Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính kháng thuốc ở một số loài muỗi truyền bệnh tại Việt Nam
lượt xem 6
download
Mục tiêu của đề tài: Xác định thành phần loài tại các điểm nghiên cứu; xác định mức độ kháng hóa chất của véc tơ sốt rét. Kết quả xác định kháng hóa chất của các véc tơ sốt rét đóng góp đáng kể cho chương trình phòng chống sốt rét Quốc gia trong việc lựa chọn hóa chất diệt muỗi thích hợp cho từng vùng địa lý khác nhau tại Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính kháng thuốc ở một số loài muỗi truyền bệnh tại Việt Nam
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc MỞ ĐẦU Nghiên cứu về bệnh sốt rét và phòng chống bệnh sốt rét đã có quá trình lịch sử lâu đời. Bệnh sốt rét vẫn còn là một bệnh nguy hiểm và là gánh nặng bệnh tật đối với nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hàng năm, trên thế giới có khoảng 300500 triệu ca mắc bệnh sốt rét và ít nhất một triệu trong số đó tử vong. Mặc dù đã có những nỗ lực lớn trong công tác điều trị và trong phòng chống véc tơ, trong vòng 30 năm nay tỷ lệ nhiễm mới vẫn tăng lên, do điều kiện kinh tế xã hội, ký sinh trùng kháng thuốc và côn trùng kháng hóa chất. Tại Việt Nam, năm 2000, số ca mắc bệnh sốt rét là 293.016 ca trong đó có 148 ca tử vong. Đến năm 2008, số ca sốt rét đã giảm xuống còn 19.485 ca trong đó có 14 ca tử vong. Để thu được thành quả này có sự đóng góp đáng kể của hoạt động nghiên cứu và phòng chống véc tơ sốt rét. Hiện nay, ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, chương trình phòng chống sốt rét đang sử dụng một số hóa chất thuộc nhóm pyrethroid tổng hợp để phòng chống véc tơ sốt rét như alphacypermethrin, lambdacyhalothrin, permethrin các hóa chất này chủ yếu để tẩm màn và phun tồn lưu. Tuy vậy, sau một thời gian dài sử dụng hóa chất diệt côn trùng trong cả y tế và nông nghiệp có thể dẫn tới sự thay đổi độ nhạy cảm của véc tơ sốt rét và một số loài muỗi truyền bệnh làm giảm hiệu lực của hóa chất này. Thông thường muốn đạt được hiệu quả trong phun hóa chất diệt làm giảm mật độ muỗi đốt người vào mùa phát triển và đặc biệt khi có dịch bệnh do muỗi truyền người ta phải tăng liều lượng hóa chất hoặc thay đổi chủng loại hóa chất diệt. Việc sử dụng hóa 1
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc chất đã tạo áp lực chọn lọc đối với quần thể và có thể làm thay đổi cấu trúc di truyền của quần thể đó. Theo thông báo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO,1992), trong số 200 loài động vật chân đốt có tầm quan trọng về y học kháng hóa chất có tới 50% là muỗi truyền bệnh sốt rét, sốt xuất huyết và giun chỉ. Chính vì vậy việc xác định tính kháng đối với các véc tơ sốt rét là yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả của công tác phòng chống sốt rét. Có nhiều phương pháp khác nhau để xác định tính kháng hóa chất diệt côn trùng ở véc tơ sốt rét như phương pháp thử sinh học, phương pháp hóa sinh miễn dịch và phân tử. Phương pháp hóa sinh đã được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu xác định tính kháng của các véc tơ sốt rét. Năm 1986, Hemingway và cộng sự đã nghiên cứu áp dụng phương pháp hóa sinh trong việc xác định tính kháng [38]. Năm 1988 Brogden và cộng sự đã nhận biết cơ chế kháng hóa chất nhờ phương pháp thử hóa sinh với các quần thể muỗi An. albimanus kháng hóa chất thuộc nhóm carbamat và phốt pho hữu cơ [29]. Năm 1990, Lee đưa ra phương pháp hóa sinh đơn giản để xác định tính kháng dựa vào hoạt tính của enzym esterase [42]. Xác định, đánh giá hiệu quả các loại hóa chất diệt nhằm đánh giá và lựa chọn các loại hóa chất diệt côn trùng phù hợp với từng loại véc tơ sốt rét cũng như tình trạng kháng hóa chất và biện pháp đối phó. Trong những năm gần đây, việc sản xuất các loại hóa chất mới có giảm sút đi vì lý do công nghiệp và giá chi phí đặc biệt khi áp dụng trên phạm vi rộng lớn. Việc xác định tính kháng của véc tơ sốt rét tại Việt Nam chủ yếu thực hiện bằng phương pháp thử sinh học tại thực địa. Phương pháp thử sinh học 2
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc là để phát hiện kháng hóa chất ở cá thể côn trùng bằng đo lường sự thay đổi trong một khoảng thời gian yêu cầu cần thiết cho một loại hóa chất để đạt được mục tiêu và hiệu quả, phương pháp này có độ tin cậy cao, kỹ thuật đơn giản, kinh tế. Trong bối cảnh đó, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu tính kháng thuốc ở một số loài muỗi truyền bệnh tại Việt Nam”. Mục tiêu của đề tài: Xác định thành phần loài tại các điểm nghiên cứu. Xác định mức độ kháng hóa chất của véc tơ sốt rét. Kết quả xác định kháng hóa chất của các véc tơ sốt rét đóng góp đáng kể cho chương trình phòng chống sốt rét Quốc gia trong việc lựa chọn hóa chất diệt muỗi thích hợp cho từng vùng địa lý khác nhau tại Việt Nam. 3
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Tình hình sốt rét trên thế giới Hàng trăm năm qua bệnh sốt rét có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội trên thế giới với khoảng một nửa dân số thế giới nằm trong vùng có nguy cơ mắc bệnh sốt rét, đặc biệt ở những nước có thu nhập thấp như châu Phi. Hàng năm, trên thế giới có khoảng 300500 triệu ca sốt rét và ít nhất một triệu người trong số đó tử vong. Hầu hết các trường hợp mắc sốt rét và tử vong là trẻ em và phụ nữ có thai. Mặc dù chúng ta đã có các biện pháp phòng bệnh thích hợp và thuốc chữa bệnh sốt rét có hiệu quả cao, nhưng sốt rét vẫn là một bệnh nguy hiểm trên phạm vi toàn cầu . Hai châu lục có bệnh sốt rét trầm trọng là châu Phi và châu Á. Sự lan truyền sốt rét ở vùng cận sa mạc Shahara, châu Phi có mặt ở hầu hết mọi nơi, trong khi đó ở châu Á sự lan truyền lại không hoàn toàn đồng đều gây nên biến đổi khác nhau về mức độ lan truyền bệnh. Tuy nhiên các chương trình phòng chống đã có các biện pháp đặc hiệu tương đối giống nhau ở cả hai lục địa. Vùng cận sa mạc Sahara có véc tơ truyền bệnh chính An. gambiae sensu lato sinh đẻ ở nơi có tiếp xúc tạm thời với ánh nắng mặt trời như các hồ chứa nước, vũng nước, vết chân trâu, hố đất. An. funestus cũng gần giống như loài muỗi trên nhưng chỉ có vai trò khi nào thảm thực vật phát triển. Phức hợp hai 4
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc véc tơ này đảm bảo cho lan truyền bệnh kéo dài và giải thích tại sao sốt rét lan truyền rộng rãi ở châu Phi, chiếm tới 90% gánh nặng sốt rét của toàn thế giới. Các khu vực khác như châu Á, châu Mỹ La tinh, khu vực Trung Đông vẫn đang bị ảnh hưởng. Trong số 101 nước và vùng lãnh thổ mà sốt rét có mặt thì 45 nước thuộc khu vực châu Phi, 21 nước thuộc khu vực châu Mỹ, 4 nước thuộc châu Âu, 14 nước thuộc khu vực Đông Địa Trung Hải, 8 nước thuộc khu vực Đông Nam Á, 9 nước trong khu vực Tây Thái Bình Dương. Ở châu Á, đặc biệt là các nước trong khu vực tiểu vùng sông Mê Kông tính đa dạng sinh học của Anopheles phong phú hơn nhiều so với châu Phi. Có tới 20 loài khác nhau có thể tìm thấy ở các vùng sâu, xa của khu vực này cùng với một số loài thứ yếu. Có 3 loài véc tơ chính có mặt, vùng rừng núi có An. dirus và An. minimus, vùng biển nước lợ là An. epiroticus (trước đây gọi là An. sundaicus) [2]. Trong đó An.dirus là loài véc tơ nguy hiểm ở phạm vi toàn cầu nhưng chỉ giới hạn ở sinh cảnh rừng rậm. Sốt rét ảnh hưởng chủ yếu đến những nhóm người có các hoạt động liên quan đến rừng. Trong đó quan trọng là các nhóm dân tộc thiểu số và dân di cư [14]. Sau hơn 10 năm thực hiện chương trình tiêu diệt sốt rét toàn cầu, sốt rét đã được thanh toán ở các nước phát triển và một loạt các khu vực rộng lớn ở các nước châu Á, châu Mỹ nhiệt đới và cận nhiệt đới vào năm 1967. Giữa những năm 1955 và năm 1967, số dân thoát khỏi nguy cơ sốt rét đã tăng từ 220 triệu người đến 953 triệu, tỷ lệ tử vong từ sốt rét giảm xuống dưới 1 triệu người và hầu hết là ở các nước nhiệt đới châu Phi [50]. Sự thành công của chương trình tiêu diệt sốt rét toàn cầu đã bị ảnh hưởng sâu sắc do những thay đổi sinh học của kí sinh trùng sốt rét và véc tơ 5
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc truyền bệnh. Đến năm 1970, gần 20% trong tổng số các vùng sốt rét lưu hành đã thấy có sự kháng DDT của các véc tơ sốt rét hay kháng với chloroquine của kí sinh trùng sốt rét, thậm chí ở một số nơi có mặt cả hai loại kháng này [31]. Hiệu quả giảm sút trong hoạt động chống sốt rét do các vấn đề về kĩ thuật, sự xuống cấp của các hệ thống y tế cộng đồng, các nguồn tài chính hạn hẹp đã làm cho vấn đề sốt rét bắt đầu từ từ, thậm chí nhanh chóng quay lại ở rất nhiều nơi trên thế giới. Sự trỗi dậy trên quy mô rộng lớn của sốt rét trong những năm 1970 đã thúc đẩy sự quan tâm tới căn bệnh này, và nhận thấy sự cần thiết phải phát triển các chương trình phòng chống sốt rét quốc gia phù hợp với tình hình dịch tễ học, năng lực tài chính và nguồn lực con người của mỗi nước [43]. Vào năm 1978, WHO đã thay đổi chiến lược từ tiêu diệt sốt rét sang phòng chống sốt rét. Trước tình hình này, hội nghị các Bộ trưởng bàn về vấn đề sốt rét đã được tổ chức tại Amsterdam năm 1992. Chiến lược phòng chống sốt rét toàn cầu (The Global Malaria Control Strategy) đã được thông qua tại hội nghị này. Mục đích của chiến lược này nhằm ngăn chặn tình trạng tử vong, giảm tỷ lệ mắc sốt rét và giảm thiểu những thiệt hại về kinh tế, xã hội do sốt rét gây ra thông qua việc cải thiện nhanh chóng và củng cố năng lực địa phương trong vấn đề phòng chống sốt rét [54]. Chiến lược mới này khác một cách đáng kể so với cách tiếp cận trước đó về vấn đề sốt rét. Việc thực thi chương trình phòng chống sốt rét có tính chất linh hoạt phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Chiến lược này 6
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc được phát triển nhằm cung cấp các công cụ mới có khả năng và hiệu quả cao trong công tác phòng chống sốt rét và duy trì thành quả đạt được. Như vậy, vấn đề sốt rét đang được phòng chống bằng cách sử dụng các công cụ hiện thời. Tuy nhiên, sự kháng của kí sinh trùng với các loại thuốc sốt rét, sự kháng của véc tơ truyền sốt rét với hoá chất diệt côn trùng và nhu cầu cần thiết phải cải thiện các kĩ thuật chẩn đoán sốt rét đang đặt ra đòi hỏi phải phát triển các nghiên cứu trong tương lai, cung cấp các công cụ mới trong việc phòng chống sốt rét. Các chương trình hợp tác quốc tế, sự cố gắng nỗ lực của các chính phủ, sự tham dự của các cấp chính quyền địa phương và cộng đồng là điều quan trọng nhằm thu được thành tựu cao nhất trong công cuộc phòng chống sốt rét. Bảng 1: Hóa chất sử dụng tẩm màn phổ biến ở các nước: Hóa chất Dạng hóa chất Liều lượng Permethrin 50EC 500mg/m2 Etonfenprox 10EW 200mg/m2 Lambdacyhalothrin 2.5CS 30mg/m2 Alphacypermethrin 10SC 25mg/m2 Deltamethrin 1SC 20mg/m2 Cyfluthrin 10EW 3050mg/m2 Bifenthrin 50EC 50mg/m2 1.2 . Tình hình sốt rét tại Việt Nam. Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới ở Đông Nam Á thuộc cực Đông của bán đảo Đông Dương. Năm 2001, trong số khoảng 80 7
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc triệu dân cả nước lúc bấy giờ có khoảng 40 triệu dân sinh sống trong vùng sốt rét lưu hành [40]. Các vùng lưu hành bệnh bao gồm vùng rừng núi phía Bắc, ven dọc Trường sơn, cao nguyên miền Trung, khu vực Đông nam, Tây nam và các miền Duyên Hải. Trước năm 1992, tình hình sốt rét rất nghiêm trọng, hàng nghìn ca chết mỗi năm, tỷ lệ mắc sốt rét tăng và nhanh chóng làm cho sốt rét kháng thuốc. Tuy nhiên sau hơn 10 năm, chương trình quốc gia phòng chống sốt rét của Việt Nam đã có nhiều tiến bộ, tỷ lệ chết do bệnh sốt rét giảm 96% và tỷ lệ mắc giảm 78%. Năm 2000, số ca mắc sốt rét tại Việt Nam là 293.016 ca trong đó có 148 ca tử vong. Đến năm 2007, số ca sốt rét đã giảm xuống còn 70.910 ca trong đó 20 ca tử vong. Tình hình sốt rét hiện nay tương đối ổn định nhưng vẫn còn là mối đe dọa sức khỏe với người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và dân di cư. Tuy nhiên, cũng như nhiều nước khác trên thế giới, tình trạng kháng thuốc của kí sinh trùng cũng như kháng hoá chất diệt côn trùng của véc tơ sốt rét đang đặt ra đòi hỏi phải phát triển các nghiên cứu trong tương lai, cung cấp các công cụ mới trong phòng chống sốt rét ở Việt Nam. Bảng 2: Hóa chất sử dụng tẩm màn và phun tồn lưu ở Việt Nam Dạng hóa Nồng Năm Tên hóa chất ứng dụng chất độ 20022006 Tẩm màn + phun tồn Alphacypermethrin SC 100 g/l lưu Lambdacyhalothrin WP 100 g/l Phun tồn lưu + tẩm màn 8
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc Phun tồn lưu + tẩm Lambdacyhalothrin CS 25 g/l màn Tẩm màn + phun tồn Alphacypermethrin SC 100 g/l lưu Phun tồn lưu + tẩm Lambdacyhalothrin CS 100 g/l 2007 màn 2010 Phun tồn lưu + tẩm Lambdacyhalothrin WP 100 g/l màn Phun tồn lưu + tẩm Lambdacyhalothrin CS 25 g/l màn 1.3. Tình trạng kháng hóa chất diệt của véc tơ truyền bệnh Véc tơ là một động vật chân khớp hút máu, bảo đảm sự truyền sinh học tích cực tác nhân gây bệnh từ động vật này sang động vật khác (theo F.Rodhain và C.Peres, 1985). Véc tơ chính đóng vai trò truyền bệnh chủ yếu trong mọi hoàn cảnh, quanh năm mà điều kiện cho phép. Véc tơ phụ cùng với véc tơ chính duy trì lan truyền sốt rét ở địa phương và vai trò truyền bệnh hạn chế nếu không có vector chính. Theo Mac Donald (1957) thì một loài Anopheles được xác định véc tơ sốt rét: Có thoa trùng trong tuyến nước bọt; ái tính với máu người (ưa đốt người); tần số đốt người cao, tuổi thọ đủ dài; mật độ cao ở mùa sốt rét. Theo Trần Đức Hinh, Nguyễn Đức Mạnh và CTV (2001), các véc tơ sốt rét chính và phụ ở Việt Nam bao gồm: Véc tơ chính vùng rừng núi toàn quốc: An. minimus 9
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc Véc tơ sốt rét chủ yếu vùng rừng núi từ 20 vĩ độ Bắc vào Nam: An. minimus, An. dirus Véc tơ sốt rét chủ yếu ven biển Nam Bộ: An.epiroticus. Véc tơ sốt rét ven biển miền Bắc: An.subpictus, An.sinensis, An.vagus, An.indefinitus. Véc tơ sốt rét thứ yếu miền núi: An.aconitus, An.jeyporiensis, An.maculatus. Kháng hóa chất là sự chọn lọc đặc điểm có tính kế thừa của một quần thể côn trùng gây ra thất bại một sản phẩm hóa chất mong đợi khi sử dụng theo qui định. Theo định nghĩa của WHO là sự phát triển khả năng sống sót của một số cá thể sau khi tiếp xúc với nồng độ của một hoá chất mà với nồng độ đó đa số cá thể trong một quần thể bình thường của loài đó sẽ bị chết sau khi tiếp xúc [34]. Khả năng phát triển tính kháng hoá chất diệt phụ thuộc vào các yếu tố: sinh học, sinh thái học của côn trùng, mức độ trao đổi dòng gen giữa các quần thể, thời gian tồn lưu của hoá chất và cường độ sử dụng gồm liều lượng và thời gian sử dụng [37]. 1.4. Cơ sở sinh học của tính kháng hóa chất diệt ở côn trùng Hiện tượng kháng hóa chất không phải là một quá trình thích nghi sinh lý của các cá thể trong quần thể. Hiện tượng này bắt nguồn từ sự sai khác tự nhiên có bản chất di truyền về mức độ mẫn cảm đối với các chất độc giữa các cá thể trong quần thể. Sự khác biệt này có sẵn trong các quần thể tự nhiên ngay từ khi chưa tiếp xúc với thuốc diệt. Tính kháng hoá chất là một hiện 10
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc tượng tiến hóa là kết quả của quá trình chọn lọc các gen kháng ở côn trùng dưới áp lực của hoá chất. Các gen kháng có thể có sẵn trong quần thể hoặc sinh ra do đột biến. Những cá thể trong quần thể mang gen kháng sống sót mặc dù tiếp xúc với hoá chất và truyền những gen kháng cho thế hệ sau. Việc sử dụng lặp lại một hoá chất sẽ loại bỏ các cá thể nhạy và tỷ lệ các cá thể kháng sẽ tăng và cuối cùng số cá thể kháng sẽ trội lên trong quần thể [54]. Kết quả là quần thể không phục hồi trở lại được tính mẫn cảm của hóa chất đó. Do vậy, giám sát và phát hiện ngay từ những dấu hiệu đầu tiên là quan trọng để kịp thời có một chương trình quản lý tính kháng. 1. 5. Các loại cơ chế kháng của côn trùng Các hóa chất có thể xâm nhập vào cơ thể muỗi bằng nhiều cách và ảnh hưởng đến sự sống sót của chúng ở mức độ khác nhau. Dựa vào khả năng hóa chất bị phân giải trực tiếp hay không khi tác động lên cơ thể muỗi để chia ra các loại cơ chế: 1.5.1. Kháng do giảm tính thẩm thấu Là cơ chế mà trong đó hóa chất diệt không bị phân hủy trực tiếp, song tính kháng hình thành là do giảm khả năng thấm. Nhiều loại hoá chất diệt côn trùng thâm nhập vào cơ thể côn trùng qua lớp biểu bì. Những thay đổi của lớp biểu bì của côn trùng làm giảm tốc độ thẩm thấu của hoá chất diệt côn trùng gây nên sự kháng đối với một số hoá chất diệt. Đơn thuần tính thấm giảm chỉ 11
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc gây ra sự kháng ở mức độ thấp [46]. Cơ chế này hiếm khi được đề cập tới, nó thường được coi là thứ yếu thậm chí không được nhắc tới ở muỗi. Tuy nhiên, nếu phối hợp với các cơ chế kháng khác, nó có thể tạo nên sự kháng cao. Cơ chế này hầu hết được phát hiện qua các nghiên cứu tính thấm sử dụng hoá chất diệt đánh dấu. 1.5.2. Kháng tập tính (behaviouristic resistance) Đó là sự thay đổi của côn trùng trong tập tính né tránh được liều chết của hóa chất. Những thay đổi bao gồm sự giảm xu hướng bay vào vùng sử dụng hoá chất hay tránh xa khỏi bề mặt có hoá chất. Tuy nhiên, sự kháng này cũng hiếm khi được đề cập đến và giống như hậu quả thay đổi gây ra trực tiếp bởi sự có mặt của hoá chất diệt côn trùng hoặc do những con muỗi sống trong nhà của quần thể muỗi bị tiêu diệt. 1.5.3. Kháng do cơ chế chuyển hóa(metabolic mechanism) Trong cơ chế này khi phân tử hóa chất diệt xâm nhập vào cơ thể, dưới tác dụng của các enzym khác nhau trong cơ thể muỗi kháng thuốc nó sẽ bị phân giải theo nhiều con đường khác nhau như: oxy hóa, thủy phân, hydro hóa, khử clo, ankyl hóa... trở thành chất không độc. Ví dụ : ở muỗi kháng DDT do trong cơ thể có enzym DDTase hoạt động, nó khử clo của phân tử DDT, chuyển DDT thành DDE là hợp chất không có tính độc cho với côn trùng [15]. H DDTase Cl C CL Cl C CL Cl C CL khử Clo Cl C Cl Cl 12
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc DDT độc với muỗi DDE không độc với muỗi Cơ chế này tạo ra một mức độ kháng mạnh mẽ nhất của muỗi đối với từng loại hóa chất. Sự kháng là kết quả của sự thay đổi về mặt cấu trúc enzym làm tăng khả năng giải độc của nó hoặc tăng số lượng enzym dẫn đến tăng sự đào thải độc tố hoá chất diệt côn trùng ra khỏi cơ thể chúng. [28]. Hình 1: các ví dụ về các cơ chế kháng hóa sinh ở cấp độ phân tử A. Đột biến ở một axit amin trong vùng trải trên màng IIS6 của gen kênh vận chuyển Na + đã tạo ra tính kháng DDT – pyrethroid ở Anopheles gambiae. Cũng codon bị đột biến đó đã tạo ra tính kháng rất phong phú ở côn trùng. B. Nhân tố điều hòa (phía trên trình tự mã hóa) còn gọi là “hộp Barbie” cho phép cảm ứng các gen kháng mã hóa Esterase và Oxidase phân hủy thuốc diệt côn trùng. Nhiều các nhân tố điều hòa giả thiết này đã được tìm ra là có liên quan đến các ezyme kháng ở véc tơ. 13
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc C. Đơn vị siêu sao chép A2B2 Esterase. Các gen Esterase kháng này nằm ở đầu 5’ tới đầu 5’ trong cùng một đơn vị khuyếch đại. Hơn 100 bản sao của đơn vị siêu sao chép này có thể xuất hiện trong cùng một con muỗi. Đây chỉ là một ví dụ của một họ các gen Esterase được khuyếch đại. 1.5.4. Kháng do biến đổi vị trí đích nhạy cảm Sự kháng này gây ra bởi sự biến đổi vị trí đích tác động của hoá chất diệt côn trùng. Sự biến đổi đó đã được quan sát thấy ở các enzym và cơ quan cảm nhận thần kinh, đó là điểm đích của một số lớp hoá chất diệt côn trùng. Có 3 hình thức kháng hoá chất diệt côn trùng bằng cách thay đổi vị trí đích nhạy cảm. Hình 2. Cơ chế tác động gây chết muỗi của 4 nhóm hóa chất, vị trí đích của các nhóm Phốt pho hữu cơ và Carbamate là enzyme Acetylcholinesterase và vị trí đích của nhóm hóa chất Pyrethroid và DDT là cổng điện thế của kênh vận chuyển ion natri (WHO, 2006). (AchE: Enzyme Acetylcholinesterase, Ach: Chất dẫn truyền thần kinh Acetylcholine, ChAT: Enzyme vận chuyển Acetylcholine, vgNa+ chanel: kênh vận chuyển ion natri, MACE: enzyme Acetylcholine đã bị thay đổi, kdr: Kháng hạ gục). Kháng “hạ gục” (Knockdown Resistance: Kháng Kdr) Kháng “hạ gục” được đặt tên từ việc quan sát các côn trùng sau khi cho tiếp xúc với DDT hoặc pyrethroid. Các côn trùng nhạy cảm sau khi tiếp xúc với hoá chất diệt nhanh chóng bị tê liệt hay “hạ gục” (knockdown). Điều này không quan sát thấy ở các cá thể kháng. Các pyrethroid là hoá chất được sử dụng rộng rãi trong chương trình phòng chống sốt rét. Các hoá chất này làm thay đổi động học của các kênh vận chuyển natri có vai trò trong sự truyền các 14
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc xung thần kinh. Kháng “hạ gục” liên quan đến các đột biến gen tổng hợp các protein có vai trò vận chuyển natri qua màng ở một số loài côn trùng. Có hai dạng đột biến kdr khác nhau đã được phát hiện ở muỗi An. gambiae ở châu Phi. Ở Đông Phi, kháng “hạ gục” liên quan đến một đột biến dẫn tới kết quả là một leucine được thay thế bởi một phenylalanin ở mảnh S6 thuộc domain thứ 2 của alen kdr (L1014F). ở Kenya một dạng đột biến khác cũng được tìm thấy, đó là đột biến thay thế leucine bằng serine ở vị trí tương tự (L1014S) [49]. Sự kháng chéo đối với DDT và pyrethroid là một chỉ thị của sự kháng kdr, khi mà cơ chế kháng trao đổi chất với các hoá chất diệt côn trùng này không quan sát thấy. Sự kháng dạng kdr thường có tính lặn di truyền. Tính đa kháng (có hai hoặc nhiều cơ chế kháng trong cùng một cá thể côn trùng_Multiresistance) đang phát triển rất nhanh do các chương trình phòng chống véc tơ tạo ra khi sử dụng liên tiếp lớp hoá chất này sau lớp hoá chất kia. 15
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc Hình 3: Những cơ chế kháng chính ở muỗi (WHO, 2006) Metabolic: enzyme liên quan tính kháng ở muỗi là: esterases, monooxygenases, GSH S Transferases. Targetsite: hai cơ chế kháng vị trí đích Kdr (kháng hạ gục): đột biến trên gen kdr MACE: enzyme acetylcholinesterase đã bị biến đổi tầm quan trọng tương ứng của mỗi một cơ chế kháng đã được biểu thị bởi kích thước của những chấm tròn. 16
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc 1.6. Tình trạng đáp ứng với hóa chất diệt của một số loài Anopheles tại Việt Nam. Hóa chất diệt áp dụng trong phun tồn lưu và tẩm màn là biện pháp chính để diệt muỗi có tập tính đốt máu người và trú đậu trong nhà. Tuy nhiên sau thời gian dài tiếp xúc của nhiều thế hệ muỗi, giống như các loài côn trùng khác muỗi có thể trở nên kháng hóa chất. Tính kháng của một số loài muỗi đã được thông báo sau khi các hóa chất này được đưa vào sử dụng một vài năm. Đã có khoảng 125 loài muỗi kháng với một hay nhiều loại hóa chất. Kháng hóa chất phun là một trở ngại chính trong chương trình thanh toán sốt rét toàn cầu. Quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn hóa chất có thể làm giảm mức độ và phạm vi kháng hóa chất. Mặc dù vậy việc sử dụng hóa chất trong nông nghiệp cũng góp phần trong kháng của các quần thể muỗi. Để ngăn ngừa kháng hóa chất và phòng chống muỗi, vấn đề giám sát véc tơ là cần thiết. Tính kháng hoá chất diệt côn trùng là một hiện tượng có thể xuất hiện trong mọi nhóm côn trùng truyền bệnh. Năm 1946 mới chỉ có hai loài Anopheles kháng DDT, nhưng đến năm 1991 đã có tới 55 loài kháng với 1 hoặc nhiều loại hóa chất. Trong 55 loài có 53 loài kháng với DDT, 27 loài với organophorous, 17 với carbamate và 10 loài với pyrethroid, 16 loài có kháng với cả 4 loại hóa chất diệt [47]. Có 21 loài trong 55 loài kháng là véc tơ quan trọng đã được WHO báo cáo năm 1996. Một số kháng điển hình như: An.aconitus với DDT ở Kalimantan, Bangladesh, Ấn Độ, Nepal và Thái Lan. Sự kháng DDT ở muỗi đã đặt ra vấn đề phải tìm ra hoá chất khác thay thế nó. Nhiều hoá chất diệt muỗi đã được đưa ra thử nghiệm và đem lại kết quả tốt, đã 17
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc được WHO khuyến cáo sử dụng trong chương trình phòng chống sốt rét [49]. Tuy nhiên, vấn đề nảy sinh khi dần dần các véc tơ trở nên kháng với các hoá chất này. Tới năm 1992, WHO công bố 72 loài muỗi kháng hoá chất, trong đó 69 loài kháng DDT, 38 loài kháng phốt pho hữu cơ, 17 loài kháng với cả 3 hoá chất trên. Sự kháng hoá chất của muỗi ngày càng tăng cả về số lượng loài lẫn mức độ kháng và một loài kháng với nhiều hoá chất. Đến năm 2000, đã có khoảng 100 loài muỗi kháng hoá chất trong đó hơn 50 loài Anopheles [25]. Một trong những lý do dẫn đến sự kháng ngày càng tăng nhanh và trầm trọng là do sự sử dụng tràn lan hoá chất trong nông nghiệp và y tế. Kháng hoá chất ở các véc tơ truyền bệnh sẽ ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới sự xuất hiện trở lại của các bệnh do véc tơ truyền. Tại những nơi nào mà kháng hoá chất chưa ảnh hưởng tới sự xuất hiện của dịch bệnh thì nó cũng đe dọa sự khống chế dịch bệnh. Chính vì vậy sự hiểu biết về kháng hoá chất diệt côn trùng ở các véc tơ truyền bệnh có thể giúp đề ra các chiến lược phù hợp để đấu tranh với chúng [27,47]. Tuy vậy, phòng chống véc tơ bằng hoá chất diệt côn trùng chỉ bị tác động khi mức độ kháng đủ lớn để tác động rõ ràng đến hiệu lực của hoá chất và sự lan truyền bệnh. Trong nhiều trường hợp, việc phòng chống véc tơ có thể không bị ảnh hưởng bởi mức độ kháng. Chẳng hạn hoạt động phòng chống kiểm soát được 75% quần thể véc tơ trong khi mức độ kháng thấp hơn 10% thì tính kháng sẽ không ảnh hưởng đến hiệu quả phòng chống véc tơ. Trong trường hợp này, tăng cường kiểm tra, giám sát tần số kháng là đủ và không cần thay đổi phương pháp phòng chống véc tơ [27,48]. Mặc dù vậy, 18
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc nhìn chung các điều tra giám sát kháng hoá chất là cần thiết bởi: Hoạt động này cung cấp dữ liệu cơ bản cho việc lập chương trình và chọn lọc các hoá chất diệt côn trùng thích hợp trước khi thực hiện công việc phòng chống véc tơ. Phát hiện kháng hoá chất ở giai đoạn sớm nhằm thực hiện kịp thời các biện pháp quản lý. Tuy nhiên, trong những trường này, bất cứ một biện pháp phòng chống nào trừ khi thay thế hoá chất diệt côn trùng đều khó có thể thực hiện. Hiện nay, các hoá chất thuộc nhóm pyrethroid (alphacypermethrin, lambdacyhalothrin, deltamethrin, permethrin, Etofenprox…) đang được sử dụng rộng rãi trong chương trình phòng chống sốt rét ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Vì vậy, sự phát triển tính kháng của véc tơ sốt rét với các hoá chất này có thể gây trở ngại cho sự thành công của hoạt động phòng chống sốt rét. Pyrethroid là dẫn xuất của este cacboxylat (còn gọi là este pyrethrum hoặc este pyrethrin) có nguồn gốc tự nhiên từ cây hoa cúc họ Chrysanthemum cinerariefolium và C. roseum, chứa nhiều hoạt chất pyrethrin có độc tính cao với côn trùng nhưng có độc tính thấp với động vật máu nóng. Mô phỏng cấu trúc của pyrethrin, người ta thay đổi nhóm thế để tổng hợp lên các chất mới có hiệu lực diệt côn trùng mạnh hơn. Tuy nhiên, tính kháng pyrethroid đang biểu hiện rõ dần bất chấp sự lạc quan ban đầu cho rằng lớp hoá chất diệt côn trùng mới và lớn này sẽ không tạo nên tính kháng vì hoạt động gây độc nhanh của nó. Tại Guatemala, sự kháng pyrethroid lần đầu tiên được ghi nhận ở một 19
- Hå ViÕt HiÕu LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc quần thể An. albimamus đã kháng với fenitrothion. Khi deltamethrin được sử dụng, esterase đóng vai trò trong sự kháng fenitrothion đã được tăng cường do áp lực chọn lọc tạo ra tính kháng chéo với deltamethrin. Hơn thế nữa, người ta đã tìm ra sự kháng chéo DDTpermethrin là do Oxidase trong cùng một cá thể muỗi. Một kiểu tương tự của tính kháng chéo đã được phát hiện đối với C. pipiens ở Ohio [24,40]. Tại Việt Nam, một số kết quả nghiên cứu mức độ nhạy cảm với hoá chất nhóm pyrethroid cũng đã được công bố [10,21,25]. Theo Nguyễn Tuấn Ruyện (1997), một số quần thể An. minimus ở Gia Lâm (Hà Nội), Khánh Vĩnh (Khánh Hoà), An. jeyporiensis ở Võ Nhai (Bắc Thái); An. aconitus, An. philippinensis ở Chiêm Hoá (Tuyên Quang), An. aconitus ở Na Hang (Tuyên Quang), An. sinensis ở Sóc Trăng đã tăng mức chịu đựng (có khả năng kháng) với pyrethroid [19]. 1.6.1. Anopheles dirus Muỗi An. dirus là loài muỗi truyền bệnh sốt rét quan trọng ở vùng rừng rậm và bìa rừng từ vĩ tuyến 20 trở vào Nam. Đây là một loài muỗi thuộc nhóm loài An.balabacensis. Trong nhóm này ở Việt Nam cho dến nay chỉ mới xác định được 2 loài là An. dirus và An. takasagoensis. Trong hai loài này người ta chỉ phát hiện thấy An. dirus có vai trò quan trọng trong việc truyền bệnh sốt rét Muỗi An. dirus có kích thước trung bình, thân thon dài, pan có 4 băng trắng, băng trắng thứ 1 dài gấp 2 3 lần băng trắng 2,3,4. Các băng trắng 2,3,4 chân có nhiều đốm hoa. Đặc điểm quan trọng của An. dirus là chân sau ở khớp cẳng và bàn có một băng trắng rộng rõ rệt. Cánh muỗi có nhiều đốm 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 370 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 413 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 542 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 299 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 343 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 319 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 235 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 246 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 191 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn