intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Tạp văn Nguyễn Việt Hà từ góc độ thể loại

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:113

26
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn chỉ tập trung vào vấn đề tiêu biểu, cốt lõi nhất trong tạp văn của Nguyễn Việt Hà mà qua đó có thể nhận diện thể loại này một cách rõ ràng. Nguyễn Việt Hà đã ghi dấu ấn ở thể loại tạp văn khi khai thác những vấn đề thời sự, sinh hoạt đời thường, chân dung nhân vật và đời sống đô thị. Bên cạnh đó là nghệ thuật tái hiện đời sống được thể hiện qua các yếu tố: Ngôn ngữ, giọng điệu và điểm nhìn trần thuật.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Tạp văn Nguyễn Việt Hà từ góc độ thể loại

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ KIM OANH TẠP VĂN NGUYỄN VIỆT HÀ TỪ GÓC ĐỘ THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN HÀ NỘI, THÁNG 11/2014 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ KIM OANH TẠP VĂN NGUYỄN VIỆT HÀ TỪ GÓC ĐỘ THỂ LOẠI CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Tôn Thảo Miên HÀ NỘI, THÁNG 11/2014 2
  3. Lời cam đoan Tôi xin cam đoan Luận văn tốt nghiệp với đề tài Tạp văn Nguyễn Việt Hà từ góc độ thể loại là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân tôi được sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Tôn Thảo Miên. Những vấn đề trình bày trong Luận văn chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào trước khi trình, bảo vệ Luận văn. Một lần nữa, tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam đoan trên Hà Nội, ngày 08 tháng 11 năm 2014 Nguyễn Thị Kim Oanh 3
  4. Lời cảm ơn Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo khoa Văn học – Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã dạy dỗ, cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong quá trình học tập cũng như những góp ý cho tôi trong khi hoàn thành luận văn. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo – PGS.TS Tôn Thảo Miên, giáo viên hướng dẫn, người đã trực tiếp giúp đỡ, chỉ bảo cho tôi lựa chọn đề tài, hướng giải quyết đề tài, cung cấp những tài liệu quý báu và động viên tinh thần để tôi hoàn thành luận văn này. Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên tôi trong suốt thời gian qua. Hà Nội, ngày 08 tháng 11 năm 2014 Nguyễn Thị Kim Oanh 4
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 6 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 8 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................... 10 4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 10 5.Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 10 Chương 1: TẠP VĂN VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC TẠP VĂN CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ ........................................................................................ 11 1.1.Tạp văn – Những vấn đề lý thuyết về thể loại .............................................. 11 1.1.1.Về khái niệm tạp văn ............................................................................ 11 1.1.2. Những tiền đề phát triển ...................................................................... 14 1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của tạp văn.................................................... 18 1.2. Nguyễn Việt Hà và quan niệm về thể loại tạp văn........................................ 20 1.2.1. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp phát triển của Nguyễn Việt Hà ............. 20 1.2.2. Con đường đến với tạp văn của Nguyễn Việt Hà ................................. 24 1.2.3. Quan niệm về thể loại tạp văn và cái “Tôi” trong tạp văn Nguyễn Việt Hà ................................................................................................................. 27 Tiểu kết ............................................................................................................ 32 Chương 2: BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG TRONG TẠP VĂN NGUYỄN VIỆT HÀ ........................................................................................ 33 2.1. Chân dung nhân vật và đời sống đô thị ....................................................... 34 2.1.1. Thế giới nhân vật ................................................................................. 34 2.1.2. Đời sống đô thị .................................................................................... 50 2.2. Những vấn đề thời sự ................................................................................. 54 2.3. Về sinh hoạt đời thường………………………………………………....58 Tiểu kết ............................................................................................................ 71 Chương 3: NGHỆ THUẬT VIẾT TẠP VĂN CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ 72 3.1. Điểm nhìn ................................................................................................... 72 3.1.1. Khái niệm điểm nhìn ........................................................................... 72 3.1.2. Điểm nhìn trần thuật trong tạp văn Nguyễn Việt Hà ............................ 73 3.2. Ngôn ngữ ................................................................................................... 78 3.2.1. Ngôn ngữ bình dân .............................................................................. 79 3.2.2. Ngôn ngữ vay mượn ............................................................................ 84 3.2.3. Một số kiểu câu, cụm từ đặc biệt ......................................................... 88 3.3. Giọng điệu .................................................................................................. 90 3.3.1. Giọng điệu hài hước, giễu nhại ............................................................ 92 3.3.2. Giọng điệu triết lí ................................................................................ 97 3.3.3. Giọng điệu đay nghiến, sát phạt......................................................... 100 Tiểu kết. .......................................................................................................... 106 KẾT LUẬN .................................................................................................... 107 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 110 5
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Xuất phát từ sự đòi hỏi phải nắm bắt nhanh nhạy, kịp thời những biến đổi không ngừng của hiện thực cuộc sống và sự phát triển mạnh mẽ của báo chí cũng như nhu cầu thưởng thức của độc giả, tạp văn không chỉ là một thể loại phong phú về nội dung, chứa nhiều thông tin, gắn liền với cuộc sống mà còn hiện đại về hình thức thể hiện. Trong dòng chảy của văn học Việt Nam đương đại, thể loại tạp văn đang phát triển, biến đổi đa dạng và mới mẻ, góp phần vào quá trình hiện đại hóa văn học. Sở dĩ thể loại này được nhiều độc giả ưa thích, đón nhận bởi người đọc dễ dàng nắm bắt hàm ý tác giả, nội dung chắt lọc, diễn biến nhanh gọn, kết thúc bất ngờ. Đó là nhu cầu tìm hiểu tri thức mới của con người hiện đại. Có lẽ vì thế mà tạp văn ngày càng được ưa chuộng. 1.2. Trong văn học Việt Nam đương đại, sự nở rộ của tạp văn những năm đầu thế kỷ XXI được đánh dấu với sự xuất hiện của nhiều tác giả và sự ra đời của rất nhiều tập tạp văn. Nguyễn Ngọc Tư với những lời giãi bày tâm sự hết sức chân thành, mộc mạc, chất chứa nhiều day dứt trong Tạp văn (2005), Sống chậm thời @ (2006), Ngày mai của những ngày mai (2007), Biển của mỗi người (2008), Yêu người ngóng núi (2009). Phan Thị Vàng Anh gây tiếng vang với tập tạp văn Nhân trường hợp chị Thỏ bông (2004). Họa sĩ Đỗ Phấn ghi dấu ấn với các tập tạp văn: Chuyện vãn trước gương (2005), Ông ngoại hay cười (2011). Nữ đạo diễn Việt Linh cũng trình làng các cuốn tạp văn, tạp bút: Chuyện mình, chuyện người (2008), Chuyện và truyện (2012). Hay dịch giả Lý Lan hơn mười năm trước đã làm mê hoặc độc giả Việt với Harry Porter nay trải lòng mình với tạp văn Ở ngưỡng cửa cuộc đời… Với những nỗ lực đáng ghi nhận, họ thực sự đã tạo ra cho mình những “lối nẻo riêng”. Nói đến tạp văn, nói về những cây bút viết tạp văn sẽ thật thiếu sót nếu không kể đến tác giả Nguyễn Việt Hà. Điều đặc biệt là Nguyễn Việt Hà sau khi thành công vang dội trên lĩnh vực truyện ngắn 6
  7. (Thiền giả, Của rơi) và tiểu thuyết (Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn) đã bắt tay vào thể loại mới tạp văn với các tác phẩm như: Đàn bà uống rượu, Nhà văn thì chơi với ai, Mặt của đàn ông, Con giai phố cổ. Mỗi khi tác phẩm của Nguyễn Việt Hà được xuất bản lại có những hiệu ứng đa chiều của độc giả về Nguyễn Việt Hà và những đứa con tinh thần của ông. Người khen, kẻ chê, lại có cả những ý kiến lưỡng chiều. Lý giải cho tâm lý đó có lẽ xuất phát từ cách hành văn của ông. Mặc dù “không mong mình quá mới” [19], nhưng lối viết của ông dường như đang đánh đố người đọc. Tác phẩm của Nguyễn Việt Hà luôn khiến cho người đọc phải giật mình, suy nghĩ về mỗi câu chuyện ông viết ra. Các tác phẩm của ông xoay quanh những vấn đề trong cuộc sống hàng ngày đã có từ lâu mà tưởng như mới, bởi cái tài xây dựng ngôn ngữ, giọng điệu của nhà văn. Chúng cho thấy một sự quan sát, phân tích sâu sắc đời sống xã hội, nhạy bén phản ánh những sự kiện xã hội bằng một ngòi bút sắc sảo. Một tác phẩm ra đời chỉ nhận được toàn lời khen ngợi thì chưa hẳn đã là một tác phẩm đáng chú ý. Ngược lại, một tác phẩm bị nhận nhiều lời chê cũng chưa hẳn là một tác phẩm bỏ đi. Điều đó chỉ chứng tỏ nó thu hút sự quan tâm của đông đảo bạn đọc, mà với một nhà văn, đó lại là một trong những điều tối quan trọng. Đọc tạp văn Nguyễn Việt Hà, người đọc yêu thích sự hài hước, dí dỏm, bình dị của người viết, đặc biệt là cách trích dẫn theo lối “nói có sách, mách có chứng” của ông và ta sẽ nhận ra, tìm thấy, học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm sống. 1.3. Tạp văn là một thể loại văn xuôi hiện đại, cho đến những năm đầu của thế kỷ XXI, trong tinh thần chung của sự đổi mới, tạp văn mới bắt đầu thu hút được sự chú ý của dư luận. Hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính tổng quát, tìm hiểu sâu về thế giới của tạp văn. Những gì giới nghiên cứu quan tâm cho tạp văn gần đây chỉ là những bài giới thiệu, nhận xét nhỏ trên các trang báo mạng. Trước thực tế đó, chúng tôi nghĩ, không nên dừng lại ở những bài giới thiệu nhỏ mà cần phải có sự nghiên cứu, đánh giá một cách nghiêm túc, toàn diện, sâu sắc hơn. Với hứng thú tìm hiểu thể loại tạp văn trong 7
  8. văn học Việt Nam đương đại, chúng tôi chọn “Tạp văn Nguyễn Việt Hà từ góc độ thể loại” làm đề tài nghiên cứu của mình. Luận văn xác lập một cái nhìn khái quát về thể loại tạp văn, bước đầu đề xuất một hướng tiếp cận thể loại này, đồng thời khẳng định những đóng góp của nó trong nền văn học Việt Nam đương đại. Qua đó thấy được nét riêng độc đáo của nhà văn Nguyễn Việt Hà trong dòng chảy văn xuôi Việt Nam nói chung và tạp văn đương đại nói riêng. Chúng tôi hy vọng đề tài này sẽ là một đóng góp nhỏ trong nghiên cứu khoa học, đồng thời có thể làm cơ sở để gợi ra những hướng nghiên cứu mới cho các công trình sau. Bên cạnh mục tiêu học thuật, công trình nghiên cứu này cũng có ý nghĩa như một tài liệu mang tính hệ thống cho những người yêu mến Nguyễn Việt Hà, tìm đến và hiểu hơn về ông, về thế giới của tạp văn. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tạp văn là thể loại đã có mặt từ lâu trong văn học thế giới. Nhiều học giả đánh giá cao về thể loại này và thừa nhận viết tạp văn không phải dễ, chỉ những ai có đủ vốn sống và kiến thức sâu rộng, bút lực dồi dào, văn chương tinh tế, ý tưởng sáng rõ uyên thâm mới có thể thành công ở thể loại này. Trên thực tế, hoạt động sáng tạo và tiếp nhận văn học không thể tách rời với sự nhận thức về mặt thể loại. Thể loại không chỉ là một phương thức tiếp cận hiện thực mà còn giới hạn “tầm đón đợi” của độc giả khi tiếp xúc với văn bản và liên quan đến hành vi sáng tạo văn bản của nhà văn. Tạp văn thường được các nhà văn lựa chọn khi muốn phản ánh những vấn đề chính trị - xã hội có tính thời sự, ghi nhanh những hiện tượng, những suy nghĩ, những sự kiện khi đưa lên báo, bài viết, có thể gây tác động trực tiếp đến suy nghĩ của người đọc một cách nhanh nhất. Nhìn một cách khách quan và bao quát, chúng ta có thể thấy tạp văn đòi hỏi ở người viết một tầm hiểu biết sâu rộng, một tư duy nhạy bén và một nguồn cảm hứng dồi dào. Dường như việc tạo được phong cách với thể loại này không chỉ phụ thuộc vào “tay nghề” của nhà văn, cách quan sát của nhà văn mà phần nhiều phụ thuộc vào tố chất thiên bẩm, vào cái “duyên” đưa đẩy, cái “tạng” của 8
  9. từng người. Với Nguyễn Việt Hà, tạp văn là “một thứ mạng xã hội riêng của anh, đủ thành phần, từ đám đàn ông, những gã khờ và mưu sĩ, rồi những nàng thơ của họ, đến những chuyện tình ái đọc lên sực nức đùa giễu” [16, 5]. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi gặp phải một vài khó khăn, những tài liệu viết về tạp văn, nhất là những định nghĩa tìm hiểu thể loại tạp văn thì còn rất hạn chế, thậm chí có những từ điển không có mục này. Đây đó người ta có nhắc đến tạp văn Việt Nam đương đại nhưng chủ yếu là để điểm sách, giới thiệu những tập mới được xuất bản hoặc lời tựa, bạt,... một cách ngắn gọn, vắn tắt và đa số mang màu sắc chủ quan. Mặt khác, tạp văn với tư cách là một thể loại có nguồn gốc từ phương Tây nên có những tài liệu nước ngoài liên quan đến đề tài mà chúng tôi không có điều kiện để khảo sát được đầy đủ. Nghiên cứu về tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà thì đã có nhiều công trình. Trong những năm gần đây, một số luận văn tốt nghiệp đại học, cao học đã đi vào khám phá tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà trên nhiều phương diện. Một số công trình nghiên cứu như: Tư duy nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, Luận văn Thạc sĩ khoa học Lý luận văn học của Lê Thị Loan, Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Cơ hội của chúa của Nguyễn Việt Hà, Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa học xã hội và nhân văn, ĐHQG Hà Nội của Nguyễn Hoài Thu, Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà – Từ Cơ hội của Chúa đến Khải huyền muộn, Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa học xã hội và nhân văn, ĐHQG Hà Nội của Nguyễn Thị Hoa. Tuy nhiên, nghiên cứu về tạp văn Nguyễn Việt Hà, trong quá trình khảo sát vấn đề, chúng tôi vẫn chưa có cơ hội bắt gặp một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống về thể loại tạp văn nói chung và tạp văn Nguyễn Việt Hà nói riêng từ góc độ thể loại. Một số bài viết chỉ là một vài bài nhận xét về tác giả, tác phẩm, những bài phỏng vấn tác giả Nguyễn Việt Hà trên một số trang báo mạng như: bài phỏng vấn trên báo Lao động, diễn đàn sách xưa.net/froum/index.php.Việt Nam, diễn đàn Đàn ông, Vietnamthuquan.net,… 9
  10. Với đề tài luận văn Tạp văn Nguyễn Việt Hà từ góc độ thể loại, chúng tôi nghĩ sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm diện mạo của thể loại này trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn cũng như phân biệt được cá tính riêng của Nguyễn Việt Hà so với những nhà văn khác khi viết tạp văn, đem đến một cái nhìn sơ lược về những nét độc đáo, cách tân mới lạ mà tác giả đã đạt được và những điều còn hạn chế trong tác phẩm mà tác giả chưa làm được. 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu Ở đây chúng tôi chỉ tập trung vào vấn đề tiêu biểu, cốt lõi nhất trong tạp văn của Nguyễn Việt Hà mà qua đó có thể nhận diện thể loại này một cách rõ ràng. Nguyễn Việt Hà đã ghi dấu ấn ở thể loại tạp văn khi khai thác những vấn đề thời sự, sinh hoạt đời thường, chân dung nhân vật và đời sống đô thị. Bên cạnh đó là nghệ thuật tái hiện đời sống được thể hiện qua các yếu tố: Ngôn ngữ, giọng điệu và điểm nhìn trần thuật. Phạm vi nghiên cứu: Nguyễn Việt Hà, Đàn bà uống rượu, Nxb Văn học, H, 2010. Nguyễn Việt Hà, Nhà văn thì chơi với ai, Mặt của đàn ông, Tạp văn tuyển chọn, Nxb Văn học, H, 2011. Nguyễn Việt Hà, Con giai phố cổ, Nxb trẻ, Tp. HCM, 2013. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi ứng dụng thi pháp học thể loại kết hợp lý thuyết tự sự học trong nghiên cứu văn học để tiếp cận đối tượng. Các phương pháp này được hỗ trợ bởi các thao tác: Thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, khảo sát… 5.Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mực tài liệu tham khảo, luận văn được triển khai trong ba chương: Chương 1: Tạp văn và tác giả Nguyễn Việt Hà Chương 2: Tìm hiểu tạp văn Nguyễn Việt Hà trên phương diện nội dung 10
  11. Chương 3: Nghệ thuật viết tạp văn của Nguyễn Việt Hà Chương 1 TẠP VĂN VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC TẠP VĂN CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ 1.1.Tạp văn – Những vấn đề lý thuyết về thể loại 1.1.1.Về khái niệm tạp văn Tạp văn là một thể loại văn học độc đáo, có nhiều điểm tương đồng với tản văn, bút ký, tạp bút, tạp cảm. Tuy nhiên đây là một thể loại văn học khá đặc biệt, không thuần nhất nên có rất nhiều nhà nghiên cứu, các nhà lý luận văn học, các học giả đưa ra những định nghĩa khác nhau về tạp văn. Định nghĩa về khái niệm tạp văn thực sự đa dạng, phong phú và có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí là có những ý kiến trái chiều. Theo Từ điển Tiếng Việt của Bùi Quang Tịnh (NXB Văn hóa thông tin, tr 842) giải thích: “Tạp văn: Nhiều loại văn lẫn lộn”. Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (Nxb Văn hóa Thông tin, tr. 1495) giải thích: “Tạp văn gồm nhiều thể tài linh hoạt như đoản thiên, tiểu phẩm, tùy bút”. Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê (Nxb Đà Nẵng, tr. 892) định nghĩa: “Tạp văn loại văn có nội dung rộng, hình thức không gò bó, bao gồm những loại bình luận ngắn, tiểu phẩm tùy bút…”. Từ điển thuật ngữ văn học, (NXB ĐHQG, 2000, tr 247) định nghĩa: “Tạp văn là những áng văn tiểu phẩm có nội dung chính trị, có tác dụng chiến đấu mạnh mẽ. Đó là một thứ văn vừa có tính chính luận sắc bén, vừa có tính nghệ thuật cô đọng, phản ánh và bình luận kịp thời các hiện tượng xã hội”. Từ điển văn học (tập 2), NXB KHXH.HN 1984) lại có tới hai định nghĩa về tạp văn: Định nghĩa 1: “Tạp văn là những bài văn nghị luận có tính nghị luận. Phạm vi của tạp văn rất rộng, bao gồm tạp cảm, tùy bút, tiểu phẩm, bình luận 11
  12. ngắn... Đặc điểm nổi bật là ngắn gọn” (Tập thể tác giả, Từ điển văn học, Tập 2, NXB KHXH.HN 1984, tr 333). Định nghĩa 2: “Tạp văn là một bộ phận lớn của nhà văn Trung Quốc Lỗ Tấn, viết theo một thể loại đặc biệt bao gồm những bài cảm nhỏ, luận văn, tùy bút, hồi ức…” (Tập thể tác giả, Từ điển văn học, Tập 2, NXB KHXH.HN 1984, tr 333). Trương Chính trong lời giới thiệu Tạp văn tuyển tập cho rằng: “Tạp văn là một thành tựu đặc biệt của Lỗ Tấn trong ba mươi năm hoạt động văn học của ông, nhưng thật ra không phải là một thể loại mới. Xét nguồn gốc và phong cách của nó thì tạp văn chính là kế thừa và phát triển hình thức tản văn trong văn học cổ điển Trung Quốc” (Tạp văn tuyển tập, Tập 1, NXB Văn học, HN 1963, tr 6). Lê Xuân Vũ có cách định nghĩa tương tự như Trương Chính, ông viết: “Tạp văn là một hình thức văn học mới, nảy mầm từ cách mạng văn học và tư tưởng Ngũ Tứ, là thành tựu đặc biệt của Lỗ Tấn trong văn nghệ, là kết tinh của ba mươi năm chiến đấu văn học của ông. “Tạp văn” hoặc “tạp cảm” là tên do chính Lỗ Tấn đặt cho nó” (Lê Xuân Vũ, Lỗ Tấn “Chủ tướng của cách mạng văn hóa Trung Quốc”, Nxb Văn hóa, H, 1959, tr 143). Lương Duy Thứ thì cho rằng: “Tạp văn là một thể loại văn học nảy sinh từ cuộc cách mạng văn hóa Ngũ Tứ, là thành tựu đặc biệt của Lỗ Tấn qua hai mươi năm hoạt động văn nghệ”. (Lương Duy Thứ, Giáo trình văn học Trung Quốc, NXB GD, HN 1997, tr 208). Dương Tấn Hào cũng đưa ra cách hiểu của mình về tạp văn như sau: “Theo nghĩa đen thì hai chữ “Tạp văn” dùng để chỉ những thể văn đoản thiên không đồng một thể với các tập thi ca, tản văn, tiểu thuyết và bi kịch đã thịnh hành từ xưa. Ngày nay bản chất thứ tạp văn đã biến tướng và danh từ đó hiện giờ đã chuyên chỉ lối văn đoản thiên những thiên tạp trở nên giàu về tính cách tranh đấu” (Đặng Thai Mai, Tạp văn trong văn học Trung Quốc ngày nay, NXB Mới, 1945, tr 21). 12
  13. Dương Ngọc Dũng cho rằng: “Tạp văn là một thuật ngữ rất tạm thời vì chính bản thân tác giả không biết dùng cụm từ nào để mô tả những bài viết đăng rải rác trên báo Tuổi trẻ chủ nhật, Nguyệt san pháp luật, Sài Gòn tiếp thị”. Tác giả nhận định thêm: “Tạp văn chỉ là những đoản văn đọc cho vui, ngắn gọn, dễ hiểu, hơi gây sốc một chút nếu cần, không phải là những chuyên luận đăng trên tạp chí chuyên ngành. Chủ đề thì không có gì nhất định, lan man từ những mẩu chuyện vụn vặt có thật trong đời sống xã hội Mỹ, đến một tiểu phẩm tưởng tượng hoàn toàn, hay các bình luận thoáng qua về Shakespesre, cổ sử Trung Quốc. Độc giả có thể mở sách ra, thích đâu đọc đấy, không cần phải quá bận tâm về “độ chính xác” hay hàm lượng thông tin của bài viết” (Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như một quá trình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội). Giáo sư Lý Hà Lâm trong công trình Lỗ Tấn – thân thế - tư tưởng – sáng tác khẳng định: “Tạp văn là một hình thức do Lỗ Tấn sáng tác, vì Lỗ Tấn đã phát triển hình thức này đến đỉnh cao nhất của nó, hơn nữa lại có những đặc điểm độc đáo của bản thân ông. Nói tới nguồn gốc và phương pháp của tạp văn thì tạp văn của Lỗ Tấn chính là kế thừa và phát triển hình thức tản văn của văn học truyền thống Trung Quốc”. Trong cuốn Khái niệm và thuật ngữ lý luận văn học Trung Quốc, Phạm Thị Hảo, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Nxb Văn học, cho rằng: “tạp văn là một loại tản văn, bao gồm nhiều hình thức: Tạp cảm, tạp đàm, tạp luận... loại này yêu cầu phải có sự quan sát tìm hiểu và phân tích sâu sắc cuộc sống xã hội, phải nhạy bén phản ánh những sự kiện xã hội và khuynh hướng xã hội, bằng ngòi bút sắc sảo, lão luyện, đánh trúng vào những chỗ yếu của sự việc. Loại văn này, tác phẩm ngắn, thường mang tính tư tưởng cao, giàu tính chiến đấu đồng thời giàu tính nghệ thuật. Ở thời Chiến quốc, loại văn này khá phổ biến. Thời hiện đại Lỗ Tấn đã khiến “Tạp văn” phát huy được nhiều tác dụng phê phán xã hội, châm biếm những tệ nạn đương thời. Cho đến nay thể loại tạp văn vẫn phát triển với diện mạo và nội dung ngày càng phong phú”. 13
  14. Nghiên cứu về thể loại tạp văn, chúng ta có thể dựa vào nhiều nguồn tư liệu, mỗi nguồn tư liệu có đặc điểm ưu việt riêng. Tạp văn là một loại văn bản nghị luận, ở đó tác giả có thể trực tiếp trình bày tư tưởng tình cảm về những vấn đề thuộc nhiều phương diện của đời sống chính trị, xã hội và văn học. Tuy nhiên đây là một thể loại văn học khá đặc biệt, không thuần nhất, vì vậy như chúng tôi đã trình bày, có rất nhiều các nhà nghiên cứu, các nhà lý luận văn học, các học giả… cố gắng đưa ra những định nghĩa của riêng mình về tạp văn. Tất cả các định nghĩa, các cách hiểu về tạp văn như đã trình bày ở trên đều gọi đúng tính chất và đặc điểm cơ bản nhất, khái quát nhất về thể loại tạp văn nói chung. Nhưng chúng tôi cho rằng định nghĩa ngắn gọn nhất, dễ hiểu nhất, sâu sắc nhất về tạp văn phải kể tới định nghĩa của Lỗ Tấn: “Thật ra “tạp văn” không phải là hàng mới bây giờ, trước kia đã có rồi. Phàm là văn chương, nếu xếp loại, thì có loại để mà xếp, bất kể thể gì, mọi thể đều xếp vào một chỗ cả, thế là thành tạp”(Trương Chính, Tạp văn tuyển tập (tập 3), NXB Văn học, H, 1963, tr 229). Đây là một lời giải thích hay nhất về tạp văn của Lỗ Tấn. Căn cứ vào đó mà xét chữ “tạp” trong “tạp văn” là một sự kết hợp tuyệt vời, hài hòa, nhuần nhuyễn giữa nhiều thể loại khác nhau. Đó không phải là một sự gán ghép gượng ép, khập khiễng, cũng không phải là sự xào xáo “một mớ hổ lốn” khác nhau mà là sự kết nối chặt chẽ các gam màu, đường nét trong một bức tranh mang tính nghệ thuật cao. Có lúc ông gọi tạp văn là “tạp cảm”, rồi lại gọi là “tiểu phẩm văn học”, sau đó tiếp thu cách nói truyền thống văn học Trung Quốc, đổi tên thành “tạp văn”. Ông đặc biệt đề cao vai trò tạp văn bút ký chính luận, ông xem tạp văn là loại “ngôn chí hữu vật”. 1.1.2. Những tiền đề phát triển Trong văn học phương Tây Ở Pháp, vào thế kỷ XVI, với ý thức chống lại thứ văn chương kinh viện, giáo điều của nhà thờ, nhà văn M.E.Môngtenhơ (1533 - 1592) đã khai sinh ra thể loại tản văn. Năm 1580, ông xuất bản tập Essais. Từ đó tản văn được nhiều nhà 14
  15. văn, nhà triết học sử dụng, trở thành một thể loại quan trọng của văn học hiện đại. Đặc biệt, sự xuất hiện của truyền thông báo chí ở thế kỷ XVIII đã giúp tản văn phát huy tính năng động tiềm ẩn và nhanh chóng khẳng định vị thế bằng những thành tựu rực rỡ. Không chỉ ở Pháp, Anh mà ở Mỹ cũng đã xuất hiện nhiều nhà tản văn nổi tiếng. Trong văn học Trung Quốc Ở Trung Quốc, thời cổ trung đại, “tản văn” có nghĩa là văn xuôi, phân biệt với “vận văn” - văn vần và “biền văn” - văn biền ngẫu. Đó là cách phân loại đơn thuần dựa vào hình thức câu văn. Vì thế những sáng tác không phải là thơ, từ, phú, khúc... đều được gọi là tản văn. Cuốn Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc của Nxb Đại bách khoa toàn thư của Trung Quốc đã nói rõ: “Trong quan niệm văn học truyền thống của Trung Quốc, còn có một thể văn quan trọng: tản văn - văn xuôi; cũng là văn học chính tông xếp ngang hàng với thơ từ”. Diệp Thánh Đào trong bài Về sáng tác tản văn (Lý luận tản văn hiện đại Trung Quốc) cũng quan niệm: ngoài tiểu thuyết, thơ ca, hý kịch ra còn lại đều là tản văn. Từ cách hiểu như trên mà việc một số từ điển tiếng Việt giải nghĩa từ “tản văn” là văn xuôi là có thể lý giải được. Đến đầu thế kỷ XX (thời kỳ Ngũ Tứ), tản văn theo hình thức phương Tây mới được du nhập vào nhằm chống lại thứ văn chương giáo điều, công thức đang thống trị trên văn đàn lúc bấy giờ. Tản văn hiện đại Trung Quốc phát triển trên cơ sở hấp thụ trào lưu tư tưởng bên ngoài và tiếp nhận truyền thống, hình thức phong phú đa dạng, có thể là tạp cảm, bình luận ngắn, tùy bút, du ký, thư từ, nhật ký… Các nhân tố vốn có của tản văn là sự giao thoa nghị luận, trữ tình và tự sự. Nội dung của tản văn chứa đựng tính hiện thực rất dồi dào. Về nghệ thuật, nổi bật là tính điển hình, tính hình tượng sinh động. Những đặc điểm của tản văn trong suốt trường kỳ của văn học cổ điển Trung Quốc đã được văn hào Lỗ Tấn kế thừa và phát huy. Về sự kế thừa này, chính Lỗ Tấn đã nói: “Kỳ thực tạp văn cũng không phải là món hàng mới mẻ gì của ngày nay, mà ngày xưa cũng đã có rồi” [6, 768]. 15
  16. Lỗ Tấn tỏ ra hào hứng và tin tưởng sâu sắc về tương lai đầy hứa hẹn của tạp văn: “Tôi là một người thích đọc tạp văn, và hơn nữa còn biết rằng thích đọc tạp văn không chỉ có mình tôi... Tôi càng vui mừng với sự phát triển của tạp văn, ngày ngày được xem sự rạng rỡ của nó. Thứ nhất, là làm cho giới trước tác Trung Quốc càng hoạt bát, náo nhiệt. Thứ hai, làm cho những lũ không ra trò ra trống gì phải thụt đầu. Thứ ba, là làm cho những tác phẩm nghệ thuật vị nghệ thuật, qua sự so sánh với tạp văn, sẽ lộ ra cái tướng mạo sống dở chết dở của nó” [25]. Với mảng tạp văn đồ sộ của Lỗ Tấn với hơn 650 văn bản, được viết trong 30 năm, tạp văn hiện đại đã có bước định hình và phát triển đáng kể trong lịch sử văn học Trung Quốc, đúng như lời nhận xét của giáo sư Đặng Thai Mai: “Tạp văn Lỗ Tấn quả có một ý nghĩa tiêu biểu cho cả một hình thức văn học và cả một thời đại” [41, 188]. Bên cạnh Lỗ Tấn còn có thể kể đến những tên tuổi viết tạp văn, tản văn nổi tiếng của Trung Quốc như Chu Tự Thanh, Lý Đại Chiêu, Cù Thu Bạch, Quách Mạt Nhược, Lâm Ngữ Đường, Chu Tác Nhân, Điền Hán, Mao Thuẫn,... Trong văn học Việt Nam Ở Việt Nam, thể loại tạp văn, tản văn được hình thành khá sớm và phát triển vào khoảng thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX với sáng tác của Tản Đà, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Bá Trác, Đạm Phượng, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Tất Tố... Trong số đó, Tản Đà được coi là người đi tiên phong, đặt nền móng cho thể loại tản văn ở Việt Nam. “Người thứ nhất có can đảm làm thi sĩ” ấy trong khi “nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng” đã bứt phá ra khỏi hệ thống thể loại cũ gò bó, xơ cứng. Tản Đà đã tự đi tìm cho mình một hình thức biểu đạt phù hợp với đời sống tinh thần và gu thẩm mỹ của con người buổi giao thời. Những tìm tòi thể nghiệm ấy có trong thơ, tiểu thuyết và đặc biệt là trong tản văn. Chẳng thế mà Phan Khôi đã nhận xét: “Anh Quỳnh, anh Vĩnh chỉ viết theo sách, theo tư tưởng phương Tây, chứ đến thằng cha này (Tản Đà), hắn viết ra tư tưởng của hắn, chính hắn mới là tay sáng tạo”. 16
  17. Ngày nay thể loại văn học tạp văn đang nhận được sự quan tâm của độc giả. Trên các tờ báo xuất hiện ngày càng nhiều các chuyên mục tản văn, tạp văn… Có nhiều tác phẩm ra mắt bạn đọc với sự góp mặt của nhiều thế hệ nhà văn như: Nguyễn Khải, Đỗ Chu, Thảo Hảo, Tạ Duy Anh, Nguyễn Ngọc Tư. Tuy có số lượng đông đảo các tác giả hướng đến thể loại tạp văn, nhưng để đạt đến thành công nhất định, làm nên một phong cách văn chương của tác giả thì không phải là nhiều. Tiêu biểu có thể kể đến tạp văn Nguyễn Khải bao gồm những bài báo bàn về các vấn đề đạo đức, lối sống, những tự truyện, những mẩu chuyện liên quan đến nhiều khía cạnh của đời sống hiện thực, song nhìn chung là xoay quanh những suy nghĩ về cuộc đời và nghề văn. Ông khai thác những đề tài có phần hẹp nhưng tác phẩm của ông vẫn đạt đến mức độ khái quát cao, đó là những câu chuyện nhỏ nhặt hàng ngày nhưng lại có sức chuyển tải những câu chuyện lớn hơn… Nhắc đến Nguyên Ngọc, người ta thường nghĩ ngay đến những Đất nước đứng lên, Rừng xà nu, Rẻo cao, …, những tác phẩm đã làm nên tên tuổi Nguyên Ngọc một thời. Thế nhưng, trong những năm gần đây, Nguyên Ngọc thường xuyên xuất hiện trên báo với những bài viết ngắn gọn, súc tích, đầy tâm huyết về những vấn đề nóng hổi đang diễn ra trong cuộc sống, mà đặc biệt nhất là các vấn đề về văn hóa, giáo dục và phát triển bền vững ở Tây Nguyên – những vấn đề bức xúc mà ông cho là không thể làm thinh được. Trong hệ thống tác phẩm của Tạ Duy Anh, tạp văn tuy không chiếm số lượng áp đảo, nhưng tạp văn đã tạo nên một phong cách, một cá tính riêng không thể trộn lẫn của văn chương Tạ Duy Anh. Trong tạp văn Tạ Duy Anh, có những trang viết ngọt ngào về ký ức tuổi thơ, những suy ngẫm trầm tư trước thế sự, và những lo lắng băn khoăn trăn trở về nghề viết. Khác với một Tạ Duy Anh đầy hiện thực, gai góc trong các tiểu thuyết và truyện ngắn. Đọc tạp văn Tạ Duy Anh để đến với những gam màu trầm lắng trong tâm hồn nhà văn. Qua đó, cũng có thể thấy được những đóng góp quan trọng của Tạ Duy Anh cho thể loại tạp văn, 17
  18. và khẳng định vị trí của tạp văn trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư đặc biệt quan tâm đến mọi mặt trong đời sống của người dân Nam Bộ. Tác giả chú ý đến đề tài chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nhằm khắc họa hình ảnh người dân Nam Bộ lam lũ cực nhọc, gặp nhiều khó khăn khi đối diện với nền kinh tế thị trường. Nhưng họ là những con người thật thà, hiền lành, chất phác, biết yêu thương chia sẻ với nhau và luôn mang trong mình một tinh thần lạc quan hướng về tương lai, về một ngày mai tươi sáng. Trong khi đó, tạp văn Nhân trường hợp chị thỏ bông của Phan Thị Vàng Anh với cái nhìn sắc lẻm và sức mạnh biện giải, mang đến những gam màu đặc sắc cho thể loại tạp văn. Nguyễn Việt Hà với tuyển tập: Đàn bà uống rượu, Nhà văn thì chơi với ai, Mặt của đàn ông, Con giai phố cổ với số lượng bài viết khá lớn cung cấp cho người đọc cái nhìn mới đa thanh, đa diện về con người và cuộc sống. 1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của tạp văn Thứ nhất: Đa dạng về đề tài. Tạp văn là thể loại có ưu thế về dung lượng ngắn gọn, cô đọng, linh hoạt, nhạy bén trong phản ánh cuộc sống, tâm tư con người và khái quát được những vấn đề lớn mang tính chất chính trị xã hội. Đề tài tạp văn vô cùng phong phú đa dạng hầu như đề cập đến mọi vấn đề trong xã hội. Trong đó đề tài về văn hóa, phát triển và giáo dục được nhiều tác giả quan tâm chú ý nhất. Ở đó bức tranh toàn cảnh của xã hội Việt Nam với những bức xúc đang làm nhiều người lo lắng. Các tác giả dựa vào tính thời sự, chính luận của tạp văn để công kích bài trừ cái xấu, nói lên suy nghĩ của mình một cách trực tiếp. Sự rộng lớn về đề tài của tạp văn vượt qua tất cả các thể loại văn học khác, do đó người ta gọi tạp văn là “viện bảo tàng của cuộc sống”. Văn học trong quá trình khám phá cuộc sống luôn hướng tới đề tài chứa đựng những triết lí sâu xa, những giá trị nhân bản vĩnh hằng. Đồng thời qua đó chúng ta cũng thấy được triết lí nhân sinh cũng như cách nhìn nhận của tác giả về cuộc đời, về xã hội. Tạp văn có cơ hội đi sâu bàn 18
  19. về những vấn đề trong cuộc sống một cách cụ thể, trực tiếp, ngắn gọn nhanh hơn những thể loại khác. Trong những trang viết của thể loại tạp văn, chúng ta nhận ra văn hóa có vai trò rất to lớn trong sự tồn tại và phát triển kinh tế xã hội. Không những thế, sự đổi mới còn được các tác giả viết tạp văn ngày nay dẫn kê một cách linh hoạt, đả kích, bài trừ cái xấu một cách mạnh mẽ. Thứ hai: Tạp văn – một thể văn tự do phóng túng. Kết cấu của tạp văn rất tự do. Kết cấu của tạp văn không chú ý vào “khai, thừa, chuyển, hợp” như thơ ca, không phân cảnh phân hồi như kịch, mà có lúc gần lúc xa, lúc trước lúc sau, hiện thực và lịch sử, tự nhiên và xã hội có sự giao thoa, triết lí sâu sắc có thể biểu hiện ngay trong cuộc sống hằng ngày, tình cảm nồng nàn được thể hiện thông qua tưởng tượng của cá nhân, thậm chí trên trời dưới đất đều có thể liên kết vào một điểm. Đặc điểm tự do trong kết cấu này của tạp văn khiến người đọc có cảm giác tản mạn, nhưng cái “tản” này không phải là lộn xộn, không có trật tự, không có tính văn chương, mà là trong cái tản mạn có trật tự, trong cái tản mạn có văn chương. Cái trật tự ở đây là chỉ tác giả đã căn cứ vào ý đồ sáng tác của mình và nhu cầu biểu hiện, đem toàn bộ sự tổ chức có trật tự chứ không hề lộn xộn rối ren làm cho nó có “thần”. Thứ ba: Ngôn ngữ tạp văn trong sáng, súc tích, tươi mới, tự nhiên. Tạp văn miêu tả nhân vật phải sinh động như cuộc sống, rõ ràng như đang hiện ra trước mắt, tình cảm biểu hiện thì phải chân thực, thiết tha, tế nhị, thuyết lí nghị luận phải vừa trang trọng, vừa hài hước, thú vị. Chủng loại của tạp văn rất phong phú đa dạng, bất kể từ góc độ nào, căn cứ nào đều có thể chia tạp văn thành rất nhiều loại. Thông thường thì người ta căn cứ vào đối tượng và hình thức thể hiện để chia tạp văn thành ba loại: tạp văn tự sự, tạp văn trữ tình, tạp văn nghị luận. Chúng ta có thể so sánh tạp văn với truyện ngắn và tiểu thuyết sẽ thấy được thể loại này có những dị biệt, tương đồng riêng. Sự khác nhau về đặc trưng 19
  20. ngôn ngữ và cách phản ánh hiện thực của thể loại kéo theo nhiều sự khác nhau nữa. Chẳng hạn, trong truyện ngắn và tiểu thuyết thường xây dựng một hệ thống nhân vật, có những nhân vật điển hình, trở thành những hình tượng nhân vật chuyển tải những ý tưởng sâu xa của tác giả. Còn trong tạp văn, nhân vật thường gần gũi xung quanh tác giả, những ý nghĩ tình cảm, thái độ được tác giả bộc lộ khá thẳng thắn, rõ ràng chứ không quá sâu xa ẩn ý như truyện ngắn. Trong tạp văn thường không có cốt truyện, hoặc cốt truyện mờ nhạt, thường thì tạp văn xây dựng theo lối kết cấu - liên tưởng. Bởi “truyện ngắn viết ra bắt buộc phải có nội dung, còn các ý tưởng mênh mông không rõ ràng, đó là bút kí hoặc tạp văn chứ không phải truyện ngắn”. Nếu như tiểu thuyết viết về những sự việc của người khác thì tạp văn lại là viết về những sự việc của chính mình, cho dù có viết về người khác thì trên thực tế cũng là viết về chính mình. Trên một ý nghĩa nào đó, cái mà tiểu thuyết viết là cái ngoài bản thân, nhưng phần lớn cái mà tạp văn viết lại là sự việc trong tim của tác giả, tiểu thuyết rất dễ chạm đến, tạp văn lại khó gặp, nó cơ hồ là sự phân thân của nhà văn, ghi lại rất thật sự hư cấu ngay trong bản thân nhà văn. Đối với sáng tác tạp văn, đề tài là cái có thể gặp nhưng không thể cầu, tạp văn muốn bám vào chính con người, cho nên tất yếu sẽ phải dựa vào tình cảm chân thành, thể nghiệm độc đáo trong cuộc sống và kinh nghiệm nghệ thuật tương đương. 1.2. Nguyễn Việt Hà và quan niệm về thể loại tạp văn 1.2.1. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp phát triển của Nguyễn Việt Hà Nguyễn Việt Hà, tên thật là Trần Quốc Cường sinh ngày 12 tháng 7 năm 1962 tại Hà Nội. Ông từng là nhân viên Ngân hàng Công thương Hà Nội, vì niềm đam mê với văn chương, ông đã từ bỏ công việc của một công chức nhà nước. Bởi vậy mới nói: Cái nghiệp văn chương đến với ông như một “duyên nợ”. Nguyễn Việt Hà viết tiểu thuyết, truyện ngắn, tạp văn và được đông đảo độc giả yêu mến. Ông chính thức bước vào hoạt động nghệ thuật năm 1993. Truyện ngắn 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0