intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Tính đa dạng thực vật bậc cao có mạch tại Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha, Mộc Châu, Sơn La

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:75

28
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm đánh giá tính đa dạng của thảm thực vật có mạch ở khu Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha. Đánh giá tính đa dạng về thành phần loài thực vật có mạch ở Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha. Đề xuất những biện pháp bảo tồn tính đa dạng thực vật tại Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Tính đa dạng thực vật bậc cao có mạch tại Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha, Mộc Châu, Sơn La

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP --------------------- NGÔ VĂN BÍCH TÍNH ĐA DẠNG THỰC VẬT BẬC CAO CÓ MẠCH TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN XUÂN NHA, MỘC CHÂU, SƠN LA CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG MÃ SỐ: 60.62.68 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN DƯ HÀ NỘI, NĂM 2010
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Khu Bảo tồn thiên nhiên (BTTN) Xuân Nha là một trong 86 Khu Bảo tồn thiên nhiên được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nay là Thủ tướng chính phủ phê duyệt thành lập năm 1986 theo quyết định 194-CP ngày 19/8/1986. Rừng Xuân Nha được ghi nhận là đa dạng về thành phần loài, về hệ sinh thái và trạng thái rừng với khu hệ động thực vật quí hiếm có giá trị bảo tồn nguồn gen và nghiên cứu khoa học, ngoài ra khu BTTN Xuân Nha còn có giá trị to lớn là phòng hộ đầu nguồn của dòng sông Đà, là lưu vực lớn của suối Lóng Sập chảy ra sông Đà. Khu BTTN Xuân Nha kéo dài từ xã Lóng Sập qua Chiềng Sơn tới xã Xuân Nha, sát với ranh giới khu BTTN Pà Cò của tỉnh Hòa Bình. Khu vực Xuân Nha thuộc vùng núi cao nằm dọc biên giới Việt -Lào và ranh giới 2 tỉnh Sơn La, Thanh Hóa, có địa hình hiểm trở, độ dốc cao, đi lại rất khó khăn. Trước năm 1985 rừng ở đây còn rất giầu về số lượng và trữ lượng các loài động thực vật. Nhưng trong thời kỳ khai thác gỗ phục vụ công trình thủy điện Hòa Bình năm 1982-1992, thì nơi đây là địa bàn khai thác của các loại gỗ quí như Giổi, Du sam, Sến, Nghiến, Trai, Đinh, Lát, Chò chỉ, Ràng ràng… của lâm trường Xuân Nha, cộng với nạn khai thác trộm và buôn bán bừa bãi của tư thương, của dân địa phương, nạn đốt rừng làm nương rẫy và nạn khai khác gỗ Pơ mu trong những năm 90 của thế kỷ trước, đã làm cho diện tích đất trống, đồi trọc ở vùng thấp chân núi tăng lên nhiều. Diện tích rừng nghèo ngày một tăng, diện tích rừng tốt còn lại ít đi và thường nằm trên các sườn dốc, trên các dông núi cao hiểm trở. Việc xây dựng và mở rộng đường quốc lộ và đường phân phối vào trung tâm của các xã đã chia cắt hệ sinh thái rừng, nhiều diện tích rừng tự nhiên đã biến thành ruộng, nương, đất trống và đôi chỗ là rừng trồng. Một số đất rừng bị chuyển đổi thành trang trại cây ăn quả, cây công nghiệp đã làm cho thành phần thực vật khu bảo tồn theo chiều hướng ngày càng xấu đi. Ngoài hệ sinh thái rừng, ở khu BTTN còn có các hệ sinh thái (HST) khác phân bố xen kẽ như HST đồng cỏ, HST đồng ruộng, HST làng xóm và HST ao suối… Các HST này có diện tích không đồng đều phân bố ở các xã trong khu vực.
  3. 2 Khu BTTN đã được tổ chức bảo vệ, nhiều khu rừng có giá trị được phục hồi. Tuy nhiên việc quản lý, bảo vệ, đầu tư vào khu BTTN chưa thật đầy đủ với giá trị và qui mô của nó. Do vậy rừng vẫn bị xâm phạm và chịu nhiều tác động, đặc biệt là sức ép của người dân từ cộng đồng các dân tộc có ở nơi đây. Đã có một số công trình nghiên cứu về khu hệ thực vật ở đây [1, 2, 3] nhưng đó cũng chỉ là những số liệu sơ bộ ban đầu, chưa thật đầy đủ. Vì vậy tôi tiến hành nghiên cứu “Tính đa dạng thực vật bậc cao có mạch tại Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha, Mộc Châu, Sơn La” nhằm đánh giá đầy đủ về thành phần loài, nguồn tài nguyên thực vật và đưa ra các giải pháp bảo tồn chúng, từng bước nâng cao nhận thức và năng lực quản lý cho cán bộ khu BTTN và người dân địa phương là những vấn đề cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
  4. 3 Chương 1. TỒNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. NHẬN THỨC VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC Đối với Việt Nam nói riêng và các nước trên thế giới nói chung, vấn đề nghiên cứu bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH) đang được quan tâm hàng đầu. Trước đây, những quan niệm về ĐDSH cũng có những điểm chưa thống nhất, chưa đầy đủ và chưa rõ ràng. Trong chương trình hành động ĐDSH Việt Nam cũng nêu ra một khái niệm về đa dạng sinh học “Là tập hợp tất cả các nguồn sinh vật sống trên hành tinh bao gồm tổng số các loài động vật và thực vật; tính đa dạng và sự phong phú trong từng loài, tính đa dạng về hệ sinh thái của các cộng đồng sinh thái khác nhau; hoặc tập hợp các loài sống ở các vùng khác nhau trên thế giới với các hoàn cảnh khác nhau”. Định nghĩa này là chưa đầy đủ bởi mới chỉ đề cập đến động vật và thực vật, còn các sinh vật khác thì chưa nói đến. Một định nghĩa khác do Quỹ Quốc tế về bảo tồn thiên nhiên WWF (1989) đề xuất như sau: “Đa dạng sinh học là sự phồn thịnh của sự sống trên trái đất, là hàng triệu loài thực vật, động vật và vi sinh vật, là những gen chứa đựng trong các loài và là những hệ sinh thái vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong môi trường”. Định nghĩa này có phần đầy đủ hơn ở chỗ: đã nêu ra được sự tồn tại của cả động vật, thực vật và vi sinh vật trong cùng một môi trường sống, định nghĩa cũng đã chỉ ra được sự đa dạng sinh học là những gen chứa đựng trong các loài và là những hệ sinh thái vô cùng phức tạp... Tuy nhiên, trong thời gian gần đây (tháng 6 năm 1992): Công ước về bảo tồn đa dạng sinh học được thông qua hội nghị thượng đỉnh toàn cầu tại Rio de Janeiro (Braxin) đã đi đến một thống nhất chung về đa dạng sinh học như sau: “Đa dạng sinh học là sự biến đổi giữa các sinh vật ở tất cả mọi nguồn, bao gồm hệ sinh thái trên đất liền, trên biển và các hệ sinh thái nước khác, sự đa dạng thể hiện trong từng loài, giữa các loài và các hệ sinh thái”. Như vậy, ĐDSH phải được tính đến theo ba mức độ: Đa dạng sinh học ở cấp loài bao gồm toàn bộ sinh vật sống trên trái đất (từ vi khuẩn đến các loài động, thực
  5. 4 vật và các loài nấm). Ở mức độ tinh tế hơn, ĐDSH bao gồm các sự khác biệt giữa các loài, khác biệt về gen giữa các quần thể sống cách ly nhau về địa lý cũng như khác biệt giữa các cá thể cùng chung sống trong một quần thể. ĐDSH còn bao gồm các sự khác biệt giữa các quần xã sinh vật mà trong đó các loài sinh sống, các hệ sinh thái nơi mà các loài cũng như các quần xã sinh vật tồn tại và cả sự khác biệt của các mối tương tác với nhau. Từ những định nghĩa trên ta có thể rút ra những nhận thức chung về các nội dung của ĐDSH là: - Đa dạng di truyền (tức là đa dạng về gen và nhiễm sắc thể). - Đa dạng về loài sinh vật. - Đa dạng về hệ sinh thái. 1.2. TRÊN THẾ GIỚI 1.2.1. Về thảm thực vật Theo Schmitthusen (1959), ở Châu Âu có hệ thống phân loại thảm thực vật mà chủ yếu là hệ thống phân loại các quần xã thực vật của Braun – Blanquet (1928), được thực hiện chủ yếu bởi các nhà thực vật học theo trường phái của Pháp và hệ thống phân loại các quần thể thực vật được thực hiện bởi những nhà địa thực vật của Đức (ghi theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 2004). Ở Phần Lan, Caiande A.K. chủ trương phân loại rừng dựa vào thực vật thảm tươi. Ông cho rằng, trong lâm phần thành thục, tổ thành thảm tươi không chỉ phụ thuộc vào hoàn cảnh sinh thái môi trường mà còn phụ thuộc vào cả tổ thành loài cây gỗ của lâm phần. Theo đó, thảm tươi là chỉ tiêu tốt nhất để xem xét tính đồng nhất sinh học của môi trường, kể cả tính đồng nhất về hiệu quả của thực vật rừng. Tuy thế, điều này là không hoàn toàn đúng vì thực tế thảm tươi có khả năng chỉ thị nhưng không có khả năng chỉ thị cho tất cả các điều kiện lập địa. Ngoài ra các yếu tố bên ngoài như: lửa rừng, khai thác... cũng ảnh hưởng lên thảm tươi (ghi theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 2004). Ở Hoa Kỳ, phân loại rừng chủ yếu theo học thuyết cực đỉnh (Climax) của Colleman. Phân loại theo Climax tạo cho quần xã thực vật ổn định trong quá trình
  6. 5 phát triển lâu dài trên những vùng lãnh thổ rộng lớn với đất đai đã được hình thành từ lâu. Khí hậu là nhân tố để xác định Climax. Ngoài khái niệm Climax, các nhà lâm học Hoa Kỳ còn đưa ra khái niệm tiền đỉnh cực (á đỉnh cực), đơn đỉnh cực, đa đỉnh cực (ghi theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 2004). Ở vùng nhiệt đới, theo Thái Văn Trừng (1978), có lẽ Schimper (1918) là người đầu tiên đưa ra hệ thống phân loại thảm thực vật rừng nhiệt đới (ghi theo Thái Văn Trừng 1978). Trong đó hệ thống này, Schimper đã phân chia thảm thực vật thành quần hệ khí hậu, quần hệ thổ nhưỡng và quần hệ vùng núi. Trong quần hệ khí hậu lại được phân chia thành 4 kiểu: Rừng thưa, rừng gió mùa, rừng trảng, rừng gai; ngoài ra còn có thêm hai kiểu là: Thảo nguyên nhiệt đới và Hoang mạc nhiệt đới. Rubel, Ilinski, Burt, Aubresville... chỉ căn cứ vào độ tàn che trên mặt đất của tầng ưu thế sinh thái để phân biệt các kiểu quần thể thưa thành: Rừng thưa và trảng chuông (ghi theo Thái Văn Trừng, 1978). Schmithusen (1959), thảm thực vật trái đất được chia thành 9 lớp quần hệ là: Lớp quần hệ rừng, lớp quần hệ cây bụi, lớp quần hệ Sa-van, lớp quần hệ đồng cỏ và nửa cây bụi, lớp quần hệ thực vật sống một năm, lớp quần hệ hoang mạc, lớp quần hệ thực vật hồ nước nội địa và lớp quần hệ thực vật biển (ghi theo Thái Văn Trừng, 1978). Gần đây, các nhà sinh thái và địa thực vật Đức đã phân chia thảm thực vật thành 16 kiểu quần hệ: Rừng mưa nhiệt đới, rừng mưa Á nhiệt đới, rừng mưa lạnh ôn đới, rừng xanh mưa mùa, rừng lá rộng xanh mùa hè, rừng lá kim rộng ôn đới, kiểu quần hệ cây gỗ có gai, kiểu cây gỗ có là rộng, kiểu thảo nguyên rừng, kiểu trảng cỏ nhiệt đới, kiểu thảo nguyên ôn đới, kiểu đàm lầy, kiểu hoang mạc nóng và kiểu hoang mạc khô lạnh (ghi theo Thái Văn Trừng, 1978). 1.2.2. Về hệ thực vật Việc nghiên cứu các hệ thực vật trên thế giới đã có từ lâu, tuy nhiên những công trình nghiên cứu có giá trị lại chủ yếu xuất hiện vào thế kỉ XIX – XX như: Thực vật chí Hongkong (1861), Thực vật chí Australia (1866), Thực vật chí rừng
  7. 6 Tây Bắc và trung tâm Ấn Độ (1874), Thực vật chí Ấn Độ 7 tập (1872 – 1897), Thực vật chí Miễn Điện (1877), Thực vật chí Malaysia (1892 – 1925), Thực vật chí Hải Nam (1972 – 1977), Thực vật chí Vân Nam (1977). Ở Nga, từ 1928 đến 1932 được xem là thời kì mở đầu cho thời kì nghiên cứu hệ thực vật cụ thể: Tolmachop A.I cho rằng: “chỉ cần điều tra trên một diện tích đủ lớn để có thể bao chum được sự phong phú của nơi sống nhưng không có sự phân hóa mặt địa lý”. Ông gọi đó là hệ thực vật cụ thể. Tolmachop đã đưa ra một nhận định là số loài của một hệ thực vật cụ thể ở vùng nhiệt đới ẩm thường là 1500 – 2000 loài. 1.3. Ở VIỆT NAM 1.3.1. Về thảm thực vật Năm 1918, nhà bác học Pháp, Quang Huy là người đầu tiên đã đưa ra một bảng phân loại thảm thực vật rừng Bắc bộ Việt Nam (đây được xem là bảng phân loại thảm thực vật rừng nhiệt đới châu Á đầu tiên trên thế giới). Theo bảng phân loại này, rừng ở miền Bắc Việt Nam được chia thành 10 kiểu Từ năm 1960, Loschau đưa ra một khung phân loại rừng theo trạng thái ở Quảng Ninh, bảng phân loại này đã phân thành 4 trạng thái như sau (ghi theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 2004). Rừng loại I: gồm những đất đai hoang trọc, trảng cỏ và cây bụi. Rừng loại II: gồm những rừng non mới mọc. Rừng loại III: gồm tất cả những loại rừng đã bị khai thác trở nên nghèo kiệt, tuy còn có thể khai thác gỗ trụ mỏ. Rừng loại IV: Rừng nguyên sinh chưa bị khai phá. Đây là hệ thống phân loại rừng đã được áp dụng khá rộng rãi ở nước ta trong điều tra tái sinh rừng cũng như điều tra tài nguyên rừng theo khối trạng thái. Năm 1975, trên cơ sở các điều kiện lập địa trên toàn lãnh thổ Việt nam, tại hội nghị thực vật học quốc tế lần thứ XII (Leningrat, 1975), Thái Văn Trừng đã đưa ra bảng phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam trên quan điểm sinh thái, đây được
  8. 7 xem là bảng phân loại thảm thực vật rừng ở Việt nam phù hợp nhất trên quan điểm sinh thái cho đến nay. Trần Ngũ Phương: “Bước đầu nghiên cứu rừng miền Bắc Việt Nam” đã tiến hành phân chia rừng miền Bắn Việt Nam thành 3 đai, 8 kiểu, ngoài ra ông còn chia ra các kiểu phụ. Trong đai rừng Á nhiệt đới mưa mùa núi cao ông không dùng kiểu mà chỉ dung loại hình thay cho kiểu, sau loại hình là kiểu phụ. 1.3.2. Về hệ thực vật Một trong những công trình nổi tiếng đó là bộ “Thực vật chí đại cương Đông Dương” do H.Lecomte chủ biên (1907 – 1952). Trong công trình này, các tác giả người Pháp đã thu mẫu và định tên, lập khóa mô tả các loài thực vật có mạch trên toàn bộ lãnh thổ Đông Dương. Thái Văn Trừng cũng đã dựa vào công trình này để thống kê hệ thực vật Việt Nam và biết được có 7004 loài, 1850 chi, 289 họ. Riêng miền Bắc, Pocs Tamas (1965) thống kê được 5190 loài; Phan Kế Lộc (1969) thống kê và bổ sung, nâng số loài ở miền Bắc lên 5609 loài, 1660 chi, 140 họ; trong đó có 5069 loài thực vật hạt kín và 540 loài thuộc các ngành còn lại. Gần đây, Aubréville khởi xướng và chủ biên bộ “Thực vật chí Campuchia, Lào, Việt Nam” (1960 – 1997) cùng với nhiều tác giả khác đến nay đã công bố 29 tập nhỏ, gồm 74 họ cây có mạch (chưa đầy 20% tổng số họ đã có). Viện Điều tra Quy hoạch rừng Việt Nam (1971 – 1988) đã công bố 7 tập “Cây gỗ rừng Việt Nam” giới thiệu khá chi tiết cùng với tranh vẽ minh họa nhằm phục vụ cho việc khai thác tài nguyên rừng. Trong thời gian gần đây, các nhà thực vật Nga và Việt Nam đã hệ thống lại hệ thực vật Việt Nam đăng trên Kỷ yếu “Cây có mạch của thực vật Việt Nam” (tập 1 – 2 , 1996) (ghi theo Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Thanh Nhàn, 2004). Từ năm 1995 – 2003, Nguyễn Nghĩa Thìn cùng với một số tác giả khác đã công bố một số bài báo về đa dạng sinh học của các Vườn Quốc gia, Vùng núi đá vôi Hòa Bình, Sơn La, Vùng núi cao Sa Pa..., cùng với cuốn “Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật” nhằm hướng dẫn cách đánh giá tính đa dạng thực vật của vùng nghiên cứu cho các Vườn Quốc gia và Khu Bảo tồn thiên nhiên...
  9. 8 Từ tháng 2 năm 2008 đến tháng 2 năm 2010, Viện Sinh thái Tài nguyên và Sinh vật Việt Nam đã tiến hành điều tra, khảo sát để đánh giá nguồn tài nguyên thực vật tại khu BTTN Xuân Nha. Một số công trình nghiên cứu, đánh giá về đa dạng sinh học của các Vườn Quốc gia và khu Bảo tồn thiên nhiên miền bắc Việt Nam gần đây: Tính đa dạng của quần xã thực vật tại Cúc Phương (Phùng Ngọc Lan, Nguyến Nghĩa Thìn và Nguyễn Bá Thụ) (1996). Đa dạng sinh học và bảo tồn nguồn gen sinh vật tại Vườn Quốc gia Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ (Trần Minh Hợi, Nguyễn Xuân Đặng), (2008).
  10. 9 Chương 2. MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. MỤC TIÊU - Đánh giá tính đa dạng của thảm thực vật có mạch ở khu KBTTN Xuân Nha. - Đánh giá tính đa dạng về thành phần loài thực vật có mạch ở khu BTTN Xuân Nha. - Đề xuất những biện pháp bảo tồn tính đa dạng thực vật tại khu BTTN Xuân Nha. 2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.2.1. Nghiên cứu Đa dạng về thảm thực vật và Hệ sinh thái - Đa dạng thảm thực vật. - Đa dạng hệ sinh thái. 2.2.2. Đa dạng thành phần loài thực vật - Đa dạng các bậc taxon ngành và lớp. - Đa dạng các bậc taxon dưới ngành. + Đa dạng về số lượng loài cây. + Đa dạng về loài và chi thực vật. + Đa dạng về họ thực vật. 2.2.3. Đánh giá về nguồn tài nguyên thực vật - Nhóm cây cho gỗ. - Nhóm cây làm thuốc. - Nhóm cây có tinh dầu. - Nhóm cây cho dầu béo. - Nhóm cây cho nhựa mủ. - Nhóm cây ăn được - Nhóm cây cho sợi và nguyên liệu - Nhóm cây cảnh - Nhóm cây cho tanin và làm thuốc nhuộm. 2.2.4. Đánh giá thành phần thực vật đặc hữu, quý hiếm trong Khu bảo tồn - Số lượng thực vật quý hiếm. - Nghiên cứu sự phân bố của những loài thực vật quý hiếm trong Khu bảo tồn. - Nghiên cứu đặc điểm một số loài thực vật quý hiếm trong Khu bảo tồn. 2.2.5. Nghiên cứu tình trạng, mối đe doạ và nguyên nhân gây suy giảm Đa dạng sinh học tại khu nghiên cứu - Tình trạng và các mối đe doạ làm suy giảm ĐDSH ở khu BTTN Xuân Nha.
  11. 10 - Nguyên nhân suy giảm ĐDSH ở khu BTTN Xuân Nha. 2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Kế thừa các tài liệu đã có và điều tra bổ sung dẫn liệu mới về đa dạng sinh học tại khu BTTN Xuân Nha: Tôi dựa vào bảng danh lục thực vật bậc cao có mạch tại khu BTTN Xuân Nha do Viện Điều tra và Quy hoạch đã đánh giá năm 2002. - Phương pháp điều tra thảm thực vật: Sử dụng hệ thống phân loại của Thái Văn Trừng (1978) và hệ thống phân chia đất đai và các kiểu thảm thực vật trong khu bảo tồn (Viện Điều tra qui hoạch rừng, 1991). Tổng hợp kết quả được ghi vào bảng 2.1. Bảng 2.1. Điều tra các kiểu thảm thực vật tại khu BTTN Xuân Nha STT Kiểu thảm thực vật Trạng thái Loài thực vật đặc trưng 1 2 ... - Phương pháp điều tra hệ thực vật: Tiến hành thu mẫu và ghi chép ngoài thực địa, giám định tên cây trong phòng tiêu bản: Thu thập các mẫu của các loài thực vật, đặc biệt là những loài chưa biết, loài quý hiếm ngoài thực địa, xử lý mẫu và đem về phòng giám định của Viện Sinh thái Tài nguyên Sinh vật Việt nam, trên cơ sở đó ghi chép, sắp xếp các loài giám định vào các chi, họ, lớp, ngành khác nhau theo phương pháp của Brummitt (1992). Kết quả ghi vào Danh lục thực vật sau: DANH LỤC THỰC VẬT BẬC CAO CÓ MẠCH TẠI KHU BTTN XUÂN NHA SÁCH ĐỎ TÊN NGÀNH, TÊN VIỆT Công STT TÊN LOÀI VIỆT NAM HỌ NAM dụng 2007 1
  12. 11 2 3 … - Điều tra thành phần loài thực vật (theo phương pháp của Nguyễn Nghĩa Thìn, 2007) bậc cao có mạch tại khu BTTN Xuân Nha, huyện Mộc Châu và khu vực phụ cận (theo tuyến nghiên cứu, theo ô tiêu chuẩn và điểm đặc trưng của các sinh cảnh điển hình đại diện cho toàn bộ khu BTTN Xuân Nha) nhằm thống kê một cách khá đầy đủ về những loài thực vật hiện có trong khu BTTN, sự phân bố của những loài chủ yếu (theo nhóm chính như thực vật bậc cao có mạch). - Điều tra cấu trúc và tổ thành loài của thảm thực vật. Điều tra theo tuyến và điều tra theo ô tiêu chuẩn. Tiến hành lập 9 tuyến điều tra cắt ngang qua các dạng sinh cảnh đặc trưng của khu BTTN Xuân Nha (mỗi xã trong khu BTTN lập 3 tuyến điều tra), với chiều dài mỗi tuyến 1200m, đặc biệt là trú trọng tới những nơi hẻo lánh, núi đá và trên những đỉnh núi cao của 3 xã thuộc khu BTTN. Kết quả thu được tôi ghi vào bảng 2.2. Bảng 2.2. Thành phần thực vật bậc cao có mạch trên tuyến điều tra Ngày điều tra:…. /..…/2009 Trạng thái rừng: …………………. Người điều tra: Ngô Văn Bích Tuyến điều tra: …………… Xã:……………….. Stt Tên loài Ghi chú Tên Việt Nam Tên khoa học 1 2 … - Điều tra theo ô tiêu chuẩn: Trên mỗi tuyến điều tra tôi thiết lập 4 ô tiêu chuẩn để thống kê thành phần thực vật, tuỳ theo các kiểu thảm hoặc các sinh cảnh có kích thước từ 0,025 đến 0,1 ha. Đo đếm và ghi chép thảm thực vật trong từng tiêu chuẩn. Kết quả thu được ghi vảo bảng 2.3 sau:
  13. 12 Bảng 2.3. Điều tra thành phần thực vật trên ô tiêu chuẩn Ngày điều tra:……../……../2009. Người điều tra: Ngô Văn Bích Trạng thái rừng:………….. Số thứ tự tuyến điều tra:……… Số thứ tự ô tiêu chuẩn:…… Diện tích ô tiêu chuẩn:……….ha Tên loài Hvn D1.3 Stt Ghi chú VN Khoa học (m) (cm) 1 2 3 … Trên mỗi ô tiêu chuẩn, tiến hành lập 5 ô dạng bản với diện tích mỗi ô là 9 m2 (3m×3m) được thiết lập tại 4 góc (4 ô dạng bản) và vị trí giữa của ô tiêu chuẩn. Trông ô dạng bản tôi tiến hành điều tra thành phần cây tái sinh, kết quả được ghi vào bảng 2.4 như sau: Bảng 2.4. Điều tra tình hình tái sinh của thực vật rừng tại khu BTTN Xuân Nha Ngày điều tra:……….../2009 Số thứ tự OTC: …… Người điều tra: Ngô Văn Bích Số thứ tự tuyến điều tra:……… Tình hình sinh Stt Tên loài cây N Hvn trưởng Ghi chú ODB (cây) (m) VN KH T TB X 1 2 3 … Ghi chú: VN (Việt Nam), KH (Khoa học); T (Tốt); TB ( trung bình); X (xấu)
  14. 13 Đồng thời tiến hành điều tra thành phần cây bụi thảm tươi, thực vật ngoại tầng trên các ô dảng bản, kết quả được ghi vào bảng 2.5: Bảng 2.5. Điều tra thành phần cây bụi, thảm tươi, thực vật ngoại tầng Ngày điều tra: ……../2009 Số thứ tự OTC:………… Người điều tra: Ngô Văn Bích Số thứ tự tuyến:………… Stt Tên loài Tình hình sinh trưởng HTB Ghi chú ODB VN KH T TB X 1 2 3 … - Điều tra thông tin của người dân địa phương về việc sử dụng, sưu tầm, khai thác về những loài thực vật trong khu BTTN. Sử dụng phương pháp PRA, chọn trong mỗi xã 15 hộ đại diện (5 hộ giầu, 5 hộ trung bình và 5 hộ nghèo) để đánh giá việc người dân khai thác và sử dụng tài nguyên thực vật tại khu vực nghiên cứu, đồng thời kết hợp tra cứu tài liệu về công dụng của cây rừng (Tên cây rừng Việt Nam 2000; Danh lục các loài thực vật Việt Nam (tập 2 và tập 3)) . Kết quả được ghi vào bảng 2.6 như sau: Bảng 2.6. Điều tra thành phần các loài thực vật được người dân khai thác và sử dụng Ngày điều tra: …/…./2009 Người điều tra: Ngô Văn Bích Đại diện chủ hộ:……… Bản:………………………..Xã:…………………… Khai thác Stt Tên cây Công dụng Thường xuyên Ít Hiếm 1 2 …
  15. 14 - Đưa công nghệ thông tin và kỹ thuật ảnh vào báo cáo của đề tài. Sử dụng máy định vị toàn cầu JPS để xác định vị trí các loài thực vật đặc trưng, quý hiếm trong khu bảo tồn, bên cạnh đó sử dụng máy ảnh để chụp và ghi lại các trạng thái rừng, các loài thực vật trên tuyến điều tra, trên ô tiêu chuẩn. - Thu tập thông tin về diện tích, số loài thực vật, đặc trưng bởi các loài thực vật của một số Vườn Quốc gia và khu BTTN như: Hữu Liên (Lạng Sơn); Kẻ Rỗ (Bắc Giang); Phong Thổ (Lai Châu); Tà Sùa (Sơn La); Côpia (Sơn La); Vũ Quang (Hà Tĩnh); Tân Sơn (Hoà Bình); Pà Cò (Hoà Bình) để so sánh mức độ đa dạng về thành phần loài thực vật.
  16. 15 Chương 3. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN XUÂN NHA 3.1. VỊ TRÍ VÀ RANH GIỚI - Toạ độ: Khu Bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha có toạ độ địa lý: Từ 200 84’ 45’’ đến 200 54’ 54’’ vĩ độ Bắc Từ 1040 28’ 38’’ đến 1040 50’ 28’’ kinh độ Đông - Địa giới: Khu bảo tồn nằm trọn trong địa giới 3 xã vùng núi cao của huyện Mộc Châu, Sơn La. Phía Bắc giáp các xã Mường Sang, Vân Hồ, Lóng Luông Phía Nam giáp huyện Mường Lát, huyện Quan Hoá, Thanh Hoá Phía Đông giáp khu BTTN Pà Cò, Hoà Bình Phía Tây giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào - Diện tích (cũ) 38.069 ha. Diện tích hiện tại 16.316,8 ha. 3.2. ĐỊA HÌNH Khu điều tra tài nguyên thực vật có địa hình núi đất và núi đá vôi xen đồi đất, dâng cao ở phía Tây Bắc, thấp dần ở phía Đông Nam, có độ cao từ 260m đến 1.900m, trung bình 1.000m so với mặt biển. Vùng đất phía Tây Bắc của Khu bảo tồn có độ cao trung bình trên 1.100m, đỉnh Pha Luông 1.886m là đỉnh cao nhất của khu vực và nằm trên ranh giới xã Chiềng Sơn với nước Lào. Vùng giữa và phía Đông Khu bảo tồn có độ cao thấp hơn, trung bình 500-600m. Đỉnh núi cao nhất trong khu bảo tồn thuộc xã Xuân Nha (cao 936 m). Địa hình phần nhiều là các dông núi của 3 hệ thống núi khởi đầu của dãy Trường Sơn nổi tiếng. - Hệ thống núi đá vôi chạy dọc ranh giới phía Bắc Khu bảo tồn. - Hệ thống núi đá vôi xen núi đất chạy từ Yên Châu về Hoà Bình. - Hệ thống núi đất có xen đá vôi chạy từ Yên Châu dọc biên giới Việt Lào rồi chạy về Quan Hoá, Thanh Hoá. Các hệ thống trên có hướng từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Xen kẽ trong các dông núi là các dải đồi đất hẹp hay các dải đất dốc tụ
  17. 16 chân núi, đây là phần đất quan trọng đối với nơi ở và canh tác của đồng bào Mường, Thái, H’Mông của 3 xã vùng cao này. Địa hình trong khu bảo tồn không chỉ bị chia cắt do 3 dãy núi mà còn bị chia cắt bởi nhiều dông núi phụ xuất phát từ 3 dãy núi chạy về hai bên tạo ra các thung, áng, khe suối sâu, các hút nước do hiện tượng Các-tơ của vùng núi đá vôi tạo nên. Khu bảo tồn có độ dốc trung bình 20-250, nhiều nơi có độ dốc trên 350 rất khó cho việc đi lại. Nhìn chung địa hình khu bảo tồn thuộc loại: trung và tiểu địa hình vùng núi. Càng đi sát các đỉnh núi đá vôi, núi càng cao và độ dốc càng lớn, có nhiều sườn núi đá, vách đá dựng đứng. Địa hình phức tạp và bị chia cắt nhiều là yếu tố quan trọng tạo nên sự đa dạng về thực vật và hoàn cảnh rừng cho thực vật còn tồn tại đến ngày nay mà không bị người dân khai thác. 3.3. ĐỊA CHẤT VÀ THỔ NHƯỠNG + Nền địa chất Khu bảo tồn có lịch sử nguồn gốc kiến tạo thuộc kỷ địa chất Đệ Tam (Tortiazv), thuộc thời kỳ Ladini, cách ngày này khoảng 220 triệu năm. Địa hình kiến tạo chịu nhiều ảnh hưởng của hoạt động tạo sơn Indexin kỷ Triat thuộc Đại trung sinh. Núi đá vôi khu vực có tuổi địa chất trẻ (kỷ Đệ tam) nên các dãy núi ở đây được xem là núi trẻ, đỉnh núi nhọn nhưng quá trình bào mòn địa chất tự nhiên theo thời gian không mạnh mẽ. - Đá mẹ: Đá mẹ trong Khu bảo tồn thuộc 3 nhóm chính: + Đá Trầm tích mà Đá vôi, Cuội, Sỏi kết là đại diện cơ bản, rộng khắp + Đá Macma axít với các loại đá phổ biến như Granit, Sa thạch khối, Phấn sa, Đá sét… có rải rác. + Đá biến chất với nhiều loại khác nhau nhưng không nhiều. Trừ hệ thống đá vôi phân bố theo dải, còn các loại đá mẹ khác như Đá sét, Phiến thạch sét, Phấn sa, Sa thạch thô, Cuội kết thường không đại diện, chúng phân bố theo vệt, theo vùng nhỏ trên nền đá vôi cổ. Sự đa dạng về đá mẹ đã tạo ra các loại đất khác nhau, là điều kiện cho nhiều loài cây ưa thích đất đá khác nhau phân bố trong khu vực.
  18. 17 - Các loại đất chính trong khu vực: Đất Feralit mùn vàng nâu núi cao phát triển trên hang hốc núi đá vôi. Đá biến chất, đá Mácma axit tầng dày, thành phần cơ giới nhẹ hoặc trung bình thường phân bố ở độ cao trên 1.700m (rất ít). + Đất Feralit màu vàng sẫm phát triển trên đá sét hoặc Đá biến chất, tầng đất dày, thành phần cơ giới trung bình (ở độ cao 700-1.700m). + Đất Feralit màu vàng nâu phát triển trên sản phẩm đá vôi hoặc Đá vôi biến chất, tầng đất mỏng, thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình (ở độ cao 700-1.700m). + Đất Feralit màu vàng nhạt phát triển trên đá sét hoặc đá biến chất, tầng đất dày, thành phần cơ giới trung bình (ở độ cao 700-1.700m). + Đất Feralit màu vàng nhạt hoặc vàng xám phát triển trên phiến thạch sét, Phấn sa, Đá cát, Sa thạch, Sỏi cuội kết, tầng đất dày thành phần cơ giới trung bình hay nhẹ thường ở vùng đồi núi thấp (độ cao 300-1.000m hoặc xen kẽ nhau). + Đất Feralit màu xám biến đổi do trồng lúa, có thành phần cơ giới trung bình, phân bố quanh làng bản và trên các sườn núi có nguồn nước. + Đất dốc tụ chân núi, ven suối có thành phần cơ giới trung bình, nhẹ có nhiều đá lăn. Nhìn chung đất trong khu vực này là đất sét tới đất thịt nhẹ, màu nâu vàng hay vàng nhạt, tầng đất dày, có thành phần cơ giới từ nhẹ đến trung bình. Đất tơi, xốp, có độ ẩm thấp tới trung bình; kết cấu viên nhỏ và có tầng mùn trung bình, dễ bị rửa trôi, dễ khô cứng nơi mất rừng. Đất ở nơi còn rừng, hay nơi đất còn tính chất đất rừng rất thuận lợi cho quá trình phát triển và phục hồi rừng. Đất ở nơi mất rừng rất dễ bị rửa trôi, thoái hoá nhanh rất khó cho quá trình phát triển và phục hồi rừng. 3.4. KHÍ HẬU THUỶ VĂN - Khí hậu chia thành 2 mùa rõ rệt. Mùa nóng từ tháng 5 tới tháng 9 có nhiệt độ bình quân 20-250C. Mưa to thường tập trung vào mùa nóng, độ ẩm mùa nóng trung bình 80-85%. Mùa lạnh từ tháng 10 tới tháng 4 năm sau: trong mùa lạnh nhiệt độ thường thấp hơn 200C. Trong các đợt rét nhiệt độ thường xuống dưới 130C và cá
  19. 18 biệt có khi xuống tới 3-50C. Trong mùa lạnh không khô, độ ẩm khá cao, thường 70- 80% và nhiều ngày có sương mù, ẩm ướt. - Khu bảo tồn có lượng mưa trung bình 1.700-2.000 mm. Mùa mưa thường gây ra ngập úng cục bộ trong thời gian ngắn ở các thung, khe hoặc quanh các lỗ hút xuống sông suối ngầm. Mùa lạnh, các khe suối thường cạn kiệt, đôi chỗ còn các đám sình lầy, nước ngọt chủ yếu còn trong các mỏ. - Sương mù: Tháng 1 và 2 trong mùa lạnh thường có sương mù. - Sương muối: Thông thường không có sương muối trong năm, nhưng đôi khi có nhẹ không gây hại. - Gió: Hướng gió thịnh hành của khu bảo tồn là Đông Bắc, Đông Nam. Hàng năm và các tháng 4-8 đôi khi có gió tây khô nóng xuất hiện mỗi đợt 2-4 ngày với tốc độ gió 10-15 m/giây. - Mưa đá: Tần suất xuất hiện mưa đá rất nhỏ. - Thuỷ văn: Trong khu bảo tồn không có sông, không có suối lớn. Đáng chú ý là hệ thống các suối nhỏ bắt nguồn, đón nước từ dãy núi ranh giới với Thanh Hoá đổ xuống vùng trung tâm. Các suối kể trên có đoạn lộ, đoạn mất, không thường xuyên có nước quanh năm. Mật độ suối thấp, tuy độ dốc lớn nhưng có nhiều hút nước, sông ngầm, hang động vùng đá vôi nên chỉ có lũ cục bộ trong những ngày mưa lớn và rất ít nước vào mùa khô. Tóm lại, Khu bảo tồn là vùng núi cao của huyện Mộc Châu, có khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa trong năm, mùa nóng nhiệt độ cao và mưa nhiều, mùa đông có nhiệt độ thấp, lạnh nhẹ và hơi khô, riêng mùa đông lại có sương mù nên ít gây cản trở tới sinh trưởng và phát triển của cây. 3.5. TÌNH HÌNH CHUNG VỀ KHU HỆ THỰC VẬT Rừng Xuân Nha được hình thành cách ngày nay khoảng 220 triệu năm trên nền núi đá vôi thời kỳ Ladini, thuộc kỷ Đệ tam. Bộ mặt nguyên vẹn của rừng được nhìn thấy một phần ở các nơi hiểm trở người dân không thể khai thác được. Trước năm 1985, theo nhiều tài liệu và người dân sống lâu năm ở đây đều khẳng định trong rừng Xuân Nha có nhiều cây lớn, chủ yếu là các loài Nghiến, Đinh, Trai, Chò chỉ,
  20. 19 Lát hoa, Chò nhai, Chò xanh, Chò đãi, Cà lồi, Cà ổi, Xoan đào, Nhò vàng, Màu cau, Sồi đá, Kháo vàng, Trường sâng, Trường mật, Lát xoan, Sấu, Phay. Trải qua nhiều thập kỷ bị tàn phá, ngày nay Xuân Nha chỉ còn lại thảm thực vật nhỏ bé, thưa thớt. Do một loạt các nguyên nhân như nạn đốt nương làm rẫy tràn lan lâu dài, do khai thác trái phép gỗ xây dựng và đặc biệt là củi đun nên diện tích rừng ở đây bị thu hẹp, tính đa dạng giảm. Khu hệ thực vật trong Khu bảo tồn không đồng nhất. Phần lớn diện tích rừng ở đây không còn tự nhiên, nguyên vẹn. Rừng nguyên sinh ít bị tác động chỉ tồn tại từng vùng nhỏ ở những nơi cao, xa xôi, hiểm trở hoặc theo dải, theo đám dọc theo các khe suối đá, sườn núi đá. Thực vật rừng trong Khu bảo tồn phong phú về thành phần loài nhưng kích thước cá thể trung bình loài nhỏ; nhiều loài cây gỗ quí không chỉ giảm về số lượng mà kích thước trung bình cũng bị giảm nhiều. Nhiều loài thực vật ưa sáng như Thôi chanh, Thôi ba, Lộc mại, Sừng hươu, Cọc rào, Nhò vàng, Ô rô, Găng gai, Màng tang, Chè đuôi lươn, Mua, Ba soi, Bui bui, Thành ngạnh, Thẩu tấu, Hoắc quang, Cà muối, Mò lá tròn, Kháo cuống đỏ, Dạ nâu, Đa, Si, Sanh, Cà muối, Xoan ta, Đáng dù… và nhiều loài thân cỏ như: Cỏ lào, Cúc đơn buốt, Cỏ tranh, Cỏ chít, Cỏ lá tre, Cỏ lông v.v. tăng vụt về số lượng cá thể trong loài đã làm biến đối diện mạo thảm thực vật rừng trong khu vực. Từ bảng danh lục thực vật ta có một số nhận xét về xuất xứ của thực vật khu vực như sau: - Có nhiều họ thực vật điển hình cho khu hệ thực vật nhiệt đới núi thấp miền Bắc Việt Nam có nguồn gốc tại chỗ và coi là yếu tố bản địa bắc Việt Nam - Nam Trung Hoa với các đại diện chính như các họ Họ Dầu (Dipterocarpaceae), Dâu tằm (Moraceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Vang (Caesalpiniaceae), họ Mạ sưa (Proteaceae), họ Xoan (Meliaceae), họ Ráy (Arecaceae), họ Bàng (Combretaceae), các loài điển hình cho thực vật nhiệt đới như: Chò nhai, Chò xanh, Đa, Sanh, Mít rừng, Ngái, Sui, Dâu da, Răng cưa, Lim xanh, Lim sẹt, Ráy dại, Củ nưa, Dây dất, Thị, Trôm, Xoan, Bứa…
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2