intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vai trò của Allicin tách từ tỏi Việt Nam trong quá trình điều hoà đáp ứng viêm thông qua thụ thể Dectin – 1

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:58

162
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của luận văn: Có qui trình sản xuất Allicin từ tỏi; xác định được chức năng điều hòa quá trình đáp ứng viêm của Allicin tổng hợp từ Alliin trong tỏi; đánh giá được hiệu quả của Allicin trong quá trình điều trị chuột bị nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm trùng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vai trò của Allicin tách từ tỏi Việt Nam trong quá trình điều hoà đáp ứng viêm thông qua thụ thể Dectin – 1

  1. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn  MỞ ĐẦU      Các nghiên cứu gần đây đã công bố Allicin: Có khả năng chống viêm nhiễm  mạnh, tăng cường hoạt tính của các tế  bào trong quá trình thực bào, tăng cường   hoạt tính của các tế  bào giết tự  nhiên,  ức chế  sự  phát triển của vi sinh vật gây  bệnh, ức chế sự phát triển của những tế bào ung thư [28, 44]. Rất nhiều công bố  và các công ty trên thế giới đã sản xuất Allicin từ việc tạo quá trình xúc tác giữa  Alliin với enzym allinase có sẵn trong tỏi. Bằng việc sử dụng Allicin chiết xuất  từ  Alliin có sẵn trong tỏi, các công ty trên thế  giới đã sản xuất được rất nhiều  loại thực phẩm chức năng cao cấp với nhiều tác dụng sinh học quí.       Dựa vào những tín hiệu của thụ  thể Dectin­1, một số hợp chất tách chiết từ  thực vật đã được chứng minh có khả năng điều hòa được đáp ứng viêm và điều   trị  hiệu quả chuột bị nhiễm khuẩn nặng và choáng nhiễm trùng. Chẳng hạn, các  chất tách chiết từ  nhân sâm Hàn Quốc như  Rb1, Rb2, Rc, hợp chất K (C­K) đã  được công bố  có khả  năng điều hòa các tín hiệu viêm như  cytokine, quá trình  phosphoryl   hóa   MAPK   (mitogen   activated   protein   kinase),   phản   ứng   oxy   hóa  (ROS) thông qua tín hiệu của thụ thể Dectin­1. Tuy nhiên, các chất này có nguồn   gốc từ nhân sâm nên rất đắt. Do vậy, việc tìm kiếm các chất có hoạt tính dược   học đối với khả  năng chống viêm vẫn đang là vấn đề  cấp bách để  có thể  thay  thế một số thuốc đang sử dụng hiện nay, cũng như góp phần làm giảm bớt tỷ lệ  tử vong và giá thành điều trị của bệnh nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm trùng.       Tuy nhiên, kể cả  trên thế  giới và trong nước chưa có nghiên cứu nào đi sâu   vào đánh giá vai trò của Allicin đối với con đường tín hiệu thụ thể Dectin­1 trong   quá trình điều hòa những phản ứng viêm quá mức ở vật chủ. Đặc biệt, Việt Nam  là một quốc gia có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm, lượng dân số vào loại   cao nhất thế giới nên khả năng mắc các bệnh nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm  trùng do viêm (inflammation) là rất cao. Cho đến nay, thì nhiễm trùng nặng và  choáng nhiễm trùng vẫn là một trong các nguyên nhân chính của những ca tử  Lớp cao học K20                                             1                                        Khóa 2011 ­ 2013
  2. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn vong ở các bệnh nhân cần chăm sóc đặc biệt (ICU). Các trường hợp này vẫn tiếp   tục gia tăng rộng khắp trên cả thế giới. Với thực trạng hiện nay, thị trường trong   nước vẫn chủ  yếu là thuốc nhập ngoại, giá thành rất đắt và luôn bị  phụ  thuộc   vào các công ty nước ngoài trong khi đó Việt nam lại có một tài nguyên vô cùng   đa dạng về thực vật mà khả năng ứng dụng vào dược học là vô cùng phong phú.  Ngoài ra việc sử dụng thuốc một cách tự  ý đặc biệt là kháng sinh để  chống các   bệnh nhiễm trùng vẫn đang là một vấn đề  cần được giải quyết. Do vậy, việc   tìm kiếm phương pháp và tá dược chữa bệnh là một vấn đề  cần thiết và cấp  bách để  điều trị  hiệu quả  quá trình viêm hệ  thống, và sẽ  hỗ  trợ  cải thiện được  khả  năng điều trị  của bệnh nhân bị  nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm trùng.  Xuất phát từ  cơ sở  khoa học thực tiễn trên chúng tôi tiến hành đề  tài:  “ Nghiên  cứu vai trò của Allicin tách từ  tỏi Việt Nam trong quá trình điều hoà đáp  ứng viêm thông qua thụ thể Dectin – 1” . Lớp cao học K20                                             2                                        Khóa 2011 ­ 2013
  3. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn Mục tiêu đề tài 1. Mục tiêu chung ­ Đánh giá được 1 phần hoạt tính dược học của Allicin như một loại thuốc trong   quá trình điều hóa đáp ứng viêm. 2. Nội dung ­ Có qui trình sản xuất Allicin từ tỏi ­ Xác định được chức năng điều hòa quá trình đáp ứng viêm của Allicin tổng hợp  từ Alliin trong tỏi ­ Đánh giá được hiệu quả  của Allicin trong quá trình điều trị  chuột bị  nhiễm  trùng nặng và choáng nhiễm trùng Lớp cao học K20                                             3                                        Khóa 2011 ­ 2013
  4. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG MIỄN DỊCH ĐỐI VỚI BẢO VỆ CƠ THỂ        Miễn dịch bẩm sinh và miễn dịch đáp ứng là hai loại đáp ứng miễn dịch bảo  vệ quan trọng đối với các động vật có xương sống. Miễn dịch đáp ứng bẩm sinh  có vai trò như hàng rào bảo vệ đầu tiên nhưng lại không có khả năng nhận dạng  lập lại các mầm bệnh và trợ  giúp đáp  ứng miễn dịch đặc hiệu. Miễn dịch đáp  ứng nhận dạng mầm bệnh dựa vào chọn lọc một vùng cụ  thể  nhờ  vô số  các tế  bào lymphocyte mang rất nhiều thụ thể đặc hiệu kháng nguyên mà cho phép hệ  thống miễn dịch có thể nhận dạng bất kỳ kháng nguyên bên ngoài xâm nhập vào   cơ thể. Hệ thống miễn dịch bẩm sinh sử dụng vô số  các thụ  thể  để  nhận dạng   và đáp  ứng tới những mầm bệnh trong giai đoạn ban đầu của cơ  thể. Quá trình  nhận dạng mầm bệnh của các thụ  thể  có một vai trò vô cùng quan trọng trong   quá trình truyền tín hiệu tới những đáp  ứng viêm, sản xuất những tế  bào hiệu   quả mới tham gia vào quá trình viêm cục bộ và bắt đầu những đáp ứng của quá  trình miễn dịch đáp  ứng. Vô số  các thụ  thể  nhận dạng mầm bệnh mẫu (PRR)  bao gồm thụ thể Toll­like (TLR), lectin, Dectin­1 và các thụ thể scavenger quyết  định tới khả  năng sống xót của vật chủ  bằng quá trình nhận dạng những mẫu  phân tử   ở  trên mầm bệnh như   vi khuẩn, virut, nấm có cấu trúc giống như  trên   các   thụ   thể   riêng   biệt   được   gọi   là   PAMP   (pathogenic   associated   molecules  pattern). Quá trình nhận dạng mầm bệnh bằng quá trình thực bào kích thích thực  Lớp cao học K20                                             4                                        Khóa 2011 ­ 2013
  5. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn bào hóa, sinh ra cytokine, chemokine tiền viêm, và thậm trí là kích thích quá trình   ban đầu của miễn dịch đáp ứng. 1.2. KHÁI NIỆM VIÊM          Viêm (inflammation) là một phần đáp  ứng sinh học phức tạp của các mao  mạch với các vị trí bị  tổn thương trên cơ thể do bị kích thích bởi các mầm bệnh   hay là những tế bào bị hỏng. Quá trình này nhằm bảo vệ các cơ quan, loại bỏ hay  sửa chữa những vị  trí kích thích bị  thương và bị  lỗi. Khi phản  ứng viêm xảy ra,   nhiều loại tế bào sẽ được hoạt hóa và tập trung đến ổ viêm nhờ các loại tế bào   di   chuyển   (migrating   cells   )   gồm:   bạch   cầu   đơn   nhân,   đa   nhân   ,   các   tế   bào  lympho, tiểu cầu, tế  bào nội mạc… Các tế  bào này giải phóng ra hàng loạt các   chất   trung   gian,   phần   lớn   là   các   chất   prostaglandins   (PG),   leukotrienes   (LT),   histamine, bradykinin, nhân tố hoạt hóa tiểu cầu và interleukin­1. Các chất này lại  tiếp tục hoạt hoá các tế  bào khác làm giải phóng ra hàng loạt các enzyme “dọn   dẹp” chủ yếu phân giải protein nhờ các proteinase, các interleukin, yếu tố hoại tử  khối u (TNF­α), các superoxide, H+, hydroperoxide gây ra tổn thương mô, qua đó   khép kín quá trình viêm mạn tính. Quá trình tiết ra của các chất trung gian như  trên làm tăng dòng chảy của máu tới những vùng bị  xâm nhập và dẫn tới hiện  tượng bị  đỏ, nóng. Một vài chất tiết ra làm hẹp dòng chảy của máu dẫn tới bị  sưng. Khi quá trình viêm kéo dài sẽ  dẫn tới hiệu quả  tích lũy và trạng thái mất   cân bằng do qúa trình viêm chiếm  ưu thế  hơn quá trình kháng viêm và quá trình   đông tụ chiếm  ưu thế hơn quá trình phân giải tơ huyết (fibrin). Quá trình nghẽn   mạch, thiếu máu cục bộ, các mô bị  tổn thương sẽ  là hậu quả  tiếp sau dẫn tới  viêm nặng và choáng do viêm, mất chức năng của đa cơ quan và tử vong [25]. 1.3. NHIỄM TRÙNG NẶNG VÀ CHOÁNG NHIỄM TRÙNG      Nhiễm trùng có thể  được định nghĩa như  một phổ  của những điều kiện lâm  sàng gây ra bởi đáp  ứng miễn dịch của bệnh nhân tới quá trình nhiễm trùng mà  được đặc trưng bởi viêm hệ  thống và quá trình đông tụ  [6,7,8]. Các bệnh nhân   mắc nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm trùng trải qua hai giai đoạn đáp  ứng   Lớp cao học K20                                             5                                        Khóa 2011 ­ 2013
  6. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn miễn dịch [7]. Thời kỳ đầu sẽ  biểu hiện những đáp ứng viêm ồ  ạt tới quá trình   nhiễm trùng. Hầu hết, đó là các cytokine tiền viêm như TNF, interleukine (IL)­1,   IL­6, IL­12, và interferon gamma (IFN gamma). Sau đó, cơ thể sẽ điều hòa những  đáp ứng này bằng sản xuất những cytokine kháng viêm (IL­10), các chất ức chế  của thụ  thể TNF, thụ thể IL­1 loại II, và IL­1RA (một dạng bất hoạt của IL­1)   [12]. Các lớp đáp ứng viêm hệ thống của vật chủ được bắt đầu bằng một số sản  phẩm vi khuẩn. Những sản phẩm vi khuẩn (vi khuẩn gram âm bao gồm nội độc  tố: lipopolysaccharide (LPS), formyl peptides, ngoại độc tố  và proteases; các vi  khuẩn gram dương như ngoại độc tố, các siêu kháng nguyên, ngoại độc tố A của  streptococcal pyrogenic (SpeA), peptidoglycan, axít lipotechoic) và một số  chất  của vỏ tế bào nấm (zymosan  được phân  tách  từ  Saccharomyces cerevisiae)  liên  kết các thụ thể trên macrophage của vật chủ và kích hoạt những protein điều hòa   (yếu tố nhân Kappa B (NFқB)) [12]. Chẳng hạn, thụ thể Toll like 4 (TLR4) nhận  dạng LPS, còn thụ  thể  Dectin­1 nhận dạng đối với zymosan [8,15]. Sau đó, các  thụ  thể  chuyển tín hiệu vào tế  bào. Hiệu quả  tích lũy của những lớp viêm hệ  thống này dẫn tới trạng thái mất cân bằng, cùng với quá trình viêm chiếm ưu thế  hơn quá trình kháng viêm và quá trình đông tụ  chiếm  ưu thế hơn quá trình phân  giải tơ  huyết (fibrin). Quá trình nghẽn mạch, thiếu máu cục bộ, các mô bị  tổn  thương sẽ là hậu quả tiếp sau dẫn tới nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm trùng,  mất chức năng của đa cơ quan và tử vong [25, 21]. Lớp cao học K20                                             6                                        Khóa 2011 ­ 2013
  7. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn Hình 1: Bệnh nhân bị shock do nhiễm trùng Bé T.T.T.P. (11 tuổi, ngụ  tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu) được cấp cứu trong   tình trạng shock do nhiễm trùng. 1.4.  MIỄN  DỊCH  BẨM  SINH  CỦA  VẬT  CHỦ  ĐÁP  ỨNG  QUÁ  TRÌNH  NHIỄM VI KHUẨN       Hệ  thống miễn dịch bẩm sinh bao gồm vô số  các thành phần khác nhau để  chống lại quá trình xâm nhập của vi sinh vật. Thứ nhất, các chức năng của hàng  rào biểu bì của cơ thể có thể  cản trở quá trình gây viêm nhiễm của mầm bệnh.   Thứ hai, các tế bào và các phân tử kiểm soát hoặc phá hủy các mầm bệnh mà có  thể trốn thoát khỏi lớp hàng rào bảo vệ biểu bì để xâm nhập tiếp vào bên trong.  Thứ  ba cũng là hàng rào quan trọng nhất của hệ  thống bảo vệ  miễn dịch bẩm   sinh đó là các mô của tế  bào macrophage truyền tín hiệu bảo vệ  tế  bào  ở  các  vùng ngoại biên và hệ  thống bổ  thể  của protein truyền tín hiệu của hệ  thống  miễn dịch bẩm sinh dưới dạng dịch nằm giữa khoảng không của mô và máu.  Quá trình nhận dạng bằng hệ  thống miễn dịch sẽ  loại bỏ  các mầm bệnh xâm  nhập thông qua vô số cơ chế hiệu quả khác nhau. Hệ thống miễn dịch bẩm sinh   Lớp cao học K20                                             7                                        Khóa 2011 ­ 2013
  8. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn có thể xem như có vai trò quan trọng nhất trong quá trình viêm nhiễm. 1.4.1. Các thụ thể nhận dạng mầm bệnh (PRRs)  1.4.1.1. Định nghĩa: Thụ thể là những protein biệt hoá để tiếp nhận các phân tử  hoá học nội sinh (ligans) hay ngoại sinh (thuốc, độc chất). 1.4.1.2. Các thụ thể nhận dạng mầm bệnh          Thụ  thể  nhận dạng mầm bệnh (PRR, pathogen recognition receptor)  được  chia làm ba nhóm chính bắt nguồn từ  vị  trí trong tế  bào đó là:   Thụ  thể  huyết   thanh hoặc phần dịch của mô; màng  tế  bào hay cytoplasm; hay nằm trên màng  hoặc trong dịch  tế  bào được xem là thụ  thể  nhận dạng mầm bệnh  [19]. Mỗi   nhóm   thụ    thể  PRR có các phối   tử  đặc hiệu của chính mình để  có thể  nhận   dạng một loại vi sinh vật nhất định [19]. Các thụ thể này có thể nhận dạng mầm  bệnh một cách trực tiếp (không thông qua opsonin) hoặc gián tiếp (thông qua  oposonin) [19]. Đối với In vivo, nhiều  thụ  thể có  thể  tham gia để nhận dạng vi   khuẩn  thông qua đa phản  ứng  ở đa vị   trí. Các phần có nguồn gốc  từ  nấm hay   mấm lớn được nhận bằng PRR giống như thụ thể TLR, thụ thể mannose, bổ thể  3 (CR3), và dectin­1 [20]. Quá trình nhận dạng mầm bệnh của PRR kích thích quá  trình sản xuất cytokine và chemokine dẫn tới quá trình hoạt động và sinh ra các tế  bào khác tham gia tới vị  trí đang trong quá trình bị  viêm nhiễm. Từ  đây, dẫn tới   những phản ứng của miễn dịch đáp ứng [12].      Lớp cao học K20                                             8                                        Khóa 2011 ­ 2013
  9. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn Hình 2: Các thụ  thể  RRP đối với nấm có thể  nhận dạng ra phần cacbon.   Thụ  thể  Mannose nhận dạng thành phần mannan; TLR2 và TLR6, CR3,  dectin­1 nhận dạng β ­glucans.   1.4.1.3. Thụ thể Toll­ like (TLR)       Thụ thể Toll­ like (TLR) là một protein màng mà nhận dạng ra các phân tử có   sẵn  ở  trên mầm bệnh (PAMP) [20]. Trong động vật có vú, họ  thụ  thể  TLR bao   gồm ít nhất 10 loại khác nhau. Chúng có một vai trò cơ  bản tới nhận dạng các  phối tử  có nguồn gốc từ  mầm  bệnh  [20]. TLR2 có thể  nhận dạng lipoproteins   các gốc đường  có  gắn  lipid­(lipoarabinomannan) từ thành tế  bào của vi khuẩn   và nấm [13]. TLR4  nhận dạng lipopolysaccharide (LPS) từ thành tế  bào của vi  khuẩn gram âm [15,35,37]. TLR9 có thể  nhận dạng deoxycytidylate­phosphate­ deoxyguanylate (CpG) có trong deoxyribonucleic acid (DNA) của vi khuẩn [13].   Một vi sinh vật có thể được nhận bởi rất nhiều TLR. Thực tế, tổ  hợp của TLR   có thể   tham gia vào các đáp  ứng viêm  do macrophage  hoặc  tế  bào dendritic   sinh  ra  trong  quá  trình  cơ  thể  bị  nhiễm mầm  bệnh  [20]. TLR  bao  gồm một   đoạn nằm bên trong tế  bào được gọi là thụ  thể  Toll/IL­1 (TIR). Đoạn này sẽ  trường với các đoạn TIR khác. Những đoạn TIR có chứa các phân tử  tiếp nối  Lớp cao học K20                                             9                                        Khóa 2011 ­ 2013
  10. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn giống nhưng giống như yếu tố phân chia tế bào 88  (MyD88), protein nối tiếp có  đoạn TIR (TIRAP), một đoạn TIR có chứa phần interferon­β (TRIF), và phân tử  tiếp nối với TRIF (TRAM) [20]. Quá trình nhận dạng mầm bệnh của TLR2 sẽ  kích thích quá trình hoạt động của yếu tố  hoạt động   nhân tế  bào là   NF­kB   (nuclear factor kappa­light­chain­enhancer of activated B cells), và sản xuất ra các  cytokine tiền viêm như  tumor necrosis factor, TNF­α  thông qua đoạn TIRAP và   đoạn MyD88, nhưng quá trình nhận dạng của TLR4 lại kích thích hoạt động của  NF­κB   thông qua TIRAP, MyD88 và kích thích hoạt động của đoạn phiễn mã  của interferon (IFN) giống như quá trình sản xuất IFN kiểu 1 [30]. 1.4.1.4. Thụ thể Dectin­1       Quá trình nhiễm nấm đã kích hoạt quá trình hoạt động ban đầu của các đáp   ứng miễn dịch bẩm sinh trong động vật có vú thông qua các cơ  quan cảm  ứng   đối với quá trình nhiễm trùng [16]. Chất  β­glucan là một thành phần quan trọng   trong vỏ  của tế  bào của nấm. Tế  bào có thể  nhận ra được thành phần này khi  xâm nhập đó là nhờ  vào sự  hoạt động của thụ  thể  Dectin­1. Thụ  thể  này nằm  trên màng tế bào có một đoạn kiểu C lectin gắn với loại màng kiểu II và có một   đoạn bên trong cytoplasma của tế bào cùng với một phần hoạt động dựa vào thụ  thể miễn dịch tyrosine [8].      Thụ thể Dectin­1 được biểu hiện trên các dòng tề bào monocyte, macrophage,   tế  bào trung tính, và tế  bào tua [16]. Dectin­1 được chứng minh có vai trò quan   trọng trong nhận dạng nấm, đặc biệt là các thành phần giàu  β­glucan [43]. Khi  thụ thể Dectin­1 liên kết với phối tử đặc hiệu sẽ truyền tín hiệu vào nhân tế bào   và dẫn tới sản sinh ra cytokine, chemokine, quá trình oxy hóa (ROS) và quá trình  Nito hóa (RNS) kích thích tăng cường khả  năng thực bào của cơ thể [43]. Ngoài  ra, nhiều kết quả nghiên cứu khoa học đã công bố vai trò của Dectin­1 trong quá   trình sản xuất cytokine tiền viêm để   ức chế  sự  phát triển của Mycobacterium   tuberculosis [36]. Lớp cao học K20                                             10                                        Khóa 2011 ­  2013
  11. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn      Hơn nữa, dựa vào những tín hiệu của thụ thể Dectin­1, một số hợp chất tách   chiết từ thực vật đã được chứng minh có khả năng điều hòa được đáp ứng viêm  và điều trị  hiệu quả  chuột bị  nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm trùng. Chẳng  hạn, các chất tách chiết từ  nhân sâm Hàn Quốc như  Rb1, Rb2, Rc, hợp chất K   (C­K) đã được công bố có khả năng điều hòa các tín hiệu viêm như cytokine, quá  trình phospho hóa yếu tố tự phân bào (MAPK (mitogen activated protein kinase)),   phản ứng oxy hóa (ROS) thông qua tín hiệu của thụ thể Dectin­1 [24].  1.4.1.5.  Thụ thể  Dectin­1 hoạt động cùng với TLR2 để nhận dạng các phối  tử có nguồn gốc từ vi sinh vật          Zymosan  là  một  hợp  chất  mà  lượng  β­glucan  trong  thành  tế  bào  của  Saccharomyces cerevisiae chiếm phần chính [8,16]. Thành phần của zymosan có  β­ glucan, mannan, và chitin. Thành phần này được  nhận dạng bằng một số thụ  thể  chẳng hạn  như  TLR2,  TLR6,  Dectin­1,  thụ  thể  mannose,  và CR3  [16, 45].  Chất này  đã  được  chứng  minh  là  kích  thích  quá  trình  đại  thực  bào  và  quá  trình  viêm cả ở in vivo và in vitro [16].       Dectin­1 hoạt  động  cùng với  một  số  TLR để  nhận dạng ra  nấm [16]. Thụ  thể  này cùng  với  TLR2,  Dectin­1 nhận  dạng  ra  zymosan hoặc  nấm  Candida  albicans truyền tín hiệu  điều  hòa  hoạt  động  của  yếu  tố  nhân  kích  hoạt  tế  bào  T  (NFAT)  và  quá  trình  sản xuất  interleukin  (IL)­2,  IL­10,  và  IL­12  p70  trong  tế  bào  dendritic  [16,29].  Dectin­1 cũng tham  gia  vào  quá  trình  thực  bào,  hoạt  động của yếu tố tự phân bào (ERK)1/2 (extracellular signal­regulated kinase), và  quá   trình  sản  xuất  các  cytokine  tiền  viêm  cùng   với  TLR2  để  nhận  dạng  ra  Mycobacterium  abscessus  [16].  Hơn  nữa,  Dectin­1  tham  gia cùng  với  TLR2  và  TLR4  trong  đáp  ứng  miễn  dịch  bẩm sinh  tới  nhận  Mycobacterium ulcerans  để  kích thích  sinh ra  gốc  oxy hóa (ROS) và  sản  xuất ra  chemokines và  IL­37 trong  kerainocyte  của  người.  Do  vậy,  Dectin­1  thực  hiện  một  vai  trò  hoạt  động  giống  như  một  thụ  thể  chính  nhận  dạng  ra  quá  trình  nhiễm  nấm  và  mycobacterium [16]. Lớp cao học K20                                             11                                        Khóa 2011 ­  2013
  12. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn                  Hình 3: Tín hiệu Dectin­1 hợp tác cùng TLR để nhận dạng nấm Dectin­1  nhận  dạng  ra  nấm  để  sinh  ra  quá  trình  enzyme  kinsase  của  tyrosine  ở  lách (Syk) và một đoạn protein caspase 9 (CARD)9. CARD9 tác động   cùng  với  B­cell  lymphoma­10  (Bcl­10)  và  vùng  phiên  mã  gen  1  của  lympho  (MALT1) để kích thích tạo ra ROS và quá trình hoạt động của  NF­κB. Quá trình  biểu hiện của Dectin­1 expression tăng cường quá trình sản xuất cytokine trong   sự có mặt của TLR2 và TLR6. Lớp cao học K20                                             12                                        Khóa 2011 ­  2013
  13. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn 1.4.1.6. Glucocorticoid      Glucocorticoid đã được sử dụng như một chất chống viêm cùng với rất nhiều  cơ  chế  trong  quá  trình  hoạt  động  của  nó  [17].  Rất  nhiều  nghiên cứu  đã  chứng  minh glucocorticoid  có  thể  điều hòa  được  chức  năng  của các  tế  bào viêm,  đặc  biệt  là  quá   trình   phiên  mã  của  các  gen  sinh  cytokine  [11].  Hơn  nữa,  glucocorticoid  có  thể  ức  chế  quá trình  sản  xuất  các  cytokine  tiền  viêm  như  TNF­α, IL­6, IL­1, và làm giảm quá trình tiết gốc nito và quá trình hoạt hóa các  yếu  tố  mô  trong  tế  bào  macrophage [23,39,40].  Do  vậy, glucocorticoid đã được  sử  dụng  trong  điều  trị  một  số  bệnh  viêm  nhiễm  và  các  bệnh  mẫn cảm  miễn  dịch.  Hơn  nữa,  chúng  có  tiềm  năng  vô  cùng  to  lớn  trong  hoạt  động  kháng  viêm và giảm quá trình miễn dịch không có lợi cho cơ thể [9,17,22].      Nhìn  chung,  quá  trình  viêm  hệ  thống  mất  kiểm  soát  được xem  như  là  các  đặc  trưng  của  nhiễm trùng,  của  triệu  chứng  viêm  cấp  tính  đường  hô  hấp.  Một  chất  được  biết đó  Hydrocortisone, là  một  glucocorticoid,  có  thể  làm  giảm  đi  đáng kể mức plasma của protein C,  phospholipase A2, và loại bỏ bớt các tế bào  neutrophil  trong  các  bệnh  nhân  bị   nhiễm   trùng  nặng  và  choáng  nhiễm  trùng  [23,41]. Những nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra chất này có thể điều hòa hầu hết  các cytokine tiền viêm [11], bao gồm ức chế các cytokine có  vai trò quan trọng  trong  miễn dịch bẩm sinh và  nhiễm trùng [23].  Hiệu quả  của  glucocorticoid đã  được  chứng  minh  trong  các  bệnh  nhiễm  trùng  nặng  như  nhiễm  vi   khuẩn  meningitis, pneumocystis pneumonia,  typhoid  fever,  và  những  trường hợp  nhiễm  H5N1 [11]. 1.4.1.7.  ROS       ROS  (reactive oxygen  species)  là  một  đại  diện  nhỏ  của  phản  ứng  oxy hóa,  ­ ­ bao   gồm  superoxide   (O2 )  anion,  hydrogen  peroxide  (H2O2),  peroxyl  (ROO )  Lớp cao học K20                                             13                                        Khóa 2011 ­  2013
  14. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn radical,  acid (HOCl), ozone  (O3) [14].  ROS  được  tạo  ra  thông  qua  một  loạt  các  phản ứng mà bắt đầu bằng quá trình tạo ra superoxide [14,10]. Quá trình tạo ra  ROS  trong  sinh  lý  được  xem   như   sản  phẩm  phụ  xảy  ra  trong  mitochondria,  cytochrome  P­450,  và  các  yếu  tố  tế  bào  khác  [25].  ROS  có  thể  tương  tác  cùng  với  vô  số  phân  tử,  bao   gồm  những  phân  tử  hữu   cơ  nhỏ,   protein,  lipid,  carbohydrate và  nucleic  acid  [14].  Thông  qua  những  tương tác,  ROS  có thể  gây  ra  thảm  họa  hoặc  làm  thay đổi  chức  năng  của  phân  tử  đích  [14].  Nicotinamide  adenine  dinucleotide phosphate  (NADPH)  oxidases  (Nox)  cũng  tạo  ra  ROS [10].  Thực ra, ROS tham gia trong các cơ chế truyền tín hiệu kích thích liên quan tới  khả  năng  miễn dịch và  quá trình viêm [14]. ROS kích  thích hoạt  động của  NF­ κB. Ví dụ, quá trình sản xuất của TNF­α được điều hòa bằng con đường NF­kB  được kích hoạt bởi ROS trong tế bào  Kuffer,  macrophage  ở  trong  gan  [27].  Hơn  nữa,  ROS  có  thể  điều  hòa  hoạt  động activator  protein­1  (AP­1)  (một  yếu  tố  tham gia trong quá trình viêm) thông qua nhiều cơ chế khác nhau [31]. 1.4.1.8. Vai trò của đại thực bào trong đáp ứng viêm      Đại thực bào (macrophage) là những tế  bào bạch cầu, phân nhóm thực bào,  có  vai trò  quan  trọng  trong  hệ  miễn  dịch  không  đặc  hiệu  cũng  như hệ  miễn  dịch  đặc  hiệu  ở  động vật  có  xương  sống. Vai trò  chính của  chúng là  thực bào  các thành phần cặn bã của tế bào và các tác nhân gây bệnh. Ngoài ra, chúng còn  đóng vai  trò  các  tế  bào  trình  diện kháng  nguyên  khởi  động  đáp  ứng  miễn  dịch  đặc  hiệu  của  cơ  thể.  Do  đóng  vai  trò  quan trọng  trong  quá  trình  thực  bào  của  cơ  thể,  đại  thực bào có liên quan đến một  số  tình trạng bệnh lý do miễn dịch.  Ví dụ các đại thực bào tham gia vào quá trình hình thành u hạt  (granuloma) hay  các  tổn  thương    viêm  do  nhiều  nguyên  nhân  khác  nhau.  Trong  hội  chứng  đáp  ứng  viêm  hệ  thống  và  trong  nhiễm  trùng  huyết,  đại  thực  bào  giải  phóng  các  cytokine  gây  viêm  mạnh,  đóng  vai  trò  quan  trọng  trong  quá  trình  bệnh  lý  của  các  hội chứng  này.  Các  cytokine  chính  được  phóng  thích  bởi  đại  thực  bào  gồm: interleukin­1 (IL­1), yếu tố họai tử khối u TNF­α, IL­6, IL­8, IL­12, IFN­γ,  Lớp cao học K20                                             14                                        Khóa 2011 ­  2013
  15. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn nitric oxide (NO) vàc các phân tử dính kết tế bào dẫn đến làm tăng qúa trình viêm.  Như vậy ,  việc kiểm soát sản xuất các chất này có thể làm giảm khả năng viêm.  Macrophage là tế bào có kích thước tương đối lớn và có khả  năng đáp ứng nhanh  với  các  kích  thích  viêm  tạo  ra  bởi  Zymosan.  Ngoài  ra  ,  các  TLR  ở  macrophage  được  biểu  hiện  mạnh  hơn  so  với  các  tế  bào  bạch  cầu khác  (Hình  4)  nên  nó  thường  được  lựa  chọn  trong  các  mô  hình  sàng  lọc  và nghiên  cứu  cơ  chế  kháng  viêm in vitro.                     Hình 4: Biểu hiện của các thụ thể ở các tế bào bạch cầu 1.5. Mô hình nghiên cứu viêm thực nghiệm in vivo sử dụng Zymosan      Khả năng kháng viêm của một chất nghiên cứu, đặc biệt là sau bư ớc sàng lọc  in vitro,  chỉ  được  khẳng  định  khi  tiến  hành  thử  nghiệm  trên  mô  hình  động  vật  thực nghiệm. Đối với chất kháng viêm, các nghiên cứ u thường sử dụng chuột vì  Lớp cao học K20                                             15                                        Khóa 2011 ­  2013
  16. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn hệ gen chuột và người có mức  độ tương  đồng khá cao  (85%)  [18].  Ngoài ra,  sử  dụng chuột  sẽ ít tốn kém và dễ  thực hiện hơn so với các động vật thực nghiệm  khác.  Các nghiên cứu trước  đây thường sử  dụng trực tiếp các mô hình gây viêm  thực nghiệm  in vivo để sàng lọc và nghiên cứu cơ chế kháng viêm của chất cần  nghiên  cứu.  Các  mô  hình  này  thường  là:  i)  sử  dụng   carrageenan,  một  polysaccharide  tách  từ  tảo  đỏ,  để  gây  viêm  ở  chân  chuột  (caageenan­ induced  hind paw edema) trong điều kiện có mặt và vắng mặt của chất cần nghiên cứu và  sau đó so sánh thể tích bàn chân viêm với đối chứng [48, 49];  ii)  gây viêm xoang  bụng   (peritroneal  inflammation  )  bằng  cách  tiêm  carrageenan  vào  bụng  chuột  trong điều kiện có mặt và vắng mặt của chất nghiên cứu.  Lượng  dịch viêm tiết  trong xoang bụng chuột sẽ được thu lại và so sánh với đối chứng về thể tích cũng  như lượng  bạch cầu và protein trong dịch  [15];  iii)   gây viêm mạn tính (chronic  nflammation)  bằng cách tiêm carrageenan vào phần cơ chuột  trong điều kiện có  mặt và vắng mặt của chất nghiên cứu để tạo khối u.  Sau đó khối u được lấy ra  để đo trọng lượng khô so với mẫu đối chứng [32]. Hiện nay,  mô hình gây viêm  thực  nghiệm sử  dụng tại nhiều phòng thí nghiệm trên thế  giới gọi là shock nội  độc tố  (endotoxin shock model) thường sử dụng zymosan của nấm  (một tác nhân  gây  viêm  mạnh)  để  gây  viêm  cấp  và  viêm  đặc  hiệu  với  thụ  thể  Dectin­1  cần  nghiên cứu [26, 34].  Ở mô hình này,  chuột sau khi được  gây viêm sẽ được tiêm  chất nghiên cứu.  Hàm lượng các chất trung gian tiết ra trong quá trình tiền viêm  cũng như những yếu tố tham gia vào các con đường tín hiệu viêm được theo doĩ và  đánh giá, ví dụ như cytokine,  chemokine  tiền  viêm  (TNF­a;  IL­6,  IL­8)  và  kháng  viêm(IL­10), interferon,  quá  trình  phospho  hóa  các  yếu  tố  tự  phân  bào  protein  kinase  (MAPKs),  hay phản  ứng  ôxy  hóa.  Từ  đó  tác  dụng  của  chất  nghiên  cứu  được khẳng định. Với mô hình in vivo này, việc đánh giá tác dụng của chất kháng  viêm sẽ có hệ thống, chính xác và chi tiết hơn ở mức phân tử. 1.6. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC 1.6.1.Tình hình nghiên cứu ngoài nước Lớp cao học K20                                             16                                        Khóa 2011 ­  2013
  17. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn      Các chất kháng viêm được phân loại thành 3 nhóm chính gồm: 1.6.1.1. Các chất kháng viêm không có bản chất steroid (NSAID)      Đại diện cho nhóm này là aspirin, ibuprofen và naproxen. Cơ chế  kháng viêm  của  NSAID  được  phát  hiện  là  do  chúng  ức  chế  sự  tổng  hợp  PG.  Đích  tác  dụng  được biết rõ nhất của các chất này là cyclooxygenase  (COX),  là enzym có vai trò  chuyển hóa axit arachidonic thành prostaglandins  (PG) và thromboxane (TX). Một  số NSAID lại có khả năng ức chế enzym liên quan đến sự bào mòn màng nhày dạ  dày . Nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh các chất NSAID này có tác dụng ức chế  sự  hình  thành  PG  ở  màng  nhày dạ  dày.  Tuy  nhiên,  salysilate,  một  chất  kháng  viêm thuộc nhóm này cũng có tác dụng ức chế sự sinh tổng hợp của PG nhưng lại  không làm bào mòn màng nhày dạ dày như  aspirin.  Lý do tại sao lại có sự  khác  nhau về cơ chế tác dụng giữa aspirin  và salisylate là vấn đề chưa giải thích được  [46]. 1.6.1.2. Các chất kháng viêm có bản chất steroid       Steroid  là  một  hợp  chất  hữu  cơ  có  cấu  trúc  mang  một vòng  4  cycloalkane.  Thuộc về nhóm chất này có các chất corticoid.  Chúng tác dụng thông qua ức chế  enzyme   phospholipases  A2,  là  enzyme  xúc  tác  cho  phản  ứng  chuyển  hóa  phospholipase A2 thành axit arachidonic .  Như  vậy ,  cuối cùng thì corticoid cũng  ức chế sự sinh tổng hợp của PG ,  TX  và LT .  Các chất kháng viêm có  bản chất  steroid  ức  chế  phospholipase  A2  một  cách  gián  tiếp  thông  qua  việc  giải  phóng  các chất ức  chế protein có tên gọi là macrocortin, lipomodulin hay renocortin có  khối  lượng  phân  tử  đạt  khoảng  15,  30  và  40 kDa.  Đại  diện  nhóm  chất  này  là  lipocortin  đã được  tinh sạch,  thương mại  và được  xem là một  trong  những  chất  kháng viêm mạnh  [46]. Các chất có bản chất steroid thường là phối tử  của thụ  thể glucocorticoid. 1.6.1.3. Các chất khác      Thuộc về  nhóm này có vàng và colchicine. Trong trường hợp của colchichine,  chất này  ức  chế  sự  hình  thành  tinh  thể  urate  trong  khớp  của  bệnh  nhân  gout  Lớp cao học K20                                             17                                        Khóa 2011 ­  2013
  18. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn thông  qua  việc  làm  giảm  sự  tiết  các  chất  chemotaxis  của  bạch  cầu  đa  nhân  và  giải  phóng  enzyme lysosom.  Colchicine  có  tác  dụng  ức  chế  đặc  hiệu  sự  giải  phóng  một  glycoprotein  có  trọng  lượng  phân  tử  8400  Da.  Đây  là  một  chất  chemotaxis của bạch cầu đa nhân đối với các bạch cầu trung tính và monocytes  có khả năng thực bào các thể urate [46]. 1.6.2. Tình hình nghiên cứu trong nước       Việt Nam là nước  có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và  ẩm nên khả năng  mắc  các bệnh nhiễm trùng nặng  và  choáng khuẩn do  viêm là  rất  cao.  Cho đến  nay, viêm nặng và choáng do viêm vẫn là  một trong các nguyên nhân chính của  những ca  tử  vong ở  các bệnh nhân cần chăm sóc đặc biệt. Các trường  hợp này  vẫn  tiếp tục  gia  tăng  rộng  khắp  cả  trên  thế  giới  và  Việt  Nam.  Trong  nhiều  trường  hợp ,  quá trình bị viêm kéo dài mà không được  điều trị kịp thời còn dẫn  đến những bệnh mạn tính nguy hiểm như tim mạch, tiểu đường, thấp khớp…      Việt  Nam  cũng  là  nước có  nguồn  tài  nguyên  sinh  vật  rất  phong  phú,  đặc  biệt  về thực vật. Theo thống kê của Viện Dược liệu thì tính đến năm 2000, nước  ta có  gần  4000 loài  thực  vật,  22  loài  tảo  và  trên  33  loài  động  vật  được dùng  làm  thuốc  ở  các  mức  độ  khác  nhau,  đó  là  chưa  kể  đến  nhiều  loài  tảo  biển  và  động  vật  biển  cũng  có thể  được  dùng làm  thuốc  [2].  Các  số  liệu  trên  đây  cho  thấy tiềm năng to lớn của nguồn dược liệu Việt Nam có thể sử dụng trong các  nghiên  cứu  sàng  lọc  để  tìm  ra  những  chất  có  hoạt  tính  dược  học  quý  hiếm,  trong đó có các chất chống viêm mới có hiệu quả cao mà không gây ra các phản  ứng phụ. Tuy vậy, có thể nói các nghiên cứu khoa học một cách có hệ thống và  chi tiết  về  điều  tra,  khai thác, đánh giá tác dụng và  sử  dụng các  chất hoạt tính  sinh học  từ  nguồn  tài  nguyên  sinh  vật  trong  nước  để  phát triển  thành  các  sản  phẩm thuốc mới, phục vụ cho bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng còn rất  hạn chế.      Trong  lĩnh  vực  nghiên  cứu  và  ứng  dụng  các  chất  kháng  viêm,  có  thể  nói  rằng chúng ta chưa  có các nghiên cứu sâu cũng như  chưa  có các hệ thống và mô  Lớp cao học K20                                             18                                        Khóa 2011 ­  2013
  19. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn hình  nghiên cứu  hiện  đại  về  quá  trình  viêm và  tác  dụng  của  chất  chống  viêm.  Đây  chính  là  cơ  sở  để  phát triển các  sản  phẩm  thuốc có  thể  thương  mại  được  trên  thị  trường  Việt Nam  và  quốc tế.  Các  nghiên  cứu  về  viêm  được  thực  hiện  chủ yếu ở Viện Dược  liệu Trung ương,  các trường Đại  học  Dược, trường Đại  học Y Hà Nội và Học viện Quân y 103. Các nghiên cứu ở những cơ sở này mới  chỉ dừng ở mức tạo được  mô hình gây viêm thực nghiệm in vivo cổ điển như đã  trình bày ở trên  .  Cụ thể là các thí nghiệm được thực hiện trên chuột thông  qua  sử  dụng  chất  gây  viêm  carrageenan  để  tạo  mô  hình  viêm  cấp  dưới  hình  thức  gây phù bàn chân chuột và gây viêm màng bụng chuột sau khi tiêm chất gây viêm  này. Việc  gây  viêm  mãn  tính  sử  dụng  chất  amiant  để  tạo  u  hạt  trong  cơ  thể  chuột. Việc đánh giá tác dụng kháng viêm được  thực hiện bằng cách đo thể tích  bàn chân, đo thể tích dịch viêm ổ bụng, đo trọng lượng  khối u hạt tách ra, đếm  số  lượng  bạch  cầu  so  với  mẫu đối chứng, từ đó đánh giá tác dụng kháng viêm  của các chất nghiên cứu. Ngoài ra, việc đánh giá tác dụng kháng viêm cũng chủ  yếu được thực hiện với các cao chiết thô của thực vật.      Điển hình như các nghiên cứu của Đặng Diễm Hồng và cộng sự với các dịch  chiết  rong tảo biển Việt Nam [1]. Nhóm nghiên cứu đã phát hiện thấy dịch chiết  methanol của hai loài tảo biển là  Sargassum swartzii và Ulva reticulata thể hiện  hoạt tính kháng viêm cao mà không gây độc với động vật thử nghiệm  [1].  Hàng  loạt các nghiên cứu khác trong thời gian gần đây cũng chỉ  sử  dụng các mô hình  nghiên  cứu  này  để  đánh    giá  tác  dụng kháng  viêm  của  các  dịch  chiết  thực  vật  nghiên cứu. Ví dụ như Hà Vân Oanh và cộng sự (2010)  trên  cao  lỏng  của  rễ  cây  bạch  đồng  nữ  (Clerodendrum  chinense)  [4],  Đỗ  Thị  Oanh  và  cộng  sự  (2010)  trên cao sói rừng (Sapium sebiferum) [3] hay Nguyễn Thị Bích Hằng (2009) trên  cao  lỏng  lá  vọng  cách  (Premna  corymbosa)  [5]...  Như  vậy  có  thể  nói rằng, mô  hình nghiên cứu viêm và đánh giá tác dụng kháng viêm ở Việt Nam hiện nay là  đơn giản, cổ điển, tốn nhiều thời gian và thiếu tin cậy . Như vậy, chúng ta còn  thiếu các nghiên cứu hiện đại với các mô hình gây viêm đạt chuẩn quốc tế hay  Lớp cao học K20                                             19                                        Khóa 2011 ­  2013
  20. Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn nghiên  cứu  cơ  chế  kháng  viêm  thông  qua  đánh  giá  ảnh  hưởng  của  chất  nghiên  cứu lên các thụ thể như TLR, GC,  mức  độ  giải  phóng  các  chất  trung  gian  được  tiết  ra  trong  quá  trình  tiền  viêm  và viêm, các tín  hiệu gây viêm đặc hiệu. Đặc  biệt, cho đến nay chúng ta chưa  có  mô hình sàng  lọc  in  vitro  cho  phép  sàng  lọc  nhanh, chính xác và hiệu quả các chất kháng viêm mới từ các nguồn nguyên liệu  khác nhau. 1.7. CÂY TỎI VÀ VAI TRÒ CỦA ALLICIN TRONG QUÁ TRÌNH KHÁNG  VIÊM 1.7.1. Cây tỏi      Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, khuynh hướng quay về với thiên  nhiên, tìm tòi và phát triển những phương thuốc truyền thống ngày càng được  chú trọng. Thảo dược thiên nhiên ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phòng,  chữa bệnh và nâng cao sức khỏe của nhân dân.          Với lãnh thổ  trải dài từ  Bắc đến Nam, thuộc vùng nhiệt đới gió mùa  ẩm,   nước ta có nguồn tài nguyên thực vật phong phú và đa dạng, trong đó cây cỏ làm   thuốc chiếm một tỉ lệ khá cao. Nhiều loài cây cỏ Việt Nam là những nguồn hoạt  chất quý cho y học dân tộc và y học hiện đại, là nguồn chất thơm có giá trị  kinh   tế cho các ngành thực phẩm, hương liệu, mỹ phẩm, dược phẩm…      Tỏi là một cây được trồng khắp nơi để làm gia vị­ hàng ngàn năm nay­ từ cổ  Hy Lạp và La Mã, từ Châu Á đến Trung Đông, tỏi luôn đứng ở tuyến đầu điều trị  chống vi khuẩn. Đến khi thuốc kháng sinh được khám phá, tỏi bắt đầu lùi lại   tuyến sau. Đến nay, cùmg với sự xuất hiện của những siêu vi trùng kháng kháng   sinh, tỏi lại đứng trong danh sách những thuốc chống lây nhiễm. Cái lợi nhất của  dược thảo tự nhiên như tỏi là nó không tấn công vi khuẩn bừa bãi hay cản trở sự  phòng vệ  tự  nhiên của cơ  thể  như  thuốc kháng sinh, chúng là những probiotic  kích thích các cơ chế phòng vệ  tự  nhiên của cơ thể  mà không làm hại những vi  khuẩn có ích [5]. Lớp cao học K20                                             20                                        Khóa 2011 ­  2013
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2