Luận văn Thạc sĩ Khoa học lịch sử: Tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
lượt xem 5
download
Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu về cuộc kháng chiến chống Mỹ,cứu nước, phân tích những chủ trương, biện pháp chỉ đạo giành thắng lợi quyết định từ đó làm rõ sự chỉ đạo, sáng tạo của Đảng trong giai đoạn đấu tranh quyết liệt này. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lịch sử: Tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
- Đại học quốc gia hà nội Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn --------------------------------- Phạm Thị Trọng Hiếu Tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử Hà Nội - 2008 1
- Đại học quốc gia hà nội Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn ---------------------------------- Phạm Thị Trọng Hiếu Tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống mỹ, cứu nước Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số : 602256 Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn đình lê Hà Nội - 2008 2
- Bảng chú thích các chữ cái viết tắt Ban Chấp hành BCH Bộ Chính trị BCT Chủ nghĩa xã hội CNXH Chủ nghĩa tư bản CNTB Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam MTDTGPMNVN Miền Bắc Việt Nam MBVN Miền Nam Việt Nam MNVN Nhà xuất bản Nxb Tổng công kích, tổng khởi nghĩa TCK,TKN Tư bản chủ nghĩa TBCN Xã hội chủ nghĩa XHCN 3
- Mục lục Trang Mở đầu 1 Chương 1 bối cảnh lịch sử ra đời đường lối kháng chiến chống mỹ, cứu nước của 8 Đảng ta 1.1. Điều kiện khách quan của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 8 1.2. Điều kiện chủ quan của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 28 Chương 2 Quá trình Đảng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định 44 trong kháng chiến chống mỹ, cứu nước 2.1. Trong những năm chống “chiến tranh đặc biệt” (1961-1965) 44 2.2. Chỉ đạo giành thắng lợi quân sự, chính trị trong những năm (1965- 68 1968) 2.3. Chỉ đạo tiến lên giành thắng lợi quyết định trong những năm (1969 - 1973) 102 Chương 3 một số vấn đề rút ra từ chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết 130 định của Đảng trong kháng chiến chống mỹ, cứu nước 3.1. Bám sát thực tiễn cách mạng, đề ra đường lối chiến lược đúng đắn, tổ 130 chức thực hiện sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả cao 3.2. Tuân thủ những nguyên tắc trong thực hành tư tưởng chiến lược tấn 133 công; thực hiện những “quả đấm chủ lực”, đảm bảo giành thắng lợi quyết định, buộc địch từng bước xuống thang chiến tranh 3.3. Trên cơ sở quán triệt tư tưởng chiến lược tấn công, nắm vững và giải 139 quyết tốt mối quan hệ giữa đánh lâu dài với tranh thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn, tạo ra bước ngoặt mới về chiến lược, làm thay đổi cục diện chiến tranh 3.4 Đánh giá đúng kẻ thù, nắm vững mục tiêu cuối cùng của cách mạng, để 144 ra các nghị quyết đúng đắn để chỉ đạo toàn quân, toàn dân, giành thắng lợi quyết định trong những điều kiện cụ thể, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn 3.5 Nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo quy luật chiến tranh cách mạng, 149 biết khơi dậy và phát huy cao độ vai trò của nhân tố con người trong việc thực hiện các quyết định chiến lược Kết luận 161 Tài liệu tham khảo 165 Phụ lục 175 4
- Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta. Thắng lợi của cuộc đấu tranh này có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới. Thắng lợi này “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” [42, tr.471]. Nó đã chấm dứt sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc và xóa bỏ chế độ phong kiến ở nước ta, đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Đến nay, ý nghĩa lịch sử và những bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẫn còn giữ nguyên giá trị, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, những kinh nghiệm đó sẽ góp phần quan trọng giúp ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng, đánh