intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tạo kit multiplex PCR chẩn đoán nhanh các chủng vi khuẩn lao ở Việt Nam

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:94

75
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài có các mục tiêu sau: Tạo kit multiplex PCR với 3 gen đích IS6110, IS1081 và 23SrDNA chẩn đoán vi khuẩn lao phù hợp với điều kiện của Việt Nam; đánh giá hiệu quả của kit trên panel mẫu và trên các bệnh phẩm lâm sàng nghi lao.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tạo kit multiplex PCR chẩn đoán nhanh các chủng vi khuẩn lao ở Việt Nam

  1.                                                     MỞ ĐẦU Theo thống kê của tổ  chức Y tế  Thế  giới (WHO), tỉ  lệ  nhiễm lao   hiện nay chiếm 1/3 dân số  thế  giới. Hàng năm có thêm khoảng 9 triệu  người mắc lao mới và có khoảng 3 triệu người chết vì lao. Với tốc độ  lây   truyền nhanh và tỷ  lệ  tử  vong cao như  vậy, hiện nay bệnh lao được xếp   vào một trong những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất. Tuy nhiên theo   ước tính tỷ lệ phát hiện bệnh chỉ đạt 37%. Như vậy số bệnh nhân mắc lao  nhưng không được phát hiện và chữa trị kịp thời chiếm đến 63%, đây sẽ là   nguồn lây nhiễm rất khó kiểm soát. Theo đánh giá của WHO Việt Nam là  một quốc gia đang phát triển và có tỉ lệ nhiễm lao đứng thứ 12 trong số 22   nước có số  bệnh nhân mắc lao cao nhất thế giới (WHO 2004). Tính riêng   khu vực Tây Thái Bình Dương, Việt Nam đứng thứ 3, chỉ sau Trung Quốc   và Philipine [2, 11, 74]. Trước diễn biến nghiêm trọng đó, tổ  chức Y tế Thế giới đã kêu gọi  các quốc gia trên thế giới quan tâm đặc biệt đến phòng chống và kiểm soát  bệnh lao. Bệnh lao ngày càng trở nên nguy hiểm hơn, đặc biệt là lao kháng  đa thuốc gây tử vong rất lớn, vì vậy càng cần thiết trong việc phát hiện và  điều trị sớm. Việc kiểm soát bệnh lao phụ thuộc vào việc chẩn đoán nhanh  và chính xác. Tuy nhiên việc chẩn đoán còn gặp rất nhiều khó khăn.  Ở  Việt   Nam,   phương   pháp   phổ   biến   nhất   hiện   nay   vẫn   là   nhuộm   Ziehl­  Neelsen. Tuy nhiên phương pháp này chỉ  phát hiện ra trong trường hợp số  lượng vi khuẩn lao ≥ 104  AFB/1ml bệnh phẩm, do vậy sẽ  để  sót nhiều  bệnh nhân do kết quả âm tính giả. Phương pháp nuôi cấy vi khuẩn lao trên  môi trường Lowenstein­Jensen được coi là tiêu chuẩn vàng để  chẩn đoán,  tuy nhiên phải mất  4  đến 8 tuần nuôi cấy mới cho kết quả. Trên môi  1
  2. trường nuôi cấy cải tiến MGIT, BACTEC cũng mất đến 2 tuần, do vậy rất   khó đáp ứng yêu cầu giám sát và kiểm soát bệnh lao [4, 19]. Hiện nay, với sự phát triển của công nghệ sinh học chúng ta đã khắc   phục được nhược điểm này. Việc áp dụng công nghệ  sinh học phân tử  trong chẩn đoán lao đã rút ngắn thời gian chẩn đoán xuống còn hai ngày.  Phương pháp này có độ nhậy và độ đặc hiệu cao, cho phép phân biệt chính   xác các loài có khả năng gây bệnh lao cũng như  phát hiện khả năng kháng  thuốc thông qua các gen đặc trưng. Hiện nay, một số  cơ sở  trong nước đã  áp dụng sinh học phân tử trong chẩn đoán lao nhưng chủ yếu vẫn sử dụng   các kít chẩn đoán cũ nhằm vào nhân đoạn IS6110, đây là trình tự đặc trưng   của vi khuẩn lao [28, 34]. Tuy nhiên, gần đây một số  nghiên cứu đã công  bố  tỷ  lệ  nhất định các chủng lao không chứa trình tự  IS6110, đặc biệt là   các chủng được tìm thấy  ở  Ấn Độ  và Đông Nam Á trong đó có Việt Nam  [34, 72]. Vì vậy rất dễ bỏ sót các bệnh nhân có mang vi khuẩn lao khuyết  IS6110. Do vậy cần thiết kế  những loại primer mới để  chẩn đoán lao  ở  Việt Nam một cách hiệu quả và chính xác.  Theo một số nghiên cứu gần đây cho biết, ngoài đoạn gen IS6110 còn  có một số  gen đích khác như  IS1081 và 23SrDNA có mặt  ở  tất cả  các   chủng lao gây bệnh. Do vậy khi sử dụng cùng lúc các cặp mồi đặc hiệu để  khuếch đại các đoạn IS6110, IS1081 và 23S rDNA sẽ  rất thuận lợi trong  việc phát hiện M. tuberculosis complex, tránh bỏ sót bệnh nhân [13]. Xuất phát từ  những vấn đề  trên chúng tôi đề  xuất đề  tài “ Nghiên   cứu tạo kit multiplex PCR chẩn đoán nhanh các chủng vi khuẩn lao  ở   Việt Nam” nhằm chẩn đoán nhanh, chính xác vi khuẩn lao, góp phần kiểm  soát và nâng cao hiệu quả chẩn đoán lao. Đề tài có hai mục tiêu sau: 2
  3. 1. Tạo kit multiplex PCR với 3 gen đích IS6110, IS1081 và 23SrDNA   chẩn đoán vi khuẩn lao phù hợp với điều kiện của Việt Nam. 2. Đánh giá hiệu quả của kit trên panel mẫu và trên các bệnh phẩm   lâm sàng nghi lao.                                                Chương 1                                           TỔNG QUAN 1.1. TÌNH HÌNH BỆNH LAO  1.1.1. Tình hình bệnh lao trên thế gới Lao là một bệnh truyền nhiễm mãn tính đã xuất hiện từ rất lâu. Hàng  nghìn năm trôi qua, nó đã lây lan và giết chết hàng triệu người, số  người   chết vì bệnh lao còn lớn hơn cả do AIDS và sốt rét cộng lại. Ngày nay, bệnh lao càng trở  nên nghiêm trọng hơn do xuất hiện các  chủng lao kháng đa thuốc, lao kháng thuốc phổ  rộng và lao đồng nhiễm  HIV/AIDS. Cùng với AIDS và sốt rét, lao đang được xếp vào một trong ba   bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất thế giới [2, 53]. Do tính chất có thể lây  truyền qua tiếp xúc và qua không khí như  các bệnh cúm nên tốc độ  lan  truyền rất nhanh và khả năng kiểm soát bệnh lao rất phức tạp. Các kết quả  thống kê lặp lại nhiều lần  đã  ước  tính có khoảng 1/3 dân số  thế  giới   (khoảng 2,2 tỷ  người) bị  lây nhiễm tiên phát với  M. tuberculosis  và 10%  trong số  đó sẽ  phát triển thành bệnh tại một thời điểm nào đó trong đời.   Mỗi năm có khoảng 9 triệu bệnh nhân mới được phát hiện, hiện tại hàng  năm trên thế  giới có khoảng trên 49 triệu bệnh nhân lao lưu hành, con số  này đang ngày càng gia tăng. Bệnh lao giết chết 8000 người mỗi ngày, gần  3 triệu người mỗi năm [73]. Đáng báo động là hiện nay bệnh lao đã trở  3
  4. thành nguyên nhân hàng đầu giết hại nhiều thanh thiếu niên và người lớn,  chủ yếu là nhóm tuổi đang là nguồn lao động chính của xã hội (từ 20 tới 49   tuổi) [78]. Số  bệnh nhân lao  ở  những nước đang phát triển chiếm 95% trong   tổng số  bệnh nhân lao trên toàn thế  giới. Khoảng 80% số  bệnh nhân lao   trên toàn thế  giới tập trung vào 22 quốc gia có gánh nặng bệnh tật cao.  Bệnh lao chiếm 25% nguyên nhân gây tử  vong ở  các nước này. Tính riêng  tại  Ấn Độ, hàng năm có khoảng trên 500.000 người chết vì căn bệnh này,  tương đương tỷ  lệ  cứ  1 phút lại có một người  ở  quốc gia này chết vì lao   [63, 73].  Năm 2007, WHO  ước tính rằng khu vực Đông Nam Á có số  người  nhiễm lao chiếm tới 34% trên toàn thế giới. Còn ở cận Sahara châu Phi thì  tỷ lệ này cao gấp đôi so với Đông Nam Á, tỷ lệ nhiễm lao  ở đây là 343 ca  trên 100.000 người dân. Thông báo gần đây nhất năm 2007 của tổ chức y tế  thế giới cho biết bệnh lao được xác định bước đầu đã ổn định và giảm đi ở  cả 6 vùng trên thế giới. Tuy nhiên số lượng các ca mới nhiễm trên toàn cầu   vẫn tăng lên và tập trung ở châu Phi, Đông Địa Trung Hải và Đông Nam Á.   Tình hình trên cho thấy là bệnh lao vẫn không giảm nguy hại đối với loài   người.  Hiện nay tỷ  lệ  điều trị  lao thành công trên toàn cầu đạt 82%, tuy   nhiên còn rất nhiều bệnh nhân chưa được phát hiện và không được chữa  trị, những bệnh nhân này tiếp tục lây cho cộng đồng. Theo  ước tính của   WHO thì tỷ  lệ  phát hiện bệnh nhân mới chỉ  đạt 37% trong tổng số  người   mới nhiễm lao [63].  Sự gia tăng của bệnh lao trên quy mô toàn cầu cùng với mối liên quan   với HIV và sự xuất hiện của chủng kháng thuốc đang là một vấn nạn về y  4
  5. tế  cộng đồng. Điều này càng khiến cho bệnh lao trở  nên khó khăn trong  việc kiểm soát và điều trị.  Đến năm 1993 WHO phải tuyên bố  tình trạng  khẩn cấp về  bệnh lao trên toàn cầu để  kêu gọi các quốc gia trên thế  giới   chung tay phòng chống lao [64].  1.1.2. Tình hình bệnh lao ở Việt Nam Theo báo cáo vào năm 2006 trong chương trình chống lao quốc gia thì  Việt Nam đứng thứ 12 trong số  22 quốc gia có số  bệnh nhân lao cao nhất  thế giới. Tại khu vực tây Thái Bình Dương, Việt Nam đứng hàng thứ 3 chỉ  sau Trung Quốc và Philipine về tổng số bệnh nhân lao đang lưu hành và số  bệnh nhân lao mới phát hiện. Bên cạnh sự  gia tăng đáng lo ngại thì tình   trạng lao kháng thuốc là một vấn đề cấp bách [2, 10, 53].  Năm 1995, trước những biến động xấu đi của tình hình dịch tễ bệnh lao   toàn cầu, công tác chống lao thực sự bắt đầu phải đối mặt với những thách  thức mới là bệnh lao kháng thuốc và Lao/HIV, Nhà nước và Bộ  Y tế Việt  nam đã quyết định đưa Chương  trình chống lao thành một trong những   Chương trình y tế  Quốc gia trọng điểm. Trong giai đoạn 1997 đến 2000,  chương trình chống lao Quốc Gia đã phát hiện hơn 532.703 bệnh nhân lao  các thể, tỷ lệ phát hiện ước tính đạt 82% số bệnh nhân. Đã điều trị 260.698   bệnh nhân lao phổi với tỷ lệ khỏi 92% [2, 10, 53].  Theo WHO thì Việt Nam là nước có gánh nặng bệnh lao cao trên toàn  cầu  với  khoảng 44% dân số  nhiễm lao.  Tỷ  lệ  lao mới mắc các thể  là  173/100.000 dân, tỷ lệ  lao phổi AFB (+) mới là 77/100.000 dân, tỷ  lệ  hiện   mắc các thể là 225/100.000 dân, tỷ lệ  tử vong do lao là 26/100.000 dân, tỷ  lệ đồng nhiễm lao/HIV trong các bệnh nhân lao mới là 5% [2], trên thực tế  số liệu về nhiễm lao có thể cao hơn những con số thống kê ở trên. Vấn đề  5
  6. đồng nhiễm HIV và lao không chỉ  làm tăng số  bệnh nhân lao mà còn làm  giảm hiệu quả điều trị bệnh, tăng tỷ lệ tử vong. Đó cũng chính là khó khăn,   thách thức lớn đối với công tác phòng chống lao quốc gia.  Đáng ngại là tỷ lệ lao kháng thuốc ở Việt Nam đang ngày càng gia tăng,  tỷ lệ lao kháng đa thuốc trong bệnh nhân lao mới là 2,7% và tỷ lệ lao kháng  đa thuốc trong số bệnh nhân điều trị lại là 19%. Như vậy, mỗi ngày có gần  400 người mắc, trong đó có 178 người mắc lao phổi ho khạc ra vi khuẩn   làm lây nhiễm cho cộng đồng và 55 người chết vì bệnh lao. Hiện nay, nguy   cơ nhiễm lao hàng năm ở nước ta ước tính là 1,5% [2].  Thực tế  hiện nay, tỷ  lệ  phát hiện chỉ  đạt khoảng 44% và tỷ  lệ  chữa   khỏi là 81% [2]. Những năm gần đây việc áp dụng kĩ thuật sinh học phân  tử như PCR vào chẩn đoán lao là một bước đột phá mang lại nhiều kết quả  khả  quan. Tuy vậy kĩ thuật này vẫn còn những điểm chưa thực sự  hoàn  thiện và cần có những nghiên cứu bổ sung, cải tiến nhằm đem lại hiệu quả  tối ưu.   1.2. VI KHUẨN LAO 1.2.1. Đặc điểm phân loại Vi   khuẩn   lao   thuộc   giới  Bacteria,   ngành  Actinobacteria,   bộ  Actinomycetales, phân bộ  Corynebacterineae, họ  Mycobacteriaceae, giống  Mycobacterium [75]. Tên khoa học của vi khuẩn lao là: Mycobacterium tuberculosis Các chủng vi khuẩn thuộc giống   Mycobacterium  được chia làm hai  nhóm: 6
  7. +   Mycobacterium   tuberculosis  complex  (MTBC)  gồm:  M.  tuberculosis, M. bovis, M. africanum, M. Microti.  Trong đó M. tuberculosis  và M. bovis gây bệnh lao điển hình. +  Mycobacterium other than tuberculosis (MOTT) gồm: M. avium,   M. ortuitum, M.govdovac, M. kansasii… Nhóm này không gây bệnh lao [33,  [58, 61]. 1.2.2. Đặc điểm cấu trúc 1.2.2. 1. Cấu trúc hình thái Vi khuẩn lao được phát hiện bởi Robert Koch khoảng 100 năm trước  đây. Trực khuẩn lao có hình que, kích thước 2­3 µm, dầy 0,3 µm. Nhuộm  Ziel­Nellsen trực khuẩn lao bắt màu đỏ thẫm, không bị cồn và axit làm mất  màu fucsin, do vậy chúng được gọi là trực khuẩn kháng cồn, kháng toan  (acid fast bacilli­AFB). Dựa vào đặc điểm này  có thể  giúp phát hiện vi  khuẩn lao trong các mẫu bệnh phẩm bằng cách soi AFB. Một số giả thiết  cho rằng mức kháng với axit là do độ dài của các chuỗi axit mycolic. Trực  khuẩn lao duy trì tính kháng axit trong dịch huyền phù trong một khoảng   thời gian rất dài ngay cả khi có tác dụng của nhiệt. Trực khuẩn lao có khả  năng thực hiện tất cả  các cơ  chế  cần thiết để  tổng hợp các vitamin, axit  amin và các enzyme co­factor thiết yếu cho tế bào [3, 4, 5, 12]. 7
  8.                 Hình 1.1.  Trực khuẩn M. tuberculosis   (http://www.textbookofbacteriology.net/tuberculosis.html) Hình 1.2. Trực khuẩn M. tuberculosis sau khi nhuộm Ziehl – Nielsen   (http://www.textbookofbacteriology.net/tuberculosis.html)               1.2.2.2. Cấu trúc thành tế bào Thành tế  bào của  Mycobacterium tuberculosis  có cấu trúc đặc biệt,  chia thành 4 lớp: 8
  9. 1­ Lipid ngoài 2­ Axit mycolic 3­ polysaccharides  (arabinogalactan) 4­ peptidoglycan 5­ màng sinh chất 6­ lipoarabinomannan (LAM) 7­ phosphatidylinositol  mannoside 8­ Khung thành tế bào Hình 1.3. Cấu trúc thành tế bào của vi khuẩn lao   (http://commons.wikimedia.org/wiki/Image:Mycobacterial_cell_wall_diagram) Lớp ngoài cùng có cấu trúc peptidoglycolipid, đây là lớp chỉ  thấy  ở  vi  khuẩn lao, phát triển trong tế  bào có tác dụng tăng cường như  một lớp áo  giáp cho các vi khuẩn nằm trong tế bào chống chịu các enzyme phân giải từ  các lyzozyme của tế  bào. Khi phát triển trong môi trường nuôi cấy lỏng  hoặc trong đại thực bào,  M. tuberculosis  tích lũy một capsule giả  không  bám. Thành phần của capsule này chứa protein, polysaccharide và lượng   nhỏ  lipid. Cấu trúc của capsule có thể  bung ra bên trong các đại thực bào.  Màng tế  bào của vi khuẩn lao gây bệnh hầu như  giống với màng của các   Mycobacterium  trong   cùng   một   giống,   bao   gồm   cả   các  Mycobacterium   không gây bệnh.  Lớp tiếp theo được tạo nên bởi sự liên kết giữa các axit mycolic và các  chất lipit phức tạp. Đây là lớp tạo nên độc tính của vi khuẩn lao, làm tăng   khả năng chống thấm nước của thành vi khuẩn, chống lại sự hủy diệt của  đại thực bào và các tế  bào miễn dịch [1]. Gắn với peptidoglican là một  poysaccaharide phân nhánh và arabinogalactan, đầu ngoài của các phân tử  này được este hóa với axit béo có khối lượng phân tử  cao là axit mycolic.   9
  10. Các axit mycolic được sắp xếp theo tính đặc hiệu loài nên có thể  xác định  loài  Mycobacterium   bằng sắc kí lớp mỏng, sắc kí lỏng hiệu năng cao và  sắc kí khí lỏng [57]. Các axit mycolic đặc hiệu của M. tuberculosis là alpha  ­ keto và mythoxymycolate chứa 76 đến 82, 84 đến 89 và 83 đến 90 carbon.  Lớp   ngoài   của   thành   tế   bào   có   các   phân   tử   lipid   tự   do   như   phthiocerol  dilycoserosates   (PDIM),   phenolic   glycolipids   (PGL),   trehalose­containing  glycolipids và sulfolipids (SL). Xuyên qua toàn bộ lớp màng là những glycolipid  như   phosphatidyl­   myoinositol   mannosides,   lipomannan   (LM)   và  lipoarabinomannan (LAM) được đính vào màng sinh chất và mở  rộng ra bên  ngoài   thành   tế   bào,   trong   đó   LAM   có   tính   đặc   hiệu   loài.   Thành   tế   bào  Mycobacterium chứa các protein nằm rải rác, một vài protein này tham gia vào  cấu trúc thành tế bào, các protein porin hình thành các kênh ưa nước cho phép  vận chuyển tích cực các chất tan trong nước thông qua lớp axit mycolic [58,  67].  Lớp thứ  ba gồm các peptidoglican liên kết với đường arabinose và các  phân tử axit mycolic tạo nên bộ khung định hình cho vi khuẩn, đảm bảo cho  vi khuẩn có độ  cứng nhất định. Thành tế  bào của  Mycobacterium  có cấu  trúc   phức   tạp   với   các   thành   phần   hóa   học   và   nhiều   liên   kết   chéo   bất   thường,   mức   độ   liên   kết   giữa   peptidoglycan   ở   thành   tế   bào   của  M.  tuberculosis là 70 đến 80% trong khi ở E. coli là 20­30% [58].  Lớp trong cùng là cấu trúc màng sinh chất có thành phần chủ yếu là các  photpholipit. Các photpholipit gồm 2 nhóm, nhóm  ưa nước hướng vào bên  trong, nhóm kị nước hướng ra phía ngoài vỏ [1]. Màng sinh chất giữ vai trò  điều hòa áp suất thẩm thấu giữa tế  bào chất và môi trường. Ngoài ra các   protein của màng giữ  các chức năng khác nhau như  protein nhạy với nồng  độ  của các phân tử  trong môi trường , protein truyền tín hiệu đến bộ  máy  10
  11. trao đổi chất và bộ  máy di truyền trong nguyên sinh chất, các enzyme liên  quan đến quá trình trao đổi chất và sinh năng lượng. Các enzyme xuyên  màng và tổng hợp màng, tạo vách ngăn trong quá trình phân chia tế bào [3,   4, 12]. M.   tuberculosis  không  được   phân   loại  Gram  dương   hay   Gram  âm   vì  chúng   không   có   đặc   tính   hoá   học   này,   mặc   dù   thành   tế   bào   có   chứa  peptidoglycan nhưng do đặc điểm thành tế  bào gắn với các phân tử  lipit  chứ  không  phải   là  protein  hay polycharcaride  nên  M.  tuberculosis  không  được  xếp vào nhóm vi khuẩn Gram (+). Trên mẫu nhuộm Gram chúng  không giữ lại tinh thể màu tím xuất hiện trong nhuộm Gram. Thành tế bào   của M. tuberculosis không thẩm thấu aniline và các chất khác sử dụng trong  nhuộm trừ khi chúng được kết hợp với phenol. Màng của tế bào vi khuẩn lao là một cấu trúc linh động có thể thay đổi   khi phát triển hoặc tồn tại trong các môi trường khác nhau. Trong điều kiện   thiếu oxi thành tế bào dầy lên. Trong môi trường nuôi cấy axit nhẹ và trong  khoang đại thực bào thì sự  biểu hiện của các gen mã hóa cho các porin   dường như  được điều hòa ngược. Trong điều kiện tự  nhiên vi khuẩn lao  tồn tại 3­4 tháng, trong điều kiện phòng thí nghiệm có thể bảo quản trong  nhiều năm. Dưới ánh sáng trực tiếp của mặt trời vi khuẩn lao bị tiêu diệt  sau 5 phút, dưới ánh sáng của tia cực tím vi khuẩn lao tồn tại từ 2­3 phút.   Ở  nhiệt độ  42oC vi khuẩn lao ngừng phát triển,  ở  80oC vi khuẩn lao chết  sau 10 phút [1, 8]. 11
  12. 1.2.3. Đặc điểm nuôi cấy 1.2.3.1. Môi trường và dạng khuẩn lạc Trực khuẩn lao là vi khuẩn ưa khí bắt buộc, không mọc được ở điều kiện  kị khí. Nhiệt độ thích hợp để mọc là 37oC , ở nhiệt độ dưới 37oC và trên 42oC  vi khuẩn lao hầu như không mọc. Vi khuẩn lao không sinh trưởng trong môi  trường thông thường mà phải nuôi trong môi trường đặc biệt giàu chất dinh  dưỡng gồm trứng, khoai tây, citrat, glixerol, asparagin, xanh malachite. Môi   trường thường dùng là môi trường Loewenstein đặc đã được cải tiến bởi  Jensen hoặc môi trường lỏng Sauton. Trong môi trường đặc, trực khuẩn lao  mọc rất chậm, phải mất 4 đến 6 tuần mới mọc khuẩn lạc điển hình dạng R.                 Hình 1.4. Khuẩn lạc M. tuberculosis trên môi trường Lowenstein ­ Jensen   (http://www.textbookofbacteriology.net/tuberculosis.html) Sau một thời gian nuôi cấy trực khuẩn M. tuberculosis gây bệnh sẽ  phát  triển thành các khuẩn lạc có bề mặt dính và xù xì.  Các Mycobacterium không  12
  13. gây bệnh và các trực khuẩn lao bị làm yếu đi trong nuôi cấy kéo dài thường  mọc khuẩn lạc nhẵn, tạo thành đám trong môi trường nuôi cấy [3, 4, 12, 58]. 1.2.3.2. Chu kì tế bào Trong điều kiện phòng thí nghiệm cứ  12 đến 24 giờ  M. tuberculosis  phân chia một lần. Chu kì tế  bào của M. tuberculosis khá dài, điều này có  thể do tính thẩm thấu của thành tế bào gây hạn chế trong việc hấp thụ các   chất dinh dưỡng và liên quan đến tốc độ tổng hợp ribosome. Theo Harshey  và Ramakrishnan sự tổng hợp RNA là tác nhân liên quan đến thời gian sống   kéo dài của trực khuẩn. Tỷ lệ RNA/DNA, tốc độ  kéo dài chuỗi RNA ở  M.  tuberculosis  chậm hơn 10 lần so với   E.coli. Một đặc điểm nữa là chỉ  có  một operon duy nhất cần thiết trong tổng hợp RNA. Mặt khác khi trực  khuẩn chuyển từ trạng thái ổn định sang pha phân chia thì RNA tổng số chỉ  tăng lên hai lần, khiến cho việc tổng hợp protein bị chậm lại [58]. 1.2.4. Khả năng gây bệnh Độc lực của trực khuẩn lao có liên quan trực tiếp đến yếu tố “Cord”  (trehalose­6,6’­dimycolate) là chất gây  ức chế  hoạt động của tế  bào bạch  cầu, gây nên những u hạt mãn tính.  M. tuberculosis  sinh ra ngoại độc tố  nhưng không có ý nghĩa gây bệnh. Vi khuẩn lao có thể  vào cơ  thể  qua nhiều đường. Thường là qua  đường hô hấp, có thể  qua đường tiêu hóa, da, kết mạc mắt…Sau khi gây   tổn thương tiên phát, vi khuẩn lao có thể  theo đường bạch huyết hoặc  đường máu tới cơ quan khác gây tổn thương thứ phát. Nhiều cơ  quan như  phổi, thận, màng não, xương, da, hạch... đều có thể  bị  bệnh lao, nhưng   thường bị hơn cả là phổi, vị trí thường gặp ở phổi là đỉnh phổi. 13
  14. Miễn dịch trong lao là đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào. Đáp  ứng miễn dịch làm chậm sự  nhân lên của trực khuẩn lao, gây hạn chế  sự  lan tràn của vi khuẩn và cuối cùng làm phá hủy trực khuẩn. Đáp ứng miễn   dịch trong bệnh lao phát sinh một phản ứng quá mẫn muộn. Một số trường   hợp vi khuẩn lao có khả năng ức chế hoặc tiêu diệt trở lại bạch cầu người   và tồn tại dưới dạng ngủ   ở  trong các u hạt nên cơ  thể  không thanh toán  được. Đặc biệt là trong các trường hợp lao kháng thuốc cơ thể không thanh   toán được vi khuẩn và các thuốc cũng không tác động được, đây là một vấn  đề nan giải trong điều trị lao [1]. 1.2.5. Đặc điểm hệ gen vi khuẩn lao 1.2.5.1. Đặc điểm hệ gen Mycobacterium tuberculosis  Hệ   gen   của   chủng   H37Rv   được   công   bố   năm   1998   có   chiều   dài  4.411.529 cặp base. Trong đó có 3.918 gen và các gen này đều được dự  đoán là có mã hóa protein, tỷ lệ G+C chiếm 65,61% không thay đổi ở các vị  trí   khác   nhau   trong   toàn   bộ   hệ   gen.   Genome   của   Mycobacterium   tuberculosis có tới 90,8% trình tự mã hóa protein và chỉ có 6 gen giả [25, 31,   58].  Ở  Mycobacterium có một nhóm gồm 172 gen có tỷ lệ G­C >80% mã  hóa cho họ protein PE (Pro­Glu) hoặc PPE (Pro­Pro­Glu). Trong đó 104 gen  mã hóa PE và 68 mã hóa PPE, chiếm hơn 4% các gen của M. tuberculosis.  Trình tự  PE và PPE có  ở  vùng đầu N và bảo thủ  trong từng họ  protein,  chiều dài xấp xỉ 110 và 180 amino axit. Các protein PE và PPE đóng vai trò  14
  15. quan trọng trong quá trình nhân lên và sống sót của Mycobacterium trong các  môi trường khác nhau. Họ PE được chia thành 3 phân họ, trong đó họ quan  trọng nhất gồm 61 thành viên chứa các trình tự  đa hình giàu G­C (PGRS).  Các protein được mã hóa bởi 104 gen mã hóa cho họ protein PE được chia  nhỏ hơn thành 3 lớp, lớp thứ nhất chứa 29 protein chỉ với vùng PE, lớp thứ  hai gồm 8 protein trong đó vùng PE đi kèm với các trình tự đầu C độc lập 9,   lớp thứ 3 gồm 67 protein tạo thành dưới họ PE­PGRS. PGRS (polymorphic   GC­rich repetitive sequences) là nhóm các protein có vùng PE bảo thủ  và  đầu C mở  rộng với sự  lặp lại nhiều lần Gly­Gly­Ala hoặc Gly­Gly­Asn.   Chức năng của các họ  này vẫn chưa biết rõ nhưng có một số  giả  thuyết   cho rằng một số  protein này có liên quan đến tính đa dạng kháng nguyên   của  M. tuberculosis  trong quá trình lây nhiễm. Các protein PE­PGRS đặc  trưng cho  M. tuberculosis  có chức năng  ức chế  trình diện kháng nguyên  thông qua phức hệ hoà hợp tổ chức (MHC) lớp đầu tiên. Một số gen PE mã  hoá cho các protein chỉ  chứa vùng 110 axit amin được đi kèm gần với một  gen   mã   hoá   một   protein   PPE.   Trong   một   số   trường   hợp,   cặp   PE­PPE   (Rv2431c­Rv2430c) biểu hiện cùng nhau và có thể tạo thành một phức hệ  [31, 58, 61, 65].  Một số  ít gene với tỷ  lệ  G+C 
  16. Trong   số   50   gen   mã   hoá   cho   các   RNA   chức   năng   thì   chỉ   có   một  operon RNA ribosome, operon này nằm  ở  vị  trí cách 1,5 Mbp so với vị  trí  khởi đầu sao mã (losus oriC). Phần lớn vi khuẩn có nhiều hơn một operon  rrn định vị gần locus oriC để tăng quá trình sao mã. Vi khuẩn lao chỉ có một  operon rrn đơn ở một vị trí tương đối xa so với oriC do đó gây ra kiểu hình  phát triển chậm. Có hai thể tiền thực khuẩn được phát hiện trong genome,  cả  hai giống nhau về  độ  dài và cách tổ  chức. Một là prophage PhiRv1 có  trong hệ  gen của  M. tuberculosis  H37Rv phá vỡ  trình tự  lặp lại của họ  13E12. Hệ gen của M. tuberculosis chứa 7 vị trí cho PhiRv1 chèn vào do đó  các chủng có  những  vị  trí  biến đổi cao trong hệ  gen. Prophage thứ  hai   PhiRv2   ổn   định   hơn,   ít   biến   đổi   hơn   giữa   các   chủng.   Các   gen   mã   hoá  protein  ở  M. tuberculosis  H37Rv mã hoá cho 3.924 ORF (Open Reading  Frame), sự  khởi đầu khác  ở  codon GTG được sử  dụng trong 35% trường   hợp so với 14% hoặc 9% trong Bacillus subtilis hoặc Escherichia coli. Từ  trình tự  hệ  gen cho thấy  M. tuberculosis  có khả  năng chuyển từ  một con   đường trao đổi chất này thành con đường trao đổi chất khác bao gồm cả  hiếu khí (quá trình phosphoryl hoá oxy hoá) và hô hấp kỵ khí (quá trình khử  nitrate). Tính linh hoạt này rất có lợi cho sự  thích nghi bên trong các môi   trường khác nhau như trong cơ  thể người cả khi trạng thái áp lực oxy cao  trong phế  nang và các điều kiện kỵ  khí, vi kỵ  khí trong các nang lao. Một   đặc tính khác của hệ  gen  M. tuberculosis  là có các gen tổng hợp và phân  huỷ hầu như tất cả các loại lipid như các axit béo và các phân tử phức như  axit mycolic. M. tuberculosis có các gen mã hoá cho 250 enzyme khác nhau  liên quan đến trao đổi axit béo, so với 50 loại trong hệ gen của E. coli [37,  78]. Trong số  các protein điều khiển,  M. tuberculosis  có 13 yếu tố  sigma  (protein liên quan đến tính đặc hiệu sao mã trên RNA polymerase) tương  16
  17. ứng 0,3% tổng số  gen và 22 protein điều khiển khác bao gồm 13 nhân tố  điều khiển đáp  ứng hai thành phần, tương  ứng 0,6% tổng số. Số  lượng   tương  ứng trong M. tuberculosis là 125 gen được nghiên cứu cho các chức  năng vận chuyển, tương ứng 3% tổng số [65]. Phân tích hệ  thống trao đổi chất DNA của   M. tuberculosis  thấy có  một hệ  thống sửa chữa DNA rất hiệu quả, bộ  máy sao chép có độ  chính   xác rất cao. Hệ  gen của  M. tuberculosis  không có hệ  thống sửa chữa bắt  cặp sai dựa trên  mutS  nhưng được khắc phục bởi sự  có mặt của gần 45  gene liên quan đến các cơ chế sửa chữa DNA, bao gồm 3 bản copy của gen   mutT. Gen này mã hoá cho enzyme chịu trách nhiệm loại bỏ các Guanine đã  bị oxy hoá gây ra sự bắt cặp sai giữa các cặp base trong quá trình sao chép  [25, 31, 58].  1.2.5.2. Gen 23S rDNA Trong DNA vi khuẩn thì locus di truyền rRNA bao gồm các vùng 16S   rDNA, 23S rDNA và 5S rRNA, giữa các vùng này là vùng đệm (Internally  Transcribed Spacer ­ ITS). DNA trong vùng 16S­23S có sự  thay đổi lớn về  độ  dài và trình tự, sự  thay đổi này rất có ích cho việc phân biệt loài  ở  prokaryotes [24, 39].  ITS giữa 16S rDNAvà 23S rDNA có tính đa hình nucleotide cao hơn   so với 16S rDNA nhưng không thể  phân biệt giữa những loài vi khuẩn có  quan hệ  gần nhau như  những loài thuộc M. tuberculosis complex. IST này  có trình tự  và tính đa hình thấp hơn so với gen 23S rDNA [73], gen 23S   rDNA là đoạn gen mã hóa cho tiểu phần 23S của ribosome. Ngoài ra theo  tác giả  Mekonnen Kurabachew và cộng sự  (2004) gen đích 23S rDNA có  mặt  ở  tất cả  các chủng lao gây bệnh do đó sử  dụng cặp mồi đặc hiệu  17
  18. khuyếch đại vùng gen đích 23S rDNA là một thuận lợi cho việc phát hiện  M. tuberculosis complex trong những trường hợp không có trình tự IS6110 ở  một   số   chủng  M.   tuberculosis  complex.   Trình   tự   23S   rDNA   ở   M.  tuberculosis khác với các loài đã phát hiện  ở  7 vị  trí, đây là các vị  trí thích   hợp cho việc thiết kế các primer và probe. Sự  khác nhau đáng kể  giữa các  loài không phải Mycobacterium và Mycobacterium có ý nghĩa trong lâm sàng  cho thấy giá trị tiềm năng của vùng này trong chẩn đoán [24, 45]. Trình tự  23S rDNA cũng có thể  được sử  dụng để  phân biệt M. tuberculosis và M.  bovis và cũng được sử dụng để phân biệt các chủng lao gây bệnh trong các   Mycobacterium [36, 44]. 1.2.5.3. Các trình tự chèn  Các trình tự  chèn (IS – Insertion sequences) không có chức năng mã   hoá mà chỉ  liên quan đến đặc tính biến đổi và di chuyển. Chúng gồm các   yếu tố cis, các trình tự DNA hoạt động ở hai đầu và enzyme Tpase, enzyme  này được mã hoá bởi một hoặc hai khung đọc mở và sử dụng hầu như toàn  bộ độ dài của trình tự chèn. Đa số các trình tự chèn có các trình tự lặp lại ngược chiều ở hai đầu  (IR­Inverted Repeat), các trình tự này có chiều dài khoảng 10 đến 40 bp. IR  được phân thành hai vùng chức năng, một định vị trong IR và liên quan đến  chức năng gắn Tpase, vùng chức năng kia gồm 2 hoặc 3bp ở cuối liên quan  đến sự phân cắt và các phản ứng chuyển chuỗi dẫn đến chuyển vị  trí của  các trình tự chèn. Các promoter của IS thường định vị  một phần bên trong  trình tự IR về phía đầu gen Tpase, sự sắp xếp này có thể cung cấp một cơ  chế tự điều hoà sự tổng hợp Tpase bằng cách gắn Tpase. Các vị trí gắn các  18
  19. protein đặc hiệu cũng được tìm thấy bên trong hoặc ở gần đầu IR và đóng  vai trò kích hoạt tính di chuyển hoặc biểu hiện Tpase. Tpase có hoạt tính gắn vào các trình tự DNA đặc hiệu của các protein   được quy định ở vùng đầu N trong khi vùng xúc tác thường được quy định  ở vùng C. Cấu trúc này tạo nên sự  tương tác của phân tử  protein mới sinh  với các trình tự đích trên IS. Hình 1.5. Cấu trúc của IS [69] ­ IRL ­ left inverted repeat: Trình tự lặp lại ngược chiều bên trái ­ IRR ­ right inverted repeat: Trình tự lặp lại ngược chiều bên phải ­ Khung đọc mở  mã hoá transposase bao gồm toàn bộ  độ  dài của IS và trình tự   IRR. ­ XYZ chứa các trình tự lặp lại trực tiếp ngắn được sinh ra do quá trình chèn của   IS vào vị trí đích ­ p: Promotor định vị trong IRL có hai vùng. Vùng I chứa các cặp base ở tận đầu   của IS cần thiết cho sự  nhận biết các trình tự  chèn thông qua Tpase. Vùng II   chứa các cặp base cần thiết cho quá trình nhận ra các trình tự  đặc hiệu và gắn   của Tpase  Một đặc điểm nữa của IS là có khả  năng chèn, đa số  tạo nên các  trình tự DNA ngắn lặp lại trực tiếp (DR­Direct Repeat), độ dài của DR vào  khoảng từ 2 đến 14bp, chèn vào chuỗi DNA tại các vị trí nhất định. Chức năng của IS: 19
  20. Kiểm soát sự  biểu hiện của các gen bên cạnh: Một số  trình tự  chèn có tác dụng hoạt hoá sự  biểu hiện của các gen gần kề, trong trường   hợp di chuyển tạo nên vị  trí thích hợp thì các promoter mới có khả  năng  điều khiển sự  biểu hiện của các gen bên cạnh. Khi hai yếu tố  đứng cạnh  nhau theo kiểu đầu­đuôi thì có thể  tạo thành các promoter mạnh dẫn đến  sự biểu hiện Tpase ở mức cao làm tăng hoạt tính di chuyển của IS. Điều   khiển   hoạt   tính  di  chuyển:  Thông  qua  biểu  hiện  và  hoạt  động của Tpase như  cô lập các tín hiệu khởi đầu dịch mã, thay đổi khung  dịch mã, kết thúc dịch mã, tác động đến sao mã và độ bền của Tpase [58].  Các trình tự chèn không có chức năng mã hóa mà chỉ  liên quan đến đặc  tính biến đổi và di chuyển. IS6110 IS 6110 là một trình tự chèn có nhiều bản copy (4 đến 25 bản copy), số  lượng bản copy IS6110 có trong hệ  gen thay đổi và phụ  thuộc vào loài và  chủng. IS 6110 tồn tại rải rác nhiều nơi trong genome của M. tuberculosis.  IS6110 có chiều dài 1355 bp, đã được xác định là có mặt trong các chủng  M. tuberculosis, và chỉ khác nhau ở một vài nucleotid giữa các bản copy với  nhau, IS6110 có trình tự rất bảo thủ do đó nó được chọn làm gen đích trong  phản ứng multiplex PCR nhằm phát hiện M. tuberculosis [15]. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2