intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

45
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông là một tiểu loại đặc sắc, đậm đà màu sắc văn hóa Mông. Qua việc nghiên cứu đề tài Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, các tác giả muốn góp phần gìn giữ, bảo tồn và giới thiệu những nét đặc sắc trong truyện cổ tích của dân tộc Mông ở Yên Bái đến độc giả và những người quan tâm đến vấn đề này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM MAI ANH DŨNG KHẢO SÁT TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN – 2013
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM MAI ANH DŨNG KHẢO SÁT TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS: Vũ Anh Tuấn THÁI NGUYÊN – 2013 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố trong một công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2013 Tác giả luận văn Mai Anh Dũng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, cùng toàn thể các thầy cô giáo đã tham gia giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu khoa học cho tập thể lớp Cao học K19 - Văn học Việt Nam; Sở Giáo dục và Đào tạo Yên Bái; Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Văn Yên; Ban Giám hiệu và tập thể giáo viên trường THCS Lương Thế Vinh huyện Văn Yên đã tạo điều kiện để tôi có cơ hội học tập và nghiên cứu khoa học. Xin chân thành cảm ơn thầy giáo - nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa các dân tộc Hoàng Việt Quân - Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Yên Bái đã tạo điều kiện giúp đỡ nhiệt tình trong suốt quá trình tôi tập hợp tư liệu và tìm hiểu về con người, văn học - văn hóa dân tộc Mông ở Yên Bái; đồng bào dân tộc Mông ở huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong những chuyến đi thực địa. Xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS Vũ Anh Tuấn - người thầy rất nghiêm khắc, tận tình trong công việc đã truyền thụ cho tôi nhiều kiến thức quý báu cũng như kinh nghiệm nghiên cứu khoa học trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2013 Tác giả luận văn Mai Anh Dũng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ ................................................................................................... Lời cam đoan.................................................................................................... Lời cảm ơn ....................................................................................................... Mục lục ........................................................................................................... i MỞ ĐẦU........................................................................................................1 NỘI DUNG ....................................................................................................7 Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI...........................7 1.1. Sơ lược về điều kiện tự nhiên, đặc điểm xã hội và đời sống văn hóa của dân tộc Mông ở Yên Bái .................................................................7 1.1.1. Đặc điểm địa - chính trị Yên Bái ......................................................7 1.1.2. Đặc điểm lịch sử văn hóa dân tộc Mông ở Yên Bái ..........................8 1.2. Truyện cổ tích, truyện cổ tích thần kỳ ..................................................11 1.2.1. Truyện cổ tích.................................................................................11 1.2.2.Truyện cổ tích thần kỳ .....................................................................13 1.3. Tình hình sưu tầm và khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái ...................................................................18 1.3.1. Trước Cách mạng tháng Tám - 1945 ..............................................18 1.3.2. Sau Cách mạng tháng Tám - 1945 ..................................................19 1.4. Khảo sát văn bản ..................................................................................23 1.4.1. Đặc điểm bản kể .............................................................................23 1.4.2. Tính dị bản .....................................................................................25 1.5. Phân nhóm truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái....27 Chương 2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI...................................................................................30 2.1. Những phương diện cơ bản về mặt nội dung ........................................30 2.1.1. Truyện về người mồ côi..................................................................30 2.1.2. Truyện về người em........................................................................38 i Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  6. 2.1.3. Truyện về người con riêng..............................................................43 2.1.4. Truyện về người mang lốt...............................................................46 2.1.5. Truyện về người dũng sĩ .................................................................52 2.2. Những điểm tương đồng và khác biệt về nội dung phản ánh giữa truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái với truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Kinh ...............................................57 2.2.1. Những điểm tương đồng......................................................................57 2.2.2. Những điểm khác biệt..........................................................................58 Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI ..60 3.1. Kết cấu truyện ......................................................................................60 3.1.1. Phần mở đầu...................................................................................60 3.1.2. Phần nội dung.................................................................................62 3.1.3. Phần kết thúc ..................................................................................65 3.2.1. Đặc điểm xây dựng nhân vật chính. ................................................66 3.2.1.1. Nghệ thuật giới thiệu nhân vật. ...............................................66 3.2.1.2. Nghệ thuật sử dụng yếu tố thần kỳ..........................................67 3.2.2. Đặc điểm nhân vật người kể chuyện. ..............................................68 3.2.2.1. Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần thuật thuần túy.................................................................................69 3.2.2.2. Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần thuật xen với ngôn ngữ đối thoại của nhân vật chính .......................71 3.3. Không gian - thời gian nghệ thuật. .......................................................74 3.3.1. Không gian nghệ thuật....................................................................74 3.3.2. Thời gian nghệ thuật.......................................................................75 3.4. Một số biểu tượng trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.............................................................................77 KẾT LUẬN..................................................................................................82 TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................85 PHỤ LỤC......................................................................................................... ii Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. 1.1 Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Mỗi dân tộc lại có những nét riêng về bản sắc văn hóa cũng như phong tục tập quán. Điều đó phần lớn được thể hiện trong những lời ru, câu hò, điệu hát… và cả trong những câu chuyện cổ tích được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Trong những năm gần đây, thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về việc chăm lo phát triển văn hóa dân tộc, những người làm công tác văn hóa tư tưởng, văn nghệ dân gian cùng những người yêu thích văn học dân tộc đã tiến hành sưu tầm truyện dân gian trên khắp mọi miền đất nước. Số lượng các truyện cổ tích nói riêng và truyện dân gian nói chung được sưu tầm ngày càng nhiều, góp phần làm cho kho tàng văn học dân tộc ngày càng phong phú và giàu đẹp hơn. Song để có được cái nhìn toàn diện, có cách đánh giá đúng đắn về giá trị truyện cổ tích của mỗi dân tộc, khi tiến hành khảo cứu chúng ta phải tìm hiểu thêm về vị trí địa lý, địa hình, lịch sử, lễ hội, phong tục tập quán… để thấy được các yếu tố bên ngoài tác động, chi phối đến sự hình thành, phát triển của mỗi tác phẩm văn học; thấy được sức sống bền bỉ của văn học dân tộc trong không gian, thời gian. Việc khảo sát truyện cổ tích của mỗi dân tộc sẽ đánh giá được một cách chính xác giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong mỗi truyện dân gian của từng dân tộc. Qua việc khảo sát, ta sẽ thấy được nguồn gốc tộc người, đặc điểm tính cách cũng như lối sống của từng dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 1.2 Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa miền Tây Bắc và Trung du Bắc Bộ của Việt Nam. Ở vị trí cửa ngõ miền Tây Bắc của Tổ quốc, đây còn là điểm dừng chân của các dòng người thiên di từ đồng bằng Bắc Bộ lên, từ phương Bắc xuống sinh cư lập nghiệp. Hiện nay, vùng đất Yên Bái là nơi quần cư của hơn 30 dân tộc anh em với dân số gần 70 vạn người, trong đó dân tộc Mông chiếm 8,1%. Hầu hết người Mông ở Yên 1 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  8. Bái sống ở các triền núi cao. Họ cư trú tập trung chủ yếu ở Trạm Tấu và Mù Cang Chải. Là một người con được sinh ra trên mảnh đất Yên Bái anh hùng, ngay từ thời ấu thơ tôi đã biết đến người Mông qua điệu múa khèn; được nghe tiếng đàn Môi, lời hát giao duyên mộc mạc nhưng đằm thắm; được xem ném Còn, đánh Pao trong lễ hội Gầu tào; được nghe những câu chuyện cổ tích thần kỳ của người Mông. Qua đó, tôi nhận thấy rằng bản sắc văn hóa của người Mông vô cùng phong phú, độc đáo. Đó là những nét riêng để phân biệt văn hóa Mông với văn hóa các dân tộc anh em trên địa bàn cư trú. Truyện cổ tích thần kỳ là một trong những yếu tố làm nên bản sắc văn hóa của người Mông ở Yên Bái nói riêng và của cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung. Người Mông luôn coi những câu chuyện cổ tích thần kỳ của dân tộc mình như một báu vật để truyền lại cho con cháu đời sau. 1.3 Năm học 2002 - 2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho phát hành bộ sách giáo khoa mới. Nhằm giúp học sinh tăng cường sự hiểu biết về văn học của từng địa phương, qua đó bồi dưỡng cho các em tình yêu quê hương đất nước, chương trình sách giáo khoa Ngữ văn ở bậc học THCS đã dành ra thời lượng 5 tiết/lớp/năm học để mỗi tỉnh (thành phố) giới thiệu về văn học của địa phương mình cho học sinh. Năm học 2008 - 2009, Sở Giáo dục và Đào tạo Yên Bái đã biên soạn công trình Ngữ văn địa phương trung học cơ sở nhằm cung cấp tài liệu giảng dạy và học tập cho giáo viên và học sinh THCS trong toàn tỉnh. Qua công trình trên, đội ngũ tác giả đã giới thiệu về văn học các dân tộc tỉnh Yên Bái như: dân tộc Kinh, dân tộc Thái, dân tộc Dao, dân tộc Cao Lan và dân tộc Mông. Nhờ đó độc giả có thể thấy được truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông cũng như truyện cổ tích của các dân tộc anh em khác lưu hành ở Yên Bái có một vị trí rất quan trọng trong kho tàng văn học dân gian. 1.4 Là giáo viên dạy Ngữ văn ở trường THCS Lương Thế Vinh (huyện Văn Yên – tỉnh Yên Bái), tôi nhận thấy rằng việc khảo sát truyện dân 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  9. gian của dân tộc nói chung và truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông ở Yên Bái nói riêng sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn đầy đủ hơn về truyện dân gian của dân tộc Mông ở Yên Bái. Với những lý do trên, chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái để làm đề tài nghiên cứu. Việc lựa chọn đề tài này mặc dù gặp rất nhiều khó khăn và vất vả, song nếu thành công chắc chắn nó sẽ có nhiều hữu ích. 2. Lịch sử vấn đề. Tìm hiểu về văn hóa cũng như truyện cổ tích của mỗi dân tộc trong mấy thập kỷ gần đây đã được những người làm công tác văn hóa tư tưởng, văn nghệ dân gian cùng những người yêu thích văn học dân tộc lưu tâm. Xét riêng ở tỉnh Yên Bái, việc sưu tầm nghiên cứu về văn hóa Mông cũng như truyện kể dân gian Mông đã được chú ý. Cho đến nay, văn học cũng như truyện cổ tích của dân tộc Mông ở Yên Bái mới chỉ được sưu tầm, dịch và giới thiệu trên một số công trình hay tạp chí của địa phương và trung ương. Qua quá trình khảo sát, chúng tôi chưa thấy có công trình nào giới thiệu đầy đủ về truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. Bên cạnh đó, việc khảo sát các giá trị về nội dung và nghệ thuật của các truyện cổ tích thần kỳ cũng chưa được tiến hành. Có thể những điều đó chưa phải là mục đích của các công trình đã nghiên cứu. Về truyện dân gian của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi mới chỉ thấy luận văn Khảo sát truyền thuyết các dân tộc lưu hành ở Yên Bái của Thạc sĩ Phùng Thị Phương Hạnh đề cập đến vấn đề này. Một số công trình khác của Lò Ngân Sủn, Trần Hữu Sơn, Doãn Thanh, Minh Khương, Đinh Sơn, Hoàng Hạc, Hoàng Việt Quân lại tập trung vào nghiên cứu văn hóa, dân ca, lịch sử mang tính tổng hợp chứ không phải là công trình nghiên cứu văn học. Chúng tôi nhận thấy rằng số lượng truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái không những phong phú về số lượng mà còn đa dạng trong việc thể hiện nội dung. Bên cạnh những điểm tương đồng trong 3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  10. một vài truyện kể thì truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái có nhiều điểm khác biệt so với truyện cổ tích của các dân tộc anh em khác. Chính điều đó đã làm nên sức hấp dẫn của truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. Trên cơ sở kế thừa thành tựu của những người đi trước, chúng tôi mong muốn trong một giới hạn nhất định đề tài Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái sẽ là cơ hội để mình tiến hành tìm hiểu các giá trị về nội dung và nghệ thuật làm nên giá trị của truyện dân gian dân tộc Mông trên tinh thần khoa học và toàn diện nhất có thể, từ đó hướng tới một cách hiểu và cách lý giải thuyết phục về cái hay, cái độc đáo và hấp dẫn của truyện cổ tích dân tộc Mông ở Yên Bái. Hy vọng rằng việc nghiên cứu đề tài này là một đóng góp của người viết trong việc phát hiện về bản sắc văn hóa của dân tộc. 3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu. 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Khi thực hiện công việc, chúng tôi sẽ đặt trọng tâm vào đối tượng chính: Truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái được sưu tầm và giới thiệu trên các sách, báo, tạp chí; các phương tiện thông tin đại chúng của trung ương và địa phương. Tiêu biểu là các công trình sau: - Nàng Nu - truyện cổ dân tộc Mông do Minh Khương sưu tầm, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc (1997). - Suối nước mắt - Tập truyện dân gian vùng Văn Chấn do Phạm Đức Hảo sưu tầm, Nhà xuất bản văn hóa dân tộc (1996). - Ông vua ngốc - truyện cổ các dân tộc Hoàng Liên Sơn do Lò Ngân Sủn biên tập, in tại xí nghiệp in Hoàng Liên Sơn (1989). 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Trong giới hạn của đề tài luận văn, chúng tôi sẽ tập trung vào việc khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. Qua đó chỉ ra những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật trong các truyện. 4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  11. 3.3. Mục đích nghiên cứu: Truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông là một tiểu loại đặc sắc, đậm đà màu sắc văn hóa Mông. Qua việc nghiên cứu đề tài Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi muốn góp phần gìn giữ, bảo tồn và giới thiệu những nét đặc sắc trong truyện cổ tích của dân tộc Mông ở Yên Bái đến độc giả và những người quan tâm đến vấn đề này. 4. Những đóng góp mới của luận văn. 4.1 Về lý luận: - Thống kê và phân loại được truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. - Hiểu được mối quan hệ hữu cơ giữa văn học và các yếu tố ngoài văn học: lịch sử tộc người, quan niệm sống, vùng đất, địa bàn cư trú, văn hóa… Đó là những nhân tố quan trọng góp phần làm nên sức sống của truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông. 4.2 Về nhận thức: Kết quả mà luận văn đạt được chính là những giá trị nội dung cũng như những giá trị nghệ thuật làm nên sự hấp dẫn trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. Mặt khác, kết quả mà luận văn nghiên cứu sẽ là nguồn tư liệu hữu ích cho việc nghiên cứu và giảng dạy của giáo viên đứng lớp sau này khi giảng dạy về văn học địa phương ở Yên Bái cũng như văn học các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích đề ra trong phạm vi tự giới hạn, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng phối hợp một số phương pháp sau: - Phương pháp thống kê, phân loại. - Phương pháp phân tích - tổng hợp: Từ việc khảo sát, thống kê, phân loại, chúng tôi tiến hành tìm hiểu các giá trị về nội dung và nghệ thuật làm nên nét riêng trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  12. - Phương pháp đối chiếu, so sánh: Để làm nổi bật tính địa phương trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi có so sánh, đối chiếu với truyện cổ tích thần kỳ của người Việt và các thể loại tự sự dân gian khác. - Phương pháp điền dã: Chụp hình, ghi chép các thông tin có liên quan đến truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái - Phương pháp nghiên cứu liên ngành. Trong các phương pháp nghiên cứu trên thì thống kê phân loại là phương pháp được áp dụng tích cực trong quá trình xử lí tư liệu. Các tư liệu được thống kê phân loại là cơ sở để đưa ra những phân tích, so sánh khoa học có sức thuyết phục của đề tài. Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu liên ngành cũng được chúng tôi sử dụng trong cả quá trình nghiên cứu nhằm giải mã văn hóa với một số biểu tượng trong văn học dân tộc Mông, từ đó làm sáng tỏ những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật. Điều này cũng phù hợp với xu hướng nghiên cứu hiện nay. Song song với việc vận dụng phối hợp các phương pháp trên, chúng tôi còn vận dụng những kiến thức đã học được về các khoa học liên ngành như: lý luận văn học, thi pháp học, phong cách học, phương pháp luận nghiên cứu văn học… để phục vụ hiệu quả cho việc nghiên cứu cụ thể các vấn đề người viết đã chọn làm đề tài cho luận văn. 6. Cấu trúc của luận văn. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận văn được thể hiện trong 3 chương: Chương 1: Tổng quan về truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. Chương 2: Những đặc điểm về nội dung trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. Chương 3: Những đặc điểm về nghệ thuật trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. 6 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  13. NỘI DUNG CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI 1.1. Sơ lược về điều kiện tự nhiên, đặc điểm xã hội và đời sống văn hóa của dân tộc Mông ở Yên Bái 1.1.1. Đặc điểm địa - chính trị Yên Bái Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa. So với các tỉnh miền núi khác, Yên Bái có một vị trí địa lý khá đặc biệt. Phía Bắc giáp với tỉnh Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Tây giáp tỉnh Sơn La. Yên Bái nằm giữa hai vùng Đông Bắc và Tây Bắc, nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa miền Tây Bắc và Trung du Bắc Bộ. Vì vậy mà cả đặc điểm tự nhiên và kinh tế văn hóa xã hội của tỉnh có mối quan hệ giao lưu và mang dấu ấn của cả ba vùng. Yên Bái là tỉnh giữ vị trí trọng yếu về kinh tế và quân sự của Việt Nam và có lợi thế trong quá trình giao lưu với các tỉnh bạn. Yên Bái có diện tích tự nhiên là 6.888 km2 với ¾ là núi đồi; 01 thành phố (Yên Bái), 01 thị xã (Nghĩa Lộ) và 07 huyện (Yên Bình, Lục Yên, Trạm Tấu, Trấn Yên, Văn Chấn, Văn Yên, Mù Cang Chải). Về địa hình, Yên Bái cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc và được kiến tạo với ba dãy núi lớn đều có hướng chạy là Tây Bắc - Đông Nam. Phía Tây của Yên Bái có dãy núi Hoàng Liên Sơn - Pú Luông kẹp giữa sông Hồng và sông Đà, tiếp đến là dãy núi cổ Con Voi nằm kẹp giữa sông Hồng và sông Chảy. Phía Đông có dãy núi đá vôi kẹp giữa sông Chảy và sông Lô. Địa hình của Yên Bái tuy có phức tạp nhưng vẫn được chia thành hai vùng lớn: vùng cao và vùng thấp. Vùng cao có độ cao trung bình từ 600m trở lên (chiếm 67,56%). Vùng thấp có độ cao dưới 600m là phần diện tích còn lại. 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  14. Do điều kiện khách quan và chủ quan mà địa giới của tỉnh Yên Bái trước kia và ngày nay có nhiều thay đổi, song từ bao đời nay Yên Bái vẫn là một vùng đất quan trọng của Tổ quốc. Dưới thời Hùng Vương, Yên Bái thuộc Bộ Tân Hưng. Dưới thời Lý, Yên Bái thuộc châu Đăng. Dưới thời Trần, Yên Bái thuộc lộ Quy Hóa. Từ thời Lê đến thời Nguyễn, Yên Bái nằm trong phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, Yên Bái đã sáp nhập với tỉnh Lào Cai và Nghĩa Lộ lấy tên là Hoàng Liên Sơn. Từ tháng 8 năm 1991 cho đến nay, Yên Bái được tách thành tỉnh riêng (bao gồm cả Nghĩa Lộ). Với đặc điểm vị trí thuận lợi như thế, Yên Bái đã trở thành điểm thu hút với các tộc người, các dòng người di cư đi tìm những vùng đất mới để khai hoang và thiết lập lãnh địa của mình. Tỉnh Yên Bái đã thu hút được cả những tộc người di cư từ phương Bắc xuống, từ phía Đông và từ phía Tây sang. Từ đồng bằng lên. Chính vì vậy mà Yên Bái rất phong phú các thành phần dân tộc, số dân tương đối đông và họ định cư ở đây từ rất sớm. Điều này rất quan trọng đối với sự hình thành lịch sử văn hóa, văn học, truyền thống và phong tục tập quán của từng dân tộc trên địa bàn cư trú. 1.1.2. Đặc điểm lịch sử văn hóa dân tộc Mông ở Yên Bái Dân tộc Mông còn được gọi với tên khác là dân tộc Mèo (hay Miêu). Theo công trình nghiên cứu Một số nét đặc trưng các dân tộc tỉnh Yên Bái do Ban Dân vận và dân tộc tỉnh Yên Bái xuất bản vào tháng 6 năm 2000 thì người Mông ở Yên Bái có 4 ngành: Mông hoa (Mông lềnh, ở Mù Cang Chải gọi là Mông linh), Mông đen (Mông dú, ở Mù Cang Chải gọi là Mông đu), Mông trắng (Mông đư, ở Mù Cang Chải gọi là Mông đơ), Mông đỏ (Mông si). Trong đó người Mông đen chiếm số lượng đông hơn cả. Người Mông ở tỉnh Yên Bái có khoảng 55.000 người, cư trú tập trung tại 40 xã thuộc 5 huyện: Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn, Văn Yên, Trấn Yên. Theo công trình nghiên cứu Tìm hiểu dân ca dân tộc Mông của tác giả Hoàng Việt Quân (N.X.B Văn hóa Dân tộc, 2004) thì người Mông có 5 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  15. ngành: Mông hoa (Mông lềnh), Mông đen (Mông dú), Mông xanh (Mông chúa), Mông trắng (Mông đư), Mông đỏ (Mông si). Các nhóm Mông trên tuy có sự khác nhau đôi chút về tiếng nói nhưng lại cùng thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao. Cả bốn nhóm Mông đều mặc vải lanh nhuộm chàm, riêng váy của ngành Mông trắng để nguyên vải mộc. Chính chất liệu lanh đã tạo nên sự khác biệt giữa trang phục của người Mông với trang phục của các dân tộc khác. Đàn ông Mông thường mặc quần đũng thấp, áo cài vạt sang một bên, thân áo lưng ngắn để hở một khoảng bụng. Phụ nữ mặc váy nhiều lớp, phủ ngoài tạp dề trước và sau, áo ngắn cài khuy một bên, trên ống tay áo có khoác nhiều khoang vải. Trên nền y phục, sắc độ các màu nguyên: đỏ, vàng, xanh, đen cùng với kĩ thuật dệt, thêu, ghép màu vải, vẽ sáp ong, dân tộc Mông đã tận dụng, sử dụng phương tiện tạo hình trên y phục. Theo các nhà nghiên cứu thì người Mông có nguồn gốc chung với người Dao. Từ thế kỉ VII đến thế kỉ IX sau công nguyên, Mông với Dao mới tách ra thành hai cộng đồng riêng biệt. Những nhóm Mông đầu tiên di cư đến Việt Nam cách đây chừng hơn 300 năm. Người Mông từ Quý Châu (Trung Quốc) vào Lào Cai cách ngày nay hơn 200 năm. Trong đợt thiên di từ Quý Châu đến Lào Cai vào đợt thứ 2 (từ năm 1840 đến năm 1869), có một đoàn từ Bắc Hà xuống Phố Lu lên SaPa đi Than Uyên và tới Mù Cang Chải của Yên Bái. Những người Mông chọn Mù Cang Chải làm điểm dừng chân lập kế sinh nhai, lấy tên là “Xáo Mông”, sau đó họ mở rộng địa bàn sinh sống sang các huyện lân cận như Trạm Tấu và Văn Chấn (Yên Bái). Đầu những năm 2000, một phần đồng bào Mông mới đã di chuyển từ Lào Cai, Hà Giang và Sơn La sang Yên Bái để định cư. Dân tộc Mông cư trú ở vùng đất cao nhất của tỉnh Yên Bái. Dù có sống xen cư với các dân tộc khác nhưng họ vẫn quần tụ với nhau thành cộng đồng và ở sống chủ yếu ở độ cao từ 700m - 1800m. Cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Mù Cang Chải (1957 - 2002) xuất bản năm 2002 ghi rõ: “Đầu thế kỉ XVIII, người Mông từ Lào Cai vượt dãy Hoàng Liên Sơn 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  16. vào cư trú tại Nậm Kim và phát triển lên Mù Cang Chải (Lồng Cống, Lồng Mù). Người Mông coi Lồng Cống, Lồng Mù là “vùng đất tổ” khi chết phải chỉ đường cho về đây. Nhóm đầu tiên đến thuộc họ Vàng rồi đến các họ Thào, Giàng, Sùng, Cứ, Hờ, Hảng, Mua, Lý, Phàng, Lầu… trong đó họ Giàng là đông nhất”. Về văn hóa, có thể khẳng định văn hóa của dân tộc Mông là văn hóa di cư. Trong quá trình thiên di từ Quý Châu (Trung Quốc) sang Việt Nam, người Mông đã mang theo những phong tục tập quán, lối sống, tín ngưỡng. Tuy đến định cư tại vùng đất mới song người Mông vẫn luôn bị ám ảnh bởi những gì đã diễn ra trong quá khứ của họ. Điều đó được thể hiện rõ qua các bài dân ca Mông, các câu chuyện cổ mà họ mang theo trong quá trình thiên di tới vùng đất mới. Người Mông ở Yên Bái có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Nói đến văn hóa lễ hội dân tộc Mông, các nhà nghiên cứu đều khẳng định rằng Gầu tào là lễ hội quan trọng nhất. Trong những ngày diễn ra lễ hội Gầu tào, điệu múa khèn luôn là nghi lễ mở hội “chù Gầu tào”, sau đó là các trò chơi: đám hát gầu plềnh (giao duyên trai gái), đám đánh tù lú (đánh quay), tâu tí (cầu lông gà), đánh mảy pao. Trong lễ hội Gầu tào, những nghệ nhân điêu luyện người Mông thường thổi khèn múa tua tài với nhiều động tác khá phức tạp như trồng cây chuối, đi qua đòn ống bắc trên chảo thắng cố… Về văn học, người Mông ở Yên Bái có một kho tàng văn học dân gian rất phong phú, gồm nhiều thể loại: thần thoại, truyện cổ tích, các thể loại dân ca và tục ngữ… Có loại được kể như văn xuôi, có loại kể dưới dạng truyện thơ, bài ca mang tính chất li kì, hấp dẫn. Có thể nói rằng dòng đời của người Mông luôn tắm mình trong các lễ nghi phong tục tập quán, các hoạt động đời sống thực tiễn gắn liền với sinh hoạt văn hóa truyền thống mang đậm tính nguyên hợp. Trong cộng đồng của mình, người Mông vẫn kể chuyện cổ tích cho con cháu của mình nghe. Có thể nói truyện cổ tích đóng một vai trò quan trọng góp phần làm nên sức hấp dẫn của văn học dân tộc Mông ở Yên Bái nói riêng và của văn học Việt Nam nói chung. 10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  17. Người Mông cũng có chữ viết riêng. Chữ của người Mông ngày nay có được là do cha đạo Sanina (cha đạo thuộc dòng thừa sai Paris vào truyền đạo ở Việt Nam tạo nên bằng cách Latinh hóa theo mẫu chữ quốc ngữ). Những con chữ cũng đã góp phần lưu giữ lại những nét văn hóa cổ truyền đặc sắc của dân tộc Mông (trong đó có truyện cổ tích thần kỳ). 1.2. Truyện cổ tích, truyện cổ tích thần kỳ 1.2.1. Truyện cổ tích Kể từ khi truyện cổ tích được quan tâm nghiên cứu, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra định nghĩa về truyện cổ tích theo quan niệm và cách hiểu của họ. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (NXB Giáo dục Việt Nam, 2011), nhóm tác giả PGS. Lê Bá Hán - PGS.TS Trần Đình Sử - GS. Nguyễn khắc Phi đã đưa ra định nghĩa về truyện cổ tích như sau: “Truyện cổ tích là một thể loại truyện dân gian nảy sinh từ xã hội nguyên thủy nhưng chủ yếu phát triển trong xã hội có giai cấp với chức năng chủ yếu là phản ánh và lí giải những vấn đề xã hội, những số phận khác nhau của con người trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ khi đã có chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng (chủ yếu là gia đình phụ quyền), có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh xã hội quyết liệt” [18.368]. Trong cuốn Giáo trình Văn học dân gian (NXB Giáo dục Việt Nam, 2012), nhóm tác giả PGS.TS. Vũ Anh Tuấn - PGS.TS. Phạm Thu Yến - TS. Nguyễn Việt Hùng - ThS. Phạm Đặng Xuân Hương lại đưa ra định nghĩa: “Truyện cổ tích là sáng tác dân gian thuộc loại hình tự sự, chủ yếu sử dụng yếu tố nghệ thuật kì ảo để thể hiện cái nhìn hiện thực của nhân dân với đời sống, bộc lộ quan niệm về đạo đức cũng như về công lí xã hội và ước mơ một cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân dân lao động” [82.116]. Trong công trình nghiên cứu khoa học Truyện cổ tích trong con mắt các nhà khoa học, GS. Chu Xuân Diên cho rằng sẽ thật khó khăn khi phải xác định cho khái niệm truyện cổ tích một nội dung thật chặt chẽ, theo ông thì truyện cổ tích có ba nội dung sau: 11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  18. “1. Truyện cổ tích đã nảy sinh từ trong xã hội nguyên thủy, do đó có những yếu tố phản ánh quan niệm thần thoại của nhân dân về các hiện tượng tự nhiên, xã hội và có ý nghĩa ma thuật (…) chủ đề chủ yếu của nó là chủ đề xã hội, phản ánh nhận thức của nhân dân về cuộc sống xã hội muôn màu, muôn vẻ với những xung đột đặc trưng cho các thời kỳ lịch sử (…). 2. Truyện cổ tích nói lên những quan điểm đạo đức, những quan niệm về công lí xã hội và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn về cuộc sống hiện tại. 3. Truyện cổ tích là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú của nhân dân” [06.204]. Với tinh thần thâu tóm các đặc điểm chung của truyện cổ tích, trong cuốn Văn học dân gian, Hoàng Tiến Tựu đã khái quát về thể loại này như sau: “Truyện cổ tích là một loại truyện gắn liền với quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, hình thành gia đình phụ quyền và phân hóa giai cấp. Nó đặc biệt nói về các xung đột giữa người với người trong phạm vi gia đình và xã hội. Nó dùng một thứ tưởng tượng hư cấu riêng, kết hợp các thủ pháp nghệ thuật đặc thù khác để phản ánh đời sống và mơ ước của nhân dân, đáp ứng nhu cầu nhận thức, thẩm mĩ, giáo dục giải trí của họ” [84.42]. Đây được coi là khái niệm tương đối đầy đủ và sáng rõ về truyện cổ tích. Theo cách hiểu này, ta có thể nắm bắt nội dung cơ bản và hình thức sáng tạo một cách chung nhất của truyện cổ tích. Qua việc tìm hiểu khái niệm về truyện cổ tích trong các công trình nghiên cứu cũng như trực tiếp đọc các truyện cổ tích của Việt Nam và thế giới, chúng tôi nhận thấy một số điểm cơ bản về thể loại cổ tích như sau: Truyện cổ tích ra đời trong xã hội có sự phân chia giai cấp, đề cập và quan tâm trước hết đến những nạn nhân xấu số cho nên chức năng chủ yếu của nó là nhằm an ủi, động viên, bênh vực cho thân phận, phẩm chất của con người. Chính vì thế mà thông qua mỗi câu chuyện, nhân dân lao động thường gửi gắm ước mơ về một thế giới tốt đẹp, về sự công bằng, về sự thưởng phạt công 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  19. minh. Từ chức năng thể loại đó, ta có thể thấy truyện cổ tích có những đặc trưng cơ bản như: - Truyện cổ tích xây dựng một thế giới hư cấu, kì ảo. - Truyện cổ tích là câu chuyện đã hoàn tất trong quá khứ, đã trọn vẹn về cốt truyện, nhưng đồng thời cũng mang tính mở đặc trưng của văn bản văn học dân gian ở cấp độ chi tiết, môtip. - Truyện cổ tích mang tính giáo huấn cao, mỗi câu chuyện là một bài học về đạo đức, ứng xử, về lẽ công bằng, thưởng phạt công minh. Về việc phân loại, có rất nhiều cách phân loại truyện cổ tích, song hiện nay chúng ta thấy phổ biến nhất là phân chia ra làm ba tiểu loại: truyện cổ tích loài vật, truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích sinh hoạt. Ở Nga, cách phân chia này đã có từ năm 1865 do Ô. Mi lơ đề xuất. Cách phân loại này được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Đây cũng là cách phân loại hợp lí, vì ngoài tiêu chí chính là đề tài thì những yếu tố nghệ thuật khác (nhân vật, tính kì ảo) cũng được tính tới trong khi phân loại. Chúng tôi thống nhất với cách phân loại trên và trên cơ sở đó tìm hiểu về truyện cổ tích thần kỳ như một tiểu loại nổi bật và đặc sắc của thể loại tự sự dân gian này. 1.2.2.Truyện cổ tích thần kỳ Có thể nói truyện cổ tích thần kỳ là một sản phẩm sáng nghệ thuật độc đáo và có ý thức của người xưa. Tuy ra đời, tồn tại và phát triển trong một thời gian dài, hòa chung với mạch nguồn của văn học dân tộc song cho tới nay các nhà nghiên cứu văn học dân gian vẫn chưa đưa ra một thuật ngữ thống nhất về tiểu loại này. Hiện nay, các nhà nghiên cứu khoa học đã tìm tòi, phân định bản chất, đặc điểm của truyện cổ tích thần kỳ. Trong công trình Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (tập 1), Nguyễn Đổng Chi đã đưa ra quan niệm: “Cổ tích thần kỳ là loại truyện tương đối có nhiều nhân tố ảo tưởng nhất. Những truyền thuyết thần bí, kỳ quái, những truyện người, truyện vật nhưng bên trong đầy dẫy những sự can thiệp của 13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  20. huyền diệu đều có thể xem là cổ tích thần kỳ” [04.53]. Chính nhân tố ảo tưởng đã tạo nên bao tình tiết kì thú, hấp dẫn mạnh mẽ trí tưởng tượng của người nghe, thế giới không thực trong truyện cổ tích thần kỳ giúp người ta thực hiện hóa những ước muốn không tưởng. Một phần của truyện cổ tích thần kỳ là tàn dư của những tưởng tượng gắn liền với mê tín, ma thuật và các hình thức tôn giáo thời nguyên thủy. Nguyễn Đổng Chi còn cho rằng tác giả của truyện cổ tích thần kỳ nhiều khi đã sử dụng lực lượng siêu nhiên để thắt nút, mở nút câu chuyện mà không cần biết điều đó có hợp lý hay không. Khi bàn luận về “Tinh thần phê phán xã hội và lý tưởng dân chủ - nhân đạo trong truyện cổ và các thể tài dân gian khác ở giai đoạn đầu của chế độ phong kiến”, nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh cũng phân tích đặc điểm của truyện cổ tích thần kỳ. Từ khái niệm chung “truyện cổ về xã hội”, nơi phản ánh xung đột xã hội diễn ra trong phạm vi gia đình phụ quyền và sự nảy sinh của lý tưởng dân chủ - nhân đạo của nhân dân, tác giả đã tìm ra đặc điểm chung của truyện cổ tích thần kỳ. Theo Cao Huy Đỉnh thì truyện cổ tích thần kỳ vẫn mang đậm nội dung về hiện thực xã hội, tình cảm tự nhiên, đạo đức thực tiễn và ước mơ lãng mạn của nhân dân lao động. Khi “yếu tố thần kỳ (…) trở thành những biện pháp nghệ thuật của chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa tượng trưng rất đậm đà và phổ biến trong hàng loạt truyện cổ xã hội. Có thể gọi chung đó là truyện cổ tích thần kỳ” [11.56]. Cao Huy Đỉnh đã kết luận: “truyện cổ tích thần kỳ có nội dung dân chủ và tính chất dân tộc”. Như vậy, có thể nói rằng nội dung phản ánh của truyện cổ tích thần kỳ xoay quanh cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu, và cuối cùng bao giờ cái ác, cái xấu cũng bị tiêu diệt. Truyện cổ tích thần kỳ bao giờ cũng kết thúc có hậu, đó chính là quan điểm thẩm mĩ tích cực, lạc quan của nhân dân lao động. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra được một định nghĩa ngắn gọn, súc tích và trọn vẹn về truyện cổ tích thần kỳ. 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2