng chi phí đầu tư khiến hiệu quả kinh tế giảm đi. 1.4. Vai trò của cây cao su đối với phát triển đất nước Cây cao su chiếm vị trí quan trọng trong sản xuất nông lâm nghiệp nước ta, cây cao su vừa cho mủ, lấy gỗ, vừa góp phần bảo vệ đất, chống xói mòn. Sản phẩm cao su đã và đang được ứng dụng nhiều trong cuộc sống như: cao su thiên nhiên gắn với ngành sản xuất lốp xe mà ngành này gắn với phát triển kinh tế của nhiều nước đang phát triển, cao su tổng hợp, đồ gỗ… - Về giá trị kinh tế: Cây cao su là một trong những cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao, kim ngạch xuất khẩu gia tăng nhanh chóng. Năm 2007 kim ngạch xuất khẩu đạt 1,4 tỉ USD và trở thành nông sản xuất khẩu lớn thứ 2 sau gạo và vượt qua cà phê. Ngoài sản phẩm chính là mủ, mỗi hecta cao su hàng năm có thể cung cấp khoảng 450kg hạt, có thể ép được 56 kg dầu phục vụ cho công nghệ chế biến sơn, xà phòng, thức ăn chăn nuôi và làm phân bón rất tốt. Cao su có thể tổng hợp được công nghệ hóa dầu, diễn biến giá dầu thô
- 7 và giá cao su thiên nhiên tỷ lệ thuận với nhau. Sau chu kỳ kinh doanh mủ, khi chặt hạ để trồng lại, cây cao su còn cho một lượng gỗ tương đối lớn (bình quân từ 130 - 258m2/ha) phục vụ cho chế biến đồ gỗ gia dụng và xuất khẩu, gỗ cao su được đánh giá cao vì có thớ dày, ít co, màu sắc hấp dẫn được đánh giá như là loại gỗ “ thân thiện với môi trường” và giá trị tương đương gỗ nhóm III. Hiện nay tùy theo nguồn gốc giống, mật độ vườn cây và trình độ thâm canh, năng suất một số giống đang trồng ở nước ta cho thấy sau 20 – 21 năm tuổi, 1hecta cao su có thể đạt sản lượng gỗ từ 162 – 389m2, trong đó trữ lượng gỗ thân chính chiếm khoảng 75 – 77%. - Vế xã hội: Sản xuất cao su cần nhiều lao động cho chăm sóc, bảo vệ, khai thác, chế biến, dịch vụ và lao động trong các nhà máy chế biến sản phẩm từ cây cao su, tạo việc làm cho hàng triệu lao động góp phần xóa đói, giảm nghèo, đời sống cán bộ công nhân, nông dân được cải thiện rõ rệt, tăng thu nhập cho đồng bào các dân tộc miền núi, trung du; nhiều hộ đã thoát khỏi nghèo đói, vươn lên làm giàu từ việc trồng cây cao su. Phát triển trồng cao su đi đôi với việc phát triển cơ sở hạ tầng như: Điện, đường, trường, xây dựng mở mang các khu kinh tế mới, tạo nên các vùng đô thị, đời sống của nhân dân ổn định, trật tự xã hội và an ninh quốc phòng được giữ vững. - Về môi trường: Theo báo cáo kết quả nghiên cứu tác động môi trường của rừng trồng cao su ở Việt Nam năm 2009 của PGS.TS. Vương Văn Quỳnh [10]: + Độ tàn che của rừng cao su không khác biệt so với rừng trồng đối chứng nhưng nhỏ hơn so với rừng tự nhiên. + Chưa có sự khác biệt rõ rệt về độ chặt đất giữa rừng cao su và rừng đối chứng. Độ chặt tầng đất mặt ở rừng cao su tăng lên một chút so với rừng đối chứng nhưng không rõ ở các tầng sâu. + Cường độ xói mòn ở rừng cao su trung bình là 0,46 mm/năm, còn ở rừng đối chứng là 0,34 mm/năm.
- 8 + Độ ẩm trung bình ở rừng đối chứng là 20,0% còn ở rừng cao su là 25,6%. 1.5. Tình hình nghiên cứu và phát triển cây cao su ở nước ngoài Cây cao su được xem là loại cây công nghiệp quan trọng, diện tích đã vượt ra xa vùng nguyên quán phân bố từ vĩ tuyến 150 Nam đến vĩ tuyến 60B (Brazin: Acre, Mato Grosso, Rondonio và Parana; một phần của Polivia và Peru) và đã được trồng trên nhiều vùng có điều kiện khí hậu khác xa so với vùng nguyên quán như ở Assam (Ấn Độ) 200B, Vân Nam (Trung Quốc) 22 - 23,50B. Những nước trồng và xuất khẩu cao su nhiều nhất là Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc, Sri Lanka, Liberia và Cote d’Ivoire. Tỷ trọng về diện tích cao su của các quốc gia được thể hiện ở hình sau: Hình 1.1. Tỷ trọng diện tích trồng cao su của các nước đứng đầu trên thế giới Trong những năm qua nhu cầu tiêu thụ cao su thiên nhiên trên thế giới tiếp tục tăng trưởng mạnh, đạt 8 triệu tấn năm 2005. Nhu cầu này được dự báo sẽ còn tiếp tục tăng mạnh hơn nữa trong thời gian dài, có thể đạt đến 10 triệu tấn (năm 2010) và 15 triệu tấn (năm 2035). Nhằm đáp ứng nhu cầu trên, các nước trồng cao su đều tập trung mở rộng diện tích, đặc biệt ở các vùng có
- 9 điều kiện sinh thái ít thuận lợi (vĩ độ cao, độ cao lớn, đất kém…) và nâng cao năng suất trên đơn vị diện tích đất thông qua con đường cải tiến giống và phát triển các tiến bộ kỹ thuật nông học đi kèm. Phương hướng cải tiến giống được tất cả các Viện nghiên cứu cao su trên thế giới tập trung đẩy mạnh. Ngày nay, bên cạnh mục tiêu tạo tuyển giống năng suất mủ cao, chống chịu bệnh hại và thích nghi môi trường, năng suất gỗ cũng trở thành tiêu chí quan trọng trong chọn tạo giống cao su vì nhu cầu gỗ cao su để thay cho gỗ rừng ngày càng cao. Để đáp ứng mục tiêu trên, Malaysia đã đạt mục tiêu tạo tuyển giống cao su đạt năng suất 3,5 tấn mủ/ha/năm bình quân chu kỳ và năng suất gỗ toàn cây đạt 1,5 m3/cây vào cuối kỳ kinh doanh. Hiệp hội nghiên cứu và phát triển cao su Quốc tế (IRRDB) cũng đề xướng chương trình hợp tác giữa các Viện cao su để phát triển giống đạt năng suất trên 3 tấn mủ/ha. Indonesia là nước trồng cao su lớn nhất thế giới hiện nay, năm 1940, Indonesia đã trồng được 1.350.000 ha cao su, trong đó 640.000 ha là đại điền và 790.000 ha là tiểu điền. Năn 1995, sản lượng cao su thiên nhiên đạt 1.456.000 tấn. Cao su tiểu điền Indonesia các đặc điểm cây bắt đầu cạo mủ vào năm thứ 8, sản lượng mủ cao nhất vào năm thứ 16 với năng suất tối đa là 1,35 tấn/ha. Cao su đại điền bắt đầu cạo mủ vào năm tuổi thứ 7, đạt sản lượng cao nhất vào năm tuổi thứ 12, Indonesia thành lập các tổ chức hỗ trợ cho việc phát triểnn cao su tiểu điền như: NES (Nuclear Estate Schemes – Kế hoạch đại điền hạt nhân) nhằm hỗ trợ sự phát triển diện tích canh tác mới của cây cao su cho thành phần nông dân nghèo không có đất, tổ chức này ký hợp đồng với nhà nước và sử dụng đại điền làm hạt nhân để hỗ trợ sự phát triển tiểu điền xung quanh như xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ trồng và chăm sóc vườn cây cho tới khi khai thác. Thái Lan di nhập cao su từ Java Indonesia vào trồng tại tỉnh Trang, vùng Tây Nam vào năm 1899, từ đó cây cao su lan sang phía Nam và phía Đông nước này, tính từ năm 1966 đến năm 1993 diện tích cao su Thái Lan đã
- 10 tăng thêm 880.000 ha với các vườn cây trồng các giống cao sản như RRIM 6000 năng suất đạt bình quân 1,375 kg/ha/năm. Hàng năm Thái Lan tái canh được 40.000 ha, với cơ cấu diện tích là 28% cao su kiến thiết cơ bản, 30% là cây cạo mủ dưới 6 tuổi, 16% là cây cạo mủ từ 6 -12 tuổi còn lại là cây trên 20 tuổi, cây đạt năng suất cao nhất vào lúc cây được 13 tuổi, cao su tiểu điền Thái Lan chiếm 95% tổng diện tích cao su cả nước. Ngày nay, Thái Lan đã phát triển cao su ra phía Bắc và Đông Bắc nước này lên đến vĩ tuyến 19o là những vùng đất cao ít thích hợp cho cây cao Su nhưng vẫn đạt năng suất 1.500kg/ha. Thái Lan cũng có các tổ chức hỗ trợ cho việc phát triển cao su tiểu điền như ORRAF (Office of the Rubber Aid Fund - Văn phòng vốn tái canh cao su), CRAM (Central Rubber Auction Market – Chợ đấu giá trung tâm)… (Nuchanat Na - Ranong, 2006) [24]. Trước năm 1990, Malaysia là nước trồng và sản xuất cao su thiên nhiên hàng đầu thế giới, sản lượng cao su đạt cao nhất 1.661.000 tấn vào năm 1988, tiểu điền cao su chiếm 80% diện tích và 70% sản lượng, dự kiến đến năm 2010 diện tích trồng cao su của nước này sẽ tăng lên tới 1,5 triệu ha. Malaysia là một điển hình trong nghiên cứu chọn lọc và khuyến cáo giống cao su thích nghi theo điều kiện sinh thái của môi trường để tối ưu hóa tiềm năng của giống. Việc phân vùng chủ yếu dựa vào mức độ gây hại của gió và các loại bệnh gây hại cao su như bệnh nấm hồng, bệnh phấn trắng, bệnh héo đen đầu lá và bệnh rụng lá Corynespora. Ấn Độ cũng đã nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật canh tác thích hợp để phát triển cây cao su ở ngoài vùng truyền thống (từ vĩ độ 15 – 200B), kết quả đạt được rất khả quan và năng suất mủ cây cao su có thể đạt được trên 1,5 tấn/ha/năm (S.K.Dey và T.K.Pal, 2006) [25]. Trung Quốc là nước trồng cao su rất đặc thù so với các nước khác. Diện tích cao su của Trung Quốc nằm hoàn toàn ngoài vùng truyền thống từ vĩ tuyến 18oB đến 24oB và tập trung ở các tỉnh: Vân Nam, Hải Nam, Quảng Đông,
- 11 Quảng Tây... Trung Quốc đã thành công trong việc phát triển cây cao su có hiệu quả trong điều kiện môi trường không thuận lợi (tới hạn) đối với cây cao su. Các yếu tố bất thuận cơ bản đối cây cao su ở Trung Quốc là khí hậu mùa đông lạnh, cao trình cao, đối với một số vùng như đảo Hải Nam thì thường xuyên đối diện với sự gây hại của gió bão, để hạn chế tác hại của các yếu tố không thuận Trung Quốc đã nghiên cứu và áp dụng những biện pháp kỹ thuật canh tác và tạo hình thích hợp đối với từng vùng trồng cao su cụ thể. Kết quả là năng suất của một số vùng như XishuaBana thuộc tỉnh Vân Nam năng suất mủ bình quân đạt trên 2 tấn/ha/năm với các giống PR 107, RRIM 600 và GT 1. Hai giống mới có khả năng chống chịu lạnh và khô hạn tốt là Vân Nghiên 77-2, Vân Nghiên 77-4 (Xiong Daiqun và Jiang Jusheng, 2006) [23]. Ngày nay đã có xu hướng phát triển cao su mới trên thế giới đó là: Trồng cao su theo mô hình nông lâm kết hợp để thay thế dần cho mô hình trồng cao su độc canh (Laxman Joshi, Eric Penot, 2006) [22]. 1.6. Tình hình nghiên cứu và phát triển cao su tại Việt Nam Cây cao su được di nhập vào Việt Nam từ năm 1897, sau thời gian thử nghiệm, năm 1906 – 1907 hình thành các đồn điền có quy mô ở Đông Nam Bộ đánh dấu giai đoạn sản suất lớn của ngành cao su Việt Nam. Tại Tây Nguyên vào năm 1923 và phát triển mạnh trong giai đoạn 1960 - 1962. Vào năm 1976, diện tích cao su tại nước ta có khoảng 76.600 ha cho sản lượng mủ 40.200 tấn (năng suất bình quân 0,52 tấn/ha). Sau trên 30 năm phát triển với chính sách và đầu tư phù hợp của Nhà nước, kết hợp với sự đóng góp của các thành phần kinh tế khác nhau, cùng có sự góp phần của các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tính đến năm 2003 diện tích cao su thuộc Tổng công ty cao su Việt Nam là 215.610 ha, đưa vào khai thác 173.143 ha với năng suất bình quân 1,51 tấn/ha/năm (Lê Hồng Tiễn, 2006) [16]. Đến cuối năm 2007, tổng diện tích cao su cả nước đạt 549.000 ha cho tổng sản lượng 601.700 tấn (năng suất bình quân 1,612 tấn/ha/năm). Năng suất trên diện tích
- 12 do Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam quản lý đạt 1,716 tấn/ha/năm, cao hơn năng suất các nước sản xuất cao su hàng đầu như Thái Lan, Indonesia, Malaysia vốn có điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn Việt Nam. Trong khi năng suất của cao su tiểu điền tại Việt Nam hiện vẫn còn ở mức thấp, bình quân đạt 1,44 tấn/ha/năm. Gái trị xuất khẩu cao su Việt Nam không những tăng về số lượng mà còn tăng đáng kể về mặt chất lượng, chỉ tính riêng năm 2007, Việt Nam đã xuất khẩu 741.000 tấn cao su với 15 chủng loại khác nhau mang về nguồn ngoại tệ gần 1,4 tỷ USD (Trần Thị Thúy Hoa, 2008) [5]. Theo số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê, diện tích sản xuất cao su trong nước trong năm 2009 tăng 6,8% so với năm 2008. Tổng diện tích bao phủ bởi cây cao su năm 2009 là 674,2 nghìn ha. Trong đó, tổng diện tích cao su bước vào độ tuổi khai thác và đang khai thác là 421,6 nghìn ha, chiếm 62,5%. Ngoài diện tích cao su trồng mới ở những vùng truyền thống ở miền Trung Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, cây cao su đã được trồng mới tại một số tỉnh Tây Bắc và đầu tư trồng mới tại Lào và Campuchia, Nam Phi và Myanmar. Theo mục tiêu của ngành cao su Việt Nam, đến năm 2015 tổng diện tích cao su tại mỗi quốc gia nêu trên đạt 100.000 ha, đồng thời tổng diện tích cao su nội địa sẽ đạt 800.000 ha. Thời gian qua, ngành cao su Việt Nam chú trọng đầu tư thâm canh, nâng cao đáng kể năng suất, từ 1,65 tấn/ha (năm 2008) tăng lên 1,72 tấn/ha (năm 2009). Trong đó, năng suất sản lượng mủ bình quân toàn Tập đoàn Cao su đạt 1,77 tấn/ha. Tuy nhiên, có một số nông trường đạt năng suất cao, trên 2 tấn/ha (Công ty cổ phần cao su Đồng Phú 2,255 tấn/ha, công ty cổ phần cao su Tây Ninh 2,238 tấn/ha)... Về sản lượng khai thác, theo đánh giá của Hiệp hội Nghiên cứu cao su (Intemational Rubber Study Group - IRSG), sản lượng cao su tự nhiên của Việt Nam là 7,2%, xếp thứ 5 trong tổng sản lượng cao su thế giới. Trong khi đó, sản lượng cao su thế giới tập trung chủ yếu ở các nước châu Á; đặc biệt 3 nước Thái Lan, Indonesia, Malaysia hiện chiếm 80% sản
- 13 lượng cao su tự nhiên của thế giới. Nếu Việt Nam gia nhập ITRC vào năm 2010, ITRC sẽ chiếm 87,2% tổng sản lượng cao su thiên nhiên thế giới. Cùng với sự phát triển của cây cao su ở Việt Nam ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu về cây cao su, không chỉ ở những lĩnh vực quen thuộc như giống, kỹ thuật canh tác mà các tác giả Phạm Hải Dương [4], Trần Thị Thúy Hoa [5], Lê Mậu Túy [18],cùng rất nhiều tác giả khác đi sâu nghiên cứu về cao su ở các lĩnh vực khác nhau. Tác giả Tống Viết Thịnh đã có công trình nghiên cứu về đánh giá và phân hạng sử dụng đất trồng cao su. Theo tác giả căn cứ vào mức độ hạn chế của 9 chỉ tiêu khí hậu (chế độ mưa, cân bằng nước, chế độ nhiệt, sương mù và tốc độ gió) và 10 chỉ tiêu đất (tầng dày, thành phần cơ giới, độ phì, sỏi đá và độ dốc), áp dụng nguyên tắc của FAO để phân hạng sử dụng đất trồng cao su bao gồm 3 hạng đất trồng được cao su và 2 hạng đất không thể trồng được cao su. Từ năm 1990 đến nay, đã ứng dụng thành công trên diện tích rộng tại các công ty cao su Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Trên các diện tích áp dụng phân hạng đất trồng cao su theo FAO, các cơ sở áp dụng để định suất đấu và khoán vườn cây hợp lý và hiệu quả hơn; không còn hiện tượng vườn cao su bị thanh lý do trồng trên đất kém. Tiến bộ này đã được Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam (VRG) chính thức đưa vào áp dụng trong toàn ngành (Tống Viết Thịnh, 2008) [15]. Cũng tác giả này đã nghiên cứu về kỹ thuật bón phân cho cây cao su theo phương pháp chuẩn đoán dinh dưỡng. căn sứ vào mức độ thiếu hụt, thặng dư và tỷ lệ cân đối của từng nguyên tố dinh dưỡng qua phân tích và đánh giá hàm lượng dinh dưỡng trong đất và lá trên vườn cao su theo các thang chuẩn và căn cứ vào hiện trạng vườn cây (giống, năng suất, sinh trưởng và lịch sử chăm sóc, bón phân của vườn cây) để đề xuất liều lượng và tỷ lệ các nguyên tố dinh dưỡng hợp lý, tạo ra sinh trưởng và năng suất mủ vườn cây đạt hiệu quả kinh tế - kỹ thuật tối ưu. Từ năm 2002 đến nay, đã ứng dụng
- 14 thành công trên diện rộng tại các công ty cao su Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Trên các diện tích áp dụng bón phân theo chuẩn đoán dinh dưỡng đã mang lại các hiệu quả; tiết kiệm phân bón, gia tăng và ổn định sinh trưởng và sản lượng mủ trong nhiều năm. Với các kết quả trên, từ năm 2004, VRG đã chính thức đưa kỹ thuật bón phân theo chuẩn đoán dinh dưỡng vào quy trình của ngành (Tống Viết Thìn, 2008) [14]. Về kỹ thuật khai thác, chăm sóc cây cao su cũng đã có nhiều tác giả nghiên cứu. Năm 2004, Tổng công ty cao su Việt Nam đã xuất bản Quy trình kỹ thuật cây cao su. Trong quy trình này đã quy định rõ các biện pháp kỹ thuật trong quy trình sản xuất, quy trình khai thác mủ và chăm sóc cây cao su, quy trình bảo vệ thực vật, phân hạng đất trồng cây cao su [17]. Những năm tiếp theo các nhà nghiên cứu đã không ngừng đưa ra các cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất và sản lượng mủ cao su. Đỗ kim Thành đã nghiên cứu chế độ cạo nhịp độ tháp và kích thích mủ cao su. Áp dụng chế độ cạo nhịp độ thấp kết hợp kích thích sớm đã tiết kiệm được 20% công cạo mủ, tăng năng suất lao động cạo mủ, đồng thời tiết kiệm được lớp vỏ cạo nguyên sinh từ 2,5 - 3cm/năm. Hơn nữa, việc giảm nhịp độ cạo kết hợp sử dụng chất kích thích mủ làm tăng từ 24 - 52% sản lượng thu hoạch, giảm 25 - 30% lao động trên đơn vị diện tích vườn cây, từ đó góp phần vào việc giảm từ 8 - 10% chi phí trực tiếp nguyên liệu đầu vào cho sản xuất và tăng tử 22 - 43% lãi ròng hàng năm cho mỗi phần cây. Ngay từ khi cao su được trồng và khai thác ở quy mô thương mại, người ta đã nghĩ đến làm thế nào để kích thích cây sản xuất nhiều mủ cao su, áp dụng kích thích có thể giúp làm giảm nhịp độ cạo nhưng vẫn duy chì được sản lượng hợp lý, lâu dài. Hoạt chất kích thích được dùng phổ biến hiện nay là ethephon với các nồng độ 1,25; 2,5 và 5% và số lần bôi biến thiên từ 2 - 6 lần/năm tùy dòng vô tính, tuổi cây và tình trạng sinh lý cây (Đỗ Kim Thành, 2006) [13]. Tác giả Hà Văn Khương đã nghiên cứu để áp dụng các tiến bộ KHKT vào vườn cao su Tổng công ty cao su Việt Nam
- 15 (Hà Văn Khương, 2006) [9]. Tác giả Trần Thanh có công trình nghiên cứu về ứng dụng một số chất điều hòa sinh trưởng kích thích phát triển rễ và chồi tum cao su (Trần Thanh, 2007) [12]. Ở Việt Nam cây cao su được phát triển trên nhiều vùng khác nhau trong nước, ngoài vùng truyền thống tại Đông Nam Bộ còn có Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung và Tây Bắc. Cao su là loại cây dài ngày được trồng độc canh trên diện tích lớn trong vùng có khí hậu nóng ẩm, nên bệnh cũng xuất hiện và gây hại làm ảnh hưởng không nhỏ đến sinh trưởng và sản lượng của cây cao su, nên cũng đã có nhiều nghiên cứu về sâu bệnh hại cao su (Nguyễn Thị Huệ, 1997) [8]. Tác giả Phan Thành Dũng đã theo dõi trong thời gian từ năm 1996 - 2005, có 7 loại bệnh chính ảnh hưởng đến sinh trưởng và sản lượng mủ của cây cao su, trong đó có loại mới xuất hiện là nứt vỏ do nấm Botrydiplodia theobromae Pat (1998), Bệnh rụng lá Corynespora (1999) và rễ nâu do nấm Phellinus noxius (Corner) G. H. Cunn (2002). Các loại bệnh gây hại cho cây cao su tại nước ta chủ yếu do nấm và một số tác nhân truyền nhiễm khác, không có mycoplasma, virus, vi khuẩn, tuyến trùng (Phan Thành Dũng, 2006) [3]. Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của phong trào trồng cao su, diện tích đất thuộc vùng truyền thống đã không còn đáp ứng được, từ đó đã có một số nghiên cứu để đưa cao su ra ngoài vùng truyền thống ở Việt Nam. Năm 1994, Viện nghiên cứu cao su phối hợp với Trung tâm cây ăn quả Phú Hộ nay thuộc Viện KHKTNLN miền núi phía Bắc đã đưa vào khảo nghiệm hàng chục giống cao su tại Phú Hộ (Phú Thọ, vĩ độ 21,27oB). Quy mô khảo nghiệm 3,2 ha bao gồm: + 2,0 ha vườn sơ tuyển giống (STPH94 và QTPH97). + 1,2 ha vườn lưu trữ quỹ gen cây cao su được trồng năm 1998 gồm 142 giống. Hiện vườn khảo nghiệm đang được Bộ môn nông lâm kết hợp Viện KHKTNLN miền núi phía Bắc quan trắc và chăm sóc. Kết quả bước đầu
- 16 cho phép xác định một số giống cao su gồm cả giống nhập nội và lai tạo tại Việt Nam có tiềm năng thích nghi với vùng phía Bắc (Hội nghị Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp 2008 các tỉnh miền núi phía Bắc) [7]. Qua kết quả theo dõi quan trắc cho thấy tại Phú Hộ với điều kiện khí hậu môi trường đặc trưng cho vùng trung du miền núi phía Bắc (Khí hậu lạnh, mùa đông kéo dài, gió lốc... không tốt cho cao su) nhưng tập đoàn cao su hiện có tại đây vẫn sinh trưởng phát triển tương đối tốt và hiện tại đang cho khai thác mủ với năng suất tương đối ổn định, đạt 60 - 70% năng suất bình quân cao su của Đông Nam Bộ. Tốc độ tăng vanh của cao su cũng khá nhanh, đặc biệt có 5 giống cho năng suất mủ trên 1,2 tấn/ha, trong đó có 2 giống có nguồn gốc từ Trung Quốc (Hội thảo tổng kết khoa học của Viện khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, 2007) [6]. Trước xu hướng tăng nhanh về diện tích trồng cao su, đã xuất hiện một số ý kiến trái ngược nhau về tác động môi trường của rừng trồng cao su, nên đã có nghiên cứu tác động môi trường của rừng trồng cao su ở Việt Nam (Vương Văn Quỳnh, 2009) [10]. Do hiệu quả kinh tế cao và ổn định, cây cao su đã được phát triển nhanh chóng ở Việt Nam. Tổng diện tích trồng cao su đến nay đã đạt xấp xỉ 675.000 ha. Những nơi trồng nhiều nhất là Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và một số tỉnh Nam Trung Bộ. Ngoài ra, cao su cũng đã được trồng thành công ở một số tỉnh Bắc Trung Bộ như Quảng Trị, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa. Hiện nay các nhà khoa học Việt Nam đang nghiên cứu nhằm mở rộng diện tích trồng cao su ra các tỉnh miền núi phía Bắc, cây cao su sẽ là một trong những loài cây chủ đạo cho phát triển kinh tế ở miền núi Việt Nam. Theo dự đoán thì diện tích trồng cao su có thể tăng lên hàng triệu ha nhờ cải thiện giống, áp dụng kỹ thuật trồng trên đất dốc và nhờ sự tham gia tích cực của hàng triệu hộ nông dân miền núi.
- 17 1.7. Tình hình nghiên cứu và phát triển cao su tại tỉnh Lai Châu Cùng với chủ trương của nhà nước là đưa cây cao su ra các tỉnh miền núi phía Bắc, ngày 11/12/2006, UBND tỉnh Lai Châu đã quyết định số 76/2006/QĐ-UBND trong đó chủ trương phát triển cây cao su vào trồng trên vùng đất dốc với diện tích trồng mới cả năm 2007 là 400 ha đưa diện tích cây cao su của cả tỉnh lên 532,5 ha. Việc đưa cây cao su vào trồng trên đất đồi dốc Lai Châu là đúng hướng vì ngay tại tỉnh Vân Nam - Trung Quốc nơi có điều kiện tự nhiên tương tự Lai Châu họ vẫn trồng được cao su. Vấn đề đặt ra là lựa chọn được bộ giống thích hợp và xây dựng được quy trình thâm canh phù hợp với đặc thù của Lai Châu. Tuy nhiên hiện nay những nghiên cứu về xác định giống và kỹ thuật canh tác cây cao su giai đoạn kiến thiết cơ bản tại các tỉnh tỉnh Lai Châu chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Để góp phần thực hiện chủ trương của tỉnh là phát triển cây cao su trên vùng đất dốc. Công tác nghiên cứu xác định giống cây cao su giai đoạn kiến thiết cơ bản nhất là những giống có khả năng sinh trưởng và phát triển phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh là đối tượng ưu tiên để nghiên cứu. Việc nghiên cứu, xây dụng kỹ thuật canh tác cây cao su giai đoạn kiến thiết cơ bản tại tỉnh Lai Châu cũng đặc biệt cần quan tâm vì cây cao su tại tỉnh Lai Châu trồng trên đất dốc khác với vùng trồng truyền thống.
- 18 Chương 2 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KHU VỰC NGHIÊN CỨU 2.1. Vị trí địa lý 250 240 230 220 210 200 190 Hình 2.1. Vị trí Tỉnh Lai Châu trong bản đồ Việt Nam Hình 2.2. Sơ đồ vùng nghiên cứu
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 787 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 369 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 409 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 541 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 516 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 298 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 341 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 318 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 233 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 245 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 191 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn