intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Khảo sát ca dao về đề tài lịch sử của người Việt từ góc nhìn thể loại

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:91

28
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm khảo sát những bài ca dao về đề tài lịch sử của người Việt theo phạm vi đã nói ở trên để làm rõ bản chất thể loại của bộ phận ca dao này; đua việc nghiên cứu, người viết muốn góp phần bảo tồn, giữ gìn và giới thiệu những nét đặc sắc của ca dao về đề tài lịch sử trong kho tàng ca dao của dân tộc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Khảo sát ca dao về đề tài lịch sử của người Việt từ góc nhìn thể loại

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM Nguyễn Thị Thanh Hà Khảo sát ca dao về đề tài lịch sử của người Việt từ góc nhìn thể loại
  2. MỞ ðẦU 1. Lý do chọn ñề tài 1.1 Từ xa xưa, ca dao là tiếng nói dân gian của người Việt. Ca dao phản ánh tâm tư, tình cảm của người dân trong sinh hoạt hằng ngày, không chỉ ở nơi ñồng nội mà còn ở thành thị, kinh ñô. Tuy là ngôn ngữ dân gian, nhưng ca dao không phải là tiếng nói bình thường mà là ngôn ngữ có vần ñiệu, ngắn gọn vì vậy nó dễ phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Ca dao là văn chương biểu hiện nhiều mặt sinh hoạt của quần chúng nhân dân, nhất là về mặt tình cảm, nên trong ca dao rất phong phú về cảm xúc , ñó là những khúc hát trữ tình. Ngoài ra, ñặc biệt ca dao còn biểu lộ thái ñộ của nhân dân ñối với những hành vi tốt, xấu của con người trong xã hội khi giao tiếp với nhau, hay bình luận, phê phán, ca ngợi những nhân vật lịch sử và các biến cố liên quan ñến vận mệnh dân tộc và ñất nước. Trường hợp này, ca dao có thể xem là một hình thức ngôn luận của quần chúng ở thời ñại xưa, khi xã hội chưa phát triển, chưa có ñiều kiện phổ biến dư luận của người dân như là báo chí hoặc các hình thức thông tin trong thời ñại mới, mặc dù từ trước ñã có thư tịch nhưng chỉ là ñể chuyển tải văn chương, sử liệu, mô phạm (thánh mô hiền phạm) v...v... 1.2 Trong kho tàng lớn lao ấy của người Việt, có một bộ phận gọi là ca dao có liên quan ñến lịch sử. Số lượng các bài ca dao này không nhiều song giá trị nội dung nghệ thuật của nó lại không giới hạn bởi số lượng. Chính ca dao có liên quan ñến lịch sử ñã thể hiện ñược ñời sống tình cảm của nhân dân gợi nên một cách rõ nét từ truyền thống lịch sử vẻ vang, ñáng tự hào của dân tộc Việt Nam trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Thế nhưng ñọc các công trình nghiên cứu về ca dao có liên quan ñến lịch sử chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu chưa thực sự quan tâm ñúng mức cũng như có những công trình tập trung nghiên cứu chuyên biệt ñối với ca dao có liên quan ñến lịch sử từ góc nhìn thể loại. 1
  3. 1.3 Bản thân tôi là một giáo viên giảng dạy môn Văn ở cấp Trung học cơ sở càng cần có ñược hiểu biết cần thiết nhất về mảng ca dao liên quan ñến lịch sử này ñể phục vụ cho việc giảng dạy của mình. Trong số 4 tiết ca dao ở chương trình lớp 7, học sinh phải nắm ñược cả diện mạo của ca dao trong văn học dân gian và có cả những bài ca dao liên quan ñến lịch sử. Chính vì vậy, mong muốn giúp học sinh nắm vững ñược về mảng ca dao về lịch sử ñể các em thêm yêu, thêm tự hào về tổ quốc, quê hương mình cũng là mục ñích của luận văn này. Từ những lí do trên, trong khuôn khổ luận văn chúng tôi mạnh dạn lựa chọn , nghiên cứu nhóm các bài ca dao có liên quan ñến lịch sử với ñề tài: “Khảo sát ca dao về ñề tài lịch sử của người Việt từ góc nhìn thể loại”. 2. Lịch sử vấn ñề: Thực trạng nghiên cứu ca dao có liên quan ñến lịch sử của các nhà nghiên cứu chưa nhiều. Vì vậy chúng tôi ñã lược ñiểm những công trình nghiên cứu về ca dao có liên quan ñến lịch sử như sau: 2.1 ðầu tiên là ý kiến của Nguyễn Văn Mại trong Việt Nam phong sử là cuốn sách do ông biên soạn. Trong cuốn sách này, tác giả ñã có công trong việc thu gom, lượm lặt ca dao rải rác trong nhân dân, trong các sách vở. Có một số bài ñã phản ánh ñược lịch sử với những nhân vật và sự kiện lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, vẫn còn những sai lầm trong việc chọn lựa, chú thích ñiển tích và nghị luận về ca dao. 2.2 Tiếp theo là Vũ Ngọc Phan, trong cuốn Tục ngữ ca dao Việt Nam có bàn ñến ca dao lịch sử . Ông băn khoăn về hiện tượng nhầm lẫn ñối với ca dao lịch sử của người Việt. Ông ñã ñưa ra những dẫn chứng khá cụ thể và theo quan ñiểm của ông việc xác ñịnh nội hàm của bài ca dao lịch sử không ñơn giản. Ngoài ra, theo tác giả Vũ Ngọc Phan ca dao của ta có nhiều câu nhiều bài qua nhiều thế hệ và tùy theo từng ñịa phương, ñã bị sửa chữa, cả về hình thức lẫn nội dung không còn nguyên vẹn nữa. Chính vì những ñặc ñiểm như vậy mà tình 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. trạng nhầm lẫn hay gán ghép tùy tiện, thiếu cơ sở vững chắc giữa ca dao nói chung và ca dao có liên quan ñến lịch sử nói riêng là khó tránh khỏi. Mặt khác, ông vẫn còn chút băn khoăn, bởi thời gian xuất hiện của ca dao lịch sử chưa ñược rõ ràng. Như vậy việc ñặt ca dao của ta vào từng thời kì lịch sử là một việc chúng ta chưa làm ñược. Có thể thấy, công trình nghiên cứu của tác giả Vũ Ngọc Phan trong Tục ngữ ca dao Việt Nam ñã chỉ ra ñược những nhầm lẫn ñáng tiếc giữa ca dao về lịch sử với ca dao nói chung, chẳng những không nắm vững nội hàm của khái niệm mà còn chưa phân ñịnh rạch ròi thời gian xuất hiện của những bài ca dao có liên quan ñến lịch sử. 2.3 Sau Vũ Ngọc Phan, nhà nghiên cứu văn học dân gian Chu Xuân Diên, trong giáo trình Văn học dân gian (8) (tập 2) viết chung với ðinh Gia Khánh, xuất bản năm 1973 cũng ñề cập ñến vấn ñề ca dao về lịch sử. Ông ñã có những nhận ñịnh khá hoàn chỉnh về ca dao có liên quan ñến lịch sử ñó là những câu những bài ngắn lấy ñề tài ở những sự kiện lịch sử. Những biến cố lịch sử ñược ghi lại trong ca dao lịch sử là những biến cố ít nhiều ảnh hưởng ñến ñời sống nhân dân ñương thời. Trong nhóm ca dao có liên quan ñến lịch sử, nhân dân ta chỉ nhắc ñến lịch sử ñể nói lên thái ñộ, quan ñiểm của mình. Theo ông trước hết, có thể coi là ca dao lịch sử ñối với câu nào nói ñến lịch sử bằng một thứ ngôn ngữ trực tiếp như: những danh từ riêng chỉ tên người, tên ñất, tên triều ñại hay ít ra cũng phản ánh những ñặc ñiểm riêng biệt có thể nhận ra ngay ñược của một giai ñoạn lịch sử nhất ñịnh nào ñó. Không những thế, tác giả Chu Xuân Diên trong khuynh hướng, quan niệm nghiên cứu của mình còn mở rộng phạm vi phản ánh lịch sử của ca dao, dân ca ñến sự “phản ánh lịch sử - xã hội nói chung” . Theo ý kiến của ông: “Ca dao, dân ca Việt Nam phản ánh lịch sử Việt Nam không chỉ với ý nghĩa là ghi lại những sự kiện ñột xuất trong lịch sử dân tộc...”, mà còn phản ánh lịch sử - xã hội nói chung, và về mặt này, có thể coi ca dao, dân ca Việt Nam là một kho tàng tài liệu phong phú về phong tục, tập quán ở nông thôn ngày xưa”. ðây là những câu ca dao, bài ca dao phản ánh về lịch 3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. sử xã hội nhưng không phải ca dao về lịch sử. Có thể nhiều hay ít các câu, các bài ca dao của người Việt có liên quan phản ánh về lịch sử: sự kiện, nhân vật, cảnh quan nào ñó. Song ñể ñồng nhất những bài , câu ca dao này là ca dao về lịch sử quả là chưa thật hợp lí. 2.4 Công trình nghiên cứu của tác giả Võ ðình Hường về ñề tài Ca dao của người Việt về lịch sử ñã ñưa thêm ñược những ñiểm mới với ca dao về lịch sử của người Việt. Ông có ý muốn chỉ rõ ñược về mặt lí thuyết sự khác biệt giữa ca dao về lịch sử với ca dao nói chung trong ca dao của người Việt về nhiều phương diện: nhân vật, sự kiện, thời gian, không gian, ñịa ñiểm. Theo ông trong ca dao về lịch sử có những sự thực lịch sử có tính chất bao trùm nhưng ngắn hơn vè và sử ca.. Ngoài ra, ca dao về lịch sử và các thể loại khác cũng có kết cấu ngắn hơn, dung lượng phản ánh lịch sử ít hơn nhưng cô ñúc hơn, khái quát hơn. Tuy nhiên, ý muốn ñó của tác giả chỉ dừng ở mức ñộ nhất ñịnh. 2.5 Còn ñối với nhà giáo nhân dân Nguyễn Nghĩa Dân trong cuốn Lịch sử Việt Nam trong tục ngữ và ca dao cũng có những ý kiến nhận ñịnh khá xác ñáng với ca dao về ñề tài lịch sử. Ông cho rằng: ca dao về lịch sử ñã phản ánh những mốc son của lịch sử dân tộc ta ñồng thời góp phần tạo nên cốt lõi của nền văn hóa Việt Nam ñậm ñà bản sắc dân tộc. Việc xác ñịnh tiêu chí của ca dao về ñề tài lịch sử của người Việt phải căn cứ vào sự kiện, nhân vật, không gian và thời gian lịch sử ñược phản ánh vào trong ca dao về lịch sử. Do ñối tượng phản ánh là các sự kiện, nhân vật lịch sử... nên ca dao về ñề tài lịch sử có ñặc ñiểm vô cùng quan trọng là tính chân thực. Nội dung của ca dao về lịch sử ñậm ñà sắc thái trữ tình nhất là yêu ghét, căm thù. Về mặt nghệ thuật, ca dao về ñề tài lịch sử gần như không có ñặc trưng hư cấu, nếu có thì rất ít và không bao giờ xuyên tạc sự thật lịch sử. Cùng những nhà nghiên cứu trên, ñến nay có một số công trình nghiên cứu ở cấp ñộ các bài báo, bài viết nhưng có thể khẳng ñịnh vấn ñề nghiên cứu ca dao về ñề tài lịch sử của người Việt từ góc nhìn thể loại còn là một ñề tài mở. 4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  6. 3. ðối tượng và phạm vi nghiên cứu Các bài ca dao về ñề tài lịch sử của người Việt từ góc nhìn thể loại. Về tài liệu khảo sát, chúng tôi chọn: - Ca dao của người Việt về lịch sử - Võ ðình Hường - Nhà xuất bản ðại học quốc gia Hà Nội, 2001. - Lịch sử Việt Nam trong tục ngữ, ca dao - Nguyễn Nghĩa Dân- Nhà xuất bản Thanh niên, 2009. 3.3. Mục ñích nghiên cứu: 3.3.1 Khảo sát những bài ca dao về ñề tài lịch sử của người Việt theo phạm vi ñã nói ở trên ñể làm rõ bản chất thể loại của bộ phận ca dao này. 3.3.2 Qua việc nghiên cứu, người viết muốn góp phần bảo tồn, giữ gìn và giới thiệu những nét ñặc sắc của ca dao về ñề tài lịch sử trong kho tàng ca dao của dân tộc. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện ñề tài luận văn, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: 4.1 Phương pháp thống kê: Việc sử dụng phương pháp thống kê giúp chúng tôi ñi từ ñịnh lượng ñến ñịnh tính ñược số lượng nhiều hay ít của các nhóm, tiểu nhóm … trong ca dao có liên quan ñến lịch sử. Phương pháp này giúp ñưa ra ñược những số liệu cụ thể, chính xác về vấn ñề cần khảo sát. Từ ñó dẫn ñến những kết luận khách quan. 4.2 Phương pháp hệ thống: Phương pháp hệ thống là cách tiếp cận chỉnh thể hệ thống ca dao về lịch sử, chỉ ra những ñặc ñiểm loại hình và ñặc thù của ca dao về ñề tài lịch sử trong hệ thống ca dao nói chung của người Việt. 4.3 Phương pháp phân tích, tổng hợp: 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  7. Từ việc khảo sát, phân tích, tổng hợp những bài ca dao có liên quan ñến lịch sử, chúng tôi tìm ra những ñặc ñiểm về nội dung và nghệ thuật của ca dao về ñề tài lịch sử với ca dao nói chung của người Việt. 5. Dự kiến ñóng góp của luận văn 5.1 Người viết hi vọng kết quả mà luận văn ñạt ñược là những ñóng góp mới trong việc có thể phát hiện ra ñiểm ñặc thù của ca dao về lịch sử với ca dao nói chung của người Việt từ góc nhìn thể loại . 5.2 Thấy ñược giá trị của ca dao về ñề tài lịch sử của người Việt trong kho tàng văn học dân gian và ñời sống tinh thần của nhân dân ta. 5.3 Mặt khác, kết quả mà luận văn nghiên cứu sẽ là nguồn tư liệu hữu ích cho việc góp phần bảo tồn, phổ biến bộ phận ca dao lịch sử nói riêng và Văn học dân gian cả nước nói chung. 6. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm phần mở ñầu, nội dung và kết luận. Phần nội dung gồm 3 chương: CHƯƠNG 1: Tổng quan về ca dao có liên quan ñến lịch sử, ca dao về lịch sử trong kho tàng ca dao của người Việt. CHƯƠNG 2: Những ñặc ñiểm của ca dao về lịch sử từ phương diện nội dung. CHƯƠNG 3: Những ñặc ñiểm của ca dao về lịch sử từ phương diện nghệ thuật. 6 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  8. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CA DAO LIÊN QUAN ðẾN LỊCH SỬ, CA DAO VỀ LỊCH SỬ TRONG KHO TÀNG CA DAO NGƯỜI VIỆT. 1.1 Cơ sở lí thuyết. 1.1.1 Vấn ñề khái niệm. Ca dao là thể loại văn học dân gian ñược nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm ñến bởi những giá trị to lớn của nó trong nền văn học. Có thể thấy ca dao chính là mảnh ñất màu mỡ, rộng rãi và hấp dẫn nhưng cũng không kém phần bí ẩn ñối với những ai yêu thích và mong muốn khám phá vẻ ñẹp của ca dao. Ban ñầu nhân dân gọi những bài hát của mình bằng những tên gọi khác nhau: hò, hát ví, hát ñúm, lý, ngâm, ca, kể. Sau này các nhà nghiên cứu, sưu tầm ñã dùng một số thuật ngữ khác nhau ñể chỉ cùng một ñối tượng những câu hát dân gian: phong dao, dân ca, thơ ca dân gian, bài hát dân gian. Phong dao, ca dao là những thuật ngữ Hán Việt. Nếu ñịnh nghĩa theo từ nguyên thì ca là bài hát có chương khúc hoặc có âm nhạc kèm theo, còn dao là bài hát trơn. Nói như thế có nghĩa là ca dao và dân ca hầu như không có ranh giới rõ rệt. Sự phân biệt giữa ca dao và dân ca chỉ là chỗ khi nói ñến ca dao, người ta nghĩ tới lời thơ dân gian. Như vậy, ca dao thường ñược hiểu là lời bài hát dân ca, khi tách lời ca ra khỏi ñiệu hát. Ý kiến của nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan trong cuốn Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam (in lần ñầu năm 1956), cùng các ý kiến ñược ñề cập ñến trong các giáo trình ðại học tổng hợp (năm 2001), ðại học sư phạm Hà Nội (năm 1990) ñưa ra thuật ngữ kép “Ca dao - dân ca” và cũng ñược nhiều công trình biên soạn tiếp nhận và sử dụng. Theo các tác giả này thì ca dao là những bài có hoặc không có chương khúc, sáng tác bằng thể văn vần dân tộc( thường là lục bát) ñể miêu tả, tự sự, ngụ ý và diễn ñạt tình cảm. Còn dân ca là những bài hát có hoặc không có chương khúc do nhân dân sáng tác lưu truyền trong dân gian 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  9. ở từng vùng hoặc phổ biến ở nhiều vùng có nội dung trữ tình và có giá trị ñặc biệt về nhạc. Trước ñây, khi sưu tầm các câu hát và bài hát dân gian, các nho sĩ trí thức (trong một số bộ sưu tập ca dao từ thế kỷ XVIII ñến ñầu thế kỷ XX) chỉ chú ý ñến phần lời thơ của những sáng tác ấy, chỉ tuyển chọn những bài hay nhất và có ý nghĩa khái quát nhất về mặt phản ánh ñời sống, tình cảm, ñạo ñức, phong tục. Có một số nhà nghiên cứu ñưa ra giới hạn có phần chặt chẽ hơn và cũng thể hiện một thực tế: không phải toàn bộ những hệ thống câu hát của các loại dân ca (hát quan họ, hát trống quân, hát ghẹo, hát ví phường vải…) ñều là ca dao cả. Khái niệm ca dao dùng ñể chỉ bộ phận cốt lõi nhất, tiêu biểu nhất; ñó là bộ phận những câu hát mang những ñặc ñiểm nhất ñịnh và bền vững về phong cách, ñã trở thành cổ truyền của dân tộc. Như vậy ca dao ñược quan niệm rộng hẹp khác nhau nhưng không mâu thuẫn về bản chất. Có ba cách hiểu: Thứ nhất ca dao, dân ca là hai thuật ngữ tương ñương ñể chỉ một ñối tượng là những câu hát dân gian có sự kết hợp lời và nhạc, gắn với diễn xướng, thể hiện sâu sắc tính nguyên hợp của văn học dân gian; thứ hai ca dao thường ñược hiểu là lời thơ của dân ca, khi tách rời ra khỏi ñiệu hát, khi phân biệt ca dao và dân ca về mặt diễn xướng. Nói cách khác: Một bài ca dao không cần tiếng ñệm, luyến láy nhạc ñiệu thì là ca dao; thứ ba còn một bài ca dao ñược dùng ñể hát, có thêm tiếng nhạc ñệm, ñưa hơi thì sẽ thành dân ca; ca dao - dân ca ñược sử dụng như một thuật ngữ kép. Như vậy, có thể ñịnh nghĩa ca dao như sau: Ca dao là thơ ca dân gian tồn tại ở dạng lời thơ hoặc ñiệu hát, gắn bó mật thiết với ñời sống sinh hoạt của nhân dân. Với bản chất trữ tình, ca dao có chức năng diễn tả một cách trực tiếp tâm hồn, tình cảm của nhân dân lao ñộng. [ 25 ] Khái niệm lịch sử ñược hiểu là gì?Theo ñịnh nghĩa phổ thông thì lịch sử có mấy nghĩa sau ñây: Thứ nhất, ñó là những gì thuộc về quá khứ, là toàn thể quá trình chuyển biến từ khi phát sinh hoặc trong một thời gian nhất ñịnh; là các thế 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  10. hệ qua các thời ñại. Thứ hai, nói về một việc trọng yếu xảy ra có liên quan ñến thời ñại. Theo từ nguyên, lịch là cái ñã trải qua, rõ ràng, sử là sách chép việc ñã qua. Lịch sử là biên chép những sự biến thiên, diễn cách trải qua các ñời. Với bản chất vốn có của ca dao dân tộc những bài ca dao có liên quan ñến lịch sử tồn tại và phát triển cùng thời ñại. Trong kho tàng ca dao của người Việt có một nhóm ca dao do nội dung lịch sử mà nó thể hiện trước nay thường ñược tách riêng thành một loại gọi là những bài ca dao lịch sử. Có thể thấy những bài ca dao có liên quan ñến lịch sử là những biến cố có ảnh hưởng ñến ñời sống nhân dân ñương thời. Xét về thời ñiểm sáng tác, có thể thấy chưa có cơ sở ñể xác ñịnh các sáng tác này ngay sau những biến cố vừa xảy ra hay xảy ra ñã lâu, nhưng có lẽ ca dao có liên quan ñến lịch sử ñã phản ánh ñược những sự kiện lịch sử của dân tộc. Nhưng ca dao về ñề tài lịch sử không khái quát hóa các sự kiện lịch sử, không phát hiện quy luật lịch sử, cho dù qua hình tượng biểu hiện, mà những bài ca dao này chỉ một phần nào ñó thể hiện những biến cố lịch sử có liên quan nhiều ñến ñời sống nhân dân ñương thời. Ngoài ra, khi ñề cập ñến một hiện tượng lịch sử cụ thể, cá biệt, ca dao về ñề tài lịch sử không miêu tả hay kể chuyện chi tiết nghĩa là không phản ánh hiện tượng lịch sử trong quá trình ñang diễn biến của nó như vè dân gian, diễn ca lịch sử. Trong ca dao về ñề tài lịch sử, nhân dân thường nhắc ñến sự kiện lịch sử ñể thể hiện thái ñộ quan ñiểm của mình ñối với những biến cố lịch sử ñó. ðối chiếu với ca dao Việt Nam ñã ñược sưu tầm ghi lại thành văn bản thì ca dao Việt Nam về lịch sử là sự phản ánh có chọn lọc theo quan ñiểm của nhân dân về các hiện tượng, sự kiện văn hóa chính trị kinh tế xã hội từ khi có nòi giống dân tộc Việt Nam từ xa xưa ñến ngày nay. Những hiện tượng, sự kiện ñó tương ñối ñộc lập, có phần rời rạc, không kết nối thành quá trình, thành giai ñoạn lịch sử cụ thể. Ca dao là những lời hát dân gian thiên về tình cảm, biểu hiện cảm nghĩ của người dân thường trong quan hệ với thiên nhiên, với con người và với xã hội. Như vậy, những hiện tượng, sự kiện lịch sử chỉ có thể 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  11. ñược phản ánh qua chủ quan của tác giả dân gian, tính chất chủ quan này nói chung phù hợp với tính chất khách quan của nhân dân, theo quan ñiểm của nhân dân nên mới tồn tại ñược lâu dài, ñược truyền miệng và ñược ghi nhớ. Như vậy, không thể gọi là ca dao lịch sử mà gọi là Ca dao Việt Nam về ñề tài lịch sử, gọn lại là Ca dao Việt Nam về lịch sử ñể chỉ rõ mối liên hệ của ca dao Việt Nam với lịch sử dân tộc. Về vấn ñề này, có thể nêu ý kiến của Vũ Ngọc Phan trong mục “Ca dao lịch sử” (ñặt trong ngoặc kép) thực chất là thế nào?”. Tác giả viết: “Trong ca dao của ta, có một số ca dao người ta quen gọi là “ca dao lịch sử”. Sự thật thì văn học nói chung… ñều là sự phản ánh chính trị và kinh tế một thời ñại, cho nên ca dao của ta, một bộ phận lớn trong văn học dân gian truyền miệng, cũng có tác dụng phản ánh như trong văn học thành văn”. Trong ý kiến của Vũ Ngọc Phan là ca dao với chức năng phản ánh ở ñây là phản ánh lịch sử chứ không phải là ghi chép lịch sử. Như vậy cũng có nghĩa là ca dao về ñề tài lịch sử, về lịch sử chứ không phải là “ca dao lịch sử”. Trong “lịch sử văn học Việt Nam - Văn học dân gian”, sau khi phê phán sự gán ghép một số sự kiện lịch sử vào một số ca dao theo quan ñiểm chủ quan của Nguyễn Văn Mại, ðinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên viết: “… Có một nhóm ca dao, do nội dung lịch sử của nó, có thể ñược xếp riêng thành một loại mà chúng ta có thể gọi là những câu ca dao lịch sử. Ca dao lịch sử là những câu, những bài ca ngắn lấy ñề tài ở những sự kiện lịch sử”. [18, 21] Với các ý kiến trao ñổi trên ñây, có thể thấy các nhà nghiên cứu chưa mạnh dạn gọi thẳng là “ca dao lịch sử” (với nghĩa không thật chính xác nên ñóng ngoặc ñơn như Vũ Ngọc Phan hoặc dùng cụm từ “có thể gọi là” như ðinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên), cho nên kế thừa các công trình ñã nghiên cứu về nhóm ca dao có liên quan ñến lịch sử chúng tôi nhận thấy dùng cách gọi ca dao về lịch sử theo cách hiểu ñầy ñủ như trên ñã nói là ca dao có liên quan ñến lịch sử sẽ hợp lí hơn. Lịch sử mà ca dao Việt Nam phản ánh nói chung là lịch sử ñời sống văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của dân tộc Việt Nam, do ñó phạm vi phản ánh rất 10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  12. rộng nếu xét ñến những hiện tượng liên quan ñến lịch sử. Khi xem xét nội dung những ca dao liên quan ít nhiều ñến lịch sử có thể dựa vào những căn cứ ñể xác ñịnh bao gồm: - Căn cứ vào hiện tượng, sự kiện mà ca dao Việt Nam phản ánh. ðó là các hiện tượng về sinh hoạt ñời sống văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội trải qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc Việt Nam ñược truyền miệng và ñược phản ánh lại. Sinh con rồi mới sinh cha, Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông. phản ánh chế ñộ mẫu hệ hay sự chuyển biến từ chế ñộ mẫu hệ sang chế ñộ phụ hệ của dân tộc Việt Nam ta. Chàng về thiếp một theo mây, Con thơ ñể lại chốn này ai nuôi? Theo các nhà nghiên cứu trước ñây câu ca dao này bắt nguồn từ sự kiện về nguồn gốc nòi giống dân tộc ta phản ánh trong thần thoại Lạc Long Quân - Âu Cơ. Hiện tượng chống bão lụt ñể sản xuất nông nghiệp phản ánh trong truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh ñược biểu hiện: Núi cao sông hãy còn dài, Năm năm báo oán ñời ñời ñánh ghen. - Căn cứ vào tên các nhân vật lịch sử ñược thể hiện trong ca dao. Nhân vật ñược phản ánh, ghi tên lại trong ca dao về lịch sử phần lớn là các danh nhân lịch sử, văn hóa như vua Hùng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Thánh Gióng, Bà Triệu, Mai Hắc ðế, Lê Lợi, Quang Trung, Hồ Chí Minh… Như nói về nông nghiệp phát triển dưới triều ñại các vị vua này: ðời vua Vĩnh Tộ lên ngôi, Cơm trắng ñầy nồi trẻ chẳng ăn cho. Hay : Có chàng Công Tráng họ ðinh, 11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  13. Dựng lũy Ba ðình chống giặc ñánh Tây. nói về cuộc khởi nghĩa của ðinh Công Tráng chống Pháp. Hay trong cả ca dao hiện ñại, tài năng của ñại tướng Võ Nguyên Giáp và nhà ngoại giao Phạm Văn ðồng ñược ca ngợi khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954) Nước non hàng vạn anh tài, Võ tài ông Giáp văn hay ông ðồng. Ông Giáp ñánh giặc nhiều công, Tây gặp ông ðồng, Tây cũng phải thua. Nhân vật lịch sử ñược phản ánh trong ca dao về lịch sử cũng có không ít nhân vật xấu bị nhân dân lên án như sau ñây là sự phê phán mỉa mai các quan triều: Nước Nam có bốn anh hùng, Tường ñiêu, Viêm láo, Khiêm khùng, Thuyết ngu. Còn: ðồn rằng Khải ðịnh nịnh Tây, Nghề này thì lấy ông này tiên sư. Dân gian ñã dùng hình thức “tập Kiều” ñể phê phán vua Khải ðịnh… - Căn cứ vào ñịa danh nơi xảy ra sự kiện lịch sử hoặc tên các ñịa phương nổi tiếng có liên quan ñến các hiện tượng, sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa nổi tiếng ñã ñược ghi lại trong lịch sử dân tộc. Bộ phận ca dao này là chủ yếu phản ánh trong ca dao lịch sử này. Nói về di tích Cổ Loa: Ai về thăm huyện ðông Ngàn, Ghé thăm thành Ốc, Rùa Vàng tiên xây. Rồi: Nhong nhong ngựa ông ñã về, Cắt cỏ Bồ ðề cho ngựa ông ăn. 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  14. nói về quân khởi nghĩa của Lê Lợi ñã về Bồ ðề (Gia Lâm, ðông Quan) vào cuối năm 1427. Liên quan ñến việc phản ánh các nhà tù của thực dân Pháp tù ñày các chiến sĩ cách mạng Việt Nam thì có các ñịa danh trong câu: Ngó ra Phú Quốc, ngó lại Côn Lôn Gió rao rao sóng bủa hết hồn Bền gan sắt ñá trừ phường tà gian. - Căn cứ vào thời ñiểm cụ thể của sự kiện lịch sử ñã xảy ra. Các bài ca dao ñược xác ñịnh theo ngày tháng ñược ghi cụ thể (thường là âm lịch). ðó là những ngày hội, ngày giỗ, những năm tháng khó quên trong ký ức của nhân dân: hội ðền Hùng Dù ai ñi ngược về xuôi, Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba. Và : Nhâm Ngọ thì có sao ñuôi, ðến năm Quý Mùi giặc liền phá ra. Nhà vua thân với Lãng Sa, ðể Tây ăn cướp trứng gà An Nam. Nói về sao chổi năm 1882 (ñiềm không tốt) năm 1883 giặc Pháp ñánh cửa biển Thuận An (Huế). Hay nói về ngày thương binh liệt sĩ bắt ñầu từ 27/7/1947 của nước ta. Dù ai ñi ñông về tây, Hăm bảy tháng bảy nhớ ngày thương binh. ðây là những căn cứ chính có thể ñược dùng làm tiêu chí ñể xác ñịnh ca dao Việt Nam về lịch sử. Trong một câu ca dao, các tiêu chí ñó thường ñược kết hợp với nhau ñể phản ánh về một sự kiện, một hiện tượng hoặc một hay nhiều nhân vật lịch sử có liên quan, trong ñó việc kết hợp giữa sự kiện, hiện tượng lịch sử với nhân vật lịch sử là chính, là hữu cơ, cần thì có thêm thời ñiểm, ñịa danh: 13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  15. Ai lên Biện Thượng Lam Sơn, Nhớ vua Thái Tổ chặn ñường quân Minh. phản ánh sự kiện khởi nghĩa Lam Sơn với Lê Thái Tổ có ghi thêm ñịa danh. Khách cười, Tây khóc, Nhật no, Việt Nam ñộc lập nằm co chết ñường. Phản ánh nhiều sự kiện lịch sử của nước ta trong thời gian cuối năm 1944 ñầu 1945 về chính trị, kinh tế, xã hội rất phức tạp. 1.1.2 Vấn ñề ca dao về lịch sử từ góc nhìn thể loại. Ca dao dân ca Việt Nam cũng như các loại hình nghệ thuật khác ñược sáng tạo nên do nhu cầu của hiện thực ñời sống lịch sử, xã hội của các thành phần cư dân trên lãnh thổ Việt Nam qua các thời ñại. Mặt khác nó cũng nằm trong quỹ ñạo sáng tạo nghệ thuật của loại hình trữ tình dân gian các dân tộc trên thế giới. Những sáng tác trữ tình dân gian mà trong ñó ca dao có mối quan hệ với thực tại khác hẳn các thể loại tự sự, và dùng những biện pháp khác ñể truyền ñạt cái thực tại ấy. ðối tượng của nó là con người, hiện thực, là cuộc sống và những cảm xúc của con người hiện thực. Những sáng tác trữ tình dân gian mà ñiển hình là ca dao phản ánh thế giới nội tâm của con người, phạm vi hiện thực bị lôi cuốn vào sáng tác nghệ thuật. Thực tại mà thơ ca trữ tình chiếm lĩnh bao gồm lĩnh vực ñời sống lịch sử của nhân dân, ñời sống chính trị. Nhân dân không chỉ miêu tả biến cố trong lịch sử vào ca dao mà còn biểu thị thái ñộ ñánh giá ñối với biến cố ấy. Về bản chất nghệ thuật có thể thấy thơ ca trữ tình dân gian là nơi bộc lộ, là tiếng hát trữ tình của con người, là tấm gương ñể phản chiếu tâm hồn dân tộc. Ý nghĩa cơ bản nhất của thơ ca trữ tình là biểu ñạt ñời sống tình cảm, cảm xúc của nhân dân. Bản chất nghệ thuật của ca dao chính là thơ ca trữ tình. Ca dao diễn tả ñược tâm trạng , biểu hiện tình cảm trong quan hệ gia ñình: người mẹ, người chị; trong quan hệ xã hội ñó là tình cảm, cách ñối xử giữa con người với con người; trong tình bạn, tình yêu ñó là quan hệ tình bạn, tình yêu. Không 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  16. giống với thơ trữ tình trong văn học viết mang dấu ấn của tác giả còn ca dao thì có ñiều ñó vì nó là tình cảm, cảm xúc của một tập thể, một cộng ñồng. F. Hêghen ñã nhận xét: “Thơ ca dân gian hợp thành một trong những dòng chính của thơ trữ tình” và “Bài hát dân gian dù có biểu hiện một nội dung cô ñọng nhất cũng không cho ta thấy, qua cái biểu ñạt ấy, một cá nhân riêng biệt. Ở ñây cá nhân còn gắn bó không tách rời cộng ñồng...Với tư cách là chủ thể trữ tình, cái tiếng nói qua ñó (qua ca dao) biểu hiện cảm hứng trữ tình của ñời sống dân tộc”.[9] Khá nhiều những ý kiến ñã ñánh giá cao giá trị nhiều mặt của thơ ca dân gian. “Thơ cổ ñiển có những ưu ñiểm lớn lao khác nhưng chưa dễ trong thơ cổ ñiển ñã có ñược cái chất tâm hồn người mới cày xới lên, còn tươi rói, bốc hơi chảy máu.” [4] Như thế với bản chất xã hội, bản chất nghệ thuật ca dao về lịch sử có phải là thơ ca trữ tình hay không? Chắc chắn câu trả lời là có bởi ca dao về lịch sử mượn sự kiện lịch sử ñể bày tỏ nỗi lòng, phản ánh thực tại xã hội: Vạn Niên là Vạn Niên nào, Thành xây xương lính hào ñào máu dân. ñã phản ánh tình trạng tiêu pha lãng phí vô ñộ của Tự ðức - ông vua ñã cắm ñất xây lăng Vạn Niên hao tổn rất nhiều nhân lực, vật lực. Hay khi phong trào khởi nghĩa Tây Sơn lan rộng ra cả nước rất nhanh chóng, nhân dân Thanh Hóa ñã lưu truyền câu ca dao là lời kêu gọi thanh niên gia nhập nghĩa quân: Anh ñi theo chúa Tây Sơn, Em về cày cuốc mà thương mẹ già. Tuy nhiên, trên thực tế các thành tựu nghiên cứu từ trước tới nay về ca dao về lịch sử chưa từng trả lời câu hỏi: ca dao về lịch sử trong sự khu biệt với vè lịch sử. Vè là một thuật ngữ văn học dân gian có liên quan với từ vè trong “vần vè”. Vè có nghĩa là tiếng nói có vần. Tiếng Việt vốn là ngôn ngữ giàu thanh ñiệu. Nhân dân ta trong lời ăn tiếng nói hàng ngày lại thích dùng những câu văn nhịp nhàng, ñối xứng, thích nói ví von. Cho nên bên cạnh lối tự sự bằng văn xuôi ñã 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  17. xuất hiện lối tự sự bằng văn vần. Vè xuất hiện ñể kể chuyện một cách có vần nhịp, khi tác giả dân gian thấy kể chuyện bằng văn xuôi chưa ñáp ứng ñầy ñủ ñược cho việc biểu hiện nội dung của vấn ñề muốn nêu lên. Vè là một thể loại văn vần dân gian ñược nhân dân sử dụng ñể ghi chép có kèm theo bình luận về thời sự ñịa phương hoặc biến cố lịch sử. Vè ít nhiều giống như phóng sự, kí sự, bút kí trong văn học thành văn. Vè ñược xem là thứ “báo chí” dân gian. Căn cứ vào chủ ñề, có thể chia vè thành hai loại chính: vè thế sự và vè lịch sử. Vè lịch sử có ñiểm giống truyền thuyết lịch sử - một thể loại có sự phản ánh sự kiện, nhân vật lịch sử thông qua hư cấu “thơ và mộng” (lời của thủ tướng Phạm Văn ðồng). Vè lấy ñề tài ở những sự kiện lịch sử nhưng thường vượt ra khỏi phạm vi ñịa phương nên vè ñược phổ biến rất rộng rãi ở nhiều nơi trong nước. Sự kiện lịch sử lùi dần vào quá khứ, nhưng vè lịch sử có tác ñộng mạnh ñến ñời sống văn hóa dân tộc cho nên nó tồn tại lâu dài trong kí ức nhân dân. Vè lịch sử ñược sáng tác sau sự kiện lịch sử có thể xảy ra tương ñối lâu và những người sáng tác chắc là những người chứng kiến những sự kiện lịch sử ñó. Trong vè lịch sử thường hòa quyện hai yếu tố: sự chân thực lịch sử và sự hư cấu thần kì. Người sáng tác không phải là nghệ sĩ hoặc trí thức dân gian ñứng về phía nhân dân. Qua vè lịch sử chúng ta nhận diện thấy bóng dáng của hai loại anh hùng lịch sử: anh hùng nông dân khởi nghĩa và sĩ phu chống Pháp. Hình tượng ñiển hình của người nông dân khởi nghĩa chống chế ñộ phong kiến thối nát ñó là chàng Lía, trong bài vè người kể khẳng ñịnh: Truyện chàng Lía nay kể như y, Giúp vui cô bác những khi việc rồi. ðầu ñuôi có thế mà thôi, Xin chào chư vị, quê tôi, tôi trở về. Chàng Lía sinh ra chỉ biết mẹ không biết cha: Giậm chân ba tiếng kêu trời, Thân tôi có mẹ suốt ñời không cha. 16 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  18. Cuối cùng, Lía không chỉ cướp của nhà giàu chia cho người nghèo mà còn ñánh tan cả quân chúa Nguyễn ở Quy Nhơn: Lừng danh chàng Lía tài cao, Thâu ñược thành nọ tiếng hào ñồn ran. Vỗ về chiêu dụ trăm dân, Trước sau yên ổn mười phần làm ăn. Những diến biến trong cuộc ñời chàng Lía là hình ảnh thu nhỏ của lịch sử xã hội Việt Nam thế kỉ XVII-XVIII. Câu chuyện “ñược kể như y” trong vè chàng Lía là cuộc tập dượt cho sự thắng lợi của người anh hùng áo vải Quang Trung, Nguyễn Huệ sau này. Những bài vè lịch sử có sự gia công về xây dựng cốt truyện, gọt giũa câu thơ. Vè sử dụng yếu tố chủ ñạo là tự sự. Bên cạnh ñó vè cũng sử dụng yếu tố trữ tình xen lẫn trong mạch tự sự. Có thể thấy vè là thể loại văn học dân gian rất gần gũi với các thể loại văn học dân gian khác. Nó giống truyền thuyết bởi sự gắn bó với các nhân vật và sự kiện lịch sử, giống thần thoại ở nét siêu phàm của hành ñộng nhân vật và các sự kiện lịch sử, giống với cổ tích ở cốt cách kể chuyện, giống với ca dao, dân ca ở hình thức thơ và phương thức diễn xướng...Nhưng vè phân biệt với các thể loại văn học dân gian khác ở tính “khẩu báo” mạnh và tính chiến ñấu cao của nó. Trong vè bao giờ cũng có hiện lên nhân vật thứ ba là người kể chuyện. Còn trong ca dao cũng có yếu tố tự sự nhưng là tự sự trữ tình. Cũng là câu chuyện song không ñi vào mở ñầu cho ñến kết thức, mà kể chuyện ñể rồi nhân vật bộc lộ tâm trạng , tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình. Bài ca dao: Sáng ngày tôi ñi hái dâu, Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn. Hai anh ñứng dậy hỏi han, Hỏi rằng cô ấy vội vàng ñi ñâu. - Thưa rằng tôi ñi hái dâu Hai anh mở túi ñưa trầu cho ăn. 17 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  19. -Thưa rằng bác mẹ tôi răn, Làm thân con gái chớ ăn trầu người. thì sáu câu ñầu là câu chuyện, có sự việc, có nhân vật, tưởng như là một lời kể. Song hai câu cuối mang ý nghĩa sâu sắc: là nét kín ñáo gìn giữ của cô gái. Yếu tố tự sự trữ tình trong ca dao người Việt thể hiện trong thời gian ước lệ, hoàn cảnh phù hợp với mọi ñối tượng, và ñặc biệt ñể chỉ tình cảm, cảm xúc của chủ thể trữ tình nói chung. Như vậy, trong ca dao nói chung và ca dao về lịch sử nói riêng nội dung vẫn thiên về biểu hiện lòng người. Những bài ca dao có liên quan ñến lịch sử ấy vẫn mang phong cách , thi pháp của ca dao. Với thể loại vè, ca dao có liên quan ñến lịch sử có ñiểm giao thao gặp gỡ nhau về ñề tài, chủ ñề về nhân vật, sự kiện lịch sử. Về chức năng sinh hoạt thực hành về cơ bản vè có tính chất phản ánh còn ca dao là biểu hiện. Phương thức diễn xướng: vè chỉ ñể kể còn ca dao nói chung cũng như ca dao về lịch sử có thể hát, kể. Còn về thi pháp: kết cấu vè là kết cấu trần thuật, còn ca dao là kết cấu ñối ñáp, Nhân vật trữ tình trong vè là chủ thể, người chứng kiến sự việc ghi lại còn ca dao nhân vật trữ tình là khách thể không cụ thể là ai, thời gian không gian của ca dao không phải là thời gian không gian của lịch sử...Như vậy, cần phân biệt vè lịch sử với ca dao về lịch sử từ góc nhìn thể loại. ðề tài của luận văn này chúng tôi kế thừa những công trình nghiên cứu có trước. Xác ñịnh ca dao trong nhóm ca dao thường gọi là “ca dao về lịch sử”, xác ñịnh những ñiểm chung, riêng, những nét ñặc thù ñể thấy nó là một biệt loại. 1.2 ðịnh lượng về lịch sử trong kho tàng ca dao người Việt. 1.2.1 Vấn ñề nghiên cứu ca dao về lịch sử trong kho tàng ca dao của người Việt. Khai thác nội dung lịch sử trong văn học dân gian là công việc người xưa vẫn làm. Ngô Sĩ Liên sử dụng các truyền thuyết thời kì dựng nước ñể viết phần ngoại kỷ của ðại Việt sử kí toàn thư, các gia sử triều Nguyễn cũng sử dụng 18 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  20. chất liệu văn học dân gian ñể viết phần tiền biên trong Việt sử thông giám cương mục. Nhưng việc làm ñó rất khó và có nhiều ñiều cần bàn về nội dung và phương pháp luận. Trong cuốn Việt Nam phong sử tác giả Nguyễn Văn Mại có ý thức “lấy phong dao làm gương sáng mà chiếu tinh thần quốc sử, lại lấy quốc sử làm căn bản ñể cắm cái hoa lá phong dao”. [21] Nguyễn Văn Mại ñã cố gán ghép các câu ca dao vào từng thời kì lịch sử từng sự kiện và nhân vật lịch sử từ Kinh Dương Vương cho ñến nhà Nguyễn. Trong những bài ca dao ñược Nguyễn Văn Mại giải thích như là sự phản ánh của các sự kiện lịch sử nhất ñịnh, thực ra có nhiều câu chỉ là liên tưởng xa xôi, không có cơ sở vững chắc. Và sự liên tưởng này thường xuất phát từ sự tương ứng ngẫu nhiên giữa hình ảnh của bài ca dao với một sự kiện lịch sử nào ñó. Có khi chỉ là hiện tượng phổ biến trong ñời sống lại ñược ông ñã gán cho một ý nghĩa: Thương chồng nên phải gắng công, Nào ai xương sắt da ñồng chi ñây. ông viết “Bà Trưng là ñàn bà, vì chồng mà báo thù, ñánh ñuổi Tô ðịnh, thực là gan vàng dạ sắt”. Thực chất ở ñây chỉ nói về người phụ nữ lao ñộng Việt Nam, có lẽ có cách hiểu ấy là do có sự tương ứng về mặt hình ảnh. Còn câu: Hoa thơm thơm lạ thơm lùng, Thơm cành thơm rễ, người trồng cũng thơm. lại ñược Nguyễn văn Mại giải thích: “vua Lí Huệ Tông thấy con gái thuyền chài có sắc ñẹp mà lấy, rồi cả họ Trần cũng ñược hiển quý. ðó chỉ là vua Lí Huệ Tông say ñắm vì sắc hoa”. Có lẽ trong những trường hợp này, nhà nho ñã mượn ca dao ñể nói lên ý kiến của riêng mình nên nội dung bài ca dao ñược lí giải chưa hợp lí. Thế nhưng thực tế, di sản ca dao có những bài khách quan phản ánh các hiện tượng lịch sử ñáng tin cậy. Cự An thì có thành Dền, Hạ Lôi thì có ngôi ñền thờ vua. 19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2