intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Quy hoạch phát triển lâm nghiệp huyện Yên Châu tỉnh Sơn La

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:105

35
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn này nghiên cứu xây dựng được cơ sở khoa học cho quy hoạch phát triển lâm nghiệp huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La. Xác định được các quan điểm và định hướng quy hoạch phát triển lâm nghiệp ổn định trong 10 năm. Đề xuất các nội dung cơ bản của quy hoạch phát triển lâm nghiệp huyện trong 10 năm tới. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Quy hoạch phát triển lâm nghiệp huyện Yên Châu tỉnh Sơn La

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ----------------------- Phạm Hồng Tiến QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN LÂM NGHIỆP HUYỆN YÊN CHÂU TỈNH SƠN LA LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội - 2010
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP --------------------- Phạm Hồng Tiến QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN LÂM NGHIỆP HUYỆN YÊN CHÂU TỈNH SƠN LA Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. Nguyễn Thị Bảo Lâm Hà Nội - 2010
  3. 1 MỞ ĐẦU Yên Châu là huyện miền núi, biên giới về phía Đông của tỉnh Sơn La. Trong những năm qua kinh tế đồi rừng trên địa bàn huyện đã có bước phát triển, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội và cải thiện môi trường sinh thái của huyện nói riêng, của tỉnh nói chung. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, được sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước bằng các chương trình dự án, công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng của huyện từng bước được cải thiện, độ che phủ của rừng tăng - Góp phần nâng độ che phủ rừng chung của tỉnh đạt 42,08% năm. Tuy nhiên, trong quá trình bảo vệ và phát triển rừng cũng như trong quản lý sử dụng rừng còn nhiều tồn tại và bất cập nảy sinh: Rừng và đất lâm nghiệp đã được giao, khoán ổn định lâu dài theo quy định của Nhà nước nhưng sử dụng còn kém hiệu quả; năng suất, chất lượng rừng không cao; tình trạng khai thác rừng trái phép, sâu bệnh hại rừng chưa được ngăn chặn triệt để; quy hoạch 3 loại rừng đã thực hiện song chưa sát với thực tế của địa phương; việc sử dụng rừng chưa đúng mục đích, không theo quy hoạch; hiện tượng lấn chiếm, mua bán, chuyển nhượng đất rừng trái phép còn xảy ra. Những tồn tại và bất cập này làm cho công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng gặp nhiều khó khăn, giá trị đích thực của rừng chưa được khai thác và sử dụng hiệu quả. Lâm nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân với nhiều lĩnh vực hoạt động, muốn kinh doanh toàn diện, lợi dụng tổng hợp và sử dụng bền vững tài nguyên rừng thì nhất thiết phải coi trọng công tác lập quy hoạch và kế hoạch sản xuất lâm nghiệp. Việc nghiên cứu, quy hoạch phát triển lâm nghiệp cho huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La nhằm bố cục hợp lý về mặt không gian tài nguyên rừng và bố trí cân đối các hạng mục sản xuất kinh
  4. 2 doanh, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch, định hướng cho sản xuất kinh doanh lâm nghiệp đáp ứng nhu cầu lâm sản cho nền kinh tế quốc dân, cho kinh tế địa phương, cho xuất khẩu và cho đời sống nhân dân, đồng thời phát huy những tác dụng có lợi khác của rừng là việc làm hết sức cần thiết. Để có những cơ sở, luận cứ góp phần quy hoạch phát triển lâm nghiệp trên địa bàn huyện cho phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, nhằm quản lý, bảo vệ chặt chẽ, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên quý giá, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Quy hoạch phát triển lâm nghiệp huyện Yên Châu tỉnh Sơn La”.
  5. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN QUY HOẠCH LÂM NGHIỆP 1.1. Trên Thế giới Quy hoạch lâm nghiệp là một bộ phận cấu thành của quy hoạch tổng thể phát triển nông thôn và nằm trong quy hoạch vùng. Chính vì vậy công tác quy hoạch lâm nghiệp cần có sự phối hợp chặt chẽ với quy hoạch phát triển nông thôn nhằm tránh sự chồng chéo quy hoạch sau đè lên quy hoạch trước, hạn chế lẫn nhau giữa các ngành và tuân thủ theo nguyên tắc, định hướng của Quy hoạch vùng. Nói chung quy hoạch chính là tổ chức không gian và thời gian cho phát triển kinh tế, xã hội, môi trường hoặc cho một ngành, một lĩnh vực sản xuất trong từng giai đoạn cụ thể. Mỗi ngành kinh tế muốn tồn tại, phát triển thì nhất thiết phải tiến hành quy hoạch, sắp xếp một cách hợp lý, trong đó công tác điều tra cơ bản phục vụ cho quy hoạch phải đi trước một bước. 1.1.1. Quy hoạch vùng lãnh thổ của một số nước trên thế giới 1.1.1.1. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Pháp Theo quan điểm chung của hệ thống các mô hình quy hoạch vùng M.Thénevin (M. Pierre Thénevin), một chuyên gia thống kê đã giới thiệu một số mô hình quy hoạch vùng được áp dụng thành công miền Tây Nam nước cộng hoà Côte d’ivoire. Trong mô hình quy hoạch vùng này, người ta đã nghiên cứu hàm mục tiêu cực đại giá trị tăng thêm xã hội với các ràng buộc trong nội vùng, có quan hệ với các vùng khác và với nước ngoài. Thực chất mô hình là một bài toán quy hoạch tuyến tính có cấu trúc: a) Các hoạt động sản xuất
  6. 4 - Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và trồng trọt công nghiệp với các mức thâm canh cao độ, thâm canh trung bình và cổ điển (truyền thống). - Hoạt động khai thác rừng - Hoạt động đô thị: Chế biến gỗ, bột giấy, vận chuyển, dịch vụ thương mại... b) Nhân lực theo các dạng thuê thời vụ, các loại lao động nông nghiệp, lâm nghiệp. c) Cân đối xuất nhập, thu chi và các cân đối khác vào ràng buộc về diện tích đất, về nhân lực, về tiêu thụ lương thực... Quy hoạch vùng nhằm đạt mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng tăng thêm giá trị sản phẩm của xã hội theo phương pháp mô hình hoá trong điều kiện thực tiễn của vùng, so sánh với vùng xung quanh và nước ngoài. 1.1.1.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari trước đây a) Mục đích của quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari - Sử dụng một cách hiệu quả nhất lãnh thổ của đất nước - Bố trí hợp lý các hoạt động của con người nhằm đảm bảo tái sản xuất mở rộng. - Xây dựng đồng bộ môi trường sống. - Quy hoạch lãnh thổ đất nước được phân thành các vùng: + Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên phải bảo vệ. + Lãnh thổ thiên nhiên không có nông thôn, sự tác động của con người vào đây rất ít. + Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên có mạng lưới nông thôn, có sự can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho nghỉ mát. + Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp không có mạng lưới nông thôn nhưng có sự tác động của con người. + Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp có mạng lưới nông thôn và sự
  7. 5 can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. + Lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con người. Trên cơ sở quy hoạch vùng lãnh thổ cả nước, tiến hành quy hoạch lãnh thổ vùng và quy hoạch lãnh thổ địa phương. Trên cơ sở quy hoạch vùng lãnh thổ, bao gồm các vùng lớn ranh giới bằng một tỉnh hoặc lớn hơn một tỉnh. Nhiệm vụ khảo sát quy hoạch lãnh thổ vùng, trong đó có quy hoạch vùng nông nghiệp là sự bố trí đúng đắn và hợp lý các hoạt động khác trên lãnh thổ vùng, sử dụng một cách có hiệu quả nhất là nguồn tài nguyên thiên nhiên, liên hiệp với các môi trường sống, hoàn thiện mạng lưới nông thôn. b) Nội dung của quy hoạch vùng lãnh thổ Đồ án quy hoạch lãnh thổ địa phương là thể hiện quy hoạch chi tiết các liên hiệp nông - công nghiệp và liên hiệp công - nông nghiệp và giải quyết các vấn đề sau. - Cụ thể hoá và chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp. - Phối hợp hợp lý sản xuất nông nghiệp và công nghiệp với mục đích liên kết dọc. - Xây dựng các mạng lưới công trình phục vụ lợi ích công cộng và sản xuất. - Tổ chức đúng đắn mạng lưới khu dân cư và phục vụ công cộng liên hợp trong phạm vi hệ thống nông thôn. - Bảo vệ môi trường thiên nhiên và tạo điều kiện tốt nhất cho nhân dân lao động ăn, ở, nghỉ ngơi. 1.1.2. Quy hoạch sử dụng đất Quy hoạch sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của Nhà nước về tổ chức sử dụng đất một cách đày đủ, hợp lý có hiệu quả cao thông qua việc phân phối lại quỹ đất. Tổ chức sử dụng đất như
  8. 6 một tư liệu sản xuất cùng với các tư liệu sản xuất khác gắn liền với đất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả sản xuất xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất, bảo vệ môi trường. - Về bản chất: đất đai là đối tượng của mối quan hệ sản xuất, quy hoạch sử dụng đất không chỉ nằm ở khía cạnh kỹ thuật hay hình thức pháp lý mà nó nằm ở bên trong việc tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất đặc biệt gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội và nó được thể hiện ở ba tính chất. + Pháp chế: đảm bảo chế độ quản lý và sử dụng đất theo đúng pháp luật như xác định về mục đích chuyển quyền sử dụng đất. + Kỹ thuật: công tác điều tra, khảo sát, xây dựng bản đồ, xử lý số liệu trên cơ sở khoa học kỹ thuật. + Kinh tế: nhằm khai thác triệt để và có hiệu quả tiềm năng của đất. - Về nguyên tắc: + Chấp hành quyền sở hữu của Nhà nước về đất đai, củng cố và hoàn thiện đơn vị sử dụng đất. + Sử dụng tài nguyên đất vì lợi ích của nền kinh tế Quốc dân nói chung và từng ngành nói riêng, trong đó ưu tiên cho ngành nông nghiệp. + Tạo ra những điều kiện tổ chức lãnh thổ để thực hiện những nhiệm vụ kế hoạch của Nhà nước, của riêng ngành nông nghiệp và từng đơn vị sản xuất cụ thể. + Tạo ra những điều kiện tổ chức lãnh thổ để nâng cao hiệu quả trên cơ sở các phương thức quản lý kinh tế tiên tiến để nâng cao độ màu mỡ của đất, nâng cao trình độ canh tác và hiệu quả sử dụng máy móc. + Sử dụng đất tiết kiệm, bảo vệ đất, bảo vệ thiên nhiên. + Khi quy hoạch sử dụng đất phải tính đến các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của từng vùng, từng đơn vị, xí nghiệp xử dụng đất. 1.1.3. Quy hoạch lâm nghiệp
  9. 7 Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do công nghiệp và giao thông vận tải phát triển nên khối lượng gỗ yêu cầu ngày càng tăng. Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa phương của phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Thực tế sản xuất lâm nghiệp đã không còn bó hẹp trong việc sản xuất gỗ đơn thuần mà cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu hoạch lợi nhuận lâu dài cho các chủ rừng. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý luận quy hoạch lâm nghiệp và điều chế rừng đã được hình thành trong hoàn cảnh như vậy. Đầu thế kỷ 18, phạm vi quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc “khoanh khu chặt luôn chuyển”, có nghĩa là đem trữ lượng hoặc diện tích tài nguyên rừng đem chia đều cho từng năm của chu kỳ khai thác và tiến hành khoanh khu chặt luôn chuyển theo trữ lượng hoặc diện tích. Phương thức này phục vụ cho phương thức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai thác ngắn. Sau cách mạng công nghiệp, vào thế kỷ 19 phương thức kinh doanh rừng chồi được thay bằng phương thức kinh doanh hạt với chu kỳ khai thác dài. Và phương thức “Khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ cho phương thức “Chia đều” của Hatig đã chia chu kỳ khai thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó khống chế lượng chặt hàng năm. Sau đó phương pháp "Bình quân thu hoạch" ra đời, quan điểm phương pháp này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kì khai thác hiện tại, đồng thời vẫn đảm bảo thu hoạch được liên tục trong chu kì sau. Và đến cuối thế kỉ 19, xuất hiện phương pháp “lâm phần kinh tế” của Judeich, phương pháp này khác với phương pháp “bình quân thu hoạch” về căn bản, Judeich cho rằng những lâm phần nào đảm bảo thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ được đưa vào diện khai thác. Hai phương pháp “Bình quân thu hoạch” và “lâm phần kinh tế” chính là tiền đề của hai phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác nhau.
  10. 8 Phương pháp “Bình quân thu hoạch” và sau này là phương pháp “Cấp tuổi” chịu ảnh hưởng của “lý luận rừng tiêu chuẩn”, có nghĩa là rừng phải có kết cấu tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích và trữ lượng, vị trí và đưa các cấp tuổi cao vào diện tích khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng được dùng phổ biến ở các nước có tài nguyên rừng phong phú. Còn phương pháp “lâm phần kinh tế” và hiện nay là phương pháp “lâm phần” không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần tiến hành phân tích, xác định sản lượng và biện pháp kinh doanh, phương thức điều chế rừng. Cũng từ phương pháp này còn phát triển thành “phương pháp kinh doanh lô” và “phương pháp kiểm tra” . 1.2. Ở Việt Nam 1.2.1. Quy hoạch vùng Trong quá trình xây dựng nền kinh tế, đã quy hoạch các vùng chuyên canh lúa ở vùng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, các vùng rau thực phẩm cho các thành phố lớn, các vùng cây công nghiệp ngắn ngày (hàng năm): Vùng bông Thuận Hải, vùng đay Hải Hưng, vùng thuốc lá Quảng An - Cao Bằng, Ba Vì - Hà Sơn Bình, Hữu Lũng - Lạng Sơn, Nho Quan - Hà Nam Ninh, vùng mía Vạn Điểm, Việt Trì, Sông Lam, Quảng Ngãi...Các vùng cây công nghiệp dài ngày (lâu năm): Vùng cao su Sông Bé, Đồng Nai, Buôn Hồ - Đắc Lắc, Chư Par - Gia Lai Kon Tum, vùng cà phê Krông Búc, Krông Bách - Đắc Lắc, Chư Pả, Ninh Đức - Gia Lai Kon Tum (Hợp tác với Liên Xô trước đây, Cộng hoà dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Bungari) vùng chè ở Hoàng Liên Sơn, Mộc Châu, Bắc Thái, Vĩnh Phú, Hà Tuyên, Lâm Đồng, Gia Lai Kon Tum, vùng dâu tằm Bảo Lộc - Lâm Đồng... 1.2.2. Quy hoạch sử dụng đất ở Việt Nam Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ngày càng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chỉ đạo một cách sát sao bằng các văn bản pháp luật và được xem
  11. 9 như là một luận chứng cho việc phát triển nền kinh tế đất nước. Điều ngày được thể hiện qua các giai đoạn sau: 1.2.2.1. Thời kỳ trước những năm 1980 - Thời kỳ này, nước ta mới thống nhất, đang chú trọng khắc phục hậu quả chiến tranh, quy hoạch sử dụng đất chưa được coi trọng. Tuy nhiên đến cuối năm 1978 các phương án phân vùng nông - lâm nghiệp và chế biến nông - lâm sản của 7 vùng kinh tế ở tất cả các tỉnh đã được lập kế hoạch và được Chính Phủ phê duyệt. Thời kỳ này, Chính Phủ chỉ đạo phân vùng quy hoạch nông - lâm nghiệp phục vụ cho phát triển nông - lâm nghiệp, còn các loại đất khác chưa được đề cập tới. Hạn chế của thời kỳ này là thiếu số liệu điều tra cơ bản về đất đai, tính khả thi của các phương án còn thấp vì chưa tính được khả năng đầu tư. 1.2.2.2. Thời kỳ 1981 - 1986 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã chỉ ra: “Xúc tiến công tác điều tra cơ bản, dự báo, lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất, nghiên cứu chiến lược kinh tế xã hội, dự thảo kế hoạch triển vọng để chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm sau (1986 - 1990). Kết quả trong tài liệu quy hoạch sử dụng đất chỉ đề cập từ cấp tỉnh trở lên và chưa đề cập đến cấp xã. 1.2.2.3. Thời kỳ 1987 - 1992 Năm 1987 luật đất đai đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho quy hoạch sử dụng đất. Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời, cụ thể tại Điều 17 trong hiến pháp nêu rõ: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý” và Điều 18 hiến pháp nêu rõ: “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo đúng mục đích và có hiệu quả.
  12. 10 1.2.2.4. Thời kỳ từ năm 1993 đến nay Tháng 7 năm 1993 luật đất đai sửa đổi được công bố Từ năm 1993 đến nay, Tổng cục địa Chính đã triển khai quy hoạch đất đai toàn quốc giai đoạn 2006 - 2020. Dự án quy hoạch được Chính Phủ thông qua và Quốc hội phê chuẩn. Đây là căn cứ quan trọng để xây dựng quy hoạch đất đai của bộ, ngành, tỉnh. Luật đất đai năm 2003 quy định cụ thể về công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Điều 21 quy định nguyên tắc, căn cứ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Điều 23 quy định về nội dung chủ yếu của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Điều 25 quy định rõ cả 4 cấp hành chính trong cả nước phải lập quy hoạch sử dụng đất. Điều 26 quy định về thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Điều 29 thực hiện quy hoạch sử dụng đất. Ngày 01/7/2004 Luật đất đai mới chính thức có hiệu lực. Luật quy định rõ về công tác quản lý đất đai, trong đó nêu rõ nội dung, công tác quản lý quy hoạch sử dụng đất. Ngày 01/11/2004 Chính Phủ ban hành nghị định số 181/2004/NĐ-CP về việc thi hành luật đất đai. Ngày 01/11/2004 Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành thông tư số 30/2004/TT-BTNMT về việc hướng dẫn, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. 1.2.3. Quy hoạch lâm nghiệp Quy hoạch lâm nghiệp áp dụng ở nước ta ngay từ thời kỳ Pháp thuộc, như việc xây dựng phương án điều chế rừng chồi, sản xuất củi. Điều chế rừng Thông theo phương pháp hạt đều... Đến năm 1955 - 1957, tiến hành sơ thám và mô tả để ước lượng tài nguyên rừng. Năm 1958 - 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền Bắc. Mãi đến năm 1960 - 1964, công tác quy hoạch mới áp dụng ở miền Bắc. Từ năm 1965 đến nay, lực lượng quy hoạch lâm nghiệp
  13. 11 ngày càng được tăng cường và mở rộng. Viện điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với lực lượng điều tra quy hoạch của Sở lâm nghiệp (nay là Sở Nông nghiệp và PTNT) không ngừng cải tiến phương pháp điều tra, quy hoạch của các nước ngoài cho phù hợp với trình độ và điều kiện tài nguyên rừng ở nước ta. Tuy nhiên, so với lịch sử phát triển của các nước khác thì quy hoạch lâm nghiệp nước ta hình thành và phát triển muộn hơn nhiều. Vì vậy những nghiên cứu cơ bản về kinh tế, xã hội, kỹ thuật và tài nguyên rừng làm cơ sở cho công tác quy hoạch lâm nghiệp chưa được giải quyết, nên công tác này ở nước ta đang trong giai đoạn vừa tiến hành vừa nghiên cứu áp dụng [giáo trình QHLN]. Theo chiến lược phát triển lâm nghiệp Quốc gia giai đoạn 2006 - 2020 thì một trong những tồn tại mà Bộ Nông nghiệp và PTNT đánh giá là: “Công tác quy hoạch nhất là quy hoạch dài hạn còn yếu và chậm đổi mới, chư kết hợp chặt chẽ với quy hoạch của các ngành khác, còn mang nặng tính bao cấp và thiếu tính khả thi. Chưa quy hoạch được 3 loại rừng hợp lý và chưa thiết lập được lâm phần ổn định trên thực địa...” Đây chính là nhiệm vụ nặng nề và cấp bách đối với ngành lâm nghiệp ở nước ta hiện nay. [Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020] 1.2.3.1. Đặc thù của công tác quy hoạch lâm nghiệp Địa bàn của quy hoạch lâm nghiệp rất đa dạng, phong phú và vô cùng phức tạp từ vùng ven biển, trung du, núi cao, biên giới và hải đảo. Thường có địa hình cao, độ dốc lớn và hiểm trở bị chia cắt bởi những ngọn núi cao, giao thông đi lại rất khó khăn và có nhiều ngành kinh tế đang hoạt động. Mặt khác địa bàn vùng quy hoạch lâm nghiệp cũng là nơi cư trú của nhiều đồng bao dân tộc ít người sinh sống, trình độ dân trí thấp, còn nhiều hủ tục lạc hậu, kinh tế chậm phát triển, đời sống vật chất, tinh thần còn nhiều khó khăn, người dân bị bó buộc trong hoàn cảnh với miếng ăn trước mắt. Trong khi đó chu kỳ kinh
  14. 12 doanh cây lâm nghiệp ít nhất cũng từ 6 - 8 năm thậm chí 10 năm 20 năm và nhiều hơn thế. Chính vì vậy mà người dân không chịu tự giác bỏ vốn ra trồng rừng chỉ khi biết chắc chắn sẽ có lợi. Mục tiêu của quy hoạch lâm nghiệp rất đa dạng như: quy hoạch rừng phòng hộ (phòng hộ đầu nguồn, ven biển, phòng hộ môi trường); quy hoạch rừng đặc dụng (các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh...) và quy hoạch phát triển rừng sản xuất. Về quy mô: công tác quy hoạch lâm nghiệp bao gồm cả tầm vĩ mô và vi mô như: quy hoạch toàn quốc, từng vùng lãnh thổ, tỉnh, xí nghiệp, lâm trường... Lực lượng tham gia làm công tác quy hoạch lâm nghiệp luôn phải lưu động, điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, khó khăn về mọi mặt... Đội ngũ cán bộ xây dựng phương án quy hoạch cũng rất đã dạng bao gồm cả lực lượng của trung ương và địa phương, thậm chí các ngành khác cũng có thể tham gia làm quy hoạch lâm nghiệp (công an, quân đội, nông nghiệp...) trong đó có một số bộ phận được đào tạo bài bản qua các trường lớp, song phần lớn chỉ dựa vào kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong ngành lâm nghiệp. 1.2.3.2. Những yêu cầu của công tác quy hoạch lâm nghiệp phục vụ chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp nông thôn. Công tác quy hoạch lâm nghiệp được triển khai dựa trên những chủ trương, chính sách và định hướng phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước, chính quyền các cấp trên từng địa bàn cụ thể. Với mỗi phương án quy hoạch lâm nghiệp phải đạt được: - Hoạch định rõ ranh giới đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp và đất do các ngành khác sử dụng. Trong đó đất nông nghiệp và đất lâm nghiệp được quan tâm hàng đầu vì là hai ngành chính sử dụng đất đai. - Xác định một số giải pháp đảm bảo thực hiện những nội dung quy hoạch.
  15. 13 - Trên phần đất lâm nghiệp đã được xác định, ta tiến hành hoạch định lại 3 loại rừng (rừng phòng hộ, đặc dụng và sản xuất). Từ đó xác định các giải pháp lâm sinh thích hợp với từng loại rừng và đất rừng như: bảo vệ làm giàu rừng, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên, trồng rừng, và thực hiện các biện pháp nông lâm kết hợp... - Tính toán nhu cầu đầu tư (chủ yếu là nhu cầu lao động, vật tư, thiết bị và nhu cầu vốn) những nhu cầu này chủ yếu phục vụ cho công tác lập kế hoạch sản xuất ở những bước tiếp theo. - Đổi mới một số phương án quy hoạch có quy mô lớn và đề xuất các chương trình, dự án cần ưu tiên để triển khai và bước tiếp theo là lập dự án đầu tư hoặc báo cáo nghiên cứu khả thi. 1.2.3.3. Các văn bản, chính sách Nhà nước liên quan đến quy hoạch lâm nghiệp - Hiến pháp Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 nêu: “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”. - Luật đất đai năm 2003 quy định rõ 3 loại đất: Đất nông nghiệp; đất phi nông nghiệp; đất chưa sử dụng và 6 quyền sử dụng bao gồm: được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất; hưởng các lợi ích do công trình của Nhà nước về bảo vệ, cải tạo đất nông nghiệp; được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo đất nông nghiệp; được Nhà nước bảo hộ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình; khiếu nại, tố cáo khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai.
  16. 14 - Luật bảo vệ phát triển rừng năm 2004 phân định rõ 3 loại rừng: rừng phòng hộ, đặc dụng và sản xuất làm cơ sở cho quy hoạch lâm nghiệp. Chỉ thị 38/CT-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về quy hoạch lại 3 loại rừng trên toàn quốc. - Quyết định số 61 quy định về tiêu chí phân cấp rừng phòng hộ và quyết định số: 62 quy định về tiêu chí phân loại rừng đặc dụng. - Trong thời gian qua, công tác quy hoạch lâm nghiệp đã được triển khai trên toàn quốc ở nhiều cấp độ với những quy mô khác nhau phục vụ cho mục tiêu phát triển ngành. Song căn cứ vào yêu cầu trong mỗi giai đoạn cụ thể, trong từng thời điểm, nguồn vốn và yêu cầu về mức độ kỹ thuật khác nhau mà nội dung các phương án quy hoạch, dự án đầu tư được điều chỉnh cho phù hợp. 1.2.3.4. Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp 1.2.3.4.1. Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý, sản xuất kinh doanh - Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý, sản xuất kinh doanh bao gồm: Quy hoạch tổng công ty lâm nghiệp, công ty lâm nghiệp, lâm trường, quy hoạch lâm nghiệp cho các đối tượng khác (quy hoạch các khu rừng phòng hộ, đặc dụng, quy hoạch phát triển sản xuất nông lâm nghiệp cho các cộng đồng làng bản, trang trại lâm nghiệp và hộ gia đình). Các nội dung quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản xuất kinh doanh là khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi đơn vị và thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất lâm nghiệp mà lựa chọn các nội dung quy hoạch cho phù hợp. 1.2.3.4.2 Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý lãnh thổ - Đất nước ta, các cấp quản lý lãnh thổ bao gồm các đơn vị quản lý hành chính từ toàn quốc tới tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương), huyện (quận, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã) và xã (phường, thị trấn). Để phát triển, mỗi đơn vị đều phải xây dựng phương án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển các ngành sản xuất và quy hoach dân cư, phát triển xã hội...
  17. 15 - Ở những nơi có tiềm năng phát triển lâm nghiệp thì quy hoạch lâm nghiệp và một vấn đề quan trọng và cấp thiết, nó chính là cơ sở cho việc phát triển nghề rừng nói riêng và phát triển tổng thể kinh tế, xã hội nói chung trên địa bàn. Quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc - Là quy hoạch phát triển sản xuất lâm nghiệp trên phạm vi lãnh thổ quốc gia nhằm giải quyết một số vấn đề bao gồm: xác định phương hướng, nhiệm vụ, chiến lược phát triển lâm nghiệp toàn quốc. Quy hoach đất đai tài nguyên rừng theo các chức năng (phòng hộ, đặc dụng và sản xuất). Quy hoạch nuôi dưỡng, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng sẵn có. Quy hoạch tái sinh rừng (trồng rừng, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên và có trồng bổ sung), thực hiện các biện pháp nông lâm kết hợp. Quy hoạch lợi dụng rừng, chế biến lâm sản gắn với thị trường tiêu thụ. Quy hoạch tổ chức sản xuất, phát triển nghề rừng phát triển lâm nghiệp xã hội. Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải. Xác định tiến độ thực hiện. - Do đặc thù riêng và khác với ngành kinh tế khác nên thời hạn quy hoạch lâm nghiệp thường được thực hiện trong thời gian 10 năm và các nội dung quy hoạch được thực hiện tuỳ theo các vùng kinh tế lâm nghiệp. Quy hoạch lâm nghiệp cấp tỉnh Nhằm: xác định nhiệm vụ, hướng phát triển trong phạm vi tỉnh trên căn cứ phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trên cơ sở quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc, tiến hành quy hoạch lâm nghiệp đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh theo 3 chức năng Rừng phòng hộ, đặc dụng và sản xuất. Căn cứ vào điều kiện đất đai tài nguyên rừng, đồng thời căn cứ nhu cầu phòng hộ và các nhu cầu đặc biệt khác. Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển tài nguyên rừng hiện có. Quy hoạch tái sinh rừng (bao gồm trồng rừng và xúc tiến khoanh nuôi tái sinh tự nhiên rừng) thực hiện nông - lâm kết hợp. Quy
  18. 16 hoạch lợi dụng rừng, chế biến lâm sản gắn với thị trường tiêu thụ. Quy hoạch tổ chức sản xuất, phát triển nghề rừng, phát triển lâm nghiệp xã hội. Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, xác định tiến độ thực hiện. Quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện Ở những đối tượng có tiềm năng phát triển lâm nghiệp thì quy hoạch lâm nghiệp là một vấn đề quan trọng, làm cơ sở cho việc phát triển sản xuất nghề rừng nói riêng và góp phần phát triển kinh tế - xã hội nói chung trên địa bàn. Quy hoạch lâm nghiệp huyện đề cập giải quyết các vấn đề sau: - Căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ phát triển tổng thể kinh tế - xã hội của huyện, căn cứ vào phương án quy hoạch phát triển lâm nghiệp của tỉnh và điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội, đặc biệt là điều kiện tài nguyên rừng của huyện để xác định phương hướng nhiệm vụ phát triển lâm nghiệp trên địa bàn huyện. - Căn cứ vào phương hướng phát triển lâm nghiệp huyện và điều kiện đất đai tài nguyên rừng, nhu cầu phòng hộ và các nhu cầu đặc biệt khác, tiến hành quy hoạch đất lâm nghiệp trong huyện theo 3 chức năng: Sản xuất, phòng hộ và đặc dụng. - Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng, phát triển rừng hiện có. - Quy hoạch các biện pháp tái sinh rừng: Trồng rừng, khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên. Quy hoạch thực hiện nông lâm kết hợp và sản xuất hỗ trợ trên đất lâm nghiệp. - Quy hoạch khai thác lợi dụng lâm đặc sản, chế biến lâm sản gắn với thị trường tiêu thụ. - Quy hoạch tổ chức sản xuất lâm nghiệp, quy hoạch đất lâm nghiệp cho các thành phần kinh tế trong huyện, tổ chức phát triển lâm nghiệp xã hội. - Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải. - Xác định tiến độ thực hiện.
  19. 17 Các nội dung quy hoạch lâm nghiệp cũng cần phải phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế - xã hội chung của từng tiểu vùng trong huyện. - Xác định tiến độ thực hiện: thường thời gian là 10 năm và phải phù hợp với phương hướng phát triển chung của từng tiểu vùng huyện. Theo chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006- 2020 “ Ngành Lâm nghiệp đã và đang thực hiện hoạt động quản lý và sản xuất trên diện tích đất lớn nhất trong các ngành kinh tế quốc dân” nhưng thực tế còn nhiều thách thức “Tầm quan trọng của ngành Lâm nghiệp chưa được đánh giá một cách đầy đủ, khách quan và công bằng nên ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách đầu tư và phát triển ngành”. Đây cũng là nhiệm vụ đặt ra cần được ngày càng hoàn thiện đối với ngành Nông nghiệp và PTNT. Các văn bản chính sách của Nhà nước đề cập đến quy hoạch phát triển lâm nghiệp thể hiện qua: Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 nêu “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”. Luật đất đai năm 2003 quy định rõ 3 nhóm đất với 6 quyền chung của người sử dụng đất, tuỳ theo từng loại đất và mục đích sử dụng mà được giao cho tổ chức, cá nhân quản lý và sử dụng. Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 quy định về quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng, quyền và nghĩa vụ của chủ rừng, phân định rõ 3 loại rừng.... Nghị định 23 về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng, quy định về việc: quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng; giao rừng, cho thuê rừng; thống kê, kiểm kê, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng; tổ chức quản lý rừng, bảo vệ rừng, phát triển rừng và sử dụng rừng... đó là những cơ sở cho công tác quy hoạch lâm nghiệp. Khi lập quy hoạch sử dụng đất phải thu thập nhu cầu sử dụng đất cho các mục đích của các đơn vị hành chính trực thuộc. Trong quy hoạch sử dụng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1