Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu khả năng hạ đường huyết của cây chuối hột Musra barjoo Sieb lên chuột gây tiểu đường type 2
lượt xem 13
download
Luận văn với mục tiêu nghiên cứu ảnh hưởng của dịch chiết các phân đoạn quả và củ chuối hột trên mô hình chuột gây ĐTĐ type 2; phân lập và xác định cấu trúc một số hợp chất hóa học có trong dịch chiết các bộ phận cây chuối hột.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu khả năng hạ đường huyết của cây chuối hột Musra barjoo Sieb lên chuột gây tiểu đường type 2
- Luận văn Thạc sĩ khoa học MỞ ĐẦU Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh phổ biến ở các nước phát triển và cả các nước đang phát triển, ở nước ta bệnh có xu hướng tăng dần. Cùng với bệnh ung thư và tim mạch, ĐTĐ là một trong ba bệnh có số người mắc tăng nhanh nhất. ĐTĐ cũng có tỉ lệ tử vong cao nhất trong các bệnh nội tiết do gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm. Bệnh có nguyên nhân nội tiết với biểu hiện là các rối loạn chuyển hóa, điển hình là tăng glucose huyết do thiếu hụt insulin tuyệt đối hoặc tương đối hay do không đáp ứng với insulin. Bệnh thường kèm theo các biến chứng cấp gây tử vong hoặc các biến chứng lâu dài như các bệnh lý về tim mạch, mắt, thận, thần kinh [1, 5, 31]. Ở Việt Nam, các bệnh nhân mắc bệnh mãn tính thường có xu hướng sử dụng thuốc Đông Y hoặc thuốc Y học cổ truyền do chúng có độc tính thấp, rẻ tiền và sẵn có. Sử dụng cây cỏ trong vườn nhà để làm thuốc cũng là truyền thống lâu đời của dân tộc ta, nó đã để lại những kinh nghiệm quí báu trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Chuối hột (Musra barjoo Sieb) là loài cây có mặt ở nhiều nơi trên đất nước ta. Nhân dân ta đã theo kinh nghiệm dân gian để chữa một số bệnh như: hắc lào, đau răng, sỏi thận, trĩ, mụn nhọt, tiêu chảy, ĐTĐ, … bằng các bộ phận khác nhau của cây. Để góp phần làm sáng tỏ hơn tác dụng điều trị ĐTĐ của cây chuối hột, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu khả năng hạ đường huyết của cây chuối hột Musra barjoo Sieb lên chuột gây tiểu đường type 2” với mục tiêu: - Nghiên cứu ảnh hưởng của dịch chiết các phân đoạn quả và củ chuối hột trên mô hình chuột gây ĐTĐ type 2. - Phân lập và xác định cấu trúc một số hợp chất hóa học có trong dịch chiết các bộ phận cây chuối hột. Cao học khóa K17 1 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học Chương 1. TỔNG QUAN 1.1. Bệnh đái tháo đường 1.1.1. Khái niệm Đái tháo đường (Diabetes mellitus) là một bệnh rối loạn chuyển hóa đặc trưng bởi nồng độ glucose máu tăng thường xuyên và mãn tính do tụy sản xuất thiếu insulin (thiếu insulin tuyệt đối) hoặc do giảm tác dụng của insulin (thiếu insulin tương đối) bởi các nguyên nhân khác nhau với cơ chế bệnh sinh phức tạp [1, 5]. Tăng glucose máu mãn tính thường kết hợp với sự hủy hoại, rối loạn và sự suy yếu chức năng của nhiều cơ quan trong cơ thể. Những rối loạn chuyển hóa này có thể gây hôn mê và tử vong trong thời gian ngắn nếu không được điều trị kịp thời. Hậu quả muộn của các rối loạn chuyển hóa này là gây tổn thương các mạch máu nhỏ và mạch máu lớn dẫn đến mù mắt, hoại tử thận, hoại tử chi, nhiễm trùng, tổn thương thần kinh [5, 30]. 1.1.2. Phân loại và cơ chế bệnh sinh Hơn 2000 năm trước, bệnh ĐTĐ đã được mô tả trong y văn cổ, kể từ đó đến nay đã có rất nhiều cách phân loại bệnh ĐTĐ khác nhau. Trải qua rất nhiều thời kỳ, ĐTĐ được các nhà nghiên cứu phân chia thành rất nhiều loại khác nhau. Đến năm 1980 các chuyên gia nghiên cứu về bệnh ĐTĐ của WHO đã phân loại bệnh ĐTĐ dựa vào các chỉ tiêu lâm sàng, dịch tễ học và các yếu tố di truyền. Sự phân loại này đã được bổ sung và thay đổi chút ít vào năm 1985, phân thành ĐTĐ phụ thuộc insulin (loại bắt buộc phải dùng insulin) và ĐTĐ không dùng thuốc chữa [5, 13, 14]. Cho đến năm 1997, Ủy ban chuyên gia về chuẩn đoán và phân loại bệnh ĐTĐ của WHO đưa ra đề nghị về cách phân loại bệnh ĐTĐ mới dựa Cao học khóa K17 2 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học trên những tiến bộ về khoa học đó là dựa vào nguyên nhân sinh bệnh và đã được dùng phổ biến đến ngày nay. ĐTĐ được chia thành hai loại như sau [5, 14]: 1.1.2.1. Bệnh đái tháo đường type 1 Bệnh ĐTĐ type 1 còn được gọi là bệnh ĐTĐ phụ thuộc insulin (Insulin-dependent diabete), qua trung gian miễn dịch, hoặc là dạng khởi phát lứa tuổi vị thành niên. Hệ thống miễn dịch của cơ thể đã sinh ra các kháng thể chống lại hoặc phá hủy tế bào β của đảo tụy sản xuất insulin. Khi không có insulin, tế bào sẽ không sử dụng được glucose, do đó glucose trong máu sẽ tăng rất cao và thường dẫn đến những biến chứng lâu dài. Nghiên cứu trên những cặp sinh đôi cùng trứng, tỷ lệ ĐTĐ type 1 ở những cặp này từ 30 – 40%. Điều này chứng tỏ không phải tất cả các trường hợp là di truyền và còn có những yếu tố môi trường trong biểu hiện bệnh. Một số yếu tố môi trường làm thay đổi chức năng của tế bào như: virus (quai bị, rubella, coxsackie virus B4); một số chất hóa học (thuốc diệt chuột nitrophenylurea) và những chất phá hủy tế bào (hydrogen cyanid có trong tapioca bị hỏng và cây sắn). Gen nhạy cảm với bệnh ĐTĐ ở người chủ yếu nằm trong nhánh ngắn của nhiễm sắc thể số 6. ĐTĐ type 1 có thể xảy ra ở bất cứ độ tuổi nào, nhưng thường gặp ở trẻ em và thanh niên. Người bị ĐTĐ type 1 bắt buộc phải dùng insulin hằng ngày để điều hòa hàm lượng glucose trong máu. Ngoài ra người bệnh còn phải phối hợp sử dụng thuốc với một chế độ dinh dưỡng và tập luyện hợp lý giúp ổn định lượng glucose huyết, kéo dài cuộc sống [1, 5, 10, 14, 15]. 1.1.2.2. Bệnh đái tháo đường type 2 Đây là dạng ĐTĐ thường gặp nhất, chiếm khoảng 80-90% số bệnh nhân bị ĐTĐ. Thông thường, với bệnh ĐTĐ type 2, trong cơ thể vẫn còn sản Cao học khóa K17 3 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học xuất insulin, nhưng insulin được sản xuất ra không đủ hoặc các tế bào không thể sử dụng nó. Điều này được gọi là đề kháng insulin. Theo thời gian, đường huyết sẽ tăng cao trong máu. Hiện tượng kháng insulin tập trung nhiều ở gan và các loại mô ngoại vi với nhiều hình thức kháng khác nhau như: giảm khả năng ức chế sản xuất glucose ở gan, giảm khả năng thu nạp glucose ở mô ngoại vi, giảm khả năng sử dụng glucose ở các cơ quan. Do đó, khi xét nghiệm, người ta vẫn thấy sự có mặt của insulin trong máu. Ngoài ra, nồng độ insulin trong máu của một số bệnh nhân ĐTĐ type 2 còn rất cao, nguyên nhân là do ở những bệnh nhân này, tế bào đích không đáp ứng với insulin hoặc đáp ứng ở mức độ thấp, nên nồng độ insulin phải cao hơn mức bình thường mới có thể đưa đến một đáp ứng bình thường [1, 5, 14, 15]. ĐTĐ type 2 có thể diễn biến theo các giai đoạn sau: + Giai đoạn 1: Mặc dù nồng độ glucose trong máu vẫn ở mức bình thường, nhưng bắt đầu có hiện tượng kháng insulin vì hàm lượng insulin tăng cao hơn bình thường trong máu. + Giai đoạn 2: Tình trạng kháng insulin có xu hướng mạnh dần và xuất hiện hiện tượng tăng nồng độ glucose trong máu sau bữa ăn. + Giai đoạn 3: Sự kháng insulin không thay đổi nhưng sự bài tiết insulin giảm dần và gây tăng nồng độ glucose huyết lúc đói. Các triệu chứng của bệnh ĐTĐ bắt đầu biểu hiện ra bên ngoài. ĐTĐ type 2 có tính di truyền mạnh, có nghĩa là bệnh có khuynh hướng phát triển theo gia đình. Một số loại gen đã được xác định và một số khác đang trong giai đoạn nghiên cứu được nghi ngờ là nguyên nhân gây ra ĐTĐ type 2. Tuy nhiên trong đời sống hằng ngày, có rất nhiều yếu tố nguy cơ có thể dẫn đến bệnh ĐTĐ type 2 đã được đề cập đến, bao gồm như: tăng huyết áp, tăng triglyceride (mỡ) máu, ĐTĐ thai kỳ hoặc sinh con nặng hơn 4kg, chế Cao học khóa K17 4 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học độ ăn nhiều chất béo, uống nhiều rượu, ngồi nhiều, béo phì hoặc thừa cân, chủng tộc, đặc biệt khi có những người thân bị ĐTĐ type 2 hoặc bị ĐTĐ thai kỳ, tuổi tác. Trong đó, béo phì và ít vận động là hai yếu tố nguy cơ được nhắc đến nhiều nhất là có thể làm phát triển bệnh ĐTĐ type 2 [5, 13]. 1.1.2.3. Một số loại ĐTĐ khác Ngoài hai loại ĐTĐ thường gặp nhất là ĐTĐ type 1 và ĐTĐ type 2 ra thì hiện nay người ta còn phân biệt một số loại bệnh ĐTĐ khác như: ĐTĐ thai kỳ: Đây là dạng ĐTĐ xảy ra ở một số phụ nữ mang thai và sẽ biến mất sau khi sinh. Có thể gây ra các biến chứng cho mẹ và con trong quá trình mang thai. Phụ nữ bị ĐTĐ thai kỳ có nhiều khả năng phát triển thành bệnh ĐTĐ type 2 [13]. Một số type ĐTĐ khác: Một bệnh nhân có thể có đồng thời nhiều đặc điểm của nhiều type khác nhau. Ví dụ, trong ĐTĐ tự miễn âm ỉ (latent autoimmune diabetes in adults (LADA)), còn gọi là ĐTĐ type 1.5 hay ĐTĐ đôi, bệnh nhân có đặc điểm của cả ĐTĐ type 1 và type 2. Phần lớn bệnh nhân LADA vẫn tiết đủ insulin khi mới được chẩn đoán giống như ĐTĐ type 2 nhưng trong vòng vài năm sau bệnh nhân cần insulin để kiểm soát đường huyết. Trong LADA, giống như trong ĐTĐ type 1, tế bào của tuyến tụy không sản xuất insulin vì hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công và phá hủy tế bào . Các chuyên gia cho rằng ĐTĐ LADA là dạng diễn tiến chậm của ĐTĐ type 1. Nguyên nhân của những type ĐTĐ khác này có thể được gây ra bởi: Khiếm khuyết về gen của tế bào , như là ĐTĐ khởi phát ở người trẻ (MODY). Bệnh tuyến tụy hay tổn thương tuyến tụy, như viêm tụy hay xơ hóa tụy. Cao học khóa K17 5 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học Sản xuất quá nhiều hormone đối kháng insulin do bệnh lý khác như: hormone cortisol trong hội chứng Cushings; những thuốc giảm hoạt động của insulin như là glucocorticoids, hay hóa chất phá hủy tế bào ; nhiễm trùng, như là bệnh sởi hay virus cytomegalo bẩm sinh; những rối loạn tự miễn hiếm, như là hội chứng stiff-man, một bệnh tự miễn của hệ thần kinh trung ương [27]. 1.1.3. Tỉ lệ mắc bệnh Trên thế giới, hàng năm có tới hàng triệu người mắc ĐTĐ. Tỉ lệ phát triển bệnh gia tăng theo sự phát triển của đời sống kinh tế, vì vậy gây ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của kinh tế và cộng đồng. Hiện nay, ĐTĐ đã trở nên phổ biến ở nhiều nước đang trong giai đoạn hiện đại hóa và công nghiệp hóa. Bệnh ĐTĐ chiếm tỉ lệ 3-7% người trưởng thành ở các nước châu Âu. Gần đây, WHO đã báo động trên toàn thế giới về sự phát triển và mối nguy hại của bệnh này: Năm 1985 thế giới có 30 triệu người mắc ĐTĐ; đến năm 1994 con số này tăng lên 98,9 triệu người. Năm 2003 có khoảng 140 triệu người đang mắc ĐTĐ. Theo ước tính của Viện Nghiên cứu ĐTĐ Quốc tế: năm 2025 có khoảng 300 triệu người mắc ĐTĐ [13, 22, 31]. Ở Việt Nam, theo thống kê của một số bệnh viện ở các thành phố lớn, ĐTĐ là bệnh thường gặp nhất và có tỉ lệ tử vong cao nhất trong các bệnh nội tiết. Tỉ lệ bệnh nhân điều trị tăng lên từ năm này qua năm khác, ở thành thị cao hơn nông thôn. ĐTĐ type 2 chiếm đa số bệnh nhân và thường gặp ở người cao tuổi (90-95%). ĐTĐ type 1 chiếm tỉ lệ nhỏ và thường gặp ở người trẻ dưới 40 tuổi [13, 22, 31]. Cao học khóa K17 6 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học 1.1.4. Các xét nghiệm hóa sinh chẩn đoán bệnh ĐTĐ 1.1.4.1. Glucose huyết Th¸ng 6 n¨m 1997, t¹i héi nghÞ thêng niªn cña Héi §T§ Mü t¹i Boston ®· c«ng bè tiªu chÝ chÈn ®o¸n míi cña bÖnh §T§. Tiªu chÝ nµy ®îc WHO c«ng nhËn vµo n¨m 1998. Néi dung cña tiªu chÝ lµ [13]: - MÉu ®êng huyÕt t¬ng bÊt kú 200mg/dl kÕt hîp víi c¸c triÖu chøng cña t¨ng ®êng huyÕt. - §êng huyÕt t¬ng lóc ®ãi 126mg/dl (sau 8 giê kh«ng ¨n). - §êng huyÕt t¬ng sau 2 giê uèng 75g glucose 200mg/dl. 1.1.4.2. Glucose niệu Ở người bình thường, trong nước tiểu không có đường. Ngưỡng đường thận trung bình là 160-180mg/ml (8,9-10mmol/l). Khi đường huyết tăng cao vượt quá ngưỡng đường thận tức là vượt quá khả năng tái hấp thu glucose của thận, glucose sẽ có trong nước tiểu. Ngưỡng đường thận thay đổi khác nhau đối với từng cá thể. Trong một số trường hợp bệnh lý của thận mặc dù đường huyết bình thường nhưng vẫn có đường trong nước tiểu. Ngược lại, ở người cao tuổi thường có ngưỡng đường thận cao nên ít thấy đường niệu trong khi đường huyết khá cao. Do đó xét nghiệm glucose niệu chỉ có giá trị khi tiến hành đồng thời với xét nghiệm glucose huyết [5, 12, 14, 27]. 1.1.4.3. Ceton niệu Thể ceton được hình thành trong cơ thể là do tăng phân hủy lipid tạo ra. Thể ceton gồm 3 thành phần: Acetoacetat, Aceton, β-Hydroxybutyrat; các thành phần này được đào thải qua nước tiểu. Ở người bình thường không có ceton trong nước tiểu. Trong trường hợp nhiễm toan chuyển hóa do ĐTĐ, cơ thể đào thải nhiều ceton ra nước tiểu. Đây là dấu hiệu rất có giá trị báo trước cho tình trạng hôn mê nhiễm toan. Cao học khóa K17 7 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học Hiện nay, có thể xác định glucose huyết, glucose niệu hay ceton niệu một cách nhanh chóng, chính xác bằng các dụng cụ như que thử glucose niệu, ceton niệu, máy và kit đo glucose huyết [5, 12, 14, 27]. 1.1.4.4. Định lượng insulin và C-peptit trong máu Insulin và C-peptit huyết được định lượng bằng phương pháp RIA (Radioimmuno Assay-Định lượng miễn dịch phóng xạ) hoặc ELISA. C-peptit được bài tiết cùng tiền insulin (Proinsulin) từ tế bào β tiểu đảo tụy, đây là yếu tố liên kết giữa nhánh A và B của Proinsulin. C-peptit được bài tiết qua thận ở trạng thái nguyên vẹn, không bị biến đổi. Định lượng C-peptit sẽ đánh giá chính xác khả năng bài tiết insulin của tụy [5, 12, 14, 27]. 1.1.4.5. Các xét nghiệm khác Ngoài các xét nghiệm trên còn có các xét nghiệm khác để chẩn đoán xác định và theo dõi tiến triển bệnh trong điều trị như: HbA1c (Glycosylated hemoglobin), Albumin glycosylated và protein huyết thanh, protein niệu, β2- Microglobulin [5, 12, 14, 27]. 1.1.5. Biến chứng ĐTĐ Biến chứng tim: đây là biến chứng nặng, thường là xơ cứng mạch vành gây cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim. Biến chứng ngoài da: ngứa toàn thân, ngứa sinh dục, mụn nhọt ngoài da, u mỡ vàng, hoại tử mỡ, viêm da thể cứng bì teo. Biến chứng mắt: nhiễm khuẩn mắt, liệt nhãn cầu gây nhìn đôi, viêm đỏ mống mắt, bệnh võng mạc, thiên đầu thống chảy máu, trường hợp nặng có thể mù. Hoại tử do ĐTĐ: đây là biến chứng muộn của bệnh do lâu ngày bị bỏ qua không điều trị. Thường là hoại tử ở chi dưới nhưng cũng có thể ở các tạng như: tim, võng mạc, não, thận. Cao học khóa K17 8 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học Biến chứng thần kinh: đau dây thần kinh tọa, trụ; rối loạn cảm giác sâu, mất phản xạ gân xương; liệt cơ. Biến chứng thận: gây protein niệu, đái máu vi thể, hội chứng thận hư. Biến chứng răng: là một trong các biến chứng sớm, thường là viêm lợi và rụng răng. Biến chứng phổi: áp xe phổi, đây là biến chứng rất dễ gặp. Hôn mê: là biến chứng nặng nhất và thường gây tử vong. Bệnh nhân có thể hôn mê do ĐTĐ như hôn mê do nhiễm toan, ceton, do tăng thẩm thấu hoặc có thể hôn mê do hạ glucose huyết vì quá liều insulin [5, 14, 27]. 1.1.6. Điều trị ĐTĐ 1.1.6.1. Chế độ không dùng thuốc Chế độ ăn uống: việc điều trị ĐTĐ bằng chế độ ăn cần tuân theo nguyên tắc: tổng số calo đưa vào phải cung cấp một năng lượng tương xứng để đạt tới duy trì cân nặng tối ưu cho bệnh nhân và giữ tình trạng sức khỏe tốt nhất. Vận động thể lực: vận động thể lực làm tăng nhạy cảm của insulin do tăng số lượng và chất lượng của receptor insulin của tế bào. Thể dục làm giảm một số biến chứng của bệnh [14, 27, 35]. 1.1.6.2. Chế độ dùng thuốc Ở Việt Nam có hai hướng sử dụng thuốc là: 1.1.6.2.1. Sử dụng thuốc tân dược: Theo ®êng dïng vµ nguån gèc, c¸c thuèc h¹ glucose m¸u ®îc chia thµnh hai nhãm chÝnh: - Insulin - Các thuốc hạ glucose huyết đường uống a. Insulin: Insulin ngoại sinh được sử dụng khi tụy không sản xuất đủ insulin để điều hòa chuyển hóa glucid. Insulin dùng trong điều trị ĐTĐ type 1 hoặc Cao học khóa K17 9 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học type 2 khi dùng thuốc uống hạ đường huyết không còn tác dụng. Cơ chế tác dụng của insulin bao gồm [14, 27, 35]: - Tăng cường vận chuyển glucose từ máu vào tế bào, tăng cường oxyhóa glucose tạo năng lượng và chuyển glucose thành glycogen dự trữ. - Tăng cường tổng hợp protein bằng cách chuyển acid amin vào tế bào. - Tăng cường chuyển hóa glucose thành chất béo dự trữ. b. Các thuốc hạ glucose huyết đường uống - Sulphonylurea: (tolbutamid, gliclazid) là thuốc dùng đầu tiên ở bệnh nhân ĐTĐ type 2 không béo phì. Trong cơ thể, Sulphonylurea được gắn lên thụ thể đặc hiệu nằm ở màng tế bào β tiểu đảo Langerhan và kích thích giải phóng insulin. Khả năng kích thích giải phóng insulin của sulphonylurea trên tế bào β phụ thuộc vào khả năng gắn với các thụ thể. Do đó sulphonylurea chỉ có tác dụng khi tế bào β không bị tổn thương [14, 27, 35]. - Biguanide: (metformin) dùng cho bệnh nhân béo phì. Thuốc làm tăng tác dụng của insulin tại thụ thể và sau thụ thể, tăng sử dụng glucose ở tổ chức ngoại vi, đặc biệt là ở tế bào cơ. Thuốc làm giảm tạo glucose ở gan, giảm hấp thu glucose ở ruột. Tuy nhiên, nhóm này không có tác dụng đối với sự bài tiết insulin ở tụy. Do đó, nên phối hợp với sulphonylurea hoặc với insulin trong điều trị [35]. - Các thuốc ức chế men α-glucosidase: (acarbose, miglitol) là pseudotetrasaccharide có nguồn gốc từ vi khuẩn. Ở niêm mạc ruột non, thuốc ức chế cạnh tranh men tiêu hóa tinh bột α-glucosidase, do đó làm chậm sự hấp thu carbohydrate. - Meglitinide: (repaglinide) thuốc làm giảm glucose huyết bằng cách kích thích tiết insulin từ tế bào β tụy còn hoạt động. - Thiazolidinedione hay Glitazon: (troglitazone, rosiglitazone) trong nhân tế bào của những mô nhạy cảm với insulin (mô mỡ, mô cơ, mô gan) có Cao học khóa K17 10 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học một loại cụ thể là PPARγ (Per-oxisome proliferator-activated receptor gamma). Các glitazon tạo phức hợp với thụ thể PPARγ, qua đó thúc đẩy sự điều hòa sao chép gen giúp tổng hợp một số protein làm tế bào tăng đáp ứng với hoạt tính của insulin. Thuốc có tác dụng làm giảm trực tiếp tình trạng đề kháng insulin, cải thiện chức năng tế bào , làm giảm đáng kể nồng độ insulin nội sinh do đó gây hạ glucose huyết [35]. 1.1.6.2.2. Sử dụng thuốc có nguồn gốc dược liệu - Đái tháo đường theo quan niệm Đông Y: BÖnh §T§ trong y häc cæ truyÒn gäi lµ chøng tiªu kh¸t mµ nguyªn nh©n chñ yÕu lµ do ¨n uèng kh«ng ®iÒu ®é, ¨n nhiÒu c¸c chÊt cay nãng, bÐo, ngät, do lao lùc, do c¨ng th¼ng thÇn kinh t¹o thµnh ho¶ nhiÖt, uÊt nhiÖt lµm phÇn ©m cña c¸c phñ t¹ng: phÕ, vÞ, thËn bÞ hao tæn. H¶i Thîng L·n ¤ng trong cuèn Y Trung Qu©n KiÖn cã viÕt: chøng bÖnh tiªu kh¸t phÇn nhiÒu do ho¶ lµm tiªu hao ch©n ©m 5 chÊt dÞch bÞ kh« c¹n mµ sinh ra [4]. BÖnh §T§ trong y học cổ truyền chia ra lµm ba møc ®é kh¸c nhau: NÕu bÖnh nh©n thÝch uèng níc nhiÒu th× bÖnh chñ yÕu ë thîng tiªu do phÕ ©m h; nÕu thÝch ¨n nhiÒu bÖnh chñ yÕu ë trung tiªu do vÞ ©m h g©y ®ãi vµ gÇy; nÕu bÞ ®i tiÓu nhiÒu th× bÖnh chñ yÕu ë phÇn h¹ tiªu do thËn ©m h kh«ng tµng tr÷ ®îc tinh hoa cña ngò cèc, kh«ng chñ ®îc thuû g©y tiÓu nhiÒu vµ níc tiÓu cã ®êng [4, 7, 8]. Muèn ch÷a bÖnh ph¶i trÞ c¶ gèc vµ ngän: trÞ ngän lµ trÞ chøng kh¸t níc, ®ãi, tiÓu nhiÒu. TrÞ gèc lµ trÞ phÕ, tú, thËn lµ nh÷ng c¬ quan cã chøc n¨ng chuyÓn ho¸ vµ ®iÒu tiÕt trong c¬ thÓ. - Các thuốc Đông y sử dụng trong điều trị ĐTĐ: Sử dụng thuốc có nguồn gốc thực vật trong phòng và chữa bệnh là thói quen, kinh nghiệm và truyền thống của người dân Việt Nam và một số nước trên thế giới. Một nghiên cứu về vấn đề sử dụng thảo dược thường xuyên cho Cao học khóa K17 11 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học bệnh nhân ĐTĐ ở Marốc đã cho thấy liệu pháp thực vật là kinh tế nhất và hiệu quả hơn thuốc hiện đại [4]. Có rất nhiều loài cây đã được dùng theo kinh nghiệm dân gian để làm giảm nhẹ triệu chứng cũng như biến chứng của bệnh ĐTĐ: Cải xoong (Nasturium officinale Brassicaceae); Mướp đắng (Mormordica charantia Cucurbitaceae); Bồ công anh (Taraxacum officinale Asteraceae); Dứa (Ananas sativus); Ổi (Psidium guajava); Rau má (Celltela asiatica); Ngò tàu (Eryngium foetidum Apiaceae); Quỉ trâm thảo (Bidens pilosa Asteraceae); Củ cải trắng (Ravanus sativus); Bạch truật (Atractiloides macrocephala Asteraceae); Cam thảo nam (Scoparia ducis Scrophulariaceae); Dừa cạn (Catharanthus roseus Apocynaceae); Hoài sơn (Dioscorea persimilis Dioscoreaceae); Ngọc trúc (Polygotanum officinale Liliaceae), Chuối hột (Musra barjoo Sieb),… [7, 8, 9]. Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, một số cây đã và đang được nghiên cứu để chứng minh tác dụng hạ glucose huyết như Mướp đắng (Mormordica charantia Cucurbitaceae); Chuối hột (Musra barjoo Sieb); Thổ phục linh (Smilax glabra Smilacaceae); Hương nhu tía (Ocimum sanctum Lamiaceae); Kha tử (Terminalia chebula); Tri mẫu (Anemarrhena asphodeloides); Tỏi (Alium sativa Liliaceae); Mỏ quạ (Cudnaria tricuspidata Moraceae); Dừa cạn (Catharanthus roseus Apocynaceae); Lô hội (Aloe vera Liliaceae); Cỏ mực (Eclipta alba Asteraceae); Đơn kim (Bidens polisa var. radiata Asteraceae); Nhân sâm (Panax ginseng Araliaceae),… Các nghiên cứu này đã cho thấy kết quả khá khả quan, có thể dần dần đưa vào sử dụng trên lâm sàng [4, 7, 8, 9]. 1.1.7. Các yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh ĐTĐ Bệnh ĐTĐ có 4 nhóm nguy cơ lớn: di truyền, nhân chủng, hành vi lối sống và nhóm nguy cơ chuyển tiếp (các nhân tố trung gian). Cao học khóa K17 12 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học 1.1.7.1. Các yếu tố gen Có vai trò quan trọng trong bệnh ĐTĐ type 2. Những người có bố, mẹ hoặc anh chị em ruột của mình bị bệnh ĐTĐ có nguy cơ mắc bệnh cao gấp 4- 6 lần những người khác. Nguy cơ này sẽ cao hơn khi cả hai bên nội ngoại đều có người mắc bệnh ĐTĐ. Khi bố hoặc mẹ mắc ĐTĐ thì tỷ lệ nguy cơ là 30%; Khi cả bố và mẹ đều mắc ĐTĐ thì nguy cơ là 50%; Trường hợp sinh đôi cùng trứng, nếu một người mắc bệnh thì người kia sẽ được xếp vào nhóm bị đe dọa thật sự đối với bệnh ĐTĐ [26, 27, 30]. 1.1.7.2. Các yếu tố nhân chủng học (giới, tuổi, chủng tộc) Theo sắc tộc: Tỷ lệ mắc bệnh và tuổi mắc bệnh ĐTĐ thay đổi theo sắc tộc. Ở Tây âu, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ type 2 ở người da vàng cao hơn người da trắng từ 2-4 lần; tuổi mắc bệnh ở người da vàng trẻ hơn, thường trên 30 tuổi, người da trắng thường hơn 50 tuổi. Theo độ tuổi: đây là yếu tố được xếp lên vị trí đầu tiên trong số các yếu tố nguy cơ của bệnh ĐTĐ type 2. Khi cơ thể già đi, đặc biệt là từ 50 tuổi trở lên, thì các chức năng tụy nội tiết cũng bị suy giảm theo và khả năng tiết insulin của tụy cũng bị giảm. Khi đó, nồng độ glucose trong máu có xu hướng tăng, đồng thời sự nhạy cảm của các tế bào đích với kích thích của insulin giảm đi. Khi tế bào tụy không còn khả năng tiết insulin đủ với nhu cầu cần thiết của cơ thể, glucose máu khi đói tăng và bệnh ĐTĐ thực sự xuất hiện [26, 27, 30]. 1.1.7.3. Các yếu tố hành vi, lối sống Béo phì Bệnh béo phì được tổ chức Y tế thế giới định nghĩa là tình trạng tích lũy mỡ quá mức và không bình thường tại một số vùng cơ thể hay toàn than Cao học khóa K17 13 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học tới mức ảnh hưởng tới sức khỏe. WHO thường dùng chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index – BMI) để nhận định tình trạng béo gầy. Công thức tính BMI là: BMI = W/(H)2 W: Cân nặng cơ thể (kg) H: Chiều cao cơ thể (m) - BMI: 20-25 là bình thường; - BMI ≥ 25 là thừa cân; - BMI ≥ 30 là béo phì. Đó là chỉ số dành cho người châu Âu và châu Mỹ, người châu Á, BMI bình thường có giới hạn từ 18,5 – 23,0. Theo chỉ số khối cơ thể BMI, nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ được xếp loại như sau: - BMI < 18,5: không có nguy cơ, - 18,5 < BMI < 22,9: nguy cơ thấp, - 23,0 < BMI < 24,9: có nguy cơ ở mức trung bình, - 25,0 < BMI < 29,9 (béo độ 1): nguy cơ cao, - BMI ≥ 30,0 (béo phì độ 2): nguy cơ rất cao. ĐTĐ type 2 rất phổ biến ở những người béo phì. Tỷ lệ những người béo phì bị ĐTĐ type 2 đang gia tăng ở các nước trên toàn thế giới, không chỉ ở lứa tuổi trên 40 mà còn gặp cả ở những người đang trong độ tuổi thanh thiếu niên [14, 15, 17, 30]. Kháng insulin tồn tại cả ở gan và các mô ngoại vi, có thể xuất phát từ những bất thường trong các phân tử liên quan đến con đường truyền tín hiệu insulin. Mặc dù nguyên nhân có thể từ những nhân tố không có mặt trong con đường truyền tín hiệu insulin, nhưng chúng làm rối loạn hay biến đổi một số phân tử trong mạng lưới này [15, 24, 25]. Trong trường hợp này, các cytokine như yếu tố hoại tử mô TNF-α tạo ra tình trạng kháng insulin bằng cách bất hoạt một số phân tử trong con đường truyền tín hiệu insulin thong qua một số cơ chế như: Cao học khóa K17 14 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học - Photphoryl hóa các gốc serin chủ chốt, giảm độ nhạy cảm của thụ thể insulin, khiếm khuyết trong hoạt tính của IR tyrosine kinase và giảm hoạt tính của IRSI và P13 kinase. - Giảm hoạt hóa một số phân tử như: thụ thể γ hoạt hóa quá trình tăng sinh peroxisome (PPAR-γ) hoặc leptin. Các nghiên cứu cũng chỉ ra adiponectin/ACRP30 và resistin chính là các phân tử làm trung gian cho quá trình kháng insulin. Tuy nhiên vẫn chưa rõ rằng liệu tình trạng kháng insulin trong béo phì có phải là cơ chế thích nghi với sự dư thừa năng lượng hay đó là những hiệu ứng không mong muốn của tình trạng nhiễm độc lipid trong một hệ thống vốn sinh ra để tồn tại trong điều kiện thiếu năng lượng? Nói cách khác, có thể dưới điều kiện nhiễm độc lipid, các cơ chế ban đầu được tạo ra cho các mục đích khác như apotosis hay bảo vệ vật chủ, lại bị hoạt hóa không chính xác. Người ta đã tìm thấy sự giảm khả năng hoạt động của insulin tại thụ thể do giảm gắn insulin vào các thụ thể. Những bất thường ở điểm gắn này đã được tìm thấy là do có biến đổi về cấu trúc ở các gen điều hòa tổng hợp insulin và các thụ thể đặc hiệu gắn insulin. Đã có những bằng chứng cho thấy có sự suy giảm số lượng các thụ thể insulin ở người bệnh ĐTĐ type 2, chủ yếu là ở các tế bào mô mỡ [15, 24, 25]. Ít hoạt động thể lực Các nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy, việc tập luyện thể lực thường xuyên có tác dụng làm giảm nồng độ glucose huyết tương ở bệnh nhân ĐTĐ type 2, đồng thời giúp duy trì sự bình ổn của lipid máu, huyết áp, cải thiện tình trạng kháng insulin, và một điều tuyệt vời nữa là cải thiện tích cực về mặt tâm lý [27, 30]. Cao học khóa K17 15 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học Chế độ ăn Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ tăng cao ở những người có chế độ ăn nhiều chất béo bão hòa, nhiều carbonhydrat tinh chế. Ngoài ra, các chế độ ăn này thiếu vitamin, các yếu tố vi lượng góp phần làm thúc đẩy sự tiến triển bệnh ở những người trẻ cũng như người cao tuổi. Đặc biệt ở người già mắc bệnh ĐTĐ, cơ thể có sự tăng sản xuất gốc tự do (là nhân tố làm tăng quá trình lão hóa cơ thể), do vậy việc bổ sung các chất chống oxi hóa như vitamin C, E sẽ phần nào giúp cải thiện được hoạt động của insulin và quá trình chuyển hóa [27, 30]. Các yếu tố khác Stress: Tình trạng Stress kéo dài do áp lực từ công việc, căng thẳng trong cuộc sống hàng ngày là một “tay nội gián” cho bệnh ĐTĐ. Lối sống công nghiệp và hiện đại hóa: Từ phương tiện đi lại hiện đại hơn làm giảm cơ hội vận động; công việc văn phòng, các bữa ăn với thức ăn nhanh nhiều năng lượng,… đây là những yếu tố tiếp tay cho sự tấn công của bệnh ĐTĐ vào loài người của xã hội hiện đại [27, 30]. Các yếu tố chuyển hóa và các loại nguy cơ trung gian - Rối loạn đường máu lúc đói, rối loạn dung nạp glucose - Kháng insulin 1.2. Chuối hột Chuối hột (còn gọi chuối hạt, chuối chát) có tên khoa học là: Musra barjoo Sieb, hay Musa brachycarpa, Musa seminifera Musaceae (họ Chuối - Musaceae) [7, 8, 9]. Cao học khóa K17 16 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học Hình 1. Cây chuối hột 1.2.1. Đặc điểm thực vật và phân bố Chuối hột thuộc lớp thực vật một lá mầm. Cây thân giả, cao 2-4m, to, màu xanh. Lá to có phiến dài, xanh hơi mốc mốc, bẹ xanh. Buồng hoa nằm ngang, mo đỏ sẫm, không quấn lên, có phác hoa dạng ghé tạo thành buồng chuối ở tận ngọn, có nhiều hoa trong một buồng, hoa sắp thành hai hàng tạo thành nải chuối. Các hoa đực nằm ở nải trên ngọn (ngọn của buồng), còn ở phần gần cọng của phác hoa (gốc của buồng) là hoa lưỡng tính. Quả có cạnh, thịt quả nạc chứa nhiều hạt to 4-5mm. Mỗi quả chứa trung bình 15-25 hạt. Bộ phận thường dùng là củ, quả, thân. Có thể thu hái các bộ phận của cây quanh năm. Cây mọc hoang hoặc được trồng ở nhiều nơi trên đất nước ta, đặc biệt là vùng rừng núi phía Bắc và các tỉnh miền Trung. Người dân ở đây thường dùng lá để gói bánh, quả để ăn và làm gia vị, thân để nuôi gia súc. Theo kinh nghiệm dân gian, một số người đã sử dụng các bộ phận khác nhau của cây để làm thuốc [7, 8, 9]. Cao học khóa K17 17 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học 1.2.2. Thành phần hóa học Năm 1987, J.Horry và M.Ray (Pháp) đã nghiên cứu và xác định trong lá bắc của cây có anthocianin. Trong đó, delphinidin và cyanidin là các anthocianidin chính. Năm 1995, Kong. L & cộng sự (Trung Quốc) đã nghiên cứu phân lập enzyme polyphenol oxydase trong vỏ quả chuối. Năm 1998, T.Kamo & cộng sự (Nhật Bản) xác định được phytoalexin; 1,2,3,4-tetrahydro-6,7-dihydroxy-1-(4'-hydroxycinnamyliden) naphthalen-2- on; 2-(4'-methoxyphenyl)-1,8-naphthalic anhydrid; 2-phenyl-1,8-naphthalic anhydrid trong quả. Năm 1991 M.Ali (Ấn Độ) công bố ba Neo-clerodan Diterpenoid phân lập được từ hạt Musa balbisiana là: musabalbisian A, B, C. Cấu trúc của các thành phần này cũng đã được xác định bằng phương pháp phân tích quang phổ và phương pháp hóa học. Ở Bộ môn Dược liệu - Khoa Dược, Đại học Y Dược, TP Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Mỹ Hạnh và Bùi Mỹ Linh đã nghiên cứu xác định thành phần hóa học của hạt chuối hột. Kết quả cho thấy, trong hạt chuối hột có các chất: saponin, coumarin, tanin, flavonoid anthocianosid và hợp chất uronic, tinh dầu, phytosterol … 1.2.3. Tác dụng của cây chuối hột Theo cuốn “450 vị thuốc nam có tên trong bản Dược thảo Trung Quốc” (Nhà xuất bản Y học - 1963) thì tác dụng sinh lý của chuối hột với nhiều phương pháp khác nhau, các phần của cây chuối hột (gồm hạt, quả, củ) được sử dụng để chữa trị rất nhiều loại bệnh: - Trị đau răng, lợi có mủ: Vỏ hoặc củ chuối hột, da trăn, cam thảo nam đồng lượng đốt toàn tính cùng phèn phi, tán bột, trộn dầu dừa bôi vào chân răng. Cao học khóa K17 18 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học - Trị nóng sốt phát cuồng, nói sảng: Thân chuối xẻ đôi, bỏ giun đất vào nướng kĩ, ép lấy nước uống. - Trị sỏi đường niệu: hạt, quả xanh sắc nước uống; nước trích từ thân cây, uống mỗi sáng một chén, dùng 1-2 tháng. - Trị chứng viêm loét dạ dày: Chuối hột già thái mỏng, phơi khô, tán bột uống với nước nóng. - Trị chứng trĩ ra máu: nõn chuối hột nướng nóng chườm vào hậu môn; nõn chuối tiêu, bột khô của trái chuối hột đem giã nát gói vào lá chuối non, nướng cho nóng đắp vào hậu môn. - Trị mụn nhọt: Khi nhọt đã hình thành, sưng, nóng, đỏ, đau nhức nhiều; củ chuối rửa sạch giã nát với muối rồi đắp lên nhọt mỗi ngày. - Giải độc thực phẩm: quả xanh thái mỏng, ăn sống cùng với các rau sống khác, trừ được các chất độc trong rau sống hay trong thịt cá. - Trị bệnh đường ruột: Ăn quả chín, nhai cả hạt trị giun; vỏ quả 4-8g sắc uống trị kiết lị. - An thai: Củ chuối, rễ móc mỗi thứ 20g sắc uống. - Chữa sản hậu tê thấp, chân tay tê dại: Hoa chuối thái nhỏ, sao vàng hạ thổ, sắc lấy nước uống, bã đắp vào nơi tê đau. - Cầm máu: Thân cây giã nát đắp vào vết thương chảy máu. - Trị ĐTĐ: + Uống nước trích từ thân cây chuối hột mỗi sáng. + Trái chuối hột già hoặc vừa chín, xát mỏng, phơi khô, sắc uống thay nước trong ngày. + Củ chuối giã nát lấy nước uống. + Ốc bươu rửa sạch bung với củ chuối ăn chữa bệnh ĐTĐ. Cao học khóa K17 19 Nguyễn Thị Duyên
- Luận văn Thạc sĩ khoa học 1.3. Một số hợp chất tự nhiên ở thực vật 1.3.1. Saponin Saponin là một loại glicozid tự nhiên thường gặp trong nhiều loài thực vật. Dưới tác dụng của axit loãng và enzyme trong thực vật, vi khuẩn, saponin bị thủy phân thành các phần gồm genin gọi là sapogenin và phần đường gồm một hoặc nhiều phân tử đường. Dựa vào cấu trúc của phần sapogenin, người ta chia saponin ra làm 3 nhóm lớn là triterpenoid saponin, steroid saponin và glicoancaloid dạng steroid. Tác dụng sinh học: saponin có tác dụng long đờm, chữa ho (viễn chí, cát cánh, cam thảo, thiên môn, mạch môn); saponin có mặt trong các vị thuốc bổ như nhân sâm, tam thất…; saponin làm tăng tính thấm của tế bào, có tác dụng chống viêm, kháng khuẩn, kháng nấm, ức chế vius [18]. 1.3.2. Flavonoid Các flavonoid là lớp chất phổ biến trong thực vật. Chúng là hợp chất được cấu tạo gồm hai vòng benzene A, B được kết nối bởi 1 dị vòng C với khung cacbon C6-C3-C6. Các flavonoid là dẫn xuất của 2-phenol chroman (flavan) [14]. 5 6' 4' 8 1 B O 2 3' 7 1' 2' A C 6 3 5 4 Flavan (2-phenyl chroman) Các flavonoid có ở trong tất cả các bộ phận của cây, bao gồm quả, phấn, hoa, rễ, … Một số flavonoid có hoạt tính sinh học thể hiện ở khả năng chống oxi hóa. Cao học khóa K17 20 Nguyễn Thị Duyên
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 300 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 321 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn