intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của số liệu thám không giả lập trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đến dự báo bão trên Biển Đông

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:57

38
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được cấu trúc với bốn chương bao gồm: Chương 1 - Tổng quan về phương pháp OSSE, Chương 2 - Phương pháp đồng hóa, Chương 3 - Số liệu và phương pháp, Chương 4 - Kết quả thử nghiệm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của số liệu thám không giả lập trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đến dự báo bão trên Biển Đông

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ Mai Khánh Hưng NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA SỐ LIỆU THÁM KHÔNG GIẢ LẬP TRÊN  QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA VÀ HOÀNG SA ĐẾN DỰ BÁO BÃO TRÊN BIỂN  ĐÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Hà Nội – Năm 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ Mai Khánh Hưng NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA SỐ LIỆU THÁM KHÔNG GIẢ LẬP TRÊN  QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA VÀ HOÀNG SA ĐẾN DỰ BÁO BÃO TRÊN BIỂN  ĐÔNG Chuyên ngành : Khí tượng và khí hậu học Mã số: 60440222 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS LÊ ĐỨC
  3. Hà Nội – Năm 2014 LỜI CẢM ƠN Trước tiên tôi xin bày tỏ  lòng biết  ơn sâu sắc tới TS.Lê Đức là người đã   tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn   này.  Tôi xin cảm ơn các thầy cô trong khoa Khí tượng – Thủy văn – Hải dương   học đã cung cấp cho tôi những kiến thức chuyên môn quý giá.  Tôi cũng xin cảm ơn các cán bộ phòng Dự báo số và viễn thám, Trung tâm   Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương đã tạo giúp đỡ và điều kiện thuận lợi về   cơ sở vật chất, máy móc thiết bị trong suốt thời gian tôi thực hiện luận văn.   Tôi cũng xin cảm  ơn Phòng sau đại học, Trường Đại học Khoa học Tự   nhiên đã tạo điều kiện cho tôi có thời gian hoàn thành luận văn.  Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm  ơn chân thành tới gia đình, người thân và   bạn bè, những người đã luôn ở bên cạnh cổ vũ, động viên và tạo mọi điều kiện   tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập. Mai Khánh Hưng
  4. MỤC LỤC
  5. DANH MỤC HÌNH VẼ 1
  6. DANH MỤC BẢNG BIỂU 2
  7. BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT 3DVAR Three­dimensional variational Đồng hóa biến phân ba chiều CR Control run Điều khiển DAO Data assimilation Office Bộ phận đồng hóa số liệu  DA Data assimilation Đồng hóa số liệu EXP Experiment Thử nghiệm Final   Operational   Global  Số   liệu   phân   tích   toàn   cầu   cuối  FNL Analysis data cùng Global   Atmospheric   Research  Chương   trình   nghiên   cứu   khí  GARP Program quyển toàn cầu GFS Global Forecasct System Hệ thống dự báo toàn cầu LSM Land – Surface model Mô hình bề mặt đất National   Aeronautics   and  Cơ   quan   Hàng   không   và   Vũ   trụ  NASA  Space Administration Mỹ National Centers for Trung   tâm   dự   báo   môi   trường  NCEP Environmental Prediction  quốc gia Mỹ NR Nature Run Giả lập khí quyển Observation system simulation  Thử   nghiệm   giả   lập   hệ   thống  OSSE experiments quan trắc PBL Planetary boundary layer Lớp biên hành tinh Weather   Research   and  Mô   hình   dự   báo   và   nghiên   cứu  WRF Forecast model thời tiết Mô   hình   dự   báo   và   nghiên   cứu  Weather   Research   and  WRF ­ VAR thời   tiết   kết   hợp   phương   pháp  Forecast – Variational biến phân 3
  8. MỞ ĐẦU Chất lượng dự  báo của các mô hình số  trị  đã được nâng cao nhanh chóng   trong khoảng hai thập kỷ  trở  lại đây, tuy nhiên độ  chính xác trong dự  báo các  hiện tượng thời tiết có tác động lớn như bão hay xoáy thuận nhiệt đới vẫn còn là  thách thức. Các cơn bão thường diễn ra trên những vùng biển, đại dương nơi mà   mật độ  các trạm quan trắc rất thưa thớt. Việc  thiếu thông tin quan trắc đã dẫn  tới trường số  liệu ban đầu của các mô hình số  trị  trở  nên không chính xác, gây  khó khăn trong việc dự báo bão và xoáy thuận nhiệt đới. Việt Nam là quốc gia có   đường bờ  biển dài trên 3000 km, nằm trong khu vực có tần suất hoạt động của   bão lớn nhất trên thế giới, thường xuyên phải đón nhận các cơn bão với sức tàn  phá lớn. Vì vậy, dự  báo bão là một trong những nhiệm vụ  quan trọng hàng đầu   của dự báo số trị.   Tầm quan trọng của số liệu thám sát trong và xung quanh hoàn lưu bão đã   được biết đến từ nhiều năm. Tại các quốc gia tiên tiến, khi có bão, các quan trắc  dropsonde hoặc radar sử dụng máy bay thường được tiến hành để cung cấp thêm  thông tin trạng thái khí quyển trong bão. Do còn nhiều hạn chế  về  công nghệ,  nhân lực cũng như  tài chính tại Việt Nam, các loại thám sát đặc biệt này vẫn  chưa được sử dụng. Tuy nhiên, Việt Nam có hai quần đảo Trường Sa và Hoàng  Sa trên biển Đông, hoàn toàn có thể cung cấp các dự báo bổ sung này dưới dạng   số  liệu thám không và được kỳ  vọng có thể  cải thiện được chất lượng dự  báo  bão. Tuy nhiên, việc kiểm chứng tác động của số  liệu này tới dự  báo bão là  không đơn giản khi các trạm quan trắc chưa được xây dựng và số  liệu thám   không tại vực nói trên chưa tồn tại. Trong khi đó, việc xây mới hay bảo trì, bảo   dưỡng hệ thống quan trắc nói chung hay từng trạm thám không riêng lẻ  đòi hỏi  nhiều chi phí, bên cạnh đó cần có những điều tra tỉ mỉ, tốn nhiều thời gian về vị  trí đặt trạm, tần suất hoạt động v..v..  để  đảm bảo số  liệu thám sát mới có thể  phát huy hiệu quả cao nhất. Do vậy, để kiểm chứng được các tác động của loại   số  liệu thám không tới dự  báo bão trong khi các trạm quan trắc còn chưa được  xây dựng, các nhà khoa học trên thế  giới đã sử  dụng phương pháp  Observing  System Simulation Experiments (OSSE) tạm dịch là phương pháp thử nghiệm giả  lập hệ thống quan trắc. Phương pháp này cho phép tiến hành các thử nghiệm giả  lập những tác động của số  liệu thám không tại Hoàng Sa và Trường Sa tới quá   4
  9. trình dự  báo. Từ  đó ta có thể  rút ra được những tác động tiềm năng của số  liệu  thử nghiệm trong thực tế. Trên thế giới phương pháp này cũng đã được áp dụng   tại các trung tâm nghiên cứu khí tượng nổi tiếng như Trung tâm dự báo khí tượng  hạn vừa Châu Âu (ECMWF), Cục hàng không và vũ trụ Mỹ ( NASA), Trung tâm   dự  báo môi trường quốc gia Mỹ (NCEP), v…v… Các kết quả  của phương pháp   OSSE là một kênh thông tin tham khảo đắc lực cho các nhà khí tượng học trong   công tác nghiên cứu cũng như  nghiệp vụ  hàng ngày. Trước tình hình cần thiết  ước tính được tác động tiềm năng của số liệu thám không bổ  sung trên khu vực  biển Đông tới dự  báo bão, luận văn này sẽ  tiến hành “Nghiên cứu  ảnh hưởng   của số liệu thám không giả  lập trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đến   dự báo bão trên biển Đông”. Ngoài phần mở  đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được cấu  trúc với bốn chương bao gồm:  Chương 1: Tổng quan về phương pháp OSSE Chương 2: Phương pháp đồng hóa  Chương 3: Số liệu và phương pháp Chương 4: Kết quả thử nghiệm 5
  10. Chương 1  TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP OSSE 1.1 Tổng quan các nghiên cứu về OSSE trên thế giới và tại Việt Nam Trong bài viết tổng quan về vai trò của phương pháp thử  nghiệm giả lập  hệ  thống quan trăc trong ngành khí tượng năm 1989, tác giả  Alane.Lipton[7] đã   cho biết phương pháp này được ra đời vào những năm 1960 của thế  kỷ  trước.   Động lực đầu tiên thúc đẩy sự  hình thành và phát triển của phương pháp này là   kế  hoạch xây dựng một hệ  thống quan trắc toàn cầu có độ  chính xác cao của   chương   trình   nghiên   cứu   khí   quyển   toàn   cầu   (Global  Atmospheric  Research  Program – GARP). Tuy nhiên, xây mới một hệ thống quan trắc hay lắp đặt mới  các thiết bị  quan trắc là rất tốn kém đặc biệt là các thiết bị  quan trắc hiện đại   như vệ tinh, radar v..v… Hơn nữa, do kinh phí đầu tư là có giới hạn, nên việc lắp  đặt thêm thiết bị  quan trắc này đồng nghĩa với việc giảm bớt thành phần khác  quan trắc. Do đó, quá trình thiết kế hệ thống quan trắc mới cần phải điều tra kỹ  lưỡng nhằm ước tính được tác động của quan trắc mới tới dự báo số. Tuy nhiên,   đây là công việc khó thực hiện bởi hệ thống quan trắc mới chưa được xây dựng,  số liệu quan trắc mới chưa tồn tại. Để giải quyết vấn đề trên, các nhà khoa học  trên thế giới đã đề xuất một phương pháp cho phép mô phỏng lại tác động tiềm  năng của số  liệu quan trắc mới hay hệ  thống quan trắc mới tới các dự  báo số  được biết với tên gọi là thử  nghiệm giả lập hệ thống quan trắc được gọi tắt là  phương pháp OSSE.  Theo những nghiên cứu của Atlas và nnk vào năm 1985[9], Arnold và Dey   trong năm 1986[8] thì phương pháp OSSE được xếp nằm trong lớp bài toán kiểm   nghiệm, giả  lập (mô phỏng) tuy nhiên khác biệt với thử  nghiệm giả  lập (mô  phỏng) thông thường, phương pháp OSSE cho phép giả  lập những thứ  chưa tồn   tại cụ  thể  là các quan trắc mới. Từ  đó, dựa trên ý tưởng hệ  thống đồng hóa số  liệu, phương pháp OSSE có thể ước tính được tác động tiềm năng của quan trắc  mới tới hệ  thống dự  báo số  trị  (NWP) làm cơ  sở  cho chương trình thử  nghiệm  thời tiết toàn cầu. Trong nghiên cứu của Atlas và Emmitt vào năm 1991[11], của  Rohaly   và   Krishnamutri   vào   năm   1993[21]   và   của   Atlas   trong   năm   1989[10]  6
  11. phương pháp OSSE còn được sử  dụng để cho phép ước lượng, điều chỉnh thêm  hoặc giảm các thành phần cấu thành nên hệ thống quan trắc.  Trong giai đoạn đầu phát triển từ năm 1960 đến 1980, phương pháp OSSE   gắn liền với các nghiên cứu trong chương trình nghiên cứu khí quyển toàn cầu.  Với mục tiêu là đưa ra được một mạng lưới quan trắc toàn cầu có độ  chính xác   cao, GARP là tập hợp các nghiên cứu sử dụng phương pháp OSSE để  thực hiện   các thử  nghiệm để  giúp các nhà khoa học có thể  đưa ra được mạng lưới quan   trắc tối ưu. Tiêu biểu là các nghiên cứu của Charney và nnk thực hiện trong năm  1969[14], nghiên cứu của Halem và Jastrow vào năm 1970[17], nghiên cứu của  Williamson   và   Kasahara   trong   năm   1971[23],   Kasahara   trong   năm   1972[18],  Gordon và nnk vào năm 1972[16] và các nghiên cứu khác chuẩn bị  cho chương   trình thử nghiệm toàn thời tiết toàn cầu. Các nghiên cứu này đã đạt được những   kết qủa tích cực trong việc thiết kế  được mạng lưới các trạm quan trắc để  có   thể   cung  cấp  được   trường  phân  tích  đáp  ứng  được   yêu  cầu  về   số   liệu   của   GARP, chỉ ra được mối liên hệ giữa các biến quan trọng của khí quyển là nhiệt   độ và gió. Sử dụng thám sát nhiệt độ từ vệ tinh trong thời gian dài và liên tục đưa   vào mô hình toàn cầu có thể  tạo ra số liệu quan trắc trường gió quy mô lớn, vì  vậy các quan trắc gió bổ sung là không cần thiết. Một trong những hướng nghiên  cứu cũng tập trung nhiều sự quan tâm của các nhà khoa là đưa ra một hệ  thống   đồng hóa số liệu phù hợp với những quan trắc mới. Phương pháp OSSE sẽ giúp   các nhà khoa học có thể thử nghiệm các phương pháp đồng hóa mới trước khi số  liệu quan mới được đưa vào sử  dụng. Điều này sẽ giúp tiết kiệm thời gian đưa   số liệu quan trắc mới vào nghiệp vụ.   Trong những năm từ  1980 đến 2000, những nghiên cứu sử  dụng phương  pháp OSSE dần chuyển hướng sang các nghiên cứu liên quan tới tác động của số  liệu gió từ  vệ tinh. Đặc biệt là các tập hợp các nghiên cứu được thực hiện bởi   các nhà khoa học tại trung tâm đồng hóa số liệu NASA DAO nhằm xác định tác   động tiềm năng của profile gió vệ  tinh LiDAR tới hệ thống đồng hóa và dự  báo   số lúc bấy giờ và từ đó có thể đưa ra những điều chỉnh trong thiết kế thiết bị đo   gió. Các nghiên cứu tiêu biểu trong giai đoạn này là của Atlas và Kalnay thực   hiện trong năm 1985[9], Atlas và nnk trong những năm 1990, 1991 và 1997[10] [11][12], của Baker và nnk vào năm 1995[13]. Trong những nghiên cứu này, các  tác giả sử dụng mô hình tích phân hoàn lưu chung khí quyển có độ  phân giải 5o,  7
  12. hệ thống đồng hóa và dự báo GEOS3 có độ phận giải 1 o. Kết quả có được từ các  nghiên cứu này đã chỉ ra sự cải thiện rõ rệt độ chính xác của dự  báo khi số liệu   gió vệ tinh lidar được đồng hóa. Cụ thể, kỹ năng dự  báo trung bình đã được kéo  dài thêm từ 12 – 18 giờ tại Nam Bán Cầu và từ 3 ­ 6 giờ tại Bắc Bán Cầu.  Tăng  độ chính xác trong dự báo quỹ đạo bão, sai số vị trí tâm bão dự  báo giảm xấp xỉ  10% tính trung bình toàn cầu. Đặc biệt với các cơn bão có cường độ  mạnh (áp   suất cực tiểu tại tâm nhỏ  hơn 945hPa), thì sai số  khoảng cách giảm trung bình   hơn 200km. Không chỉ  vậy, các nhà khoa học còn chỉ  ra được tác động của gió  Lidar này đã cải thiện được dự báo vị trí đổ bộ của các cơn bão, giảm sai số xấp   xỉ 250km.  Trước   năm  2000,  phương  pháp  OSSE  thường  được  sử   dụng trong  các  nghiên cứu có quy mô lớn, các mô hình được sử dụng để  thực hiện các giả  lập   thử  nghiệm là mô hình toàn cầu. Từ  những năm đầu thế  kỷ  21 cho đến nay, sự  phát triển nhảy vọt của khoa học kỹ thuật và năng lực tính toán của máy tính đã   tạo điều kiện cho các hệ thống mô hình khu vực cũng ra đời và hoàn thiện. Các   nghiên cứu sử dụng phương pháp OSSE đã tập trung hơn vào nghiên cứu quy mô  vừa, đặc biệt là tác động tiềm năng của số liệu viễn thám tới các loại thời tiết có  tác động lớn như  bão, xoáy thuận nhiệt đới. Trong nghiên cứu sử  dụng OSSE   ước tính tác động tiềm năng của số  liệu gió Lidar Doppler tới việc dự  báo các  hiện quy mô vừa như  bão tuyết, xoáy thuận nhiệt đới vào năm 2009 [25], Pu và  Zhang đã chỉ  ra những khó khăn khi sử  dụng mô hình toàn cầu mô phỏng hiện  tượng quy mô vừa do không phản ánh được cấu trúc và cường độ  của các hiện  tượng này, do vậy cần có những thử  nghiệm dựa trên những mô hình khu vực.  Năm 2013, Nolan và nnk [22] đã xây dựng một khí quyển giả lập quy mô khu vực  phục vụ  cho xem xét tác động của các loại quan trắc tương lai tới dự báo bão.   Quá trình mô phỏng này được thực hiện thông qua việc sử  dụng mô hình WRF  với đầu vào là khí quyển giả lập của ECMWF.  Kết quả đã phản ánh được mối  quan hệ  giữa áp suất và gió, cấu trúc động học và nhiệt động lực học của lớp   biên, bán kính gió mạnh cũng được xác định chính xác hơn. Cùng năm này, Hongli   Wang, Xiang – Yu Huang và Yongshen Chen[24] đã sử dụng hai mô hình khu vực  là MM5, WRF và hệ thống đồng hóa biến phân ba chiều (3DVAR) trong nghiên  cứu thử nghiệm tác động tiềm năng của số liệu phổ hồng ngoại (IRS) từ vệ tinh   địa tĩnh Meteosat thế hệ thứ ba tới dự báo số trị quy mô khu vực. Các kết quả thu  8
  13. được cho thấy số liệu IRS đã có những tác động tích cực tới các phân tích và dự  báo, giảm sai số trường nhiệt và trường ẩm trong các phân tích. Kỹ năng dự báo  cho các biến nói trên cũng được tăng thêm 12 giờ. Độ chính xác của dự báo mưa   hạn 18 giờ cũng được cải thiện.  Sớm hơn, năm 2010, Pu và Zhang [19] sử dụng   mô hình WRF và hệ  thống 3DVAR nghiên cứu về   ảnh hưởng của số liệu lidar   Doppler tới dự báo số. Các kết quả cho thấy việc đồng hóa các quan trắc gió vào   các mô hình quy mô vừa sẽ  có những tác động tiềm năng rõ rệt trong việc cải  thiển chất lượng dự báo quỹ đạo và cường độ  bão. Sai số giữa quỹ đạo dự  báo  khi có sử dụng số liệu gió nhỏ  hơn quỹ đạo của dự  báo khi không đồng hóa số  liệu này trong dự báo hạn 48 tiếng. Cường độ bão được phản ánh chính xác thay   vì cho dự báo cường độ quá lớn.  Các nghiên cứu sử dụng mô hình khu vực và phương pháp OSSE làm công   cụ để nghiên cứu những tác động của các loại quan trăc dự kiến khác nhau tới dự  báo các hiện tượng thời tiết có tác động lớn nói chung và bão nó riêng đã được  nhiều nhà khoa học trên thế  giới thực hiện và đã thu được những kết quả  tích   cực trong dự báo bão. Tại Việt Nam, OSSE vẫn là phương pháp mới. Theo hiểu   biết của tác giả, chưa có các nghiên cứu sử dụng OSSE, tuy nhiên một số nghiên  cứu có sử  dụng mô hình khu vực và sơ  đồ  đồng hóa số  liệu 3DVAR để  nghiên   cứu tác động của các loại số  liệu quan trắc tới các hiện tương thời tiết có ảnh   hưởng lớn đã được thực hiện. Nghiên cứu của Kiều Thị  Xin và Lê Đức (2003)   [2] đã sử  dụng mô hình HRM kết hợp với sơ  đồ  đồng hóa biến phân ba chiều  3DVAR để đồng hóa số liệu tại các trạm cao không và Synop. Kết quả cho thấy   lượng mưa dự báo đã gần với thực tế hơn so với trường hợp không có đồng hóa.  Trần Tân Tiến và nnk (2009)[5] đã thực hiện đồng hóa số liệu áp suất mặt biển   và gió đã cho thấy những cải tiến trong khả  quan trong việc dự  quỹ   đạo và   cường độ bão đặc biệt trong hạn dự báo từ 6 đến 48h. Cùng năm 2009, Phan Văn   Tân và Nguyễn Lê Dũng [4] đã sử  dụng mô hình WRF kết hợp với hệ  thống   đồng hóa số  liệu biến phân ba chiều của WRF thử  nghiệm cho dự  báo một số  cơn bão có quỹ  đạo phức tạp trên biển Đông. Đồng hóa số  liệu được thực hiện  với số  liệu quan trắc giả  lập tạo bởi một module ban đầu xoáy hóa. Trần Tân   tiến và Nguyễn Thị  Thanh (2011)[6] đã nghiên cứu đồng hóa số  liệu vệ  tinh  MODIS trong mô hình WRF để dự báo mưa lớn ở khu vực Trung Bộ. Các nghiên   cứu được tiến hành trong hai mùa mưa 2007 và 2008 và thu được kết quả  khả  9
  14. quan, đã cải thiện đáng kể về diện mưa và lượng mưa trong dự báo 30 giờ đầu.   Cũng trong năm này, Kiều Quốc Chánh [3] đã tổng quan về  hệ  thống đồng hóa  lọc Kalman tổ hợp và ứng dụng cho mô hình dự báo thời tiết WRF. Kết quả thu   được cho thấy bộ lọc Kalman tổ hợp có khả  năng nắm bắt tốt số  liệu quan trắc   vệ tinh. Gần đây nhất, Hoàng Đức Cường và nnk (2013) [1] với nghiên cứu “Ứng  dụng mô hình WRF dự  bão bão đến hạn 72h” thử  nghiệm với 18 cơn bão trên   biển Đông trong hai mùa bão 2007 và 2008. Tác giả  sử  dụng sơ  đồ  đồng hóa   3DVAR  cập  nhật số   liệu  synop và  cao  không  cho trường  ban  đầu.  Kết  quả  nghiên cứu cho thấy, sai số đã giảm, đặc biệt là trong 42 giờ đầu khi sử dụng sơ  đồ đồng hóa 3DVAR. Cần lưu ý rằng ngoài Kiều Thị Xin [2] và Chánh Kiều [3],  các nghiên cứu còn lại không chạy một hệ  thống đồng hóa đúng nghĩa theo chu  kỳ mà chỉ thực hiện đồng hóa duy nhất tại một thời điểm. Qua các nghiên cứu trên thế giới, có thể nhận thấy phương pháp OSSE là  một công cụ  hữu ích cho các nhà khoa học trong việc nghiên cứu tác động của  các loại số liệu quan trắc tương lai tới hệ thống dự báo số hiện tại. Các nghiên   cứu trong nước đã cho thấy hoàn toàn có cơ sở áp dụng phương pháp OSSE cho  khu vực Việt Nam dựa trên các mô hình khu vực. Đây cũng là cơ  sở  để  tác giả  lựa   chọn   mô   hình   WRF   và   hệ   thống   đồng   hóa   số   liệu   biến   phân   ba   chiều   (3DVAR) để  thực hiện nội dung luận văn là nghiên cứu tác động của số  liệu  thám không giả lập tại Hoàng Sa và Trường Sa tới dự báo bão tại biển Đông. 1.2 Phương pháp OSSE OSSE là một công cụ  quan trọng giúp chúng ta có thể   ước tính được các   tác động của các hệ thống quan trắc dự kiến trong tương lai, tăng giảm các thành  phần trong khí thiết kế  hệ  thống quan trắc mới, và cải tiến phương pháp đồng   hóa số liệu cho các loại số liệu mới. Tùy vào từng mục đích, mà OSSE có nhiều  các thiết kế khác nhau, tuy nhiên tất cả đều gồm các bước cơ bản sau: 1) Giả lập (mô phỏng) khí quyển Để  biết tác động của số  liệu quan trắc tới dự  báo số, các nhà khoa học  thường so sánh các dự  báo có và không có đồng hóa số liệu quan trắc với nhau.   Số  liệu quan trắc là thước đo trạng thái khí quyển tại vị  trí đặt trạm quan trắc  hay có thiết bị  quan trắc, đo đạc. Tuy nhiên, tại những nơi chưa có trạm quan   trắc, hay chưa có các thiết bị  quan trắc ta không thể  biết được trạng thái khí  quyển, do vậy không thể  có được số  liệu quan trắc và cũng không thể  xác định  10
  15. được tác động của số những số liệu quan trắc chưa tồn tại tới hệ thống dự báo  số. Do vậy, cần có một khí quyển giả lập mà các nhà khoa học biết rõ để  từ đó  họ có thể có bất cứ số liệu quan trắc cần thiết. Một tích phân đủ dài và không bị  gián đoạn của một mô hình số sẽ  có nhiệm vụ  cung cấp một trạng thái của khí  quyển trong một khoảng thời gian cần nghiên cứu được gọi tên là Nature run ­   tạm dịch là khí quyển giả lập. Mô hình thực hiện giả lập khí quyển có thể là mô   hình toàn cầu hoặc mô hình khu vực tùy vào quy mô của hiện tượng. Với những   hiện tượng quy mô lớn, khí quyển giả lập được tạo bởi các mô hình toàn cầu, độ  dài của khí quyển giả  lập từ  có thể  kéo dài vài tháng đến một năm. Với những  hiện tượng quy mô vừa như bão hay xoáy thuận nhiệt đới thì các khí quyển giả  lập được tạo bởi mô hình toàn cầu không phản ánh được cấu trúc bên trong của   các hiện tượng này vì vậy cần có những khí quyển giả  lập quy mô khu vực  (regional nature run) được tạo bởi các mô hình khu vực với thời gian ngắn hơn,   từ  vài ngày đến một tuần và độ  phân giải tinh hơn. Do trong thực tế, khí quyển  có nhiều quy mô khác nhau, cũng như các mô hình số trị là chưa hoàn hảo nên khí  quyển giả lập không thể giống chính xách hoàn toàn với khí quyển thực tế. Tuy  nhiên, để phương pháp thử nghiệm giả lập hệ thống quan trắc có thể ước lượng  được chính xác tác động của quan trắc mới thì khí quyển giả  lập nên có những   đặc điểm của khí quyển thực tế trong thời đoạn cần nghiên cứu. 2) Giả lập số liệu quan trắc (Observation simulation) Nếu như số liệu quan trắc thật có được thông qua các công cụ đo đạc thì   ở đây, số liệu quan trắc giả lập sẽ được mô phỏng từ  khí quyển giả  lập. Hiện  nay có hai cách tiếp cận để mô phỏng số liệu quan trắc [9]. Cách đơn giản nhất  là nội suy dữ  liệu trên lưới mô hình của khí quyển giả  lập về  vị  trí cần có số  liệu quan trắc, quá trình này bao gồm cả  sai số của từng loại số liệu quan trắc.   Một cách khác phức tạp hơn và đắt hơn đó là sẽ  giả  lập cách thu thập số  liệu   quan trắc như trong thực tế. Một điểm cần nói thêm, quá trình mô phỏng số liệu   quan trắc bao gồm quá trình mô phỏng lại các loại quan trắc đã có và mô phỏng,   giả  lập các loại quan trắc chưa có. Việc lựa chọn đồng hóa loại số  liệu quan  trắc mô phỏng giả lập nào sẽ dẫn đến các quá trình điều khiển hoặc thử nghiệm  được trình bày trong bước 3 dưới đây. 3) Các quá điều khiển (Control Run), thử nghiệm (Experiments) và ước lượng tác   động của quan trắc mới 11
  16. Để  xem xét được tác động một loại số  liệu, thì phương pháp phổ  biến   nhất là so sánh, phân tích kỹ năng dự báo khi chưa có và có đồng hóa số liệu mới.   Đối với phương pháp OSSE cũng vậy, để  biết tác động của số  liệu quan trắc  tương lai tới chất lượng dự  báo, ta cần có một quá trình chạy dự  báo của mô   hình khi chưa đồng hóa số liệu quan trắc mới này. Quá trình này được gọi tên là  Control Run (CR) tạm dịch là quá trình điều khiển. Bản chất của CR là sự  mô  phỏng các dự  báo của hệ thống dự  báo số  hiện tại. Các số  liệu quan trắc được  đồng hóa trong quá trình điều khiển là các quan trắc hiện thời giả lập (hệ thống   quan trắc đang có), dự  báo của quá trình điều khiển được gọi là dự  báo tham  chiếu. CR = dự báo + số liệu quan trắc hiện thời giả lập  (1.1) Các   dự   báo   có   đồng   hóa   thêm   số   liệu   quan   trắc   mới   được   gọi   là  Experiments (EXP) tạm dịch là các thử  nghiệm. Một cách đơn giản, các thử  nghiệm có thể được hiểu như sau: EXP  = CR + số liệu quan trắc tương lai giả lập (1.2) Các kết quả dự báo của EXP sẽ được đánh giá, so sánh với khí quyển giả  lập (NR) và kết quả dự báo của CR từ đó rút ra được tác động của số liệu quan  trắc tới dự báo số trong OSSE để đưa ra được những kết luận tương tự trong khí   quyển thực. Các thành phần chính của OSSE được thể  hiện thông qua sơ  đồ  trong hình 1.1 dưới đây. 12
  17. Giả lập khí quyển Điều kiện ban  đầu A Các dự báo  Số liệu dự báo  Mô hình số trị  chạy t ạo khí  quyển giả lập So sánh Mô hình số trị Khí quyển giả  lập (Dạng lưới) So sánh Gi ả l ập số li ệu quan trắc Trường số liệu  phân tích Quá tình giả l ập  số liệu quan trắc Phân tích khách  quan/ ban đầu hóa Số liệu quan trắc  (hiện thời và tương  lai) giả l ập Điều ki ện ban  đầu B Hình 1.1 Sơ đồ hoạt động của một hệ thống OSSE.  Có thể thấy rõ ràng, phương pháp OSSE được xây dựng dựa trên ý tưởng  của một hệ  thống đồng hóa số  liệu. So sánh giữa hai hệ  thống này được thể  hiện qua hình 1.2. 13
  18.   Khí quyển  Khí quyển  thực  giả lập  Quá trình Quá trình  đo đạc mô phỏng Số liệu quan trắc hiện  Số liệu quan trắc  thời có thật (hiện thời và tương lai  giả lập) Đồng hóa  Đồng hóa  số liệu số liệu Mô hình Mô hình  dự báo số   dự báo số  trị trị a) Hệ thống đồng hóa số liệu b) OSSE Hình 1.2 So sánh hệ hoạt động của hệ thống đồng hóa số liệu và OSSE Từ hình 1.2 ta có thể  thấy, sự khác biệt giữa hai hệ thống này chỉ  đến từ  ba quá trình đầu tiên. Nếu với hệ thống đồng hóa số liệu, các  số liệu quan trắc  thật thu thập được thông qua quá trình đo đạc từ khí quyển thực thì với quá hệ  thống OSSE tất cả cá quá trình trên đều được giả lập.  Khí quyển được giả lập,  các số liệu quan trắc giả lập có được không phải do đo đạc mà là mô phỏng.  Các quá trình khác của hai hệ thống này là hoàn toàn giống nhau. Hình 1.3 dưới   đây sẽ minh họa rõ hơn sự tương đồng của OSSE và hệ thống đồng hóa số liệu. 14
  19. Hình 1.3 Minh họa phương pháp thử nghiệm giả lập hệ thống quan trắc Hệ thống đồng hóa số liệu sử  dụng số liệu quan trắc thật (có được nhờ  đo đạc từ khí quyển thực) để cải thiện dự báo với  mong muốn dự báo tiến tới   sát được trạng thái khí quyển thực. Hệ  thống OSSE sẽ sử  dụng số liệu quan  trắc giả  lập (có được nhờ  quá trình nội suy từ  khí quyển giả  lập) để  cải thiện   các dự  báo với  mong muốn các dự  báo tiến dần tới khí quyển giả  lập. Tác  động của các loại số liệu quan trắc giả lập với dự báo số trong hệ thống OSSE   sẽ được cho như là tác động của loại số liệu quan trắc này khi nó được đưa vào   sử dụng trong thực tế. Như vậy, cơ sở lý thuyết của hệ  thống OSSE là chính là  quá trình đồng hóa số liệu. Hiện nay có nhiều phương pháp đồng hóa số liệu, tuy  nhiên để  phù hợp với nội dung và quy mô của một luận văn, tác giả  sử  dụng  phương pháp biến phân ba chiều 3DVAR cùng mô hình nghiên cứu và dự  báo  thời tiết (Weather Research and Forecast ­ WRF) để thực hiện nội dung của luận   văn  15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1