thắng các chiến lược chiến tranh nằm trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng mà Mỹ đã áp dụng ở Việt Nam. Trong thời gian từ 1961 đến 1975, với sự tập trung cao nhất về tài chính và quân sự, Mỹ đã triển khai các chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hoá chiến tranh” nhằm mục đích tiêu diệt lực lượng cách mạng của ta, ngăn chặn làn sóng chủ nghĩa cộng sản tràn xuống khu vực Đông Nam á. Sớm nhận thấy đế quốc Mỹ là một kẻ thù nguy hiểm có sức mạnh tài chính và quân sự vô cùng to lớn, chúng ta không thể cùng một lúc đánh bại cả đế quốc Mỹ và nguỵ quân, nguỵ quyền nên Đảng ta đã có một 5
- quyết định quan trọng trong chỉ đạo chiến lược kiềm chế địch, giành thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi quyết định và từ đó tạo nên chiến thắng lịch sử mùa xuân 1975. Đó là bước quá độ từ thắng lợi quyết định trên chiến trường trước khi tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn (có nghĩa là phải “đánh cho Mỹ cút” rồi mới “đánh cho nguỵ nhào”). Nội dung của thắng lợi quyết định: Mở bước phát triển cho cách mạng miền Nam, từ thắng lợi đó, tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam là xu thế tất yếu, không thể đảo ngược. Với việc Mỹ phải ký Hiệp định Pari năm 1973, chấp nhận rút quân khỏi miền Nam, chúng ta đã giành được thắng lợi quyết định. Thắng lợi quyết định đó đã đè bẹp ý chí chiến đấu của kẻ thù, tạo cơ sở và tiền đề vững chắc để chúng ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước. Có thể nói, việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định là sự sáng tạo lớn nhất của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nó đã kế thừa và phát huy kinh nghiệm đấu tranh của Cách mạng Tháng 8 và 9 năm kháng chiến lên đỉnh cao. Đi sâu tìm hiểu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và quá trình chỉ đạo giành thắng lợi quyết định nói riêng sẽ giúp ta thấy được sự khôn khéo, tài tình và sáng suốt của Đảng, làm phong phú thêm những trang sử vẻ vang, oanh liệt của Đảng. Nghiên cứu vấn đề này còn góp phần lý giải rõ hơn nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cuộc kháng chiến; đồng thời từ quá trình chỉ đạo giành thắng lợi quyết định này có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên đây, chúng tôi chọn “Tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” làm đề tài luận văn Thạc sỹ lịch sử của mình. 6
- 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975) là đề tài thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Vì vậy, viết về cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam đã có nhiều sách, chuyên khảo, tham luận hội thảo, bài báo khoa học của các học giả, các cán bộ tham gia lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh. Các công trình đó đã đề cập đến sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ta ở những góc độ khác nhau. Tiêu biểu như: Tác phẩm “Nghệ thuật biết thắng từng bước” của Trần Nhâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1978. Trên cơ sở phân tích đường lối chỉ đạo cách mạng của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tác giả đã khái quát lên những đặc điểm của nghệ thuật “biết đánh” và “biết thắng” đế quốc Mỹ. Tác phẩm “Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” của Viện Sử học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1985 là tập hợp nhiều bài viết của các tác giả đề cập đến nguyên nhân thắng lợi, bài học kinh nghiệm, ý nghĩa và tác động to lớn của thắng lợi đối với dân tộc và thời đại. Tác phẩm đã làm rõ: chiến thắng đó là thành quả tổng hợp của một loạt các nhân tố nhưng quan trọng nhất là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta với nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh hết sức tài tình. Tác phẩm “Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975”, 9 tập của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội đã khái quát lại toàn bộ cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân từ đó rút ra những đánh giá về cuộc đấu tranh này. Tác phẩm “Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” của Đại tướng Văn Tiến Dũng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996 cũng trình bày một cách có hệ thống về quá trình đấu tranh giành thắng lợi của nhân dân ta đồng thời nêu lên những kết luận về chỉ đạo chiến lược. Tác phẩm “Mấy vấn đề chỉ đạo chiến lược trong 30 năm chiến tranh giải phóng 1945 - 1975)” của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1999 đã 7
- tổng kết nghệ thuật chỉ đạo chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tác phẩm “Ba mươi năm chiến tranh giải phóng - những trận đánh đi vào lịch sử”, nhiều tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2005 là công trình công phu của nhiều tác giả về cuộc chiến đấu trường kỳ, các tác giả đã tổng kết, phân tích, đánh giá v.v... tứng trân đánh tiêu biểu để đi đến kết luận vì đâu mà cuộc đấu tranh của nhân dân ta thắng lợi Nghiên cứu về vấn đề này, tác giả Nguyễn Xuân Tú với đề tài Luận án Tiến sỹ “Đảng chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thời kỳ 1965 - 1975” (năm 2001) đã dựng lại diễn biến cuộc kháng chiến thời kỳ này để làm rõ những chiến lược, sự lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể của Đảng Cộng sản Việt Nam giành thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm. Luận án Tiến sỹ “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ từ 1969 đến 1975” (năm 2007) của tác giả Lê Văn Mạnh đã làm rõ sự chỉ đạo chiến lược của Đảng trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh. Ngoài ra, trên các tạp chí còn có rất nhiều bài viết của các tác giả đề cập đến vấn đề Đảng chỉ đạo đấu tranh giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tiêu biểu là các bài viết: Lê Xuân Lựu (1997) “Nghệ thuật đánh thuật đánh thắng địch từng bước, tạo thời cơ giành thắng lợi hoàn toàn”, Tạp chí Cộng Sản, số 8; Nguyễn Huy Thục (1995) “Những năm tháng chiến đấu quyết định buộc Mỹ ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 4; Nguyễn Thế Vị (2005) “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào - biện chứng của quy luật đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 12; Nguyễn Văn Bạo (2007) “Xác định mục tiêu chiến lược và mục tiêu chủ yếu trước mắt trong chỉ đạo 8
- kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4 v.v… Ngoài ra còn nhiều bài viết khác cũng đề cập ít nhiều đến vấn đề này. Các học giả nước ngoài, chủ yếu là người Mỹ đã từng trực tiếp tham gia chiến đấu hoặc từng nghiên cứu về cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình viết về vấn đề này. Tiêu biểu như: “Giải phẫu một cuộc chiến tranh” tập 1, tập 2 (G.Côncô, Nxb Quân đội nhân dân, năm 1989 và 1991); “Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ” (C.Herring, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998); “Nhin lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam” (R.S.Mc Namara, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995); “Việt Nam - Cuộc chiến tranh mười ngàn ngày” (M.Maclia, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990)… Những tác phẩm này đã góp phần phản ánh cục diện cuộc chiến tranh ở Việt Nam nhưng do mục đích và lập trường khác nhau nên phần lớn các tác giả chưa đánh giá đúng thực chất của cuộc chiến tranh này, tuy vậy họ vẫn phải thừa nhận thất bại đó và thừa nhận vai trò to lớn của Đảng ta trong việc lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Những tài liệu trên nhìn chung mới chỉ dừng lại ở việc khái quát và tổng kết cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, đi sâu vào một vấn đề cụ thể trong một giai đoạn nhất định hoặc sự chỉ đạo đấu tranh của Đảng trên một số lĩnh vực khác nhau. Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tuy nhiên, những kết nghiên cứu trên đã được chúng tôi kế thừa để thực hiện luận văn này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
- Đối tượng: nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách và quá trình tổ chức chỉ đạo giành thắng lợi quyết định của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu những chủ trương, biện pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức chỉ đạo giành thắng lợi quyết định trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam thời kỳ Mỹ thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt đến khi Mỹ ký Hiệp định Pari (1961- 1973). 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: - Thông qua việc tìm hiểu về cuộc kháng chiến chống Mỹ,cứu nước, phân tích những chủ trương, biện pháp chỉ đạo giành thắng lợi quyết định từ đó làm rõ sự chỉ đạo, sáng tạo của Đảng trong giai đoạn đấu tranh quyết liệt này. - Từ thực tiễn nghiên cứu, đánh giá những thắng lợi đã đạt được và rút ra những kinh nghiệm chỉ đạo giành thắng lợi quyết định của Đảng trong thời kỳ chiến tranh này. Nhiệm vụ: - Tập hợp các tư liệu có liên quan đến đê tài nghiên cứu. - Hệ thống hoá những tài liệu theo từng giai đoạn lịch sử gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể. - Tổng hợp, phân tích những chủ trương, biện pháp của Đảng cũng như những kết quả của nó trong quá trình tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định. 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu 10
- Để hoàn thành luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic là chủ yếu. Bên cạnh đó, sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh... cố gắng làm rõ những nội dung của đề tài. Nguồn tài liệu được thu thập và xử lý trong quá trình làm luận văn chủ yếu là các tài liệu về sự chỉ đạo của cả địch và ta như: Văn kiện Đảng toàn tập gồm các tập từ năm 1960 đến 1973 và 1976, Thư vào Nam, Nghị quyết các cấp bộ Đảng, các chỉ thị, báo cáo tổng kết, kế hoạch, phương án tác chiến...; Các báo cáo, luận án, công trình nghiên cứu, các bài viết của các học giả; Các công trình tổng kết, sách lịch sử, biên niên sự kiện, hồi ký của các nhà hoạch định và chỉ đạo chiến tranh; Các công trình nghiên cứu, hồi ký của các học giả nước ngoài, chủ yếu là của những người ở bên kia chiến tuyến viết về cuộc chiến tranh Việt Nam. 6. Đóng góp mới của luận văn - Hệ thống lại quá trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. - Phân tích tính sáng tạo, cách mạng của Đảng, kế thừa kinh nghiệm chín năm kháng chiến 1945-1954 lên đỉnh cao. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Phụ lục luận văn được cấu trúc thành 3 chương, 10 tiết. 11
- Chương 1 Bối cảnh lịch sử ra đời đường lối kháng chiến chống mỹ, cứu nước của Đảng ta Để hiểu được bản chất của một cuộc chiến tranh, trước hết chúng ta phải xem xét nó đã diễn ra trong điều kiện chủ quan, khách quan nào. V.I.Lênin cũng cho rằng: “Lý luận Mácxít tuyệt đối đòi hỏi người ta, khi phân tích một vấn đề xã hội, phải đặt nó trong một khung cảnh nhất định” [62,tr.468]. Người còn chỉ rõ: “Chỉ có hiểu biết căn bản đặc điểm của thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước nọ”[63, tr.157]. Nắm vững những đặc điểm cơ bản của thời đại trong bối cảnh lịch sử nhất định sẽ là cơ sở để giải quyết đúng đắn những vấn đề của thời đại đồng thời sẽ là căn cứ để giải quyết đúng đắn những vấn đề cụ thể đặt ra cho cách mạng mỗi nước. Đây là điều có ý nghĩa phương pháp luận để phân tích một cuộc chiến tranh, đặc biệt như cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Việt Nam, mà quy mô của nó đụng chạm đến toàn bộ các mối quan hệ quốc tế. Đó còn là cơ sở khách quan để Đảng ta đề ra đường lối, phương pháp, chiến lược và sách lược cách mạng đúng đắn khi tiến hành đấu tranh. Có như vậy chúng ta mới có thể cắt nghĩa được vì sao một nước nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam lại có thể giành được thắng lợi trước một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới. 1.1. Điều kiện khách quan của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1.1.1. Âm mưu của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã trải qua những năm tháng chiến đấu cam go, ác liệt: với một nghìn năm Bắc thuộc, ta đã phải ra sức chiến đấu để bảo vệ nền độc lập chống lại sự đồng hóa của các vương 12
- triều phong kiến phương Bắc; ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông; gần một trăm năm kháng chiến chống thực dân Pháp; hơn hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nhưng thành quả đạt được trong sự nghiệp kháng chiến chống quân xâm lược đã minh chứng cho tinh thần quật cường của dân tộc ta, vượt mọi khó khăn, gian khổ để giành lấy hoà bình, độc lập cho dân tộc. Khác với các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đó, cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong điều kiện hoàn toàn khác. Kẻ thù mà nhân dân ta phải đương đầu trong cuộc chiến này là một “đế quốc hùng mạnh nhất, giàu có nhất, tàn bạo, nham hiểm, hiếu chiến nhất”; có trong tay chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Nếu so về thời gian thì cuộc chiến này không dài bằng các cuộc chiến tranh trước đó nhưng so về tương quan lực lượng thì đây là cuộc chiến tranh có “một tương quan lực lượng chênh lệch nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta về phương thức sản xuất cũng như tiềm lực kinh tế, quân sự”[7, tr.65]. Về mặt kinh tế: Do có sự tính toán khôn khéo, Mỹ đã tham gia chiến tranh thế giới thứ hai nhưng không những không bị chiến tranh tàn phá như các nước khác mà còn thu về cho mình một nguồn lợi khổng lồ nhờ buôn bán vũ khí. Vì thế, Mỹ đã phát triển mạnh mẽ và trở thành đế quốc giàu có nhất thể giới, chiếm ưu thế tuyệt đối về mọi mặt trong thế giới tư bản. Mỹ có một nền công nghiệp và nông nghiệp phát triển cao. Sản lượng công nghiệp Mỹ chiếm quá nửa tổng sản lượng công nghiệp của thế giới tư bản (56,4% năm 1948). Sản lượng nông nghiệp cũng gấp hai lần sản lượng của Anh, Pháp, Cộng hoà liên bang Đức, Italia, Nhật cộng lại (1949) [103, tr.286]. Về tài chính, Mỹ có khối lượng vàng dự trữ lớn nhất thế giới (gần 25 tỷ đôla năm 1949, chiếm 3/4 lượng vàng của thế giới tư bản). Mỹ đã trở thành chủ nợ duy 13
- nhất trên thế giới, ngay cả các chủ nợ trước kia của Mỹ như Anh, Pháp cũng trở thành con nợ của Mỹ. Nhằm thiết lập sự thống trị độc tôn của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới, Mỹ đã tiến hành một chiến lược toàn diện bao gồm các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao. Để thi hành chính sách bành trướng, đế quốc Mỹ lợi dụng tình cảnh các nước tư bản bi suy yếu trong chiến tranh, chưa kịp hồi phục, đã thông qua chiêu bài viện trợ kinh tế, quân sự khống chế các nước đó, đẩy các nước này xuống vai trò phụ thuộc Mỹ thậm chí làm tay sai thực hiện một số chủ trương, chính sách của Mỹ. Về mặt quân sự: Mỹ đã ráo riết chạy đua vũ trang, phát triển vũ khí hạt nhân, thiết lập các khối liên minh quân sự xâm lược như NATO ở châu Âu, SEATO ở châu á, ANZUS ở châu Đại Dương, CENTO và ký kết hàng loạt hiệp ước quân sự tay đôi với nhiều nước trên thế giới, ra sức chuẩn bị cho chiến tranh, tiến hành các hoạt động khuynh đảo, lật đổ, đảo chính ở nhiều nơi trên thế giới. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ do có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh mẽ đã trở thành tên đế quốc đầu sỏ trong hệ thống tư bản chủ nghĩa. Với tham vọng bá chủ toàn cầu, Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng để tìm cách mở rộng phạm vi thống trị của mình ra các khu vực khác, trở thành kẻ gây chiến, xâm lược quốc tế lớn nhất, đại diện tiêu biểu cho chủ nghĩa thực dân mới và là kẻ thù nguy hiểm nhất của phong trào cách mạng thế giới. Chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mỹ được hình thành dưới thời tổng thống Tơruman và được điều chỉnh qua các thời tổng thống sau này cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng thời kỳ. 14
- Chiến lược này được cấu thành bởi ba bộ phận mà tướng Uy lơ đã nêu ra: - Chúng ta sẵn sàng tham gia trực tiếp hơn và mạnh mẽ hơn vào bất cứ tình huống cân bằng lực lượng nào có khả năng diễn ra ở châu Âu. - Chúng ta là một dân tộc chủ chốt ở phương Tây có khả năng đưa sức mạnh của mình vào Thái Bình dương để tác động tới những diễn biến ở đây. - Nếu có ai đó có ý định ngăn chặn các bước tiến thô bạo sau chiến tranh của sức mạnh cộng sản hoặc những hình thức kín đáo hơn sau này, thì người đó phải là chúng ta[24, tr.8]. Như vậy, Mỹ đã tự gán cho mình trách nhiệm đứng đầu các nước tư bản chủ nghĩa để bảo vệ “thế giới tự do”, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Nhưng thực chất đó chỉ là sự bao biện cho âm mưu bành trướng của mình, như nhà sử học Mỹ G. Côncô đã nhận định: Mỹ hành động không phải vì ý muốn bảo vệ đất nước chống lại bất cứ mối đe doạ cụ thể nào mà vì Mỹ muốn tạo ra ở nơi khác một trật tự có thể kiểm soát được sẵn sàng đáp ứng một cách có lợi các mục tiêu và lợi ích của Mỹ, vượt xa những nhu cầu trong nước. Mỹ tin rằng sức mạnh của Mỹ đủ sức điều chỉnh thế giới và chịu đựng những tổn phí như các cường quốc đế quốc trước đây đã làm để hoàn thành nghĩa vụ và trách nhiệm quốc tế [16, tr.92] Mỹ đề ra 3 mục tiêu cho chiến lược toàn cầu: ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới tiêu diệt hệ thống xã hội chủ nghĩa; uy hiếp, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc ở các nơi; kìm chế sự phát triển của các nước tư bản đồng minh, lôi kéo các nước khác tham gia vào lực lượng phản động quốc tế do Mỹ cầm đầu. 15
- Mục đích chính của chiến lược đó là “nhằm ngăn chặn sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng thế giới, nhất là phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Liên Xô là trụ cột” [24, tr.6]. Và Mỹ đã đề ra một chính sách đối ngoại, được giới chính trị và quân sự Mỹ khái quát bằng cái tên “ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản”. Các nhà hoạch định chiến lược của Mỹ cho rằng nếu để cho chủ nghĩa cộng sản tràn xuống khu vực Đông Nam á thì Mỹ sẽ mất vị trí chiến lược ở Viễn Đông. Nhất là sau khi cách mạng Trung Quốc (1949) thắng lợi, họ càng lo sợ hơn vì nếu mất thêm Đông Nam á thì Nhật Bản không còn lựa chọn nào khác là dung hoà với chủ nghĩa cộng sản ở khu vực này và khi đó, một chuỗi đảo ngoài khơi chạy dài từ Nhật Bản đến Philippin - tuyến phòng thủ đầu tiên của Mỹ ở Thái Bình Dương sẽ lâm nguy. Mỹ đã đưa ra quyết định chính thức vạch ra một đường ranh giới không cho xuất hiện thêm bất kỳ quốc gia cộng sản mới nào nữa ở châu á. Do đó, Mỹ phải nhanh chóng có những biện pháp xử lý để bảo vệ khu vực “có tầm sinh tử đối với an ninh của Mỹ” [47, tr.17]. Vì vậy, địa bàn Đông Nam á nói chung và Đông Dương nói riêng có vị trí chiến lược quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Đây là nơi có những nguồn lợi rất lớn về kinh tế, quân sự, chính trị mà Mỹ có thể thâu tóm được. Về mặt kinh tế: Đông Nam á là một vùng có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, có nhiều loại nguyên liệu mà Mỹ đang thiếu, là thị trường tiêu thu sản phẩm khổng lồ, các nhà lãnh đạo Mỹ không muốn mất quyền lợi ở đây và đã sớm bộc lộ tham vọng muốn độc chiếm Đông Nam á. Đây là một trong những mục tiêu chiến lược của chính sách bành trướng thực dân mới về mặt kinh tế của đế quốc Mỹ. Về mặt quân sự: Đông Nam á là một vùng địa lý chiến lược quan trọng, là ngã ba của đầu mối giao thông giữa các lục địa châu á, châu Phi và châu 16
- Đại Dương. Đông Nam á từ lâu đã trở thành một địa bàn chiến lược trong kế hoạch xâm lược của các nước tư bản phương Tây. Mỹ đã tìm cách hất cẳng Anh, Pháp để chiếm lấy khu vực này. Mỹ đã tập trung nhiều cho việc bố trí lực lượng quân sự ở khu vực này, năm 1967, tổng số quân Mỹ đóng quân ở đây lên tới 850.000 quân trong khi đó ở châu Âu chỉ có 491.000 tên; năm 1970 là 797.000 tên ở đây còn châu Âu là 310.000 tên. Thời kỳ cao nhất lên đến 4 tập đoàn không quân, 2 hạm đội tăng cường, số sư đoàn lục quân và lính thủy đánh bộ gần gấp 3 lần số quân sĩ đóng ở Tây Âu [80, tr.20]. Như thế đủ thấy sức mạnh to lớn về quân sự của Hoa kỳ ở đây và sự quyết tâm thực hiện bằng được mưu đồ thay chân các đế quốc khác chiếm đóng khu vực này. Về mặt chính trị: Đông Nam á là khu vực có phong trào giải phóng dân tộc phát triển, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của phong trào cách mạng vô sản thế giới nhất là Việt Nam và Đông Dương, lúc nào cũng có thể bùng nổ một cuộc cách mạng vô sản. Việt Nam và Đông Nam á đã trở thành nơi tập trung các mâu thuẫn của thời đại. Mỹ đã rất lo sợ điều đó, vì thế mà chúng tập trung lực lượng lớn hòng bóp nghẹt phong trào cách mạng ở đây nhằm tránh hiểm hoạ chủ nghĩa cộng sản tràn xuống khu vực Đông Nam á. Chính vì vậy, Mỹ đã thành lập tổ chức SEATO nhằm tập hợp lực lượng các nước chư hầu để đối phó với phong trào cách mạng ở đây. Mỹ đã ý thức sâu sắc về quyền lợi sống còn và vị chí chiến lược của vùng Đông Nam á, nếu thua cuộc ở khu vực này thì sẽ dẫn đến hiệu ứng đôminô - một sự sụp đổ dây chuyền ở khắp mọi nơi. Trong khu vực Đông Nam á, Mỹ đặc biệt quan tâm đến Đông Dương bởi chúng đều nhận thấy tầm quan trọng của khu vực này đối với sự thành công của chiến lược toàn cầu phản cách mạng và cho rằng đây là vị trí then chốt trong việc bảo vệ Đông Nam á: “Đông Dương được xem là quan trọng vì có nhiều nguyên liệu, gạo và các căn cứ hải quân, nhưng người ta còn cho rằng khu vực này có tầm quan trọng lớn hơn nhiều xét về tác động có thể xảy 17
- ra đối với các khu vực khác nếu Đông Dương thất thủ”[14, tr91]. Vì thế, Mỹ đã chọn Việt Nam và Đông Dương làm nơi thi điểm thực hành chủ nghĩa thực dân mới, biến nơi đây thành bàn đạp để thiết lập ảnh hưởng ở châu á. Quốc vụ khanh Mỹ D. Rusk đã từng tuyên bố trước tiểu ban đối ngoại của Quốc hội Mỹ: “Viễn Đông, Việt Nam và các nước phụ cận là một trong những chiến trường quyết định trong cuộc đấu tranh nhằm duy trì trật tự thế giới lâu dài và vững chắc”[1, tr.29]. Chính vì ý nghĩa đó mà Vịêt Nam “đã trở thành tiêu điểm của cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới, là nơi đọ sức điển hình giữa tiến bộ và phản động, giữa chính nghĩa và phi nghĩa trong cuộc đấu tranh của nhân loại vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” [7, tr.65]. Tầm quan trọng của Việt Nam và Đông Dương đã làm cho đế quốc Mỹ tập trung đến mức cao nhất về tài chính và quân sự cho cuộc chiến tranh ở đây. Mỹ đã thực thi hết chiến lược chiến tranh này đến chiến lược chiến tranh khác nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Mỹ cho rằng “nếu đẩy lùi và ngăn chặn được cách mạng Việt Nam và Đông Dương, áp đặt được chính sách thực dân mới của Mỹ ở đây, thì chúng có thể thẳng tay bóc lột tài nguyên của Việt Nam và Đông Dương, đẩy lùi và ngăn chặn được cả ba dòng thác cách mạng ở Đông Nam á và nhiều nơi khác trên thế giới” [76, tr.14]. Kết cục ở Việt Nam sẽ chứng minh đầy đủ ý chí và khả năng của đế quốc Mỹ trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng. “Tất cả những điều đó nói lên vị trí then chốt của Việt Nam trong cuộc đụng đầu lịch sử này, đồng thời cũng nói lên tính chất gay go của cuộc đọ sức quyết liệt giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ” [80, tr.26]. 18
- Để đạt được mục đích của mình, đế quốc Mỹ đã huy động một khối lượng bom đạn, vật chất kỹ thuật không lồ chưa từng có; đã sử dụng mọi loại vũ khí hiện đại nhất trừ bom nguyên tử; đồng thời chúng đưa vào nước ta: Một đội quân viễn chinh hơn 60 vạn tên, gồm quân Mỹ và quân của năm nước chư hầu của Mỹ làm nòng cốt cho hơn một triệu quân nguỵ; riêng về quân đội Mỹ, chúng đã huy động lúc cao nhất tới 68% bộ binh, 60% lính thuỷ đánh bộ, 32% lực lượng không quân chiến thuật, 50% lực lượng không quân chiến lược. Nếu tính cả số quân đóng ở nước ngoài tham chiến ở Việt Nam thì chúng đã sử dụng hơn 80 vạn quân Mỹ, trong cả cuộc chiến tranh, chúng đã động viên tới 6 triệu lượt binh sĩ Mỹ, ném xuống đất nước ta 7 triệu 850 nghìn tấn bom và tiêu tốn 352 tỷ đôla. Ngoài ra chúng còn dùng những phát minh khoa học, kỹ thuật mới nhất để gây vô vàn tội ác huỷ diệt đối với nhân dân ta [42, tr.483]. Với âm mưu nham hiểm đó, Mỹ đã triển khai chiến lược toàn cầu phản cách mạng mà Việt Nam được chọn làm nơi thí điểm. Từ năm 1953 đến 1960, sau khi thay thế tổng thống Tơruman, Aixenhao đã cho thực hiện một chiến lược quân sự toàn cầu mới được mang tên “trả đũa ồ ạt”. Dựa trên lực lượng quân sự Mỹ và hệ thống liên minh quân sự, Mỹ tiến hành chiến lược này với mục tiêu “dùng vũ khí hạt nhân làm chiếc ô che chắn để bảo vệ cho các chế độ tay sai của Mỹ, sẵn sàng đánh trả ồ ạt thẳng vào các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa”[24, tr.16]. Lực lượng hạt nhân chiến lược mà Mỹ dùng làm lá chắn được cấu thành bởi bộ ba vũ khí: tên lửa mang đầu đạn hạt nhân, tàu ngầm nguyên tử trang bị tên lửa mang đầu đạn hạt nhân và máy bay ném bom chiến lược mang bom hạt nhân. Để tăng cường sức mạnh quân sự, Mỹ đã sản xuất hàng loạt các loại máy bay Theo tư liệu của Hoa kỳ, số lính Mỹ tham chiến trong chiến tranh Việt Nam khoảng 4 triệu người. 19
- ném bom chiến lược như B52, B47 và các loại tên lửa vượt đại châu. Tính đến năm 1960, Mỹ có gần 400 máy bay B52, khoảng 1400 máy bay B47, 110 tàu ngầm, có tới 36 liên đội bay ném bom hạng nặng và 104 liên đội bay ném bom hạng trung [24,tr.18]. Với ưu thế về vũ khí hạt nhân, Mỹ đã quyết liệt chống phá phong trào cách mạng thế giới và cũng tại thời điểm này Mỹ dần can thiệp vào Việt Nam thông qua việc tăng cường viện trợ quân sự để Pháp kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Đây là giai đoạn đầu tiên của một phần tư thế kỷ mà Mỹ đã trực tiếp dính líu vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Mỹ đã viện trợ cho Pháp lên tới 1,264 tỉ đôla trong năm 1954 (chiếm khoảng 73% kinh phí chiến tranh và tính tổng trong 4 năm (1950 - 1954) lên tới 2,6 tỉ đôla. Tuy vậy, sự viện trợ này của Mỹ cũng không cứu vãn nổi thất bại của Pháp trên chiến trường Đông Dương. Tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của ta thắng lợi, Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Đây là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta và là cơ sở pháp lý để ta tiếp tục đấu tranh hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước. Thắng lợi này đã làm suy yếu một hướng chiến lược trọng yếu trong chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ. Chính vì vậy, Mỹ đã tìm cách phá hoại hiệp định Giơnevơ, phá hoại công cuộc thống nhất nước nhà bằng mọi biện pháp tàn ác và thâm hiểm, cai trị miền Nam bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới hòng thay thế thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Sau Hội nghị Giơnevơ về Việt Nam, ngoại trưởng Mỹ Đalét đã tuyên bố: “điều quan trọng nhất, không phải khóc than cho quá khứ mà phải nắm lấy cơ hội tương lai nhằm ngăn chặn không để mất miền Bắc Việt Nam, để cuối cùng dẫn đến chỗ chủ nghĩa cộng sản có ưu thế trên toàn cõi Đông Nam á và Tây Nam Thái Bình Dương”[47, tr.53]. Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm ra để dựng lên một chính quyền tay sai phục vụ cho mưu đô thôn tính Việt Nam của mình. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 369 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 411 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 541 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 516 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 299 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 341 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 318 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 234 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 245 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 191 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn