Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu xây dựng phương án quy hoạch sử dụng đất xã Minh Thành - huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2013 - 2022
lượt xem 4
download
Đề tài này nghiên cứu xây dựng cơ sở khoa học và phương pháp luận cho việc đề xuất các giải pháp quy hoạch sử dụng đất, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng và quản lý tài nguyên đất bền vững cho xã Minh Thành - huyện Yên Thành - tỉnh Nghệ An giai đoạn 2012 - 2022. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu xây dựng phương án quy hoạch sử dụng đất xã Minh Thành - huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2013 - 2022
- GIÁO DỤC BỘ GIÁO DỤC VÀ VÀ ĐÀO ĐÀOTẠO TẠO BỘ BỘ NÔNG NÔNGNGHIỆP NGHIỆPVÀ VÀPTNT PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ------------***------------ THÁI HỮU QUỲ NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT XÃ MINH THÀNH - HUYỆN YÊN THÀNH TỈNH NGHỆ AN, GIAI ĐOẠN 2013 - 2022 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Đồng Nai, 2012
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -------------***------------- THÁI HỮU QUỲ NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT XÃ MINH THÀNH - HUYỆN YÊN THÀNH TỈNH NGHỆ AN, GIAI ĐOẠN 2013 - 2022 CHUÊN NGÀNH: LÂM HỌC MÃ SỐ: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GVC. TS. NGUYỄN TRỌNG BÌNH Đồng Nai, 2012
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, đặc biệt trong sản xuất nông - lâm nghiệp, là tư liệu sản xuất đặc biệt. Đất đai là thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội an ninh, Quốc phòng toàn dân [27]. Khác với các tư liệu sản xuất khác, nếu được sử dụng hợp lý thì trong quá trình sản xuất, chất lượng đất đai ngày càng tốt lên. Quy hoạch sử dụng đất (QHSDĐ) là một trong những nội dung rất quan trọng, mang tính pháp lý của hệ thống các biện pháp kỹ thuật, kinh tế, xã hội. QHSDĐ có nhiệm vụ bố trí, sắp xếp sản xuất nông – lâm nghiệp, công nghiệp, các công trình xây dựng cơ bản, các khu dân cư và các công trình văn hoá, phúc lợi xã hội… nhằm mục tiêu sử dụng đất một cách hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trên thực tế công tác QHSDĐ cấp xã vẫn còn nhiều hạn chế chưa được thống nhất về quan điểm quy hoạch, phương pháp tiến hành và các cơ sở lập kế hoạch sử dụng đất. Hầu hết cán bộ chuyên trách công tá QHSDĐ ở cấp xã không cho rằng người sản xuất phải là người tham gia trực tiếp vào quy hoạch. Công tác quy hoạch còn phụ thuộc nhiều vào ý kiến chủ quan của cấp trên, thiếu sự quan tâm đến nhu cầu và nguyện vọng của người dân. Vì vậy mà mặc dù công tác quy hoạch được tiến hành rất công phu nhưng thiếu tính thực tiễn dẫn đến tính khả thi không cao. Nhu cầu về đất đai cho các ngành, các lĩnh vực ngày càng gia tăng và đặt ra nhiều vấn đề phức tạp gây áp lực đến nguồn tài nguyên đất, làm cho nguồn tài nguyên đất ngày càng cạn kiệt nhất là khi VIệt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Do đó sử dụng đất đai hợp lý, hiệu quả, bảo vệ đất bền vững đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu của nước ta. Vì thế, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên đất là mục tiêu chiến lược của một nền nông- lâm nghiệp. QHSDĐ cấp xã có sự tham gia của người dân
- 2 giữ một vị trí hết sức quan trọng, nhằm giúp người dân có thể tham gia tích cực vào quy hoạch trong sử dụng đất của mình một cách hợp lý, hiệu quả, bền vững, bảo đảm hài hoà giữa lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Minh Thành là xã miền núi thuộc huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, mặc dầu năm 2004 đã tiến hành QHSDĐ giai đoạn 2005-2010 nhưng đây là lần đầu thực hiện nên không tránh khỏi những khó khăn, vì vậy sử dụng đất còn chưa hợp lý, gây nên nhiều lãng phí, chưa phát huy hết tiềm năng đất đai dẫn đến việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mà chủ yếu chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi còn nhiều lúng túng. Hệ thống canh tác còn lạc hậu… Do đó, một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đặt ra hiện nay là tiến hành QHSDĐ cho xã, dựa trên phương pháp PRA, kết hợp với kỹ thuật canh tác NLKH. Cần tiến hành phân bổ lại đất đai, lập kế hoạch phát triển sản xuất, kết hợp với kỹ thuật canh tác NLKH nhằm tạo cho người dân có ý thức, tự phân tích, đánh giá và quan tâm đến hoàn cảnh của mình. Từ đó, thúc đẩy cộng đồng phát triển và giúp người dân đề xuất được cơ cấu vật nuôi, cây trồng phù hợp với gia đình và kinh tế thị trường hiện nay. Rõ ràng, QHSDĐ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công tác phát triển nông- lâm nghiệp. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Xuất phát từ nhận thức và thực tiễn trên, để góp phần QHSDĐ hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển hài hoà giữa các ngành kinh tế xã hội, kết hợp ưu tiên, định hướng của nhà nước với nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân địa phương. Tác giả thực hiện đề tài: “Nghiên cứu xây dựng phương án quy hoạch sử dụng đất xã Minh Thành – huyện Yên Thành – tỉnh Nghệ An giai đoạn 2013 - 2022”.
- 3 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Nhận thức chung về QHSDĐ. QHSDĐ có vai trò và chức năng vô cùng quan trọng, nó tạo ra những điều kiện cần thiết để tổ chức sử dụng đất có hiệu quả cao. QHSDĐ là một hoạt động định hướng nhằm sắp xếp, bố trí sử dụng đất một cách hợp lý vào thời điểm hiện tại và phù hợp với mục tiêu trong tương lai. QHSDĐ là tiền đề vững chắc cho bất kỳ giải pháp nào nhằm phát huy đồng thời những tiềm năng to lớn, đa dạng và các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội khác. QHSDĐ là tiến hành phân chia, sắp xếp hợp lý về mặt không gian và bố trí cân đối các hạng mục sản xuất kinh doanh theo các cấp quản lý sản xuất khác nhau, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu về mặt Nông lâm sản cho nền kinh tế địa phương và Quốc dân. Đặc biệt trong sản xuất nông - lâm nghiệp QHSDĐ có nhiệm vụ quy hoạch sử dụng các loại đất Nông – lâm nghiệp, các phương pháp thâm canh trong Nông – lâm nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng đất và các giải pháp bảo vệ đất chống xói mòn, bảo vệ rừng và môi trường sinh thái. QHSDĐ là một bộ phận cấu thành của quy hoạch tổng thể phát triển nông thôn. Do đó, công tác QHSDĐ cần có sự phối hợp chặt chẽ với quy hoạch phát triển nông thôn mới nhằm tránh sự chồng chéo, hạn chế lẫn nhau giữa các ngành. Thực chất của công tác quy hoạch là tổ chức về không gian và thời gian phát triển cho một ngành hoặc một lĩnh vực sản xuất trong từng giai đoạn cụ thể. Mỗi ngành kinh tế muốn tồn tại và phát triển bền vững thì nhất thiết phải tiến hành quy hoạch, sắp xếp một cách hợp lý, mà trong đó công tác điều tra cơ bản phục vụ cho công tác quy hoạch phát triển phải được đi trước một bước. Vấn đề QHSDĐ có ý nghĩa rất quan trọng đối với nền kinh tế xã hội. Nếu QHSDĐ hợp lý thì nền kinh tế xã hội sẽ phát triển bền vững, trong điều
- 4 kiện ngược lại thì sự phát triển của nền kinh tế xã hội sẽ gặp những cản trở, khó khăn. Ngày nay, trong điều kiện nhu cầu của xã hội về đất đai canh tác, đất xây dựng cơ sở hạ tầng, nguyên liệu gỗ củi…ngày càng lớn thì vấn đề QHSDĐ một cách bền vững càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết và đã trở thành một nguyên tắc hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia nói riêng và trên toàn cầu nói chung. 1.2. Trên thế giới. 1.2.1. Những nghiên cứu liên quan đến cơ sở khoa học của QHSDĐ cấp vĩ mô Khoa học về đất đai đã trải qua hơn một trăm năm nghiên cứu và phát triển, những thành tựu nghiên cứu về phân loại đất và xây dựng bản đồ đất đã được sử dụng làm cơ sở quan trọng cho việc tăng năng suất và sử dụng đất đai một cách hiệu quả. Hiện nay trên thế giới có khoảng 7 tỷ người, theo tài liệu của FAO thì thế giới đang sử dụng khoảng 1,476 tỷ ha đất nông nghiệp, trong đó đất đồi núi có độ dốc trên 100 là 937 triệu ha chiếm 63,5%. Trong quá trình sử dụng nhân loại đã làm hư hại khoảng 1,4 tỷ ha đất. Ước lượng hàng năm toàn cầu mất khoảng 11 triệu ha đất nông nghiệp do các nguyên nhân xói mòn, sa mạc hoá, nhiễm độc hoặc bị chuyển hóa sang các dạng khác. Sự phát triển của QHSDĐ gắn liền với sự phát triển kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Từ thế kỷ thứ XIX, khi nền kinh tế Tư bản chủ nghĩa bắt đầu phát triển với tốc độ mạnh do ngành công nghiệp và giao thông vận tải phát triển thì nhu cầu khối lượng gỗ ngày càng tăng. Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa phương của chế độ phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hoá Tư bản chủ nghĩa. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý luận QHSDĐ đã được hình thành trong hoàn cảnh như vậy và đã được đề cập đến, được thực hiện một cách triệt để, nghiêm túc, nhằm thoả mản nhu cầu của thực tế khách quan xã hội loài
- 5 người. Thời kỳ này đã có những công trình nghiên cứu về QHSDĐ, phần lớn các công trình nghiên cứu này đều xuất phát tại Mỹ. Tại Mỹ, năm 1929 bang Wiscosin đã ra đạo luật sử dụng đất đai trong đó có quy định nguyên tắc sử dụng đất Lâm nghiệp, tiếp theo là xây dựng kế hoạch sử dụng đất đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscosin, kế hoạch này đã xác định các diện tích cho sử dụng Lâm nghiệp, Nông nghiệp và nghỉ ngơi giải trí [53]. Năm 1966 Hội đất học và Hội nông dân học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng QHSDĐ. Tại Đức tác giả Haber năm 1972 đã xuất bản tài liệu “Khái niệm về sử dụng đất khác nhau, đây được coi là lý thuyết sinh thái về quy hoạch sử dụng đất dựa trên quan điểm về mối quan hệ hợp lý giữa tính đa dạng của hệ sinh thái cũng như sự ổn định của chúng với năng suất và khả năng điều chỉnh. Từ năm 1967 Hội đồng Nông nghiệp Châu Âu đã phối hợp với tổ chức FAO tổ chức nhiều hội nghị về phát triển nông thôn và QHSDĐ. Các hội nghị này khẳng định rằng quy hoạch vùng nông thôn trong đó quy hoạch các ngành sản xuất như Nông nghiệp, Lâm nghiệp, chăn nuôi, chế biến nhỏ,… cũng như quy hoạch cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông phải dựa trên cơ sở quy hoạch đất đai. Năm 1971 và 1975 các chuyên gia tư vấn họp tại Rome (Italia) và Geneve (Thuỵ sỹ) để thảo luận về phương pháp luận quy hoạch nông thôn. Nội dung các cuộc thảo luận đã đề cập đến các phương pháp cùng tham gia trong quy hoạch cấp vi mô [23]. Những kết quả phân tích hệ thống canh tác tại Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ đã xác nhận rằng phân tích hệ thống canh tác là một công cụ quy hoạch, lập kế hoạch sử dụng đất cấp địa phương. Năm 1990, Luning đã nghiên cứu kết hợp đánh giá đất đai với phân tích hệ thống canh tác cho QHSDĐ.
- 6 Trong nghiên cứu các hệ thống canh tác, Robert Chamerts năm 1985 đã đưa ra các cách tiếp cận như: Tiếp cận Sondeo của Peter Hildeband - (Hilđebran, 1981); Tiếp cận “ Nông thôn - trở lại - về nông thôn” của Robert Rhoades - (Rhoades, 1982); cách tiếp cận theo tài liệu của RobertChamberrs; cạch tiếp cận chuẩn đoán và thiết kế của ICRAF (Rainree) và bản phân tích theo vùng các hệ canh tác của trường Đại học Cornel (Garrett và đồng tác giả, 1987). Nhìn chung các phương pháp tiếp cận đi theo 2 hướng chính đó là: Tiếp cận từ trên xuống (Top-down approach) và tiếp cận từ dưới lên (Boottom-up approach). Cách tiếp cận thứ nhất ngày càng bộc lộ những hạn chế, kém hiệu quả khi không có sự tham gia của cộng đồng và khi các chương trình thực hiện ở cấp vi mô. Cách tiếp cận thứ 2 được hình thành khi các nhà xã hội học chứng minh rằng sự “không thể thiếu được” vai trò của cộng đồng nông thôn trong quản lý tài nguyên cộng đồng (Robert Chambers). Từ đó “Quy hoạch trên cơ sở cộng đồng” (Community-based Planning) bắt đầu xuất hiện. Khi nghiên cứu hệ thống canh tác năm 1990 tổ chức FAO đã xuất bản cuốn Phát triển hệ thống canh tác (Farming system development) [16].Trong đó đã khái quát phương pháp tiếp cận nông thôn trước đây là phương pháp tiếp cận một chiều ( từ trên xuống). Qua nghiên cứu và thực tiễn FAO đã đưa ra phương pháp tiếp cận mới nhằm phát triển các hệ thống trang trại và cộng đồng nông thôn trên cơ sở bền vững. Theo Erwin (năm1999), phân tích hệ thống canh tác là công cụ cho phân tích các trở ngại trong hệ thống nông trại hộ gia đình để xác định mục tiêu quy hoạch, xác định các kiểu sử dụng đất mới, đánh giá các phương án sử dụng đất khác nhau nhằm mục đích lựa chọn phương án tốt nhất.
- 7 1.2.2. Những nghiên cứu liên quan đến sử dụng đất cấp vi mô có sự tham gia của người dân Vấn đề QHSDĐ có sự tham gia của người dân đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới, trong nước nghiên cứu và công bố kết quả. - Hội thảo quốc tế tại Việt Nam năm 1998 về vấn đề QHSDĐ cấp làng bản [54] đã được tổ chức Nông nghiệp và Lương thực thế giới (FAO) đề cập một cách khá chi tiết cả về mặt khái niệm lẫn sự tham gia trong việc đề xuất các chiến lược QHSDĐ và giao đất cấp làng bản; - Tài liệu Hội thảo giữa trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam và Trường Tổng hợp Kỹ thuật Dresden, vấn đề QHSDĐ có sự tham gia của người dân đã được Holm Uibrig đề cập khá đầy đủ và toàn diện [53]. Tài liệu đã phân tích một cách đầy đủ về mối quan hệ giữa các loại hình canh tác có liên quan như: Quy hoạch rừng, vấn đề phát triển nông thôn, QHSDĐ, phân cấp hạng đất và phương pháp tiếp cận mới trong QHSDĐ; Vấn đề lập kế hoạch sử dụng và quản lý tài nguyên đất cũng được các nhà khoa học và các quốc gia đặc biệt quan tâm. Khởi đầu, công tác lập kế hoạch đựợc xây dựng bằng cách tiếp cận một chiều từ trên xuống. Tuy nhiên phương pháp này sớm bộc lộ những nhược điểm của nó, đó là thiếu vắng sự đóng góp của cộng đồng đân cư sở tại dẫn đến hiệu quả thực tế không cao. Về sau, những nghiên cứu về quy hoạch và quản lý rừng cộng đồng ở Nepal đã chứng tỏ ưu thế của cách tiếp cận mới, đó là cách tiếp cận lấy người dân làm trung tâm trong công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển của cộng đồng. Dựa trên những kết quả thực tiễn ở Ấn Độ, giai đoạn từ năm 1970 đến đầu năm 1980, ở nhiều Quốc gia trên thế giới các phương pháp điều tra, đánh giá truyền thống dần được thay thế bằng các phương pháp điều tra đánh giá có sự tham gia của người dân (PRA) và đánh giá nhanh nông thôn (RRA).
- 8 Phương pháp này nhanh chóng thể hiện được ưu thế và hiệu quả nổi trội của nó trong việc điều tra, đánh giá, lập kế hoạch, QHSDĐ nói chung và đất nông lâm nghiệp nói riêng. Ngày nay, PRA và RRA đã dần dần được hoàn thiện và thể hiện được vai trò không thể thiếu nó trong mọi hoạt động lập kế hoạch, QHSDĐ. - Ở Việt Nam có thể áp dụng những thành tựu nghiên cứu về QHSDĐ trên thế giới, nhưng phải thực hiện một cách linh hoạt cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể đối với từng cộng đồng nông thôn Việt Nam. Quy hoạch phát triển Nông – lâm nghiệp phải dựa trên nền tảng QHSDĐ, kết hợp quy hoạch từ trên xuống bằng các định hướng chiến lược, đồng thời ưu tiên nhu cầu và phạm vi của cộng đồng thông qua quy hoạch phát triển – xây dựng kế hoạch cấp thôn bản. - Hệ thống canh tác trên đất dốc, quan điểm sử dụng đất bền vững là những giải pháp quan trọng và là cơ sở cho QHSDĐ cấp vi mô. 1.2.3. Những kết luận rút ra từ kinh nghiệm QHSDĐ trên thế giới Từ những tài liệu nghiên cứu và kinh nghiệm QHSDĐ trên thế giới ta rút ra một số kết luận sau: - Mặc dầu đã có rất nhiều nghiên cứu, thử nghiệm về quy hoạch, kỹ thuật, phương pháp chuyển giao sử dụng đất nhưng nhìn chung hầu hết các phương pháp đó đều phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, chưa thực sự quan tâm đến lợi ích của người nông dân cũng như vấn đề bức xúc hiện nay là đảm bảo an toàn về sinh tháí môi trường theo hướng phát triển bền vững. - Ở Việt Nam có thể ứng dụng các thành tựu nghiên cứu về QHSDĐ trên thế giới song phải vận dụng một cách linh hoạt sao cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể từng địa phương nông thôn Việt Nam. Quy hoạch phát triển các ngành, các lĩnh vực có liên quan đến sử dụng đất phải dựa trên nền tảng QHSDĐ, kết hợp quy hoạch từ trên xuống dưới bằng các định hướng chiến lược và ưu tiên
- 9 phạm vi theo vùng với nhu cầu của cộng đồng dân cư thông qua quy hoạch phát triển và xây dựng kế hoạch cấp thôn bản. - Hệ thống canh tác trên đất dốc, quan điểm sử dụng đất bền vững là những giải pháp quan trọng và là cơ sở cho quy hoạch sử dụng đất cấp vi mô. - Phương pháp cùng tham gia, phân tích hệ thống canh tác cần vận dụng vào đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội và thể chế chính sách của Việt Nam. 1.3. Quy hoạch sử dụng đất ở Việt Nam 1.3.1. Một số nghiên cứu về cơ sở thực tiễn của QHSDĐ - Từ thế kỷ 15 Lê Quý Đôn đã tổng kết kinh nghiệm của mình về canh tác nông nghiệp trong “Vân đài loại ngữ ” ông đã khuyên nông dân áp dụng luân canh với cây họ đậu nhằm giúp người dân đạt năng suất cao nhất trong sản xuất nông nghiệp; - Trong thời kỳ Pháp thuộc, các công trình nghiên cứu đánh giá và QHSDĐ đã được các nhà khoa học Pháp nghiên cứu phát triển với quy mô rộng lớn; - Giai đoạn 1955 – 1975, công tác điều tra phân loại đã được tổng hợp một cách có hệ thống trong phạm vi toàn miền Bắc. Nhưng từ sau năm 1975 các số liệu nghiên cứu về phân loại đất mới được thống nhất. Xung quanh chủ đề phân loại đất đã có nhiều công trình khác triển khai thực hiện chủ đề phân loại đất trên các vùng sinh thái (Ngô Nhật Tiến, 1986; Đỗ Đình Sâm, 1994...) Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên chỉ mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu cơ bản, thiếu biện pháp đề xuất cần thiết cho việc sử dụng đất, công tác điều tra phân loại đã không gắn liền với công tác sử dụng đất. Những thành tựu về nghiên cứu đất đai trong giai đoạn trên là cơ sở quan trọng góp phần vào việc bảo vệ, cải tạo, quản lý và sử dụng đất đai một cách có hiệu quả trên toàn quốc. Tuy nhiên, ở nước ta vấn đề QHSDĐ cấp vi mô có sự tham gia của người dân mới được nghiên cứu ứng dụng trong những năm gần đây.
- 10 Cấp vi mô thực chất đã được đề cập tới trong nhiều công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau, cho đến nay những nghiên cứu trên vẫn còn hết sức tản mạn và chưa có sự phân tích tổng hợp thành cơ sở lý luận để có thể áp dụng vào thực tiễn; - Công trình “Sử dụng đất tổng hợp và bền vững” của tác giả Nguyễn Xuân Quát (1996) [24] đã phân tích tình hình sử dụng đất đai cũng như mô hình sử dụng đất tổng hợp bền vững, mô hình khoanh nuôi và phục hồi rừng ở Việt Nam. Đồng thời đề xuất tập đoàn cây trồng thích hợp cho các mô hình sử dụng đất tổng hợp bền vững; - Tài liệu về ''Đất rừng Việt Nam'' [1], Nguyễn Ngọc Bình đã đưa ra những quan điểm nghiên cứu và phân loại đất rừng trên cơ sở những đặc điểm cơ bản của đất rừng Việt Nam; - Về luân canh, tăng vụ, trồng xen, trồng gối vụ để sử dụng hợp lý đất đai đã được nhiều tác giả như: Phạm Văn Chiểu 1964; Lê Trọng Cúc 1971; Bùi Huy Đáp 1977; Nguyễn Ngọc Bình 1987; Vũ Tuyên Hoàng 1987; Bùi Quang Toản 1991 đề cập tới nhằm mục đích lựa chọn hệ thống cây trồng phù hợp trên đất dốc vùng đồi núi phía Bắc Việt Nam; - Năm 1996, công trình QHSDĐ Nông nghiệp ổn định ở vùng trung du và miền núi nước ta tác giả Bùi Quang Toản đã đề xuất sử dụng đất Nông nghiệp vùng đồi núi và trung du. Hà Quang Khải, Đặng Văn Phụ (1997) trong chương trình tập huấn hỗ trợ Lâm nghiệp xã hội (LNXH) của trường Đại học Lâm nghiệp đã đưa ra khái niệm về hệ thống sử dụng đất và đề xuất một số hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất bễn vững trong điều kiện Việt Nam [8]. Trong đó, các tác giả đã đi sâu phân tích về: + Quan điểm về tính bền vững + Khái niệm tính bền vững và phát triển bền vững + Hệ thống sử dụng đất bền vững
- 11 + Kỹ thuật sử dụng đất bền vững + Các chỉ tiêu đánh giá tính bền vững trong các hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất - Nghiên cứu hệ thống canh tác ở nước ta được đẩy mạnh hơn từ sau khi đất nước thống nhất, Tổng cục địa chính [43] đã tiến hành quy hoạch đất 3 lần vào các năm 1978, 1985 và 1995. Căn cứ vào điều kiện đất đai, ngành Lâm nghiệp đã phân chia đất đai toàn quốc thành 7 vùng sinh thái… - Vấn đề hệ thống chính sách và những quy định về quản lý và sử dụng đất, cũng như hệ thống quản lý sử dụng đất các cấp được đề cập khá đầy đủ và chi tiết trong báo cáo tóm tắt khảo sát đợt 1 về LNXH nhóm luật và chính sách 1998 của trường Đại học Lâm nghiệp [46]. Tài liệu tập huấn, những quy định và chính sách về quản lý sử dụng đất của Trần Thanh Bình (1997) [2], “Các chính sách có liên quan đến phát triển kinh tế trang trại” [45]; - Về việc sử dụng đất gắn với việc bảo vệ độ phì nhiêu của đất và môi trường ở vùng trung du miền núi phía Bắc Việt Nam, Lê Vĩ (1996) đã nêu ra: + Tiềm năng đất vùng trung du + Hiện trạng đất vùng trung du + Các kiến nghị về sử dụng đất bền vững - Qua nghiên cứu hệ thống Nông nghiệp tại khu vực đồng bằng Sông Hồng, Đào Thế Tuấn (1998) đã phát hiện được nhiều tồn tại, nguyên nhân của nó và đã đề xuất các mục tiêu và giải pháp khắc phục [47]; - Trên cơ sở tổng hợp các luận điểm về các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước các tác giả Trần Văn Diễn, Phạm Tiến Dũng, Phạm Chí Thành và Phạm Đức Viên (1993) đã xây dựng giáo trình hệ thống nông nghiệp. Ngoài phần hệ thống hoá nông nghiệp, các tác giả đã đề xuất chiến lược phát triển, dự kiến cấu trúc và thứ bậc hệ thống nông nghiệp công trình hỗ trợ đắc lực cho công tác nông nghiệp trên các phương diện về lý luận và thực tiễn;
- 12 - Về định hướng QHSDĐ cho cả nước đến năm 2000 năm 1994 đã được Tổng cục Địa chính xây dựng định hướng QHSDĐ trên quy mô cả nước giai đoạn 1995 - 2000. Trong đó việc lập kế hoạch giao đất nông nghiệp, lâm nghiệp có rừng để sử dụng vào mục đích khác cũng được đề cập tới. Báo cáo đánh giá tổng quát hiện trạng sử dụng đất và định hướng phát triển đến năm 2000 làm căn cứ để các các ngành, các địa phương thống nhất triển khai công tác quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất [43]. - Năm 1996 Tác giả Trần An Phong qua nghiên cứu các mô hình sử dụng đất dốc đã đi đến kết luận, biện pháp sử dụng đất có hiệu quả là bố trí một chế độ thâm canh hợp lý, lợi dụng nước tự nhiên một cách triệt để, áp dụng các biện pháp canh tác nhằm bảo vệ giữ độ ẩm tối đa, bảo đảm cây trồng phát triển tốt. - Chương trình tập huấn dự án hỗ trợ LNXH năm 1997 của trường Đại học Lâm nghiệp đã đề cập đến các phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân. Các tác giả: Lý Văn Trọng, Nguyễn Bá Ngãi, Nguyễn Nghĩa Biên và Trần Ngọc Bình (1997) đã phối hợp với các chuyên gia trong và ngoài nước biên soạn [44] tài liệu với những vấn đề chính như sau: + Các khái niệm và phương pháp tiếp cận trong quá trình tham gia; + Các công cụ của phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân; + Tổ chức quá trình đánh giá nông thôn; + Thực hành tổng hợp. - Để làm cơ sở cho chiến lược sử dụng đất hợp lý có hiệu quả theo quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền, trong luận án Phó tiến sỹ khoa học nông nghiệp, Nguyễn Huy Phồn (1997), đã tiến hành đánh giá các loại hình đất chủ yếu trong Nông – Lâm nghiệp góp phần định hướng sử dụng đất vùng trung tâm của miền núi Bắc Bộ Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá một cách tương đối
- 13 có hệ thống về đất đai và hiện trạng sử dụng đất Nông – Lâm nghiệp vùng trung tâm miền núi Bắc Bộ, tác giả đã xây dựng bản đồ thích nghi sử dụng đất tỷ lệ 1/250.000, đối với một số loại hình sử dụng đất bền vững phục vụ các mục tiêu kinh tế và môi trường cho toàn vùng; - Tài liệu tập huấn về QHSDĐ và giao đất Lâm nghiệp (GĐLN) có sự tham gia của người dân tác giả Trần Hữu Viên (1997). Trên cơ sở kết hợp giữa phương pháp QHSDĐ trong nước và phương pháp QHSDĐ của một số dự án quốc tế đang áp dụng tại một số vùng có dự án ở Việt Nam [50]. Trong đó, tác giả đã nêu lên khái niệm, nguyên tắc chỉ đạo, QHSDĐ và giao đất có sự tham gia của người dân; - Trong tài liệu hướng dẫn công tác QHSDĐ và GĐLN có sự tham gia của người dân, Đoàn Diễm (1997) [15] đã tập trung vào các chủ đề sau: + Phương pháp QHSDĐ và GĐLN ở Việt Nam; + Phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp của dự án GCP/VIE/024/ITA. + Những tồn tại của QHSDĐ và GĐLN ở Việt Nam và Quốc tế. + Kiến nghị phương pháp đơn giản về QHSDĐ và GĐLN có sự tham gia của người dân. - Năm 1999, Trần Hữu Viên và Lê Sỹ Việt [51] đã nêu rõ: xã là đơn vị quản lý hành chính nhỏ nhất, là đơn vị quản lý và tổ chức sản xuất Lâm nghiệp trong các thành phần kinh tế tập thể và tư nhân. Công tác quy hoạch cần giải quyết những nội dung sản xuất, các giải pháp kinh tế, kỹ thuật thật và xã hội thật chi tiết và cụ thể. Những tài liệu nghiên cứu trên là cơ sở quan trọng để tiến hành QHSDĐ và giao đất theo phương pháp người dân cùng tham gia ở nước ta.
- 14 1.3.2. Một số nghiên cứu đánh giá ban đầu về việc vận dụng phương pháp QHSDĐ vào thực tiễn ở Việt Nam - Nghiên cứu và thử nghiệm đầu tiên về QHSDĐ và GĐLN cấp xã trong những năm gần đây được tiến hành với quy mô rộng rãi. Những nghiên cứu đầu tiên được tiến hành tại các xã như: Xã Tử Nê, huyện Tân Lạc, xã Hang Kia, xã Pà Cò huyện Mai Châu, tỉnh Hoà Bình vào năm 1993 do Dự án đổi mới chiến lược phát triển lâm nghiệp thực hiện. Qua đó, dự án đã tổng hợp những bài học kinh nghiệm cho thấy công tác QHSDĐ được coi là một nội dung chính cần được thực hiện trước khi giao đất trên cơ sở tôn trọng tập quán làm nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân, Già làng, Trưởng bản và chính quyền cấp xã [48]. Cần phải có kế hoạch sử dụng đất chi tiết, tránh được các mâu thuẫn của cộng đồng phát sinh sau khi quy hoạch. - Trong chương trình phát triển Nông thôn miền núi Việt Nam – Thuỵ Điển giai đoạn 1996 - 2001 trên phạm vi 5 tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang và Phú Thọ Dự nán đã tiến hành thử nghiệm trong công tác quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp cấp xã trên cơ sở kế hoạch phát triển cấp thôn bản và hộ gia đình. Theo Bùi Đình Toái [42] và Nguyễn Hải Nam [22] năm 1998, tỉnh Lào Cai đã xây dựng mô hình sử dụng PRA để tiến hành QHSDĐ; tỉnh Hà Giang đã xây dựng quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất 3 cấp đó là xã, thôn và hộ gia đình. Đến năm 1998 trên toàn vùng dự án có 78 thôn bản được QHSDĐ theo phương pháp có người dân tham gia. Công tác QHSDĐ trong giai đoạn này đã căn cứ vào nhu cầu và nguyện vọng của người sử dụng đất với cách tiếp cận từ dưới lên tạo ra kế hoạch có tính khả thi cao hơn. Tuy nhiên, trong khi tiến hành QHSDĐ ở đây chưa tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa chủ trương của Nhà nước với nhu cầu nguyện vọng của nhân dân địa phương. Vấn đề đặt ra ở đây là phải tìm ra một phương pháp quy
- 15 hoạch tại địa phương với sự kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của Chính phủ và nhu cầu sử dụng đất của cộng đồng dân cư; - Năm 1996, tác giả Vũ Văn Mễ và Desloges đã thử nghiệm phương pháp QHSDĐ có sự tham gia của người dân tại Quảng Ninh [20] đã đề xuất các nguyên tắc và các bước cơ bản khi QHSDĐ trong đó cấp xã đóng vai trò phát triển trong phương pháp quy hoạch. Những nguyên tắc đó là: + Kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của Chính phủ và nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân địa phương; + Tiến hành trong khuôn khổ luật pháp hiện hành và các nguồn lực hiện có tại địa phương; + Bảo đảm tính công bằng, chú ý đến cộng đồng dân tộc miền núi, nhóm người nghèo và vai trò của phụ nữ; + Bảo đảm phát triển bền vững; + Bảo đảm nguyên tắc cùng tham gia; + Kết hợp hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng [19;20]. - Khi thử nghiệm phương pháp này cho các tỉnh Thừa Thiên Huế, Gia Lai và Sa Đéc tác giả đã cho rằng QHSDĐ cấp xã phải dựa trên tình trạng sử dụng đất hiện tại, tiềm năng sản xuất của đất, các quy định của Nhà nước, nhu cầu và nghĩa vụ của nhân dân. Xem xét mọi vấn đề liên quan đến đất đai và sử dụng tài nguyên [19;20] cho thấy cách tiếp cận tổng hợp và toàn diện này phù hợp và xu thế chung của thế giới hiện nay về áp dụng các phương pháp quy hoạch tổng hợp; - Năm 1996, Qua tổng kết các kinh nghiệm nhiều nơi Cục kiểm lâm soạn thảo và xuất bản tài liệu hướng dẫn “Nội dung, biện pháp và trình tự tiến hành giao đất lâm nghiệp trên địa bàn xã” [11]. Đây là tài liệu sửa đổi lần thứ 2 có nhiều bổ sung vào tài liệu năm 1994, đã đáp ứng phần nào về những hướng dẫn cơ bản về nội dung và nguyên tắc. Những yêu cầu về chuyên môn
- 16 và phương pháp trong tài liệu hướng dẫn này còn mang nhiều phương pháp điều tra truyền thống, phù hợp với điều tra rừng trước đây. Bản hướng dẫn này cần hoàn thiện theo hướng dừng lại ở những nguyên tắc và phương pháp cơ bản, không nên có bản hướng dẫn chi tiết cụ thể dẫn đến ngộ nhận rằng quy hoạch lâm nông nghiệp cấp địa phương theo một chu trình cứng; - Chương trình hợp tác Việt - Đức về phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà [3] ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp QHSDĐ và GĐLN địa bàn 2 xã thuộc 2 huyện Yên Châu tỉnh Sơn La và huyện Tủa Chùa tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên). Trên cơ sở hướng dẫn trực tiếp của Chi cục kiểm lâm, với cách làm 6 bước lấy cấp thôn bản làm đơn vị quy hoạch và GĐLN để áp dụng cách tiếp cận LNXH đối với cộng đồng dân tộc vùng cao. Sự khác biệt ở đây với chương trình khác là lấy cấp thôn bản làm đơn vị quy hoạch phù hợp với đặc thù vùng cao, phù hợp với kết quả nghiên cứu xã hội và cộng đồng của Donovan và nhiều người khác, năm 1997 [12] ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam - Kết quả nghiên cứu “Đề tài” của Nguyễn Bá Ngãi [23] cùng với nhóm tư vấn dự án khu vực Lâm nghiệp Việt nam - ADB đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy hoạch và xây dựng tiểu dự án cấp xã. Mục tiêu là đưa ra một phương pháp quy hoạch Lâm - nông nghiệp cấp xã có sự tham gia của người dân để xây dựng tiền Dự án Lâm - nông nghiệp cho 50 xã của 4 tỉnh: Thanh Hoá; Gia Lai; Phú Yên và Quảng Trị. [21]. Áp dụng phương pháp này đã rút ra được kinh nghiệm là: + Khi tiến hành quy hoạch phải dựa trên kết quả đánh giá và điều tra nguồn lực một cách cụ thể, chi tiết và đầy đủ; + QHSDĐ là cơ sở quan trọng cho việc QHSDĐ Lâm - nông nghiêp. + Phân tích hệ thống canh tác làm cơ sở cho việc lựa chọn cây trồng và phương thức sử dụng đất;
- 17 + Quy hoạch Lâm - nông nghiệp cấp xã được tiến hành từ khâu lập kế hoạch cấp thôn bản phải có sự tham gia trực tiếp của người dân; + Tổng hợp và cân đối kế hoạch phạm vi cấp xã trên cơ sở: Định hướng phát triển chiến lược của cấp huyện, tỉnh. Khả năng hỗ trợ từ bên ngoài, đối thoại và thống nhất trực tiếp giữa đại diện các cộng đồng với nhau và giữa cộng đồng với cán bộ các cấp; + Có sự thống nhất chung của toàn xã, thông qua các cuộc họp cộng đồng cấp thôn xóm, ... - Trong giai đoạn những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, vấn đề QHSDĐ Nông – lâm nghiệp được nhiều tác giả nghiên cứu và đề cập tới. Ví dụ như Reichenberg, (1992) cho rằng ở Việt Nam chưa có QHSDĐ cấpvi mô, được xây dựng trên cơ sở xem xét các khía cạnh của tất cả các ngành trong tương lai; - Trong dự án phát triển nông thôn ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn trước đây đã thực hiện các hoạt động QHSDĐ Nông – lâm nghiệp, tăng cường kỹ năng trong Nông lâm kết hợp cho 41 bản, với 1.155 người tham gia, đã tiến hành quản lý trồng trọt và lập kế hoạch phát triển thôn bản, đồng thời phát triển được 612 mô hình ở Bắc Cạn và 89 mô hình ở Cao Bằng. - Trong những năm trước đây, các chương trình và dự án Nông lâm nghiệp như dự án PAM, Việt - Đức (KWF) triển khai tại các tỉnh: Lạng Sơn, Bắc Giang, Thanh Hoá, Quảng Ninh... do GTZ tài trợ cũng đã sử dụng triệt để phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia người dân. Về mặt lý luận, một số đề tài nghiên cứu của Đinh Văn Đề [14], Nguyễn Hữu Tân [29], Nguyễn Bá Ngãi [23], Nguyễn Phúc Cường [13], Trần Thanh Huyền [17] ... đã tiến hành ở một số địa phương, có những đánh giá và kết quả có ý nghĩa thực tiễn nhất định.
- 18 1.3.3. Các văn bản chính sách Nhà nước liên quan đến QHSDĐ - Hiến pháp của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 nêu: Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài [26]; + Luật Đất đai năm 1993 khẳng định vai trò của cấp xã trong quản lý và sử dụng đất đai tại địa phương. Trong 7 nội dung quản lý nhà nước của cấp xã về đất đai có 4 nội dung mà cấp xã cùng với các cơ quan cấp trên thực hiện, đó là: điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá và phân hạng, lập bản đồ địa chính; Quy hoạch và kế hoạch hóa việc sử dụng đất; đăng ký đất đai, lập và quản lý sổ địa chính, quản lý các hợp đồng sử dụng đất, thống kê, kiểm kê đất; giải quyết tranh chấp về đất đai, khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong phạm vi quản lý và sử dụng đất đai của địa phương [27]; - Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá XI tại kỳ họp thứ 4, ngày 26 tháng 11 năm 2003 đã thông qua Luật đất đai năm 2003 nêu rõ: Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những công cụ quan trọng nhất để Nhà nước thống nhất quản lý đối với toàn bộ đất đai, đảm bảo cho đất đai được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả. Trong giai đoạn hiện nay, nội dung QHSDĐ không đơn thuần chỉ là sự khoanh định các loại đất để phù hợp với từng giai đoạn phát triển của từng vùng, của cả nước, bên cạnh vấn đề này, QHSDĐ phải giải quyếtt một cách đồng bộ những yêu cầu về môi trường, về giải pháp tổ chức thực hiện đảm bảo đúng với mục tiêu của kỳ quy hoạch đồng thời phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và hiện trạng sử dụng đất [28]. Luật Đất đai năm 2003 đã quy định rõ 3 loại đất (đất Nông nghiệp, đất phi Nông nghiệp, đất chưa sử dụng) và 6 quyền sử dụng đất bao gồm (được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất; hưởng các lợi ích do công trình của Nhà nước về bảo vệ, cải tạo đất Nông nghiệp; được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 301 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 322 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn