Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử: Các hình thức khai thác và chế biến hải sản trong cộng đồng ngư dân ven biển Cửa Lò, Nghệ An
lượt xem 6
download
Luận văn nghiên cứu về các hình thức khai thác và chế biến hải sản trong cộng đồng ngư dân cũng là nghiên cứu về cách ứng phó của cư dân đó trước môi trường tự nhiên biển cả, góp phần vào tìm hiểu văn hoá của ngư dân. Đồng thời, tìm hiểu các thói quen về đánh bắt và chế biến để thấy được những ưu điểm và hạn chế của các hình thức đó đối với đời sống dân cư cũng như đối với sự phát triển bền vững nguồn lợi hải sản
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử: Các hình thức khai thác và chế biến hải sản trong cộng đồng ngư dân ven biển Cửa Lò, Nghệ An
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------- PHAN THỊ HOÀN CÁC HÌNH THỨC KHAI THÁC VÀ CHẾ BIẾN HẢI SẢN TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯ DÂN VEN BIỂN CỬA LÒ, NGHỆ AN LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ Hà Nội 2008 1
- MỤC LỤC TRANG MỤC LỤC.......................................................................................................... 2 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ ................................................. 5 MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 6 1. Lý do và mục đích chọn đề tài ........................................................................ 6 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 7 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu ................................................................. 11 3.1. Phạm vi ...................................................................................................... 11 3.2. Đối tượng ................................................................................................... 13 4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 13 5. Một số khái niệm như là công cụ nghiên cứu ............................................... 14 6. Bố cục luận văn ............................................................................................. 16 CHƢƠNG I. CỬA LÕ – THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƢỜI .................... 17 1. Về điều kiện tự nhiên và nguồn lợi biển ....................................................... 17 1.1. Điều kiện địa hình, khí hậu ........................................................................ 17 1.2. Nguồn lợi biển ........................................................................................... 19 1.3. Địa lý hành chính ....................................................................................... 20 2. Dân cư ........................................................................................................... 21 2.1. Lịch sử hình thành và phát triển ................................................................ 21 2.2. Về văn hóa ................................................................................................. 28 2.2.1. Đời sống vật chất ................................................................................ 28 2.2.2. Tín ngưỡng, lễ hội ............................................................................... 29 3. Về tình hình kinh tế - xã hội ......................................................................... 34 Tiểu kết ............................................................................................................. 37 CHƢƠNG II. CÁC HÌNH THỨC KHAI THÁC NGUỒN LỢI HẢI SẢN CỦA CỘNG ĐỒNG NGƢ DÂN VEN BIỂN CỬA LÕ ............................... 38 1. Nhận thức của ngư dân về môi trường tự nhiên và nguồn lợi hải sản.......... 38 1.2 Về chế độ thuỷ triều và sơ đồ nước mặt - nước đáy. .................................. 39 1.3. Về mùa cá và làn nước của các loại hải sản .............................................. 41 1.4. Những thay đổi trong nhận thức của ngư dân về môi trường tự nhiên và nguồn lợi ........................................................................................................... 42 2
- 2. Các hình thức khai thác và hệ thống ngư cụ ................................................. 43 2.1. Lưới rút ...................................................................................................... 47 2.2. Câu ............................................................................................................. 50 2.3. Dạ ............................................................................................................... 52 2.3.1. Dạ bướm .............................................................................................. 52 2.3.2. Dạ ván ................................................................................................. 53 2.3.3. Dạ cào ................................................................................................. 54 2.3.4. Dạ luồi ................................................................................................. 54 2.3.5. Dạ va va .............................................................................................. 54 2.4. Vó ánh sáng, Mành .................................................................................... 55 2.5. Te ............................................................................................................... 57 2.6. Bóng ghẹ .................................................................................................... 57 3. Những thay đổi trong khai thác hải sản qua các thời kỳ .............................. 58 4. Các hình thức tổ chức khai thác hải sản ....................................................... 66 4.1. Phân công lao động theo giới .................................................................... 66 4.2. Tổ chức đánh bắt theo thuyền .................................................................... 68 4.3. Tổ chức đánh bắt theo nhóm...................................................................... 70 5. Các loại sản phẩm và mạng lưới phân phối sản phẩm ................................. 71 Tiểu kết ............................................................................................................. 76 CHƢƠNG III. CÁC HÌNH THỨC CHẾ BIẾN HẢI SẢN CỦA CỘNG ĐỒNG NGƢ DÂN VEN BIỂN CỬA LÕ ..................................................... 77 1. Tri thức về chế biến hải sản .......................................................................... 77 2. Các hình thức chế biến hải sản ..................................................................... 79 2.1. Các sản phẩm muối .................................................................................... 79 2.1.1. Nước mắm ........................................................................................... 79 2.1.2. Các loại ruốc ....................................................................................... 83 2.2. Các sản phẩm chế biến qua lửa .................................................................. 86 2.2.1. Cá nướng ............................................................................................. 86 2.2.2. Cá luộc và hun khói, tôm luộc............................................................. 87 2.3. Các sản phẩm chế biến không qua lửa....................................................... 88 3. Những biến đổi trong nghề chế biến ............................................................. 90 3.1. Về dụng cụ ................................................................................................. 91 3.3. Về xây dựng và quảng bá thương hiệu ...................................................... 93 3
- 4. Tổ chức lao động trong chế biến hải sản ...................................................... 94 4.1. Các hình thức tổ chức lao động ................................................................. 94 4.1.1. Tổ chức lao động theo hộ gia đình ..................................................... 95 4.1.2. Tổ chức lao động theo nhóm ............................................................... 95 4.2. Vai trò của nữ giới trong nghề chế biến .................................................... 98 5. Mạng lưới phân phối sản phẩm .................................................................. 103 6. Mối quan hệ giữa khai thác và chế biến hải sản ......................................... 106 Tiểu kết ........................................................................................................... 108 KẾT LUẬN .................................................................................................... 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 112 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 115 I. Một số định nghĩa về khai thác, chế biến hải sản và sản phẩm hải sản ...... 115 II. Một số thông tin về hiện trạng khai thác hải sản ở Việt Nam ................... 118 III. Đề án phát triển kinh tế thủy sản thị xã Cửa Lò giai đoạn 2007 - 2010 có tính đến năm 2015 ........................................................................................... 128 IV. Hình ảnh.................................................................................................... 140 4
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ Bảng biểu Bảng1 (Mục I.2.1): Thống kê về lao động việc làm của UBND phường Nghi Thủy (tính đến 6 tháng đầu năm năm 2008).......................................Tr26 Bảng2 (Mục I.2.1): Thống kê chi tiết về các ngành nghề của phường Nghi Thủy năm 2007....................................................................................Tr27 Bảng 3 (Mục II.2): Bảng tổng hợp các chỉ tiêu về khai thác thuỷ sản theo các nghề chính ở Cửa Lò..............................................................................................Tr43 Bảng 4 (Mục II.3): Thống kê về số lao động và tàu thuyền đánh bắt năm 2005 và 2007 ở Cửa Lò...................................................................................................Tr63 Bảng 5 (Mục II.3): Thống kê về sản lượng đánh bắt hải sản (phân chia theo loại cụ thể) của thị xã Cửa Lò năm 2005...............................................................Tr66 Bảng 6 (Mục II.3): Sản lượng khai thác hải sản từ năm 2001 đến năm 2006 ở Cửa Lò...................................................................................................................................... ...Tr66 Bảng 7 (Mục III. 4.1.1): Thống kê số lượng cơ sở chế biến và lao động chuyên chế biến hải sản trên địa bàn thị xã Cửa Lò năm 2005 và 200..................Tr94 Sơ đồ Sơ đồ 1 (Mục I.1.2): Sơ đồ các hướng gió và chiều nước mặt, nước đáy...Tr38 Sơ đồ 2 (Mục II. 5): Mạng lưới phân phối hải sản đánh bắt được thông qua những người đánh bắt, người mua và bán.............................................................Tr75 Sơ đồ 3 (Mục III. 2.1.1): Quy trình sản xuất nước mắm vẩy cổ truyền...... Tr83 Sơ đồ 4 (Mục III.5): Mạng lưới thông tin sản phẩm từ chế biến tới người tiêu dùng.............................................................................................................Tr106 5
- MỞ ĐẦU 1. Lý do và mục đích chọn đề tài Quản lý nguồn lợi hải sản để phát triển ngư nghiệp bền vững đang là vấn đề bức thiết được đặt ra khi nguồn lợi này đang bị khai thác một cách quá mức và có chiều hướng suy giảm nghiêm trọng1. Đây không chỉ là vấn đề cấp bách của nước ta mà còn là của nhiều quốc gia có nguồn lợi biển trên thế giới. Để quản lý một cách hiệu quả, điều quan trọng không phải là chỉ tìm hiểu bản thân nguồn lợi, mà quan trọng là phải hiểu được chủ thể tiến hành các hoạt động khai thác nguồn lợi đó – đó chính là ngư dân. Chính vì vậy, nghiên cứu văn hoá của cộng đồng ngư dân đóng một vai trò quan trọng đối với nhận thức chung của xã hội, đặc biệt là đối với những nhà quản lý – người đưa ra và triển khai các chính sách và chiến lược phát triển. Tuy cùng lấy biển làm đối tượng khai thác chính nhưng không phải ngư dân nơi nào cũng có cách ứng biến giống nhau trước môi trường đó. Ngoài những mẫu số chung, sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội,… tạo nên cách ứng xử khác nhau trước môi trường lớn là biển cả. Cho nên, bức tranh về văn hoá của các cộng đồng ngư dân là vô cùng phong phú và đa dạng, mang màu sắc địa phương, vùng miền. Để thích ứng với điều kiện tự nhiên, con người phải tạo ra những cách thức khác nhau trong những môi trường sinh thái khác nhau. Nhưng liệu những cách thức đó có vừa đảm bảo điều kiện sống, vừa đảm bảo không tác động xấu tới môi trường tự nhiên, đảm bảo cho sự phát triển bền vững? Đó là một câu hỏi đáng được quan tâm và cần trả lời. Chính vì vậy, nghiên cứu về các hình thức khai thác và chế biến hải sản trong cộng đồng ngư dân cũng là nghiên cứu về cách ứng phó của cư dân đó trước môi trường tự nhiên biển cả, góp phần vào tìm hiểu văn hoá của ngư dân. Đồng thời, tìm hiểu các thói quen về đánh bắt và chế biến để thấy được những ưu điểm và hạn chế của các hình thức đó đối với đời sống dân cư cũng như đối với sự phát triển bền vững nguồn lợi hải sản. Cửa Lò nằm trong vùng biển tiếp nối giữa vịnh Bắc Bộ với các vùng biển phía nam, ẩn chứa nhiều thành tố văn hóa tiếp xúc giữa hai khu vực: từ bắc vào và từ nam lên, điều này đã được một số nhà nghiên cứu quan tâm và đã đặt ra một câu hỏi, phải chăng nơi đây đã từng có sự tiếp xúc với văn hóa 1 Xem thêm phụ lục số 2. 6
- Malayo-pôlynêdiêng? Đây cũng là một điểm lý thú khi tìm hiểu và khám phá văn hóa của vùng đất ven biển này. Ngư dân Cửa Lò, cũng như ngư dân ven biển nhiều nơi khác ở Việt Nam, mặc dù không có xuất xứ từ dân biển, nhưng do nhiều hoàn cảnh đã cùng nhau dựng làng, qua bao đời sinh sống ở môi trường ven biển, họ đã biết tận dụng môi trường tự nhiên đó và tạo ra các cách thích ứng, đảm bảo cho lẽ sinh tồn. Cho nên, việc tìm hiểu các phương thức khai thác và chế biến, bảo quản hải sản của ngư dân ven biển Cửa Lò cũng là tìm hiểu khả năng thích ứng trước điều kiện tự nhiên của ngư dân nơi đây, và quá trình đó đã tạo nên những nét văn hoá của ngư dân vùng biển này, góp phần tạo nên bức tranh văn hoá đa dạng trong tiểu vùng văn hoá xứ Nghệ. Ngoài ra, Cửa Lò đang dần trở thành một đô thị du lịch biển, với nhiều đổi thay về kinh tế, xã hội. Điều đó đã, đang và sẽ có những tác động không nhỏ đối với đời sống của cư dân vùng này nói chung, đối với ngư dân nói riêng. Sự phát triển đó đã và sẽ có những tác động gì tới sinh kế truyền thống của ngư dân vùng này vốn là khai thác, buôn bán và chế biến, bảo quản hải sản, nhằm phát huy tính tích cực và hạn chế những tiêu cực trước những tác động của quá trình đô thị hoá đối với đời sống ngư dân – đây cũng là vấn đề mà luận văn cố gắng tìm hiểu bước đầu. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nhìn chung, các nghiên cứu về ngư dân ở Việt Nam chưa nhiều, nội dung chủ yếu được hướng đến là văn hóa dân gian, đặc biệt là tín ngưỡng, lễ hội. Trong đó, phần nhiều là những công trình mang tính sưu tầm, hệ thống hóa nguồn tư liệu dân gian, mà chưa có nhiều nghiên cứu sâu mang tính dân tộc học. Các hình thức khai thác và chế biến, bảo quản hải sản cũng đã được điểm qua ở một số công trình, tuy nhiên cũng chưa được khảo cứu kỹ lưỡng. Với “Biển và người Việt cổ” [Trần Quốc Vượng, Cao Xuân Phổ; 1996], hai tác giả đã dựa trên những cứ liệu của ngành khảo cổ học, những dấu tích của người Việt cổ ở vùng ven biển trong các thời kỳ văn hóa từ tiền sơ sử, chứng minh sự gắn bó của con người với biển cả ngay từ thời xa xưa. Tuy nhiên, trong thuở nguyên sơ ấy, con người chỉ mới tiến tới vùng biển sát bờ với các hình thức khai thác đơn giản và những sinh vật ven biển là một trong những nguồn thức ăn quan trọng cho con người thời đó. “Văn hóa dân gian làng ven biển” [Viện nghiên cứu văn hóa dân gian; 2000] được xuất bản vào năm 2000, là kết quả của đề tài “sưu tầm, nghiên cứu 7
- văn hóa dân gian các làng ven biển ở Việt Nam”. Theo các tác giả, cộng đồng người Việt không có nguồn gốc biển, mà cơ bản họ là cư dân sống ở vùng trước núi tràn xuống khai thác đồng bằng lầy trũng rồi lấn biển và khai thác biển. Cùng với quá trình phát triển cư dân và nam tiến, chất biển trong văn hóa của người Việt ngày càng tăng lên. Trong phần giới thiệu ban đầu, công trình này cũng giới thiệu về các dụng cụ đánh bắt và hình thức chế biến hải sản. Tuy nhiên, đó chỉ là những khái lược chung chung ban đầu. Tác giả Nguyễn Duy Thiệu với công trình “Cộng đồng ngư dân Việt Nam” [Nguyễn Duy Thiệu; 2002] đã cho chúng ta một cái nhìn khái quát về sự hình thành, cơ cấu tổ chức xã hội và tổ chức đời sống tín ngưỡng trong cộng đồng ngư dân ở Việt Nam. Ngoài ra, với những tư liệu điền dã, tác giả đã tái dựng nên thiết chế xã hội truyền thống của một số cộng đồng ngư dân ở vùng Trung và Nam bộ. Tác giả cũng giới thiệu một số hình thức khai thác hải sản của ngư dân ven cửa sông, cửa biển, nhưng, đây chỉ là một nội dung nhỏ được tác giả đề cập tới trong cộng đồng ngư dân ở Cửa Sót (Hà Tĩnh). Tuy nhiên, đây là một công trình mang tính khái quát, chủ yếu có đi sâu hơn vào những địa bàn phía Bắc, vùng Nam trung bộ cũng có được đề cập qua, còn vùng Nam bộ chưa được viết tới. “Văn hóa tàu thuyền trong đời sống cư dân ở Việt Nam” [Đỗ Thị Thanh Thủy; 2005] là đề tài cấp Viện năm 2005 của Viện Văn hóa – Thông tin. Dựa trên những tài liệu lịch sử, những tư liệu khảo sát điền dã, báo cáo cho ta cái nhìn tổng quát và khá chi tiết về các loại tàu thuyền của cư dân khai thác thủy hải sải cũng như sự gắn bó giữa nước – tàu thuyền – phong tục, tập quán trong văn hóa của cộng đồng dân cư. Trong tài liệu này, các phương tiện khai thác hải sản, các hoạt động liên quan tới buôn bán hải sản cũng được tác giả đề cập tới với cái nhìn chung chung, mang tính chất điểm qua mà không phải là nội dung chính của đề tài. Ngoài ra, còn nhiều bài viết trên các báo, tạp chí và một số nghiên cứu về ngư dân trên các vùng miền trong cả nước, mang lại phông hiểu biết chung về văn hóa biển trong đời sống cư dân. Trong đó, hầu hết các tác giả đều thống nhất với quan điểm, cư dân gốc Việt lấy nông nghiệp làm kinh tế chủ đạo, không có truyền thống khai thác nguồn lợi biển; càng lùi vào phía nam, tính biển trong đời sống văn hóa dân cư càng được thể hiện đậm nét. Điều đó được thể hiện rõ trong đời sống tín ngưỡng tâm linh, trong các cách thức khai thác và sử dụng nguồn lợi tự nhiên. Đã có nhiều học giả nghiên cứu về các loại hình tín ngưỡng, lễ hội của ngư dân. Tuy nhiên, về sự thích ứng với môi 8
- trường ven biển thông qua các hình thức đánh bắt và tổ chức lao động cũng như các hoạt động kinh tế kèm theo nó chưa được chú ý khai thác. Đây cũng là một mảng đề tài thú vị để hiểu rõ hơn khả năng thích ứng với môi trường của ngư dân và thấy được tính “biển” đạt tới mức độ nào trong đời sống của cộng đồng đó. Trên thế giới, có một lĩnh vực nghiên cứu được gọi là “nhân học về nghề cá” (anthropology of fishing) nằm trong ngành “nhân học biển” (maritime anthropology). Tiến sĩ James M. Acheson2 đã có một bài tổng kết về các công trình nghiên cứu liên quan tới lĩnh vực này, được trình bày dưới tiêu đề “Anthropology of fishing”. Qua tổng lược từ 250 công trình nghiên cứu, tác giả đã đưa ra cái nhìn tổng quan về các vấn đề mà nhân học về nghề cá quan tâm. Đóng góp to lớn của các công trình đó là đã tìm hiểu những cách thức mà con người thích ứng trước một môi trường đầy rủi ro để tồn tại. Để giảm thiểu rủi ro, con người đã tạo ra các ngư cụ lao động phù hợp và tổ chức lao động nhau theo nhiều cách thức, từ đó nảy sinh thêm nhiều vấn đề nghiên cứu như: mối quan hệ họ hàng giữa thuyền viên, mối quan hệ giữa những người đánh bắt và những người trung gian môi giới, hệ thống phân chia sản phẩm đánh bắt được,... Sự tổng kết của học giả nước ngoài mang lại cái nhìn về nghề cá dưới những góc độ khác nhau, gợi ra những hướng nghiên cứu cần tiếp tục quan tâm và tìm hiểu. Lịch sử nghiên cứu vùng biển Cửa Lò Trong những cuốn địa chí, vùng đất này được biết đến như một phần của huyện Chân Lộc (sau đổi là Nghi Lộc) [Quốc sử quán triều Nguyễn, 1992, tr121-122]. Các địa danh như núi Lò, đảo Song Ngư cũng được nhắc đến trong phần núi, sông của vùng “núi Lò ở cách huyện Chân Lộc 11 dặm về phía đông bắc, trên núi có chùa Phổ Am”[Quốc sử quán triều Nguyễn, 1992, tr159], “ở cách huyện Chân Lộc 25 dặm về phía đông, ngoài cửa Hội nổi vọt lên 2 ngọn núi đứng sững đối nhau, trông như hình hai con cá bơi lội giữa sóng nước, cho nên gọi là Song Ngư”[Quốc sử quán triều Nguyễn, 1992, tr165]. Vùng đất này đã trở thành một trong những khu căn cứ quân sự trọng yếu vùng cửa biển khi vào thế kỷ XV. Năm 1460, Nguyễn Sư Hồi được vua Lê Thánh Tông cử giữ chức Thái uý Nhập nội quận công, đem thuỷ quân về Cửa Lò xây dựng căn cứ hải quân. Sau đó, Nguyễn Sư Hồi được phong làm Trấn 2 Tiến sĩ tại đại học Rochester năm 1970, hiện là giảng viên khoa Nhân học, trường Đại học Maine, Orono, Maine, Mỹ. Bài viết của ông được đăng trên tạp chí Annual Review of Anthropology Vol. 10: 275-316 (Volume publication date October 1981) – Tà i liệ u củ a tác giả . 9
- thủ Nghệ An, quản lý 12 cửa lạch từ Sầm Sơn (Thanh Hoá) đến Cửa Tùng (Quảng Trị). Và ông đã có công chiêu dân, lập ấp hình thành nên làng Vạn Lộc (Nghi Tân) – hiện tại vẫn có đền thờ ông ở làng Vạn Lộc – nơi diễn ra lễ hội cầu ngư, cầu yên của dân làng hàng năm. Sau đó, vua Lê Thánh Tông đã cho lập tân nhất xã với tên là xã Hải Ngung, còn gọi là Hải Giang. Hải Giang chính là dòng sông Cấm. Sông Cấm chảy ra biển tạo thành Cửa Xá, còn gọi là Lô tấn, Xá tấn, thuộc tổng Thượng xá, huyện Chân Lộc sau đổi gọi là huyện Nghi Lộc và hiện nay thì thuộc thị xã Cửa Lò. Vào các giai đoạn sau, dân cư từ các nơi khác cũng kéo đến đây sinh sống, bám biển làm ăn như dân từ vùng Cửa Sót (Hà Tĩnh), Hưng Nguyên (Nghệ An),... Các công trình nghiên cứu về văn hóa biển Cửa Lò nói chung, về cách thức khai thác và chế biến hải sản của ngư dân ở đây nói riêng hầu như chưa có, mà chủ yếu là các bài viết ngắn của các tác giả nằm rải rác trong những tạp chí chuyên ngành giới thiệu một vài nét văn hóa của dân cư ven biển Cửa Lò. Với yêu cầu của phát triển du lịch, phòng văn hóa và thông tin Cửa Lò từng cho xuất bản cuốn “Du lịch Cửa Lò” vào năm 2007. Chính vì đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thông tin du lịch, cuốn sách nhỏ này chỉ mang tính giới thiệu một số nét văn hóa tiêu biểu như về truyền thống hiếu học, về lễ hội,...; về các địa danh du lịch và một số đặc sản của vùng biển này trong đó có nước mắm Cửa Lò, nước mắm Cửa Hội. Một hội thảo đáng được chú ý đã được tổ chức tại Cửa Lò năm 2006 có chủ đề “Sự hình thành và mục tiêu, giải pháp phát triển bền vững du lịch Cửa Lò” với hai nội dung lớn là lịch sử và định hướng, giải pháp phát triển bền vững du lịch Cửa Lò. Trong phần lịch sử, các đại biểu tham gia hội thảo tập trung trình bày về thời điểm hình thành bãi tắm du lịch Cửa Lò dựa trên những tài liệu lưu trữ của người Pháp. Và cuối cùng đã đi đến thống nhất, lấy ngày 05 – 06 – 1907 làm ngày ra đời của du lịch biển Cửa Lò – đây là ngày Toàn quyền Đông Dương ký văn bản cho phép sử dụng đất Cửa Lò với mục đích xây dựng nhà nghỉ, trồng rừng phi lao ven biển,... Và cũng vào năm này, đã có một khu biệt thự được bắt đầu xây dựng. Trong phần hai, các đại biểu tập trung vào bàn bạc các giải pháp cho sự phát triển bền vững du lịch Cửa Lò dưới góc độ văn hóa và môi trường tự nhiên. Hai cuốn “Lịch sử đảng bộ thị xã Cửa Lò” [Đảng bộ Thị xã Cửa Lò, 2004] và “Lịch sử đảng bộ phường Nghi Thủy” [Đảng ủy phường Nghi Thủy, 2006] mang lại cái nhìn khái quát về điều kiện tự nhiên, dân cư và đặc biệt là về tiến trình lịch sử của vùng đất này gắn với lịch sử đảng bộ của thị xã và của 10
- phường. Trong hai tài liệu đó, khai thác và chế biến hải sản được xem như hai bộ phận nhỏ thuộc ngành kinh tế ngư nghiệp, cũng được điểm qua về thành tựu cùng với sự phát triển kinh tế chung của cả thị xã, đặc biệt là từ thời kỳ hợp tác hóa đầu năm 1960 cho tới hiện nay. Đây là tài liệu hữu ích để thu thập những số liệu thống kê và phần nào cho thấy sự biến chuyển của nghề nằm trong chính sách phát triển kinh tế chung của thị xã. Ngoài ra, là những bài viết về một số nét văn hóa biển Cửa Lò được đăng rải rác trong các tạp chí chuyên ngành, như “Vài nét văn hóa sông biển Cửa Lò” của tác giả Đào Tam Tỉnh, “Về địa danh Cửa Lò” của Trần Trí Dõi,.. Niên giám thống kê hàng năm của Phòng Thống kê, thị xã Cửa Lò và các báo cáo tình hình kinh tế - xã hội hàng năm của Thị xã, của phường cũng mang lại những thông tin bổ ích, đặc biệt là số liệu thống kê về tàu thuyền, các ngành nghề, lực lượng lao động,... Về cơ bản, những tư liệu và nghiên cứu về vùng Cửa Lò mang lại cái nhìn tổng quát về lịch sử, tình hình đời sống, kinh tế, xã hội và văn hóa của dân cư. Đồng thời cũng cho thấy những đổi thay của thị xã du lịch biển, kể từ ngày có chính sách đẩy mạnh phát triển du lịch. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu sâu nào về ngư dân vùng ven biển Cửa Lò, nghiên cứu về các hình thức khai thác, chế biến và bảo quản hải sản và đặc biệt là sự tác động của bối cảnh phát triển kinh tế lên những nghề nghiệp đó của ngư dân. 3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu 3.1. Phạm vi Cửa Lò là nơi sông Cấm (dân gian còn gọi là Lạch Lò) đổ ra biển, cùng với Cửa Hội là nơi sông Lam ở phía nam đổ ra biển, phù sa của hai con sông này bồi đắp qua năm tháng tạo nên vùng đất thị xã Cửa Lò ngày nay – được người nhiều nơi biết tới với tư cách là một địa chỉ nghỉ mát mùa hè, đồng thời cũng là một vùng đất in đậm những nét riêng của một tiểu vùng văn hóa nằm trong vùng văn hóa chung “xứ Nghệ”. Về địa danh “Cửa Lò”, trước đây mới chỉ là tên riêng của một con sông đổ ra biển như bao cửa sông khác ở nước ta. Cửa sông này là nơi sông Cấm đổ ra biển Đông với dãy núi xã Nghi Thiết nhấp nhô bên tả ngạn và xã Nghi Thủy ngày nay bên hữu ngạn. Từ tháng 4 – 1986, Cửa Lò trở thành tên một thị trấn cảng và du lịch thuộc huyện Nghi Lộc gồm diện tích và dân số hai xã Nghi Tân, Nghi Thủy và một phần đất của hai xã Nghi Thu, Nghi Hợp. Sau đó, từ tháng 8 – 1994, địa danh Cửa Lò trở thành tên riêng của thị xã trên cơ sở thị 11
- trấn Cửa Lò trước, cộng thêm đất đai của một số xã khác của huyện Nghi Lộc. Như vậy, từ tên riêng để chỉ một một cửa sông đổ ra biển, Cửa Lò đã trở thành tên riêng để chỉ một đơn vị hành chính, thuộc tỉnh Nghệ An. Theo cách giải thích của người dân địa phương hiện nay, “Cửa Lò” là do cách nói chệch đi và gọn lại của tên gọi “Cửa Lùa” trước đây. Cửa biển này có một bên là dãy núi xã Nghi Thiết (ở phía bắc) và một bên là núi Lô thuộc hai xã Nghi Tân và Nghi Thủy (phía nam), nên khi gió từ ngoài biển thổi vào cũng như gió từ hướng tây trong đất liền thổi ra tạo thành nơi đây như một cửa gió lùa. Từ cửa gió lùa, người ta nói gọn thành cửa lùa rồi thành Cửa Lò như ngày nay. Theo dân gian, cũng có một ý nghĩa nữa là do trước đây dân vùng này có nghề đốt lò nấu muối, nên gọi cửa biển là Cửa Lò. Nhưng theo nghiên cứu của các nhà khoa học, tên gọi này có nguồn gốc của ngư dân nói ngôn ngữ Malayô- Pôlynêdiêng, có nghĩa là “cửa sông”. Trong ngôn ngữ của các cư dân này, có từ Kuala để gọi tên nơi một con sông đổ ra biển hay nơi một con sông nhỏ chảy ra một con sông lớn. Dần dần, danh từ Kuala chuyển thành danh từ riêng Kuala/Kualo và cuối cùng là địa danh hóa thành Cửa Lò [Trần Trí Dõi, 2000; Nguyễn Duy Thiệu, 2004]. Trong luận văn này, Cửa Lò được sử dụng theo đúng với tên gọi hành chính của thị xã biển này. Không gian nghiên cứu chính của luận văn là tiểu vùng văn hóa Cửa Lò với những nét văn hóa của cư dân vùng biển, đặt trong bối cảnh văn hóa chung của xứ Nghệ. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan và chủ quan, luận văn chỉ lấy điểm nghiên cứu là phường Nghi Thủy – dân hai làng Mai Bảng, Yên Lương quanh năm gắn bó với nghề, qua bao thay đổi của thời cuộc, hầu hết ngư dân nơi đây vẫn chỉ bám biển để sinh sống và hiện tại còn lưu giữ được nhiều nét khai thác và chế biến thủ công truyền thống. Không như các phường khác như Nghi Tân, Nghi Hải, đã từng có thời nhiều ngư dân bỏ nghề chuyển sang làm nghề khác như bán hàng điện tử, đi xuất khẩu lao động, đi thuyền viễn dương và hiện tại nhiều ngư dân đã quay trở về với nghề nhưng đã mang nhiều sắc thái mới với sự trợ giúp của công nghệ. Những nét chung và khác biệt liên quan tới cách thức đánh bắt và chế biến hải sản của ngư dân cũng như sự thay đổi qua thời gian của các nghề đó ở những địa phương này cũng sẽ được lý giải trong luận văn. Như vậy, không gian trọng tâm để thực hiện đề tài là phường Nghi Thủy, bên cạnh đó, có sự so sánh với các phường Nghi Tân và Nghi Hải, và trên tổng thể là đặt trong bối cảnh chung của thị xã Cửa Lò. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, việc phân chia theo tên gọi địa lý hành 12
- chính như trên chỉ mang tính chất tương đối để có thể dễ dàng hình dung về địa bàn nghiên cứu, bởi vì nội dung của đề tài là tập trung tìm hiểu những tri thức của ngư dân và cách thức họ vận dụng, phát triển tri thức đó vào thực tiễn như thế nào, và những tri thức thì không bị hạn chế bởi giới hạn hành chính, và là tài sản chung của một cộng đồng có cùng môi trường sinh sống. 3.2. Đối tƣợng Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tính “biển” trong đời sống của cộng đồng ngư dân ven biển Cửa Lò, thể hiện qua khả năng thích ứng trước điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái biển cả thông qua các hình thức khai thác và chế biến hải sản. Với thời gian, các hình thức này chịu những tác động gì và có biến đổi như thế nào? Khai thác và chế biến hải sản gắn với sự phân công lao động theo giới trong cộng đồng ngư dân, tương ứng là lao động nam và nữ. Mối quan hệ giữa hai loại hình công việc đó sẽ dẫn tới mối quan hệ tương ứng giữa nam và nữ trong gia đình và trong cộng đồng ngư dân. Dựa trên tổng thể đó, luận văn đi vào tìm hiểu hai nội dung chính là các hình thức khai thác và chế biến hải sản. Về nội dung hình thức khai thác, luận văn đi sâu tìm hiểu ngư dân đã sử dụng cách thức đánh bắt phù hợp với đối tượng nào và tạo ra mối liên kết gì để tăng hiệu quả lao động và giảm thiểu rủi ro trong môi trường biển. Và qua nhiều đời gắn bó với nghề đánh bắt trên biển, ngư dân đã rút ra được những tri thức về môi trường tự nhiên và nguồn lợi hải sản. Tương tự, nội dung chế biến hải sản cũng sẽ được tìm hiểu dưới các góc độ như: cách thức chế biến và những đổi thay của nghề qua thời gian, tổ chức phân công lao động và vai trò của lao động nữ trong nghề chế biến. Luận văn cũng đưa ra một vài so sánh nhỏ trong cách thức chế biến nước mắm của ngư dân nơi đây với cách thức của ngư dân vùng khác, cụ thể là ở Phan Thiết (Bình Thuận) để thấy được sự khác biệt trong điều kiện tự nhiên, văn hóa của các vùng miền. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng kết hợp phương pháp lịch sử và các phương pháp của dân tộc học để vừa thấy được tiến trình phát triển của đối tượng nghiên cứu, vừa có cái nhìn so sánh trong hiện tại. Phương pháp nghiên cứu định lượng: xây dựng bộ câu hỏi mở theo cấu trúc nội dung nhằm xây dựng hệ thống tư liệu về quy trình và cách thức tiến 13
- hành các phương thức khai thác cũng như chế biến hải sản. Bên cạnh đó, còn có bảng thông tin kinh tế xã hội của phường, thị xã để thu thập các số liệu thống kê về thực trạng khai thác và chế biến hải sản của cộng đồng ngư dân trên địa bàn nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu định tính: các thông tin định tính được thu thập thông qua các hình thức khai thác thông tin: - Các chủ đề phỏng vấn nhóm đối tượng: nhằm tìm hiểu thông tin ở mức độ sâu, vừa có cái nhìn tổng quát vừa có cái nhìn cụ thể, chi tiết. Phỏng vấn sâu những người giữ vai trò quan trọng trong quản lý nghề, đặc biệt từ thời kỳ hợp tác xã cho tới hiện tại (cán bộ phụ trách hội ngư dân) kết hợp với phương pháp hồi cố để thấy được tiến trình phát triển, sự thay đổi cũng như thực trạng và định hướng phát triển của nghề. Bên cạnh đó là phỏng vấn các nhóm đối tượng chuyên làm các nghề khác nhau để hiểu rõ hơn những khó khăn thuận lợi của nghề mà họ tham gia. - Phương pháp quan sát: quan sát cách thức và quy trình tiến hành các phương thức khai thác và chế biến, quan sát các loại hình công việc gắn với các nhóm đối tượng trong cộng đồng. - Ảnh chụp: hỗ trợ việc mô tả những hoạt động diễn ra trong cộng đồng. 5. Một số khái niệm nhƣ là công cụ nghiên cứu Điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái được coi là tác nhân cực kỳ quan trọng đến sáng tạo văn hoá của con người. Sự tác động qua lại giữa tự nhiên và con người là nhân tố chính tạo nên đặc trưng văn hoá. Con người trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên: để thích nghi tồn tại, con người vừa tận dụng, vừa tìm cách ứng phó với điều kiện tự nhiên nhằm bảo đảm cho cái “lẽ sinh tồn” của mình. Cách thức ứng xử trong những môi trường tự nhiên khác nhau tạo nên những đặc trưng của cộng đồng người sinh sống trong môi trường đó. Một trong những đặc trưng của cộng đồng ngư dân là chỉ khai thác tự nhiên, nhưng không làm ra tự nhiên, họ không có kiến thức về tái sản xuất nguồn tài nguyên, khác với những người làm nông nghiệp và chăn nuôi gia súc có thể tái sản xuất lại nguồn tài nguyên thiên nhiên của mình. Những người sống trên đất liền thì có nhiều cách để cải tạo môi trường như việc tưới nước, làm vườn, bón phân,... còn người đi biển thì không thể thay đổi địa hình và không thể kiểm soát được biển cả, họ chỉ có thể căn cứ vào điều kiện môi trường đó để tạo ra những công cụ phù hợp khai thác tự nhiên, nhằm mục đích 14
- cho công cuộc mưu sinh. Cư dân biển có thể đánh bắt cá liên tục trong năm với nhiều loại cá khác nhau, trừ thời gian biển động, sóng to gió bão. Điều này cũng khác với nông nghiệp vì làm nông nghiệp thì chỉ thu hoạch vào thời gian nhất định trong năm. Cũng chính vì thế, việc bảo quản hải sản sau khi đánh bắt được là một vấn đề quan trọng trong đời sống ngư dân, vì những thứ họ đánh bắt được đều tươi sống, và cũng không thể sử dụng hết ngay một lúc, muốn giữ được lâu dài để làm thức ăn dự trữ hoặc để bán phải biết cách bảo quản, chế biến thích hợp. Lâu dần, việc chế biến, bảo quản trở thành bí quyết, tạo thành một nghề trong cộng đồng ngư dân để giúp họ ổn định thu nhập cho đời sống gia đình, cân bằng lại tính thất thường trong nghề khai thác. Khai thác và chế biến, bảo quản hải sản là những vấn đề quan trọng trong đời sống của cộng đồng ngư dân, đó là hai sinh kế thích ứng trước môi trường tự nhiên biển cả. Thủy sản là những sản vật sinh sống ở dưới nước nói chung, còn hải sản là chỉ những sản vật sinh sống ở biển, đại dương. Khai thác hải sản là hoạt động thu lấy những sản vật sinh sống ở biển, đại dương. Do đặc điểm sinh học của đối tượng khai thác đó là vô cùng phong phú và đa dạng, nên con người cũng đã tạo ra những dụng cụ đánh bắt thích hợp từ đó tạo ra những hình thức khai thác khác nhau. Chế biến hải sản là cách thức xử lí nguyên liệu từ khai thác hải sản thành các mặt hàng thực phẩm hay sản phẩm khác (thức ăn chăn nuôi, dược phẩm, mĩ phẩm) dưới các dạng đông lạnh, làm khô, hun khói, ướp muối và đồ hộp để phục vụ cho nhu cầu của con người. Và gắn với môi trường lao động trên biển và tiến hành các sinh kế trên, không thể không nói tới chủ thể của nó, đó là những ngư dân. Căn cứ vào tập quán cư trú, nguồn lợi mà các nhóm hướng vào để khai thác, kỹ thuật và công cụ để đánh bắt thủy hải sản, quan hệ xã hội, đời sống tôn giáo và tín ngưỡng,... của mỗi nhóm để có thể phân loại cộng đồng ngư dân thành các nhóm khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, ngư dân được hiểu theo nghĩa là những người lấy hoạt động ngư nghiệp làm nguồn sống duy nhất hoặc chủ yếu cho gia đình mình. Họ chuyên hoạt động khai thác thủy sản bằng các phương tiện tàu thuyền, nhưng cư trú trên đất liền ven biển, hình thành nên những làng chài ven biển. Đối tượng mà luận văn nghiên cứu là cộng đồng ngư dân bãi ngang ven biển Cửa Lò (cụ thể là tại địa bàn phường Nghi Thủy) Ngư dân bãi ngang là những ngư dân sống trên bờ biển dọc theo ven 15
- biển và không ở vùng cửa sông. Mẫu số chung của ngư dân vùng bãi ngang là họ không có nơi để giấu thuyền khi có bão hoặc mùa biển động, cho nên bộ phận này chỉ đóng thuyền bé để khai thác hải sản trong vùng biển lộng. Ngư dân bãi dọc là bộ phận ngư dân sống ở cửa biển. Mẫu số chung của các nhóm ngư dân được xếp là ngư dân bãi dọc là họ có cửa sông để đưa thuyền vào sâu trong đất liền, giấu thuyền tránh bão và khi biển động. Ngư cụ là toàn bộ những dụng cụ mà ngư dân sử dụng để lao động trong môi trường biển. Tuy nhiên, luận văn chỉ giới hạn tìm hiểu về các dụng cụ và cách thức sử dụng chúng để đánh bắt hải sản, chứ không đi vào tìm hiểu các phương tiện đi lại để lao động trong môi trường này như thuyền – nôốc, mủng, bè,... 6. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu, và kết luận, luận văn được chia làm ba chương chính: Chương I: Cửa Lò – thiên nhiên và con người (13 – 32 21 trang) Chương II: Các hình thức khai thác nguồn lợi hải sản của cộng đồng ngư dân ven biển Cửa Lò (33 - 40 trang) Chương III: Các hình thức chế biến hải sản của cộng đồng ngư dân ven biển Cửa Lò (33 trang) Ngoài ra, luận văn còn có phần phụ lục gồm một số thuật ngữ liên quan tới nghề khai thác và chế biến hải sản, về tình hình khai thác và hiện trạng khai thác nguồn lợi hải sản ở Việt Nam, đề án phát triển thủy sản của thị xã Cửa Lò và ảnh chụp hoạt động của ngư dân. 16
- CHƢƠNG I. CỬA LÕ – THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƢỜI Vùng biển Cửa Lò là vùng biển ăn sâu vào đất liền, là eo lõm sâu trên bản đồ đất nước cong cong hình chữ S, đây cũng là vùng chuyển tiếp giữa biển Bắc Bộ và biển Trung Bộ, vùng đất được thiên nhiên ban cho nhiều ưu đãi nhưng cũng không kém phần khắc nghiệt. Gắn bó với mảnh đất này là những con người có gốc gác từ những nơi khác nhau với truyền thống hàng trăm năm gây dựng xóm làng, đã tạo nên những nét văn hóa của cộng đồng ngư dân ven biển. 1. Về điều kiện tự nhiên và nguồn lợi biển 1.1. Điều kiện địa hình, khí hậu Thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An là vùng đất ven biển, nằm ở toạ độ từ 18 45’ đến 18050’ vĩ độ bắc và từ 105042’ đến 105045’ độ kinh đông, cách 0 thành phố Vinh 20km về phía đông bắc, phía bắc và phía tây giáp huyện Nghi Lộc, phía nam giáp huyện Nghi Xuân (tỉnh Hà Tĩnh) và phía đông giáp biển Đông. Thị xã được chắn bởi hai con sông ở hai đầu bắc nam đổ ra hai cửa biển lớn. Sông Cấm ở phía bắc đổ ra Cửa Lò; sông Lam ở phía nam đổ ra Cửa Hội. Hai cửa biển này đều có vị trí chiến lược quan trọng cả về quân sự và kinh tế của quốc gia. Thị xã Cửa Lò có bờ biển dài 10,2km, bãi biển rộng, cát trắng mịn, bằng phẳng, lộng gió; nước biển có độ mặn vừa phải, trung bình 3,4-3,5%. Quanh Cửa Lò có nhiều núi đá nhỏ, mỗi hòn núi có dáng vẻ riêng, gắn với những truyền thuyết và chiến công hiển hách đã đi vào lịch sử dân tộc. Từ lâu, nhân dân địa phương đã đặt tên cho các hòn núi đó theo hình dáng của chúng như: núi Voi, núi Rồng, núi Gươm, núi Trống, núi Mão, núi Cờ, đảo Lan Châu... Cách bờ biển Cửa Lò khoảng 4km có đảo Ngư với độ cao 125m, ở vùng nước sâu 12m, là chỗ dựa cho tàu viễn dương trước khi vào cảng Cửa Lò. Cách Cửa Hội khoảng 30km có đảo Mắt (Quỳnh Nhai) nằm gần kinh tuyến đông 106 0 với độ cao 218m, dài 1,5km, biển sâu 24m, có nguồn nước ngọt, là chỗ dựa cho ngư dân khi gặp sóng to gió lớn. Các hòn đảo này có vị trí chiến lược về quốc phòng an ninh và cũng là điểm du lịch rất hấp dẫn. Địa hình Cửa Lò có nhiều cồn cát cao, rộng, cách nhau khoảng 500m và song song với bờ biển (do đất bồi biển lùi); xen giữa các cồn cát là lòng chảo đầm bàu. 17
- Khí hậu Cửa Lò nằm trong vùng tiểu khí hậu Bắc Trung Bộ. Mùa hè từ tháng 4 đến tháng 8 có gió tây nam nóng nực; mùa thu từ tháng 9 đến tháng 11 thường mưa nhiều kéo theo lụt bão; mùa đông và đầu mùa xuân có gió mùa đông bắc rét buốt kéo dài từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Tuy nhiên, khí hậu nơi đây ấm hơn các huyện phía tây về mùa đông và mát mẻ trong lành hơn về mùa hè, do vị trí nằm sát biển. Thị xã Cửa Lò có diện tích tự nhiên 2812,18ha. Trừ diện tích sông suối 260,33ha, quỹ đất còn lại là 2551,85ha. Thổ nhưỡng gồm hai loại đất chính: Đất phù sa gồm: cồn cát, đụn cát; đất cát biển; đất phù sa không được bồi, chua, không glây hoặc glây yếu; đất phù sa cũ có nhiều sản phẩm pheralit. Đất mặn gồm: đất lầy hoang; đất mặn nhiều; đất mặn trung bình; đất mặn ít; đất chua mặn và mặn chua. Nghi Thủy nằm sát với cảng Cửa Lò, ở khoảng tọa độ từ 18049’10’’ đến 18050’00’’ vĩ độ bắc và từ 102042’45’’ đến 105043’23’’ độ kinh đông, phía bắc giáp xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, phía nam giáp phường Thu Thủy (thuộc thị xã Cửa Lò) và xã Nghi Khánh huyện Nghi Lộc, phía đông giáp biển đông, phía tây giáp lạch Lò và phường Nghi Tân. Vùng đất Nghi Thủy được bao bọc bởi sông biển cả 3 phía: bắc, đông và tây. Ở phía bắc, sông Cấm đổ ra cửa lạch Lò rồi ra biển Đông, gần cửa lạch Lò có một nhánh sông chảy dọc phía tây phường Nghi Thủy, chảy lên xã Nghi Khánh (Nghi Lộc) – gọi là sông Cửa Lò. Dọc bờ phía đông con sông này có cầu cảng Cửa Lò. Dọc bờ phía bắc lạch Lò thuộc xã Nghi Thiết (Nghi Lộc) có dãy núi chạy theo hướng tây – đông, vươn ra biển, điểm cuối gọi là mũi rồng. Dãy núi này có chỗ thấp trũng tạo thành eo, ngay gần cảng Cửa Lò, biển ăn lõm và đất liền, tạo nên cảng cá Nghi Thủy, là nơi thuyền đánh bắt đi về neo đậu và vận chuyển cá lên bờ. Bến cá hình vòng cung, dài khoảng 0,5km. Hiện tại, bến cảng đã được bê tông hóa, có bậc tam cấp để lên xuống sát mép nước. Bờ biển thuộc địa phận phường Nghi Thủy dài 1km từ cửa biển Cửa Lò tới đảo Lan Châu. Nước biển có độ mặn thích hợp, trung bình 3,4 – 3,5%, bãi biển rộng. Biển rất giàu hải sản với nhiều loại như tôm, mực, cua, ghẹ, ốc hương, cá thu, cá lưỡng, cá song, cá ngừ,... Nghi Thủy có bến cảng nên tàu các nơi có thể ra vào thuận lợi, từ Nghi Thủy có thể đi thuyền theo sông Cấm để lên các xã phía tây huyện Nghi Lộc. Nhờ có nhánh sông phía tây và biển phía đông nên vùng này không bao giờ bị úng lụt, chỉ thỉnh thoảng, khi thủy triều dâng cao có thể bị ngập trong vòng nửa giờ. 18
- Khí hậu nơi đây cũng như khí hậu của thị xã, nhưng do có ba mặt là nước bao bọc nên thường mát hơn các vùng khác về mùa hè và ấm hơn về mùa đông. Tổng diện tích tự nhiên của phường gồm 192ha. Đất đai các loại có 189ha (trong đó đất ở 20ha, đất đô thị 20ha, đất nông nghiệp 18ha, vườn tạp 18ha, đất chuyên dùng 44ha, đất chưa sử dụng 107ha)3. Nhìn chung, điều kiện địa hình và khí hậu của nơi đây thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế dựa vào các nguồn lợi từ biển, đặc biệt là khai thác hải sản. 1.2. Nguồn lợi biển Do điều kiện vị trí địa lý và địa hình, yếu tố biển nổi bật lên với tư cách là một nguồn lợi tự nhiên đặc biệt quan trọng đối với ngư dân ven biển Cửa Lò. Trước tiên, phải nói đến là nguồn lợi hải sản dồi dào và đa dạng ở vùng biển Cửa Lò nói riêng, ở vùng biển Nghệ An nói chung. Theo thống kê của Sở Thủy sản Nghệ An, tài nguyên hải sản nói chung của tỉnh gồm có trên 267 loài cá thuộc 91 họ, trong đó có 62 loài có giá trị kinh tế cao, có thể chia thành 2 nhóm sau: nhóm gần bờ có 121 loài chiếm 45,32% (trong đó cá nổi có 20 loài bằng 7,5%, cá đáy và gần đáy 101 loài, tương ứng 37,82%); xa bờ 146 loài chiếm 54,68% (trong đó cá nổi 39 loài bằng 14,61%, cá đáy và gần đáy 107 loài bằng 40,07%). Trữ lượng cá biển trên 80.000 tấn, trong đó cá xa bờ khoảng 50.000 tấn chiếm gần 62%, cho phép khai thác từ 30.000-35.000 tấn, có nhiều loại cá có giá trị kinh tế cao như: cá chim; cá thu; cá hồng, nục,... Có 20 loài tôm thuộc 8 giống và 6 họ trong đó có tôm he, tôm rảo, tôm bộp, tôm vàng, tôm sắt, tôm đất, tôm sú và tôm hùm; trữ lượng 610 - 680 tấn. Tôm hùm là loại tôm có giá trị xuất khẩu cao, có trữ lượng từ 20-25 tấn, tập trung tại các vùng rạn đá ven các đảo và các vùng có đá ngầm trong vùng biển. Tài nguyên hải sản ở Nghệ An còn có một số loại hải sản quý khác, đó là mực. Mực phân bố khắp vùng biển và có nhiều loài, nhưng qua thực tế khai thác một số loài có sản lượng cao là mực cơm, mực ống và mực nang. Ngoài ra, còn phải kể đến các loại hải sản khác như: khuyết, ghẹ, cua, ngao, sò, ốc,... Sự phong phú về hải sản với các hệ nổi, hệ đáy ở gần bờ và xa bờ trong vùng biển này đã giúp cho ngư dân bám biển sản xuất, tìm kế mưu sinh từ hàng trăm năm trước. Họ đã biết khai thác nguồn lợi hải sản để phục vụ cho 3 Số liệu theo Niên giám thống kê, Phòng Thống kê, UBND Thị xã Cửa Lò, tháng 9 – 1999, tr23 19
- cuộc sống của mình và tạo ra những phương thức khai thác phù hợp với đặc trưng sinh sống của các loại hải sản để đạt hiệu quả tối ưu. Đồng thời, cũng không thể không nói tới lợi thế của một vùng biển nên thơ với nhiều nét đẹp văn hóa, là thuận lợi to lớn để phát triển du lịch. Những năm đầu thế kỷ XX, cùng với việc phát hiện và xây dựng các khu nghỉ dưỡng ở khu vực miền núi phía Bắc, đáp ứng nhu cầu của các nhà tư bản Pháp, thực dân Pháp đã bắt đầu đầu tư xây dựng những nhà nghỉ ở khu vực ven biển Cửa Lò cho các nhà tư bản Pháp ở thành phố Vinh. Tuy nhiên, yếu tố biển được khai thác trên góc độ du lịch chỉ thực sự được chú ý và tập trung đầu tư phát triển là kể từ khi thị xã Cửa Lò chính thức thành lập, tách khỏi huyện Nghi Lộc vào năm 1995. Từ đó đến nay, du lịch biển là một trong những thế mạnh phát triển kinh tế thị xã. Nguồn lợi thứ ba từ biển và vị trí địa lý mang lại đó chính là hệ thống cửa sông và cảng biển. Thị xã Cửa Lò được giới hạn ở hai phía nam bắc bởi hai cửa sông Lam và sông Cấm. Đó là những con đường thủy từ biển vào sâu trong đất liền trong lịch sử. Cảng Hội Thống từ xưa đã là nơi ra vào của nhiều con thuyền trong nam ngoài bắc. Cho đến khi đất nước hoàn toàn thống nhất, ngày 05/12/1979 Thủ tướng chính phủ cho phép xây dựng Cảng Cửa Lò (Cảng quốc tế). Sau 5 năm xây dựng (1979-1984) cảng quốc tế Cửa Lò được hình thành với kết cấu hạ tầng bao gồm 2 bến dài 320 m, diện tích bãi cảng rộng 36000 m2, 3 kho có diện tích 22.000 m2, độ sâu luồng -5.0 m đảm bảo cho tàu
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 301 | 60
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu xử lý thuốc nhuộm xanh methylen bằng bùn đỏ từ nhà máy Lumin Tân Rai Lâm Đồng
26 p | 162 | 17
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu biến tính mùn cưa làm vật liệu hấp phụ chất màu hữu cơ trong nước
26 p | 193 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm tín hiệu thẩm mĩ thiên nhiên trong ca từ Trịnh Công Sơn
26 p | 204 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 233 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 202 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn