intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Một số đặc tính của các chủng Acinetobacter baumannii gây nhiễm khuẩn bệnh viện mang gen NDM-1 kháng carbapenem

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:87

134
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận văn nhằm mô tả thực trạng kháng kháng sinh và một số đặc điểm sinh học phân tử của các chủng vi khuẩn A. baumannii kháng carbapenem tại 3 bệnh viện ở Hà Nội bao gồm bệnh viện Việt Đức, Thanh Nhàn, Xanh Pôn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Một số đặc tính của các chủng Acinetobacter baumannii gây nhiễm khuẩn bệnh viện mang gen NDM-1 kháng carbapenem

  1. MỤC LỤC
  2. DANH MỤC CÁC BẢNG Bản Tên Bảng Trang g 1.1 Phân loại một số nhiễm khuẩn bệnh viện 7 1.2 Sự phát triển đề kháng kháng sinh của vi khuẩn 12 Một số đặc tính của các enzym ly giải carbapenem của các  1.3 21 chủng vi khuẩn Gram âm 2.1 Trình tự mồi để phát hiện gen NDM­1 của vi khuẩn 38 Các trình tự mồi sử dụng trong kỹ thuật MLST đối với chủng A.  2.2 40 baumannii Nồng độ kháng sinh tối thiểu ức chế vi khuẩn (MIC) của 23  3.1 chủng vi khuẩn A. baumannii mang gen NDM­1 phân lập trong  53 nghiên cứu 3.2 Phân tích kết quả MLST các chủng A. baumannii 61 2
  3. DANH MỤC CÁC HÌNH Hình Tên Hình Trang 1.1 Sơ đồ nhiễm khuẩn bệnh viện 6 Tỷ lệ phân bố nhiễm khuẩn bệnh viện ở các nước có thu nhập  1.2 8 cao Tỷ lệ phân bố nhiễm khuẩn bệnh viện ở các nước có thu nhập  1.3 9 thấp và trung bình 1.4 Cơ chế kháng kháng sinh của các vi khuẩn Gram âm 14 1.5 Cấu trúc phân tử của carbapenem 19 Sự phân bố và cách thức di truyền của các kiểu gen OXA trong  1.6 30 A. baumannii Tỷ lệ phân bố vi khuẩn A. baumannii kháng carbapenem tại 3  3.1 45 bệnh viện theo năm (n=582) Tỷ lệ phân bố của các chủng vi khuẩn A. baumannii kháng  3.2 46 carbapenem 3 bệnh viện theo giới (n=582) Phân bố theo giới của các chủng A. baumannii kháng carbapenem  3.3 46 trong từng bệnh viện (n=582) Hình ảnh đại diện cho các chủng vi khuẩn A. baumannii mang  3.4 48 gen NDM­1 trong nghiên cứu Tỷ lệ vi khuẩn A. baumannii mang gen NDM­1 kháng  3.5 48 carbapenem trong nghiên cứu (n=23) Tỷ lệ phân bố A. baumannii mang gen NDM­1 ở 3 bệnh viện  3.6 49 (n=23) Tỷ lệ phân bố vi khuẩn A. baumannii mang gen NDM­1 theo  3.7 50 khoa ở 3 bệnh viện (n=23) Tỷ lệ phân lập các chủng A. baumannii mang gen NDM­1 theo  3.8 51 độ tuổi (n=23) 3.9 Tỷ lệ các chủng A. baumannii mang gen NDM­1 theo giới (n=23)  52 Hình ảnh đại diện cho kiểu gen PFGE của một số chủng A.  3.10 baumannii  mang gen NDM­1 kháng carbapenem trong nghiên  55 cứu Cây phân loại kiểu gen PFGE của các chủng A. baumannii mang  3.11 56 gen NDM­1 kháng carbapenem Kết quả đại diện phát hiện plasmid mang gen NDM­1 trên một  3.12 58 số chủng vi khuẩn A. baumannii phân lập tại 3 bệnh viện 3.13 Hình ảnh đại diện cho PCR – MLST chủng A. baumannii 60 3
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Ký  Viết giải nghĩa tiếng  Viết đầy đủ tiếng anh hiệu việt DNA Deoxyribonucleic  Acid Phân tử axit nucleic Đơn vị đo trọng lượng  bp Base pair của phân tử DNA Trung tâm kiểm soát và  CDC Centers for Disease Control and Prevention phòng ngừa bệnh dịch Enzym kháng kháng sinh  ESBL Extended­spectrum beta­lactamases phổ rộng beta lactam Hiệp hội kháng kháng  GARP Global Antibiotic Resistance Partnership sinh toàn cầu Enzym kháng kháng sinh  MBLs Metallo­beta­lactamase nhóm beta lactam Phân loại dựa trên đa  MLST Multilocus Sequence Typing điểm của trình tự gen New Delhi Metallo­beta­ NDM­1 New Delhi Metallo­beta­lactamase­1 lactamase­1 kháng  carbapenem Chuỗi phản ứng trùng  PCR Polymerase chain reaction hợp PFGE Pulsed­field gel electrophoresis Điện di xung trường WHO World Health Orgnization Tổ chức Y tế Thế giới 4
  5. MỞ ĐẦU Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) hiện nay đang là một thách thức lớn đối   với các bệnh viện trong việc  điều trị  bởi tỷ  lệ  nhiễm khuẩn ngày càng cao.   NKBV là một trong những nguyên nhân hàng đầu đe dọa đến tính mạng người  bệnh, là  nguyên nhân chính gây ra tỷ lệ mắc, tử vong cao cho các bệnh nhân tại  các bệnh viện trên thế giới [76]. NKBV thường gây nên bởi các vi khuẩn kháng  đa kháng sinh, gây rất nhiều khó khăn cho công tác điều trị, kéo dài thời gian mắc   bệnh, tăng biến chứng, tăng sự  kháng thuốc của vi sinh vật qua đó tăng mức sử  dụng kháng sinh, tăng chi phí dùng thuốc và là gánh nặng bệnh tật cho cả người   bệnh và hệ thống y tế. Theo báo cáo của tổ chức Y tế thế giới tại 55 bệnh viện   ở 14 nước trên thế giới đại diện cho các khu vực và đưa ra được tỷ  lệ NKBV là  8,7%. Ước tính ở bất cứ thời điểm nào cũng có hơn 1,4 triệu người bệnh trên thế  giới mắc NKBV [68]. Hàng năm thế  giới có khoảng 2 triệu người mắc NKBV   với 90.000 người tử vong, chi phí chăm sóc cho bệnh nhân tăng khoảng 4,5 tỉ đô­ la [73]. Đây là một vấn đề  y tế nghiêm trọng mang tính toàn cầu đang được các  quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam quan tâm một cách đặc biệt. Hiện nay Acinetobacter baumannii (A. baumannii) là một trong những tác  nhân gây bệnh quan trọng hàng đầu tác động đến các cơ sở điều trị trên thế giới.   Tuy nhiên sự  gia tăng nhanh chóng của các chủng vi khuẩn A. baumannii kháng  lại   các   kháng   sinh   thuộc   nhóm   β­lactam,   bao   gồm   cả   các   kháng   sinh   nhóm  carbapenem thuộc “nhóm lựa chọn cuối cùng”. Đặc biệt là sự  xuất hiện của các   chủng  Acinetobacter  mang   gen   New   Delhi   Metallo­beta­lactamase­1   (NDM­1)  kháng carbapenem được ghi nhận  ở  một số quốc gia như  Đức và Vương quốc  Anh [64]. Điều này sẽ  dẫn đến nhiều hậu quả  nghiêm trọng như: không còn  kháng sinh để điều trị, tăng nguy cơ thất bại trong điều trị, giá thành cao, kéo dài  thời gian điều trị  và bệnh nhân có nguy cơ  tử  vong cao khi mắc các chủng   A.  5
  6. baumannii kháng kháng sinh này [1]. Trong nghiên cứu gần đây của chúng tôi tại  một số bệnh viện ở Hà Nội, A. baumannii chiếm 53,33% (320/600) trong tổng số  chủng   vi   khuẩn   gram   âm   gây   NKBV   và   hơn   95%   số   chủng   kháng   lại   cephalosporin   thế   hệ   3,   với   ít   nhất   1   kháng   sinh   nhóm   carbapenem.   Câu   hỏi  nghiên cứu được đặt ra là liệu các chủng A. baumannii kháng carbapenem phân  lập tại các bệnh viện có mang gen NDM­1 hay không? Do vậynghiên cứu này   được tiến hành nhằm phát hiện vi khuẩn  A. baumannii kháng carbapenem mang  gen NDM­1, đồng thời xác đinh một số đặc tính sinh học phân tử  của các chủng  A. baumannii mang gen NDM­1  ở Việt Nam là hết sức cần thiết để từ đó đưa ra  các biện pháp phù hợp phòng chống sự  lây lan và đề  xuất phác đồ  điều trị  phù  hợp cho bệnh nhân bị  mắc các chủng  A. baumannii  mang gen NDM­1 tại Việt  Nam. Chính sự cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn nêu trên, chúng tôi tiến hành đề tài   nghiên cứu: “Một số  đặc tính của các chủng  Acinetobacter baumannii  gây  nhiễm khuẩn bệnh viện mang gen NDM­1 kháng carbapenem” với mục tiêu: Mục tiêu chung: Mô tả  thực trạng kháng kháng sinh và một số đặc điểm sinh học phân tử  của các chủng vi khuẩnA. baumannii  kháng carbapenem tại  3  bệnh viện  ở  Hà  Nội bao gồm bệnh viện Việt Đức, Thanh Nhàn, Xanh Pôn.  Mục tiêu cụ thể: 1.  Mô   tả   thực   trạng   kháng   kháng   sinh   của   các   chủng  A.   baumannii  kháng  carbapenem phân lập tại 3 bệnh viện Việt Đức, Thanh Nhàn, Xanh Pôn. 2. Phát hiện tỷ lệ vi khuẩn A. baumannii mang gen NDM­1 phân lập được trong  nghiên cứu. 3. Xác định một số đặc tính sinh học phân tử  của vi khuẩn    A. baumannii mang  gen NDM­1 6
  7. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN 1.1. Nhiễm khuẩn bệnh viện Theo Tổ  chức Y tế  Thế  giới, nhiễm khuẩn bệnh viện (hospital­acquired   infection hay nosocomial infection) là “những nhiễm khuẩn người bệnh mắc phải  trong thời gian điều trị tại bệnh viện mà thời điểm nhập viện không thấy có yếu  tố  nhiễm khuẩn hay ủ bệnh nào. Nhiễm khuẩn bệnh viện thường xuất hiện sau  48 giờ kể từ khi người bệnh nhập viện”. Hình 1.1. Sơ đồ nhiễm  khuẩn bệnh viện Để  chẩn  đoán  nhiễm khuẩn bệnh viện, người ta thường dựa vào định  nghĩa   và   tiêu   chuẩn   chẩn   đoán   cho   từng   vị   trí  nhiễm   khuẩn   bệnh   viện.   Ví  dụ: nhiễm khuẩn  vết mổ  sau phẫu thuật,   nhiễm khuẩn  máu có liên quan đến  dụng cụ  đặt trong lòng mạch,  nhiễm khuẩn  đường tiết niệu... Hiện nay, theo  hướng dẫn từ Trung tâm Giám sát và Phòng bệnh Hoa Kỳ (CDC) và các hội nghị  quốc tế đã mở rộng định nghĩa ca bệnh cho các vị  trí nhiễm khuẩn khác nhau và  đang được áp dụng để giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện trên toàn cầu. Dựa trên  các tiêu chuẩn lâm sàng và sinh học, các nhà khoa học đã xác định có khoảng 50   loại nhiễm khuẩn bệnh viện khác nhau có thể xảy ra tại bệnh viện. 7
  8. Bảng 1.1. Phân loại một số nhiễm khuẩn bệnh viện [76] Loại nhiễm khuẩn Tiêu chuẩn Có dịch chảy ra từ vết mổ, abcess hoặc viêm mô  Nhiễm khuẩn vết mổ lan tỏa tại vết mổ  trong tháng đầu tiên sau khi   phẫu thuật Nuôi cấy dương tính (1 hoặc 2 vi khuẩn) với  Nhiễm khuẩn tiết niệu nồng độ  >105vk/ml, có hoặc không có các triệu  chứng lâm sàng Có tối thiểu 2 triệu chứng viêm nhiễm đường   hô hấp xuất hiện trong thời gian nhập viện: Nhiễm khuẩn đường hô  Ho hấp Có đờm mủ Có hình ảnh viêm phổi trên phim X­quang Nhiễm khuẩn khi đặt  Có biểu hiện viêm, nổi hạch hoặc có mủ  chảy  catheter ra từ vị trí đặt catheter Sốt hoặc rét và kết quả cấy máu dương tính với  Nhiễm khuẩn huyết ít nhất một tác nhân gây bệnh Hiện nay nhiễm khuẩn bệnh viện là một vấn đề  nghiêm trọng tác động  đến sức khoẻ toàn cầu. Theo báo cáo của tổ chức Y tế thế giới về nhiễm khuẩn   bệnh viện từ  năm 1995 đến 2010 cho thấy: Tỷ  lệ  nhiễm khuẩn bệnh viện tính  chung cho các quốc gia có thu nhập cao nằm trong khoảng từ 5% đến 12% (Hình   1.2) và tỷ  lệ chung cho tất cả các quốc gia này vào khoảng 7,6% [77]. Theo  ước  tính của trung tâm phòng chống và kiểm soát bệnh châu Âu, hàng năm có khoảng  4.100.000 bệnh nhân bị nhiễm khuẩn bệnh viện và khoảng 37.000 trường hợp tử  vong. Phần lớn các trường hợp là nhiễm khuẩn tiết niệu tiếp theo là nhiễm  khuẩn đường hô hấp, nhiễm khuẩn sau khi phẫu thuật, nhiễm khuẩn huyết và  một số nhiễm khuẩn khác (bao gồm tiêu chảy do  Clostridium difficile). S. aureus  kháng đa kháng sinh cũng chiếm khoảng 5% các trường hợp nhiễm khuẩn bệnh   viện tại liên minh châu Âu [24]. Tại Mỹ năm 2002, tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện  8
  9. vào khoảng 4,5% tương đương với khoảng 1,7 triệu bệnh nhân bị  mắc nhiễm   khuẩn. Nhiễm khuẩn đường tiết niệu chiếm tỷ  lệ  cao nhất (36%) tiếp theo là  nhiễm khuẩn vết mổ (20%), nhiễm trùng huyết và viêm phổi (11%) [37]. Hình 1.2. Tỷ lệ phân bố nhiễm khuẩn bệnh viện ở các nước có thu nhập  cao *(nguồn WHO, 2011, Report on the Burden of Endemic Health Care­ Associated Infection Worldwide) [77] Tỷ  lệ  nhiễm khuẩn bệnh viện  ở  các quốc gia có thu nhập trung bình và  thấp dao động từ  5,7% đến 19,9% và tỷ  lệ  tính chung là khoảng 10,1/100 bệnh   nhân   (Hình   1.3)   [77].   Trong   đó   nhiễm   khuẩn   vết   mổ   chiếm   tỷ   lệ   cao   nhất   (29,1%), nhiễm khuẩn tiết niệu (23,9%), nhiễm khuẩn huyết (19,1%), đường hô  hấp (14,8%) và các nhiễm khuẩn khác là 13,1% [77]. 9
  10. Hình 1.3. Tỷ lệ phân bố nhiễm khuẩn bệnh viện ở các nước có thu nhập  thấp và trung bình *(nguồn WHO, 2011, Report on the Burden of Endemic  Health Care­Associated Infection Worldwide) [77] Có rất nhiều tác nhân gây nhiễm khuẩn bệnh viện và sự tác động của các  tác nhân này cũng rất khác nhau giữa các nhóm bệnh nhân, các bệnh viện, khoa   điều trị  và giữa các quốc gia bao gồm: vi rút như  viêm gan B, C (lây qua đường  tiêm truyền, chạy thận nhân tạo và phẫu thuật nội soi). Vi rút rota và các vi rút  đường ruột (lây truyền qua đường phân­miệng) [8, 77]. Một số loại ký sinh trùng  như  Giardia   lamblia  và   nhiều   loại   nấm  Candida   albicans,   Aspergillus   spp.,   Cryptococcus neoformans  và  Cryptosporidium  gây nhiễm trùng cơ  hội cho các  bệnh nhân sau khi điều trị kháng sinh dài ngày và trên các bệnh nhân bị suy giảm  miễn dịch và có thể lây truyền dễ dàng trong bệnh viện [ 76]. Hiện nay vi khuẩn  là một trong căn nguyên quan trọng hàng đầu gây nhiễm khuẩn bệnh viện bao   gồm như  C. perfringen  là nguyên nhân gây bệnh hoại thư  sinh hơi trong bệnh   viện [76]. Vi khuẩn Gram dương điển hình là S. aureus (sống ký sinh trên da và  mũi) là nguyên nhân gây nhiều loại nhiễm khuẩn trong bệnh viện như viêm phổi,  xương, tim và nhiễm khuẩn huyết [76]. Đặc biệt trong 10 năm vừa qua các vi  khuẩn   Gram   âm   như  Escherichia   coli  (E.   coli),  Klebsiella   pneumoniae  (K.  10
  11. pneumoniae), Pseudomonas aeruginosa (P. aeruginosa) và Acinetobacter baumanii  (A. baumannii) là nguyên nhân quan trọng gây nhiễm khuẩn nặng trong các bệnh  viện như nhiễm khuẩn vết mổ, viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết, đặc biệt khi các  vi khuẩn này đã kháng lại các nhóm kháng sinh thế  thệ  mới đắt tiền được sử  dụng để  điều trị  nhiễm khuẩn bệnh viện như  cephalosporin và carbapenem là  kháng sinh mạnh nhất hiện nay gia tăng một cách nhanh chóng trên toàn thế giới.   Điều này đe doạ thực sự đến hiệu quả điều trị cho bệnh nhân tại các bệnh viện   trên toàn thế giới [39, 54, 60, 79]. 1.2. Kháng sinh và sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn Kháng sinh được phát hiện ở thế kỷ 20 và lập tức đóng vai trò quan trọng   trong việc khống chế các bệnh nhiễm trùng. Cùng với việc cải thiện điều kiện   vệ  sinh, nhà  ở, dinh dưỡng và chương trình tiêm chủng mở  rộng đã góp phần  quan trọng làm giảm tỷ lệ tử vong của các bệnh nhiễm trùng và tuổi thọ của con   người đã được nâng cao. Cho đến nay nhiều thế  hệ  kháng sinh khác nhau đã   được nghiên cứu và chế  tạo thành công đáp  ứng kịp thời cho công tác điều trị.   Tuy nhiên hiện nay do sự gia tăng tỷ lệ các vi khuẩn kháng kháng sinh trong bệnh  viện và cộng đồng là một vấn đề  quan trọng hàng đầu trên thế  giới cần được   nghiên cứu và tìm ra các giải pháp phòng chống một cách hiệu quả.  1.2.1. Lịch sử phát triển kháng sinh Năm 1929 Alexander Fleming là người đầu tiên nghiên cứu và phát minh ra   loại thuốc kháng sinh đầu tiên có tên là Penicillin, trong nghiên cứu tác giả  quan  sát thấy ở  trên các đĩa thạch bị nhiễm nấm penicillin (mold Penicillium notatum)  có khả năng ức chế sự phát triển của tụ cầu, ở trên các đĩa thạch này xuất hiện   một vòng vô khuẩn xung quanh khóm nấm do tụ  cầu không có khả  năng mọc  xung quanh khóm nấm. Sau đó tác giả tiến hành nhiều thử nghiệm và thấy rằng  các huyền dịch nuôi cấy nấm này có khả  năng  ức chế  sự  phát triển của tụ  cầu  ngay cả khi pha loãng huyền dịch nấm nuôi cấy tới 800 lần, hoạt chất này được  11
  12. đặt tên là penicillin [62]. Tuy nhiên phải đến năm 1939, Ernst Chain và Howard  Florey mới tách chiết thành công hoạt chất penicillin và được sử dụng để điều trị  các bệnh nhiễm khuẩn trong chiến tranh thế giới lần thứ II. Năm 1946, penicillin   bắt đầu được sử  dụng trong lâm sàng và có đóng góp to lớn cho y học. Những   phát minh này đã tạo ra một cuộc cách mạng khoa học trong nền y học hiện đại  và làm tiền đề nghiên cứu và phát triển nhiều hợp chất kháng sinh có nguồn gốc   từ thiên nhiên [62].  Bác sỹ người Đức Gerhard Domagk đã công bố phát minh tổng hợp được  hoạt chất kháng sinh mới prontosil. Đây là thế  hệ  đầu tiên của các kháng sinh  thuộc   dòng  sulfonamides   được   sử   dụng   trong   lâm  sàng  để   điều  trị   các   bệnh   nhiễm trùng đường tiết niệu hô hấp và một số bệnh nhiễm trùng khác. Với phát  minh này Gerhard Domagk được nhận giải thưởng Nobel năm 1939 [62]. Thập kỷ  50 đến 70 của thế  kỷ  20  được coi là thời kỳ  hoàng kim của  kháng sinh, nhiều loại kháng sinh mới đã được giới thiệu bao gồm: streptomycin,   chloramphenicol và tetracycline được sử dụng điều trị các bệnh nhiễm trùng do vi  khuẩn. Các loại thuốc khác như  para aminosalisylic acid và isoniazid cũng được  nghiên cứu, sản xuất thành công và sử  dụng rộng rãi để  điều trị  bệnh lao [ 19,  62]. Cho đến nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều nhóm và các thế  hệ   kháng   sinh   khác   nhau   như  cephalosporin,   fluoroquinolone,   macrolide   và  carbapenem đã  được nghiên cứu và sản xuất thành công, góp phần to lớn cho  công tác phòng và điều trị các bệnh nhiễm trùng. 1.2.2. Sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn 1.2.2.1. Sự phát triển đặc tính kháng kháng sinh của vi khuẩn Trong tự  nhiên phần lớn các vi khuẩn đều sở  hữu riêng các gen kháng   kháng sinh. Điều này được quan sát thấy trên một số chủng  Staphylococcus đã đề  kháng với penicillin ngay sau khi được đưa vào sử  dụng năm 1946. Dưới áp lực  chọn lọc tự nhiên và sự đấu tranh sinh tồn đã giúp các loài vi khuẩn có khả năng  12
  13. chống lại tác dụng của kháng sinh, do vậy sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn   thường xuất hiện rất nhanh ngay sau khi kháng sinh được đưa vào sử dụng, ví dụ  streptomycin được đưa vào sử  dụng năm 1943 đến năm 1959 vi khuẩn đã lại  kháng kháng sinh này (Bảng 1.2). Tương tự các chủng Shigella dysenteriae phân  lập  tại  vụ   dịch  lỵ   ở   Nhật  Bản  năm  1953  đã   kháng  đa   kháng  sinh  bao  gồm:   chloramphenicol, tetracyclin, streptomycin và sulfonamide. Hiện nay hầu hết các  vi khuẩn gây bệnh đã kháng lại một hoặc nhiều loại kháng sinh [71].  Bảng 1.2. Sự phát triển đề kháng kháng sinh của vi khuẩn [71] Năm phát hiện Kháng sinh Năm sử dụng đề kháng kháng sinh Sulfonamid 1930 1940 Penicillin 1943 1946 Streptomycin 1943 1959 Chloramphenicol 1947 1959 Tetracyclin 1948 1953 Erythromycin 1952 1988 Vancomycin 1956 1988 Methicillin 1960 1961 Ampicillin 1961 1973 Cephalosporin 1960 1960 Trong thời gian gần đây, khoảng 70% các chủng vi khuẩn gây bệnh trong  bệnh viện đã kháng lại ít nhất 1 loại kháng sinh thường dùng trong điều trị, đặc   biệt một số vi khuẩn như  E. coli, K. pneumoniae, P. aeruginosa và A. baumannii  đã kháng lại tất cả  các loại kháng sinh bao gồm cả  các kháng sinh mạnh nhất   13
  14. hiện nay như cephalosporin và carbapenem. Đây là một mối lo ngại và thách thức  lớn đối với nền y học hiện đại [9, 39, 50, 79].  1.2.2.2. Phân loại đề kháng Về nguyên lý của kháng sinh là ức chế sự phát triển của vi khuẩn, nhưng   nếu trong môi trường kháng sinh  ở  nồng độ  thường dùng mà vi khuẩn vẫn phát  triển được gọi là đề kháng [4]. Đề kháng được chia làm hai loại đề kháng giả và  đề kháng thật. Đề  kháng giả:  là hiện tượng có biểu hiện  đề  kháng nhưng bản chất  không phải do di truyền. Ví dụ  khi vi khuẩn nằm trong  ổ áp xe hoặc nằm trong   các tổ  chức hoại tử  bao bọc, kháng sinh không thấm được tới  ổ  viêm chứa vi   khuẩn nên không phát huy được hết tác dụng. Khi vi khuẩn  ở  trạng thái nghỉ  (không nhân lên, không chuyển hóa) thì sẽ không chịu tác dụng của thuốc kháng  sinh  ức chế  quá trình tổng hợp vách. Thêm vào đó,  ở  một số  bệnh nhân bị  suy   giảm hệ thống miễn dịch hay chức năng của thực bào bị  hạn chế, khi đó cơ  thể  không đủ  khả  năng loại trừ  những vi khuẩn đã bị  ức chế  ra khỏi cơ  thể, vì thế  khi không còn thuốc kháng sinh vi khuẩn sẽ phục hồi và phát triển trở lại [4]. Đề kháng thật bao gồm đề kháng tự nhiên và đề kháng thu được + Đề kháng tự nhiên: Là do cấu trúc di truyền của một số loài vi khuẩn,  ví dụ một số loài vi khuẩn không có hệ thống vận chuyển kháng sinh hoặc không   có đích tác động của kháng sinh như  Mycoplasma thuộc loại vi khuẩn không có  vách sẽ không chịu tác động của kháng sinh tổng hợp vách, như   ­lactam. Ở một  số  các vi khuẩn Gram âm, tế  bào vi khuẩn được bao bọc bởi một lớp vỏ  bên   ngoài sẽ ngăn không cho kháng sinh xâm nhập vào bên trong tế bào [4]. + Đề kháng thu được: Có rất nhiều cơ chế đã được vi khuẩn phát triển  để  kháng lại kháng sinh. Các đề  kháng thu được này liên quan đến sự  thay đổi  nhiễm sắc thể  của vi khuẩn đó hoặc do được truyền các gen kháng kháng sinh   14
  15. nằm trên các plasmid và class I intergron cho vi khuẩn cùng và khác loài thông qua  hình thức biến nạp và tiếp hợp [4]. 1.2.3. Cơ chế kháng kháng sinh của vi khuẩn Có  rất  nhiều cơ  chế  tham  gia  vào  tình  trạng kháng kháng  sinh  của  vi  khuẩn. Những cơ chế này có thể thay đổi đích tác động, tạo ra các enzym, ngăn   cản khả năng gắn vào tế bào vi khuẩn và làm thay đổi đường chuyển hóa (tạo ra  các isoenzym). Bơm thoát dòng Enzym phá hủy kháng sinh Kháng sinh Kháng sinh Gen đề kháng kháng sinh Kháng sinh Enzym biến đổi kháng sinh Hình 1.4. Cơ chế kháng kháng sinh của các vi khuẩn Gram âm [22] 1.2.3.1. Thay đổi đích tác động Vi khuẩn thay đổi đích tác động của kháng sinh do đó kháng sinh không   còn vị  trí để  tác động, ví dụ: A. baumannii kháng lại imipenem và P. aeruginosa  kháng ticarcilline và imipenem do chúng thay đổi vị  trí gắn vào protein của các   15
  16. kháng sinh [55]. Cơ  chế  tác động của các kháng sinh nhóm quinolone là  ức chế  hoạt động của đoạn gen mã hóa quá trình tổng hợp enzym GyrA(DNA gyrase  subunit A) và ParC (topoisomerase IV) của tế  bào vi khuẩn. Ví dụ  tính kháng  quinolone của S. typhi xảy ra do đột biến điểm của các đoạn gen mã hóa quá trình  tổng hợp enzym GyrA và ParC trên nhiễm sắc thể của vi khuẩn [15, 70]. 1.2.3.2. Tạo ra các enzym Enzym được tạo ra làm biến đổi hoặc phá hủy cấu trúc phân tử của kháng  sinh.Ví dụ với các enzym beta­lactamase có khả năng phá hủy penicillin được báo  cáo trước khi được đưa vào sử  dụng vào đầu những năm 1940.Sau đó hàng loạt  các enzym beta­lactamase có khả  năng  ức chế  hoặc phân hủy các kháng sinh   mạnh như  cephalosporin và carbapenem được phát hiện. Hiện nay đã xác định  được hơn 890 loại enzym kháng kháng sinh của vi khuẩn, nhiều hơn số  lượng   các loại kháng sinh đã được sản xuất và phần lớn các gen mã hóa các enzym này   nằm trên các plasmid có thể  truyền dễ  dàng trong quần thể  vi khuẩn cùng và  khác loài [17, 54]. 1.2.3.3. Giảm tính thấm của màng nguyên sinh chất Làm giảm mức độ  thấm của kháng sinh qua thành tế  bào vi khuẩn trong  trường hợp kháng tetracycline hoặc làm mất hệ  thống vận chuyển qua màng  trong trường hợp kháng kháng sinh nhóm aminoglycosid [54]. Việc thâm nhập  của các kháng sinh nhóm beta­lactam được thực hiện qua các kênh vận chuyển  (porin), vi khuẩn biến đổi làm mất các kênh vận chuyển và làm hạn chế  sự  tác  động của nhóm kháng sinh này [54]. Cơ  chế  bơm đẩy (efflux pump) của các  kháng sinh nhóm quinolon của vi khuẩn E. coli và P. aeruginosa, thường liên quan  đến hệ thống vận chuyển ion qua màng tế bào [54]. 1.2.4. Các yếu tố nguy cơ gây kháng kháng sinh 1.2.4.1. Lạm dụng sử dụng kháng sinh trong cộng đồng Ở  hầu hết các quốc gia đang phát triển kháng sinh có thể  mua mà không  cần đơn thuốc, các loại kháng sinh sẵn có  ở  khắp nơi từ  các bệnh viện, hiệu  thuốc, cửa hiệu, thậm chí người bán hàng rong. Nghiên cứu ở khu vực nông thôn  16
  17. của Bangladesh cho thấy chỉ có 8% số lượng kháng sinh được bán hàng tháng tại  các hiệu thuốc là mua theo đơn thuốc của bác sỹ.  Thiếu kiến thức về  sử  dụng kháng sinh của người dân như  quên không  uống thuốc, dừng kháng sinh khi thể trạng cảm thấy tốt hơn hoặc khi không có  khả năng chi trả cho một đợt điều trị đầy đủ trước khi vi khuẩn bị tiêu diệt hoàn   toàn [7]. Nhiều người dân tin rằng kháng sinh có thể  chữa được các bệnh như  nhức đầu, bệnh cúm hay để  phòng chống các bệnh lây truyền qua đường tình   dục và kháng sinh tiêm có tác dụng mạnh hơn thuốc viên [6, 7].  Ngoài ra, các nhân viên bán thuốc do không được đào tạo đầy đủ  và cập   nhật kiến thức thường xuyên về  kháng sinh lại thường tư  vấn cho khách hàng  khi mua thuốc kháng sinh, thậm chí còn khuyến khích mua kháng sinh khi họ  không bị ốm [23, 33, 35].  1.2.4.2. Sử dụng kháng sinh trong bệnh viện Hiện nay phương thức sử dụng kháng sinh được chia làm 3 phác đồ  điều   trị: (1) để  phòng chống nhiễm khuẩn: kháng sinh thường được sử  dụng trước,  trong hoặc sau khi phẫu thuật; (2) theo kinh nghiệm: sử dụng kháng sinh trước   khi biết căn nguyên nhiễm khuẩn; và (3) phương thức chọn lọc: sử dụng kháng  sinh khi biết căn nguyên gây nhiễm khuẩn. Các nghiên cứu cho thấy nếu các  bệnh viện thực hiện tốt công tác giám sát tình trạng sử dụng kháng sinh của phác  đồ 1 và 2 sẽ làm giảm áp lực chọn lọc cho vi khuẩn kháng lại kháng sinh trong   các bệnh viện. Ngoài ra, bệnh nhân điều trị  dài ngày trong bệnh viện có sức đề  kháng yếu, thường sử  dụng kháng sinh kéo dài và dễ  bị  nhiễm khuẩn chéo với   các chủng vi khuẩn kháng đa kháng sinh trong các bệnh viện.  Nhiễm khuẩn bệnh viện là yếu tố  quan trọng liên quan đến tính kháng  kháng sinh của vi khuẩn trên thế  giới. Việc phòng chống nhiễm khuẩn bệnh   viện gặp rất nhiều khó khăn và tốn kém đặc biệt là các quốc gia đang phát   triển.Ví dụ  tại Việt Nam, phần lớn các bệnh viện có cơ  sở  hạ  tầng cũ và tình   trạng quá tải.Công suất sử  dụng giường vượt quá 100%. Hơn nữa người nhà  17
  18. bệnh nhân  ở  lại viện để  chăm sóc người bệnh dẫn đến tình trạng quá tải càng  nghiêm trọng [30]. Ngay cả  việc không tuân thủ  các quy định thực hiện chống   nhiễm khuẩn trong bệnh viện, đơn giản như  rửa tay và thay găng trước và sau   khi thăm khám cho bệnh nhân của các nhân viên y tế, đây là nguyên nhân chủ yếu  gây nhiễm khuẩn tại hầu hết các bệnh viện trên thế giới và tạo điều kiện thuận   lợi cho sự lây lan của các chủng vi khuẩn kháng kháng sinh không chỉ trong bệnh  viện mà còn có nguy cơ lây lan ra ngoài cộng đồng [61]. Việc quản lý chất thải  bệnh viện cũng là vấn đề  đáng lưu ý, một số  nghiên cứu được tiến hành ở  các  bệnh viện tại Việt nam cho thấy: nước thải của bệnh viện không qua xử  lý  được thải trực tiếp ra cống sinh hoạt, đồng ruộng và sông ngòi. Thiếu nước cho   công tác vệ sinh và rác thải sinh hoạt được thải ra ở gần nguồn nước, điều này  sẽ làm tăng nguy cơ lây lan các tác nhân gây bệnh trong đó có các vi khuẩn kháng  kháng sinh ra ngoài cộng đồng [30].  1.2.4.3. Sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi Việc sử  dụng kháng sinh trong chăn nuôi tác động vào tình trạng kháng  kháng sinh của vi khuẩn. Tại Bắc Mỹ và châu Âu, khoảng 50% lượng kháng sinh  sản xuất ra được sử dụng trong thức ăn cho gia súc và gia cầm. Phần lớn lượng  kháng sinh này được sử  dụng như  là hoạt chất phụ  trợ  trong thức ăn để  phòng  bệnh và tăng trọng bất chấp tình trạng sức khỏe của gia súc và gia cầm sẽ  làm  tăng tình trạng kháng kháng sinh của các vi khuẩn như  Salmonella, E. coli…và  thông qua thực phẩm sẽ gây bệnh trên người. Tại Đan Mạch, năm 1994 trong khi   chỉ  có 24kg vancomycin được sử  dụng trên người thì có tới 24.000kg apoparcin  (biệt dược của vancomycin) được sử dụng cho chăn nuôi. Vancomycin được cho   là nguyên nhân tạo ra các chủng Enterococcus faecium kháng vancomycin và các  chủng vi khuẩn này được phát hiện trên người do ăn phải các sản phẩm thịt bị ô   nhiễm. Khi apoparcin bị cấm sử dụng tại Đan Mạch năm 1995, Đức năm 1996 và  toàn   liên   minh   châu   Âu   năm   1997   thì   tỷ   lệ  Enterococcus   faecium  kháng  vancomycin phân lập trên người giảm rõ rệt, điều này cho thấy có thể khống chế  18
  19. được sự  gia tăng của vi khuẩn kháng thuốc thông qua việc sử  dụng kháng sinh   [12, 63, 73, 74]. 1.2.4.4. Do bác sỹ Khi sử  dụng kháng sinh sẽ  tạo ra áp lực chọn lọc cho vi khuẩn kháng  thuốc. Sử  dụng kháng sinh không hợp lý và thường xuyên sẽ  làm tăng nguy cơ  kháng kháng sinh của vi khuẩn. Đối với thầy thuốc việc sử dụng kháng sinh theo   kinh nghiệm, liều cao và kéo dài và phần lớn không dựa vào các kết quả  xét   nghiệm xảy ra phổ biến ở các quốc gia đang phát triển. Thầy thuốc phải chịu áp   lực khi kê đơn thuốc theo yêu cầu của bệnh nhân ngay cả  khi không có chỉ định  điều trị  bằng kháng sinh.  Ở  một số  quốc gia, nhiều người tin rằng sử  dụng   kháng sinh theo đường tiêm có tác dụng tốt hơn so với đường uống, điều này đã  dẫn đến tình trạng gia tăng việc sử  dụng các loại kháng sinh phổ  rộng bằng  đường tiêm trong khi chỉ cần điều trị bằng đường uống với các kháng sinh thông  thường [14, 34, 49, 52]. 1.2.4.5. Chất lượng kháng sinh kém Khi bảo quản nhiệt độ  >250C sẽ  giảm hoạt tính kháng sinh, kháng sinh  quá hạn sử  dụng, hàm lượng thấp không những không thể  tiêu diệt được hoàn  toàn vi khuẩn gây bệnh mà còn tạo điều kiện cho vi khuẩn kháng lại kháng sinh   [26, 51, 65]. Ngoài ra một số kháng sinh được bán tại các nước đang phát triển   không chứa đủ hàm lượng như đã ghi trên nhãn thuốc, thành phần chủ yếu trong   các loại thuốc giả này thường là bột mỳ. Nhiều nghiên cứu cho thấy có khoảng  65% trong tổng số  751 hoạt chất đã được làm giả  tại hơn 28 quốc gia trên thế  giới được ghi nhận [7, 41, 45]. 1.2.4.6. Gia tăng sự đi lại quốc tế  Làm lây lan các chủng vi khuẩn kháng thuốc từ 1 quốc gia sang các quốc  gia khác trên thế giới qua đường hàng không. Ví dụ: vi khuẩn kháng carbapenem  mang gen NDM­1 tại Anh có nguồn gốc từ Ấn Độ [39]. 1.2.4.7. Hệ thống giám sát kháng sinh 19
  20. Tại các quốc gia phát triển đã xây dựng được hệ  thống giám sát kháng  sinh như Mỹ và liên minh châu Âu chuẩn thức, qua hệ thống này các thông tin về  mức độ, xu hướng và phát hiện được các trường hợp kháng thuốc mới của vi   khuẩn sẽ  được sử  dụng để  phân tích và đánh giá…qua đó sẽ  giúp cho các thầy   thuốc và các nhà quản lý đưa ra các chính sách phù hợp để ngăn chặn sự gia tăng   của vi khuẩn kháng kháng sinh. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết tại các quốc gia   đang phát triển, các số liệu về tình hình kháng kháng sinh của vi khuẩn chủ yếu   dựa vào các báo cáo từ  các bệnh viện, và các kết quả  từ  các hoạt động nghiên   cứu. Các số  liệu này không thể  phản ánh được đầy đủ  thực trạng kháng kháng   sinh của một quốc gia và cũng thể  sử  dụng để  so sánh với nhau do chưa có sự  thống nhất từ  việc lựa chọn cỡ  mẫu, phương pháp xét nghiệm phát hiện vi   khuẩn kháng kháng sinh. Ngoài ra ở các bệnh viện thường bị thiếu hụt các trang   thiết bị, nhân lực hóa chất và thường không được yêu cầu đánh giá chất lượng   bằng các hình thức như  nội kiểm và ngoại kiểm, do đó các dữ  liệu về  kháng   kháng sinh cũng không thể xem là chính xác và các số  liệu này rất khó sử  dụng  để  so sánh giữa các bệnh viện, cộng đồng cũng như  giữa các vùng địa lý khác   nhau [16, 73].  1.3. Kháng sinh nhóm carbapenem Thienamycin là  kháng sinh  đầu tiên thuộc  nhóm carbapenem  được  phát  hiện và tách chiết từ  vi khuẩn  Streptomyces cattleya (S. cattleya) sống trong đất.  Hoạt chất này có khả năng ức chế quá trình tổng hợp peptidoglycan của tế bào vi  khuẩn. Năm 1979 Kahan và cộng sự  đã tách chiết thành công thienamycin có độ  tinh khiết cao >90%. Năm 2003, gen mã hóa quá trình tổng hợp thienamycin của  vi khuẩn  S. cattleya được phát  hiện và giải trình tự, tổng hợp và phát triển thành   các kháng sinh thuộc nhóm carbapenem.  Kháng sinh thuộc nhóm carbapenem có  cấu trúc tương tự như penicillin nhưng nguyên tố lưu huỳnh được thay thế  bằng  nguyên tố các bon  ở vị trí 1 (Hình 1.5). Cấu trúc này có khả năng tiêu diệt các vi   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1