Luận văn Thạc sĩ KHoa học Ngữ văn: Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn
lượt xem 3
download
Mục đích khoa học của luận văn là góp phần làm rõ hơn những nét riêng của thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người và thế giới. Từ đó khẳng định thành công và chỉ ra một số hạn chế của Cao Duy Sơn khi viết về đề tài miền núi, góp phần đánh giá vị trí của nhà văn trong nền văn học đương đại Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ KHoa học Ngữ văn: Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM LÝ THỊ THU PHƢƠNG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM LÝ THỊ THU PHƢƠNG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS TÔN THẢO MIÊN THÁI NGUYÊN - 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Phó Giáo sư - Tiến sĩ Tôn Thảo Miên (Viện Văn học), người đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi chân thành cảm ơn nhà văn Cao Duy Sơn đã cung cấp những tư liệu quý giá liên quan đến đề tài luận văn. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo, chân thành cảm ơn đồng nghiệp, bạn bè và người thân đã tạo điều kiện, động viên tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu. Thái Nguyên, tháng 8 năm 2010 Lý Thị Thu Phương Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG 8 Chƣơng I: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn 8 1. Khái niệm thế giới nhân vật, nhân vật văn học 8 2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn 9 2.1. Những con ngƣời nhỏ bé, bình dị, có số phận bất hạnh 9 2.2. Những nhân vật lí tƣởng 13 2.2.1. Khát vọng tình yêu và niềm tin vào cuộc sống 13 2.2.2. Những con ngƣời nhân hậu, chung thủy, nghĩa tình 17 2.2.3. Những con ngƣời dũng cảm, cao thƣợng, giàu lòng vị tha 20 2.3. Nhân vật tha hóa 23 3. Nghệ thuật miêu tả nhân vật 26 3.1. Miêu tả ngoại hình, hành động của nhân vật 26 3.1.1. Miêu tả ngoại hình, hành động để khắc họa chân dung 27 3.1.2. Miêu tả ngoại hình, hành động để nhận dạng tâm tính, đoán định tính cách 31 3.2. Miêu tả nội tâm 36 3.2.1. Đặt nhân vật vào những tình huống tâm lí xung đột để nhân vật tự bộc lộ 37 3.2.2. Miêu tả nội tâm nhân vật nhiều chiều, nhiều cung bậc và luôn biến chuyển 41 3.2.2.1. Miêu tả nội tâm nhân vật nhiều chiều 41 3.2.2.2. Miêu tả nội tâm nhân vật nhiều cung bậc và luôn biến chuyển 44 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Chƣơng II: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật 50 trong truyện ngắn Cao Duy Sơn 1. Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn 51 1.1. Khái niệm không gian nghệ thuật 51 1.2. Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn 51 1.2.1. Không gian địa lí 52 1.2.1.1.Không gian địa lý nhƣ một khách thể thẩm mĩ 52 1.2.1.2. Không gian địa lý là phông nền cho sự vận động tâm lý và tính cách, là dấu hiệu phản ánh tâm tƣ, tình cảm của nhân vật 55 1.2.2. Không gian đời tƣ 59 2. Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn 64 2.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật 64 2.2. Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn 65 2.2.1. Thời gian đan xen giữa quá khứ và hiện tại 65 2.2.2. Thời gian tâm lí 70 2.2.3. Thời gian phong tục, lễ hội 74 Chƣơng III: Ngôn ngữ truyện ngắn Cao Duy Sơn 79 1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh với thủ pháp so sánh - nét đặc trƣng của truyện ngắn Cao Duy Sơn 79 2. Ngôn ngữ đậm sắc thái dân tộc 89 2.1. Vận dụng lối nói hồn nhiên, hay ví von của ngƣời miền núi 89 2.2. Sắc thái dân tộc thể hiện ở việc đƣa tiếng địa phƣơng, tiếng dân tộc vào tác phẩm 97 KẾT LUẬN 101 TÀI LIỆU THAM KHẢO 104 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng đƣợc sáng tạo theo các nguyên tắc tƣ tƣởng, khác với thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lí của con ngƣời, mặc dù nó phản ánh những thế giới ấy. “Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật.”[32]. Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian riêng, có quy luật tâm lí riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng... chỉ xuất hiện một cách có ƣớc lệ trong sáng tác nghệ thuật. Nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn là cơ sở để hiểu hình tƣợng nghệ thuật trong tác phẩm, quan niệm và cách cắt nghĩa của nhà văn về thế giới. Thế giới nghệ thuật giúp ta hình dung tính độc đáo về tƣ duy nghệ thuật của sáng tác nghệ thuật, có cội nguồn trong thế giới quan, văn hóa chung và cá tính sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ. Tìm hiểu thế giới nghệ thuật chính là khám phá thế giới bên trong ẩn kín - cái thế giới chi phối sự hình thành phong cách nghệ thuật - của nhà văn. 1.2. Trong đời sống văn học Việt Nam đƣơng đại, Cao Duy Sơn đƣợc đánh giá là một trong những cây bút có khả năng khai thác độc đáo về đề tài miền núi. Nhà văn Cao Duy Sơn sinh năm 1956 tại Cao Bằng, ngƣời dân tộc Tày, là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, hiện công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Những trang viết đậm đà bản sắc văn hóa vùng cao của ông đã để lại ấn tƣợng sâu sắc trong lòng bạn đọc và khẳng định đƣợc vị trí trong mảng văn xuôi viết về miền núi. Năm 1993, tiểu thuyết Người lang thang của Cao Duy Sơn đƣợc Hội đồng văn học dân tộc miền núi Hội nhà văn Việt Nam trao giải A, đồng thời đoạt giải Nhì - Hội nghị Việt Nhật. Năm 1999, tập truyện ngắn Những chuyện ở lũng Cô Sầu đƣợc tặng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1
- thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam. Tiểu thuyết Đàn trời đƣợc Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam trao giải A năm 2007. Ngôi nhà xưa bên suối là tập truyện đã đoạt giải thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2008 và Giải thƣởng văn học ASEAN năm 2009. Sáng tác của Cao Duy Sơn là những “mảng sống đậm đặc, tươi ròng” (Hữu Thỉnh) về miền núi. Đặc biệt, hiện thực cuộc sống và con ngƣời miền núi hiện ra trong truyện ngắn của ông đa diện, nhiều chiều. Những trang văn mở ra một thế giới nghệ thuật mới lạ, đầy hấp dẫn, mang đến cho ngƣời đọc sự hiểu biết về đất và ngƣời vùng cao, vun đắp niềm tin yêu tha thiết với những miền xa xôi của tổ quốc. Tác phẩm của Cao Duy Sơn đã đƣợc in ấn, xuất bản và giới thiệu nhiều trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, đến thời điểm này, ngoài một số bài báo hoặc những ý kiến bàn luận, đánh giá nhỏ lẻ, có rất ít công trình nghiên cứu chuyên biệt về Cao Duy Sơn và tác phẩm của ông. Vì vậy, việc tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn Cao Duy Sơn là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa khoa học. 1.3. Trên cơ sở nhìn nhận mỗi thế giới nghệ thuật có một mô hình nghệ thuật trong việc phản ánh thế giới, luận văn tiếp cận các truyện ngắn của Cao Duy Sơn nhằm giải mã những tín hiệu nghệ thuật, tìm hiểu quan niệm và cách cắt nghĩa của nhà văn về thế giới. Trong giới hạn luận văn thạc sĩ khoa học, ngƣời viết mong muốn đƣợc góp phần nhỏ bé vào lĩnh vực nghiên cứu, từ đó khẳng định vị trí của một nhà văn dân tộc Tày trong văn xuôi Việt Nam đƣơng đại. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Thế giới nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ. Nó là kiểu tồn tại đặc thù vừa trong chất liệu, vừa trong cảm nhận của ngƣời thƣởng thức, vừa là sự thống nhất giữa nội dung và hình thức trong chỉnh thể thẩm mĩ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2
- của tác phẩm. "Chỉnh thể tác phẩm được nhận thức qua khái niệm thế giới nghệ thuật" [44]. Thế giới nghệ thuật bao gồm hiện thực, cá tính sáng tạo của nhà văn, chất liệu nghệ thuật. Thế giới nghệ thuật không chỉ tƣơng đƣơng mà còn rộng hơn tác phẩm nghệ thuật. Nó có thể bao quát tất cả các tác phẩm của một nhà văn, một trào lƣu nghệ thuật, một thời kì văn học. Khái niệm thế giới nghệ thuật đƣợc nhìn nhận nhƣ một phạm trù mĩ học bao gồm tất cả các yếu tố của quá trình sáng tạo nghệ thuật và tất cả kết quả của hoạt động sáng tạo nghệ thuật. 2.2. Trong nền văn học đƣơng đại, nhà văn Cao Duy Sơn đã có những đóng góp to lớn cho văn xuôi viết về miền núi, khẳng định đƣợc tài năng và phong cách của mình khi khai thác đề tài này. Sự bàn luận, đánh giá về sáng tác của Cao Duy Sơn, đến thời điểm này, ngoài một số bài báo hoặc những ý kiến nhỏ lẻ dừng ở những nét khái quát nhất trong những công trình nghiên cứu về văn học các dân tộc thiểu số, có rất ít công trình nghiên cứu quy mô hoặc một cuốn sách chuyên khảo riêng biệt. Hầu hết những bài viết về nhà văn Cao Duy Sơn đăng tải trên báo chí là những bài phỏng vấn về sự ra đời của tác phẩm, về những cảm nghĩ của nhà văn khi sáng tác và khi đƣợc nhận giải thƣởng. Bài viết "Cả đời tôi chỉ đeo đuổi đề tài về người miền núi" của Chu Thu Hằng ghi lại cuộc phỏng vấn nhà văn Cao Duy Sơn về lợi thế của nhà văn và cái khó khi viết về đề tài miền núi [12]. "Với tác giả Ngôi nhà xưa bên suối", tác giả Mai Thi tìm hiểu lí do Cao Duy Sơn chọn tên truyện Ngôi nhà xưa bên suối đặt tên cho tập truyện và đƣợc nhà văn giải thích: "Ngôi nhà xưa bên suối chọn vì nói thay cho cả tập truyện về sự tiếc nuối một cái gì tốt đẹp đã qua mất rồi."[47]. Tác giả Hứa Hiếu Lễ thể hiện niềm tự hào của ngƣời Cô Xàu về Cao Duy Sơn khi nghe tin tập truyện Ngôi nhà xưa bên suối của nhà văn giành giải thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2008 [20]. Trong bài "Viết văn phải có sự ám ảnh"[40] và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3
- "Viết văn là một cuộc viễn du về cội nguồn"[50], các tác giả đã ghi lại cảm xúc của Cao Duy Sơn khi nhận giải thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam và suy nghĩ của nhà văn về đề tài sáng tác: "Cái để tạo nên trong tôi cảm xúc là quãng đời ấu thơ, nơi mình sinh ra và lớn lên.(...) Viết văn nhất định phải có sự ám ảnh..." [40]; "... với tôi viết văn giống như một cuộc viễn du về cội nguồn, cuộc viễn du về xứ sở mình sinh ra, lớn lên và trưởng thành"[50]. Có một số ít bài đi vào nội dung tác phẩm nhƣ: Cõi nhân gian như cổ tích (Nguyễn Chí Hoan), Ban mai có một giọt sương (Đỗ Đức). Viết về tiểu thuyết Đàn trời, tác giả Nguyễn Chí Hoan nhận xét: "Chủ đề hai hàng của cuốn tiểu thuyết được khai triển song song trên hai tuyến thời gian quá khứ và hiện tại (...). Bằng cách ấy, tiểu thuyết này kể cho chúng ta một câu chuyện cổ tích qua một phiên bản hiện đại..." [16]. Còn tác giả Đỗ Đức đã thể hiện những cảm nhận ban đầu của mình về tập truyện Ngôi nhà xưa bên suối của Cao Duy Sơn, suy nghĩ về nhân vật và chủ đề của các tác phẩm: Ngôi nhà xưa bên suối, Chợ tình, Song sinh, Hoa bay cuối trời [7]. Nghiên cứu văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, nhà phê bình Lâm Tiến nhận xét về Cao Duy Sơn: “Ông miêu tả nhân vật dưới góc độ đời tư, có số phận riêng và một sự tự ý thức. Điều đó càng được thể hiện rõ trong những truyện ngắn sau này của ông. (...) Truyện của Cao Duy Sơn còn hấp dẫn người đọc ở cách viết giàu cảm xúc, giàu hình tượng với cách cảm nhận sự vật, hiện tượng tinh tế, chính xác, sắc sảo với những tình huống căng thẳng gay gắt, bất ngờ.” [53, tr.151] Luận văn thạc sĩ Ngữ văn của Đặng Thùy An (Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội - 2007) với đề tài “Thi pháp nhân vật tiểu thuyết trong tiểu thuyết Người lang thang và Đàn trời của Cao Duy Sơn” là công trình nghiên cứu chuyên biệt đầu tiên về tác phẩm của Cao Duy Sơn. Tuy nhiên luận văn này Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4
- chỉ nghiên cứu hai tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết theo hƣớng tiếp cận thi pháp nhân vật. Luận văn thạc sĩ Ngữ văn của Đinh Thị Minh Hảo (Trƣờng Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên - 2009) với đề tài “Truyện ngắn Cao Duy Sơn” là công trình nghiên cứu chuyên biệt đầu tiên về truyện ngắn Cao Duy Sơn. Tác giả đã đi sâu tìm hiểu ba tập truyện ngắn của Cao Duy Sơn (Những chuyện ở lũng Cô Sầu; Những đám mây hình người; Ngôi nhà xưa bên suối), từ đó khái quát những nét tƣơng đồng và khác biệt của Cao Duy Sơn với các tác giả văn xuôi miền núi đƣơng đại. Tác giả viết: “Là một nhà văn xuất hiện trong thời sau đổi mới, Cao Duy Sơn vừa hòa nhập vừa vượt trội lên trên mặt bằng chung của văn xuôi miền núi đương đại.” [11, tr.24] Nghiên cứu hiện thực và con ngƣời miền núi trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, tác giả Đinh Thị Minh Hảo khẳng định đó là “bức tranh xã hội miền núi với những xung đột “ngầm” và in đậm bản sắc văn hóa Tày” và nhận xét về hình tƣợng con ngƣời miền núi: “Họ đã vượt lên trên những bi kịch của số phận tỏa sáng lòng nhân hậu, dũng cảm trong đói nghèo và bất hạnh.” [11, tr.40]. Khi tìm hiểu một số phƣơng diện nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, tác giả luận văn tập trung vào cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật và đặc điểm ngôn ngữ truyện ngắn Cao Duy Sơn. Nhƣ vậy, đến thời điểm hiện tại, vẫn chƣa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn. Việc tìm hiểu nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn vì thế đƣợc đặt ra nhƣ một yêu cầu tất yếu. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là ba tập truyện ngắn của Cao Duy Sơn: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5
- - Tập truyện ngắn Những chuyện ở lũng Cô Sầu - Tặng thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1999. - Tập truyện ngắn Những đám mây hình người - Giải B của Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2003. - Tập truyện ngắn Ngôi nhà xưa bên suối - Giải thƣởng Hội nhà văn Việt Nam năm 2008; Giải thƣởng Văn học ASEAN năm 2009. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn không đi sâu nghiên cứu tất cả những vấn đề thi pháp mà chỉ tập trung vào một số phƣơng diện cơ bản trong thế giới nghệ thuật của truyện ngắn Cao Duy Sơn. Đó là: thế giới nhân vật, không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ truyện ngắn Cao Duy Sơn. 4. Mục đích nghiên cứu Mục đích khoa học của luận văn là góp phần làm rõ hơn những nét riêng của thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con ngƣời và thế giới. Từ đó khẳng định thành công và chỉ ra một số hạn chế của Cao Duy Sơn khi viết về đề tài miền núi, góp phần đánh giá vị trí của nhà văn trong nền văn học đƣơng đại Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phƣơng pháp thống kê, khảo sát. - Phƣơng pháp phân tích. - Phƣơng pháp hệ thống, tổng hợp. - Phƣơng pháp đối chiếu, so sánh. 6. Đóng góp của luận văn Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống một số phƣơng diện cơ bản của thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn. Từ đó chúng tôi mong muốn góp phần khẳng định những đóng góp của nhà văn Cao Duy Sơn trong nghệ thuật tự sự khi khai thác đề tài miền núi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6
- 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và thƣ mục tham khảo, nội dung luận văn triển khai thành ba chƣơng: Chƣơng 1: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn. Chƣơng 2: Không gian - thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn. Chƣơng 3: Ngôn ngữ truyện ngắn Cao Duy Sơn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7
- NỘI DUNG CHƢƠNG I THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN 1. Khái niệm thế giới nhân vật, nhân vật văn học Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ, là một thực thể hoàn chỉnh, thống nhất của các yếu tố nội dung và hình thức, vừa có khả năng phản ánh hiện thực cuộc sống vừa biểu hiện thế giới tâm hồn, tƣ tƣởng, tình cảm của ngƣời viết, nó đƣợc sáng tạo theo quy luật thẩm mĩ và có ý nghĩa xã hội. Theo Bêlinxki: "Mọi sản phẩm nghệ thuật đều là một thế giới riêng mà khi đi vào đó thì ta buộc phải sống theo các quy luật của nó, hít thở không khí của nó". Thế giới nghệ thuật không chỉ tồn tại trong tác phẩm nghệ thuật mà còn tồn tại trong trí tƣởng tƣợng, sự hình dung của độc giả. Nó thống nhất nhƣng không đồng nhất với thế giới thực tại. Thế giới nhân vật là hạt nhân của thế giới nghệ thuật, cũng là phƣơng tiện quan trọng nhất để thể hiện tƣ tƣởng trong các tác phẩm kịch và tự sự. Nó quyết định các yếu tố khác nhƣ cốt truyện, sự lựa chọn chi tiết, phƣơng tiện ngôn ngữ và cả kết cấu của truyện. Vì thế khám phá thế giới nhân vật là chặng đƣờng đầu tiên không thể thiếu của hành trình tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong sáng tác của một nhà văn. Nhân vật văn học là “thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ.” [34, tr.1254]. “ Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học ” [33, tr.202]. Qua nhân vật văn học, nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tƣởng thẩm mĩ của mình về con ngƣời. Nhân vật là “công cụ khái quát hiện thực và phương tiện để tác giả hiện thực Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8
- hóa quan niệm nghệ thuật về con người dưới một hình thức biểu hiện tương ứng.” [45, tr.365]. Nhân vật văn học đƣợc miêu tả qua các biến cố, xung đột, mâu thuẫn, qua ngôn từ và chi tiết. Các phƣơng diện loại hình của nhân vật văn học rất đa dạng. Xét về vai trò nhân vật trong tác phẩm có nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm. Xét về phƣơng diện hệ tƣ tƣởng, về quan hệ đối với lý tƣởng xã hội của nhà văn, có thể nói tới nhân vật chính diện, nhân vật phản diện, nhân vật lý tƣởng, nhân vật tƣ tƣởng... Vì vậy khi phân định loại hình nhân vật phải rất linh hoạt dựa trên cơ sở khả năng phản ánh hiện thực của chúng và ý đồ tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn. 2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn Mỗi nhà văn, trong quá trình sáng tạo đều hƣớng tới xây dựng những kiểu loại nhân vật nhất định. “Nhân vật là nơi tập trung hết thảy và giải quyết hết thảy trong một sáng tác.” [15, tr.62]. Trong tác phẩm văn học, nhân vật luôn đƣợc miêu tả nhƣ một loại hình tính cách, một mô hình cá nhân. Mô hình cá nhân đƣợc miêu tả nhƣ một chỉnh thể còn đƣợc gọi là vai văn học. Ngoài đảm nhiệm vai văn học trong tác phẩm, nhân vật còn là sự thể hiện những vai xã hội nhất định, có tính chất tiêu biểu trong đời sống. Trên sơ sở vai văn học, các kiểu loại nhân vật đƣợc định hình trong mối tƣơng quan với thân phận đích thực của họ trong đời thực và với quan niệm thẩm mĩ của nhà văn. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của nhà văn Cao Duy Sơn mang những đặc điểm có sức khái quát và giá trị nghệ thuật sâu sắc. 2.1. Những con ngƣời nhỏ bé, bình dị, có số phận bất hạnh Trong thế giới nhân vật phong phú của truyện ngắn Cao Duy Sơn, nhân vật trung tâm chủ yếu là những ngƣời lao động ở miền núi, những con ngƣời nhỏ bé, bình dị. Ta có thể gặp những con ngƣời nhƣ thế ở bất cứ nơi đâu trong đời sống hàng ngày. Đó là lão Khơ chuyên đóng xe ngựa (Hoa bay cuối trời); lão Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9
- Sấm ăn mày (Người ở muôn nơi); bà Ban quét chợ, lão Khuề ngày kiếm củi bán, đêm bắt tắc kè (Âm vang vong hồn); Kí - nhân viên bán thịt (Những đám mây hình người); Thùng - lái xe ở lâm trƣờng (Mùa én gọi bầy)... Từng cá thể, từng mảnh đời thầm lặng góp phần tạo nên thế giới nhân vật phong phú trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn. Lựa chọn những con ngƣời nhỏ bé, bình dị làm nhân vật trung tâm trong sáng tác của mình, nhà văn không tập trung tái hiện những vất vả bởi mƣu sinh mà đi sâu khám phá tâm lí, khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của họ trong nhiều cảnh ngộ éo le, bất hạnh. Điều đó chứng tỏ nhà văn Cao Duy Sơn không chỉ am hiểu sâu sắc về cuộc sống và con ngƣời ở miền núi mà còn có trái tim yêu thƣơng, giàu cảm thông với những đau khổ của con ngƣời. Quan trọng hơn, qua thế giới nhân vật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, độc giả nhận ra quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con ngƣời và hiện thực. Theo nhà văn Nguyễn Minh Châu: “ Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người.” [4]. Các nhà văn gửi gắm trong sáng tác của mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thƣơng con ngƣời. “Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan, say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình.” [4]. Có tình yêu lớn ấy, nhà văn mới có thể cảm thông sâu sắc với những con ngƣời bất hạnh. Khi khắc họa những con ngƣời nhỏ bé, bình dị, Cao Duy Sơn tập trung tái hiện những bất hạnh, éo le trong cuộc đời của họ. Chính vì vậy, hình ảnh những con ngƣời nhỏ bé, vô danh, ít đƣợc để ý trong xã hội trở nên sáng rõ và ám ảnh ngƣời đọc, khơi gợi bao suy nghĩ về cuộc sống và con ngƣời. Nhà văn quan tâm đến đời tƣ con ngƣời với những mất mát, éo le, bất hạnh do nhiều nguyên nhân khác nhau. Những mối tình lỡ dở, gia đình đổ vỡ, con ngƣời chia li, tan hợp với những món nợ tình nghĩa suốt đời là hình tƣợng xuyên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10
- suốt trong truyện ngắn Cao Duy Sơn. Nhân vật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn không khốn khó vì nghèo, vì tiền mà bất hạnh của cuộc đời họ là những đớn đau nhức nhối trong tâm tƣởng. Con ngƣời mang khát vọng thƣờng bị dập vùi trong xa xót, dở dang. Cuộc đời dằng dặc buồn đau của ông Thim đƣợc nhà văn tái hiện trong tác phẩm Người săn gấu. Mƣời hai tuổi, chú bé Thim phải chứng kiến cảnh tƣợng đau đớn, khủng khiếp suốt đời không bao giờ quên: “Ngƣời cha đã đẩy lùi con thú bằng sức mạnh kì diệu nhƣng ông đã không thoát ra đƣợc trong những chiếc vuốt cong nhọn hoắt của nó, ngƣời và gấu đã cùng lao xuống đáy vực hun hút”. Năm tháng qua đi, tuổi xuân của Thim đã gửi gắm ở khắp các chiến trƣờng. Rời quân ngũ, hơn ba mƣơi năm làm chân đƣa thƣ lƣu động, hầu nhƣ đã đến khắp vùng hẻo lánh trong tỉnh, chƣa bao giờ trong ông nguôi vơi nỗi nhớ vùng quê xa, “nơi Thim đã có một thời trẻ trung chát đắng” với “mối tình nhƣ nụ hoa đầu tiên mới nhú...”. Thim đóng chặt cánh cửa lòng mình và chỉ để ngỏ một lối duy nhất cho tình yêu ban đầu ấy vĩnh viễn tồn tại. Nỗi bất hạnh của Hoán (Thằng Hoán) bắt đầu từ một tai nạn khủng khiếp khi nó lên mƣời tuổi. Mƣời tám tuổi nhìn vẫn nhƣ đứa trẻ lên mƣời. “Thân hình không cao quá một mét tƣ. Cái đầu to quá khổ nhƣ bị cái u trên lƣng đè nặng, luôn trĩu về phía trƣớc. Hai bàn chân to bè những ngón tòe ra...”. Gần bốn mƣơi tuổi Hoán mới có vợ nhƣng ngƣời vợ ấy đã phản bội chồng. Vợ bỏ nhà theo nhân tình, Hoán một mình chăm lo cho con trai mới lên bốn tuổi. “Đêm đêm ôm con ngủ, nhìn ngấn nƣớc mắt vẫn đọng trên đôi má ngây thơ của nó, trong lòng Hoán cồn lên một nỗi thƣơng xót tê tái”. Hai cha con lão Vƣợc (Cuộc báo thù cuối cùng) sống ở ngôi nhà sàn nằm lẻ loi dƣới chân núi. Từ ngày ngƣời vợ hiền lành chết thảm vì gặp hổ trên đƣờng đi đón chồng, Lão Vƣợc đi săn thú không chỉ để mƣu sinh mà còn để báo thù. Lão muốn quên mà không sao quên nổi “cái quá khứ nghiệt ngã và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11
- tàn nhẫn”. Nỗi đớn đau của lão Vƣợc dồn tụ, chất chồng bao “năm tháng nhọc nhằn săn đuổi, và những ngày âm thầm nuôi con trong nỗi cô đơn triền miên.” Câu chuyện về Ò Lình ở bản Luông (Nơi đây không một bóng người) khiến ngƣời đọc ngỡ ngàng trong đau xót. Dân bản gọi chú bé bị câm từ lúc mới lọt lòng là Ò Lình (thằng Khỉ) “vì nó giống y nhƣ một con khỉ” với thân thể phủ một lớp lông màu vàng. Vừa mới ra đời, Ò Lình đã phải cùng mẹ trốn chạy sự tàn nhẫn của ngƣời cha chối bỏ con mình. Hai mẹ con ở trong rừng sâu, “một cuộc sống ở nơi không một bóng ngƣời”. Suốt mƣời bốn năm trời, chỉ có bà đỡ đi lại tiếp tế, chăm sóc hai mẹ con với tấm lòng một ngƣời mẹ nhân hậu. Nhƣng rồi bà đỡ bị dân quân bắn chết vì họ tƣởng là quái vật từ rừng hủi đến hại dân làng. Còn Ò Lình, sau khi xông vào đám cháy cứu bọn trẻ và bị con ngƣời xua đuổi, chú bé chạy về rừng với mẹ. Tiếng gọi mẹ lần đầu tiên cất lên cũng là tiếng nói cuối cùng của Ò Lình. “...nó đã mang theo cái tiếng nói đầu tiên ấy, cái tiếng nói của một con ngƣời thực sự theo vào giấc ngủ vĩnh viễn”. Đến với tác phẩm Hoa bay cuối trời, ngƣời đọc không khỏi xúc động trƣớc mối tình của Dình và Khơ, cảm thƣơng ngƣời con gái xinh đẹp vùng Pác Gà. Dình đã có ngƣời con trai ngỏ lời, “nhƣ con chim đã có đôi, con suối có bóng núi làm bạn”. Khơ hẹn sẽ đón Dình về làm vợ trên chiếc xe ngựa do chính tay anh đóng, “đƣợc một con ngựa hồng bờm tết hoa rực rỡ kéo đi qua những cánh rừng”. Nhƣng sau một trận sốt li bì suốt năm ngày, đôi chân Dình không thể cử động đƣợc nữa. Không muốn ngƣời yêu phải khổ, Dình đã nhờ anh trai nói dối để Khơ tin rằng cô là kẻ bội tình. Chiếc xe ngựa do chính tay Khơ đóng, mấy mƣơi năm sau mới lăn bánh đƣa Dình “đi về nơi cuối trời”. Đọc những trang văn tái hiện những trang đời bất hạnh đầy trắc trở, có cảm giác Cao Duy Sơn đang nói hộ ƣớc mơ, giãi bày éo le uẩn khúc và niềm mong mỏi của những con ngƣời nhỏ bé, bình dị ở vùng cao. Dƣới ngòi bút Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12
- của nhà văn, bức tranh hiện thực xã hội miền núi hiện lên với những xung đột âm thầm vừa có tính thời sự của cuộc sống đƣơng đại, vừa là những xung đột muôn thuở của số phận con ngƣời. Đó là xung đột giữa con ngƣời với thiên nhiên; giữa khát vọng tình yêu, hạnh phúc với những rào cản của lễ giáo, hủ tục; giữa ƣớc mơ và thực tại phũ phàng. Nhà văn không quan sát, mô tả bề ngoài mà nắm bắt và tái hiện đƣợc sự vận động bên trong của đời sống ở vùng rừng núi xa xôi phía Bắc. Mỗi cuộc đời, mỗi số phận là một mảnh nhỏ của hiện thực, không mở ra những chiều kích khoáng đạt mà dẫn dắt ngƣời đọc nƣơng theo những niềm đau, lắng sâu bao xót xa, vật vã trong bi kịch. Với những thăng trầm ở mọi thân phận, các nhân vật của Cao Duy Sơn thiên về loại nhân vật số phận hơn là nhân vật tính cách, tuy nhà văn vẫn có ý thức tạo cho mỗi nhân vật một nét cá tính và ngôn ngữ riêng. 2.2. Những nhân vật lí tƣởng Truyện ngắn của Cao Duy Sơn có nhiều nhân vật đƣợc xây dựng theo nguyên tắc lí tƣởng hóa về nhân cách. Với những nhân vật này, nhà văn quan tâm đến vẻ đẹp tâm hồn hơn vẻ đẹp hình thức và quan niệm đó là yếu tố quan trọng làm nên tính lí tƣởng. Thế giới truyện của Cao Duy Sơn buồn nhƣng không quá bi lụy, ám ảnh nhƣng không quá nặng nề. Chính vẻ đẹp tâm hồn con ngƣời đã làm vợi bớt mọi nỗi đau, cái nhìn bớt u ám. Đặc điểm này góp phần mang lại giá trị nhân văn sâu sắc cho những sáng tác của Cao Duy Sơn. Trong nghịch cảnh, những con ngƣời nhỏ bé, bình dị miền sơn cƣớc vẫn tràn đầy khát vọng tình yêu và niềm tin vào cuộc sống, vẫn nhân hậu, chung thủy, nghĩa tình và dũng cảm, cao thƣợng, vị tha. 2.2.1. Khát vọng tình yêu và niềm tin vào cuộc sống “Tình yêu là hành vi cao cả nhất của tâm hồn và là kiệt tác của con người” (Gac xông). Ở bất cứ nơi đâu, dù ở thời đại nào, con ngƣời đều khao khát yêu thƣơng. Trong các tác phẩm của mình, Cao Duy Sơn không chỉ khắc họa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13
- những con ngƣời vùng cao chân chất, mộc mạc mà còn muốn nói điều gì đó về những điều thầm kín sâu thẳm trong tâm hồn họ, về những ƣớc muốn, khao khát yêu thƣơng. Không phải là thứ lí tƣởng cao xa mà là những khát vọng đời thƣờng: ƣớc vọng một tình yêu toàn vẹn, hạnh phúc lứa đôi, một cuộc sống tốt đẹp, yên bình. Phải chăng nhà văn để nhân vật nói ra những lầm lỡ, giãi bày những ƣớc nguyện không thành để dịu vợi, nguôi ngoai cay đắng, và để thắp lên niềm tin vào cuộc sống trong mỗi trái tim đau ? L. Tônxtôi cho rằng: “Suy cho cùng, bi kịch lớn nhất của con người là tình yêu”. Tình yêu mang hạnh phúc đến cho con ngƣời, tình yêu thanh lọc tâm hồn, khiến ngƣời bình thƣờng bỗng trở nên cao cả, kẻ ích kỉ trở thành cao thƣợng, vị tha. Nhƣng tình yêu cũng có thể mang đến cho con ngƣời nỗi khổ đau, day dứt suốt đời. Dù vậy, con ngƣời vẫn không nguôi khát vọng, và niềm tin vào cuộc sống chƣa bao giờ lụi tắt trong những trái tim ngƣời. Truyện ngắn Cao Duy Sơn có những số phận bi kịch mà nỗi đau thƣơng, xót xa, nuối tiếc đeo đẳng cả một đời ngƣời, có nhiều chuyện tình éo le, trắc trở. Có những chàng trai cô gái yêu nhau tha thiết, thề nguyền gắn bó trọn đời nhƣng lại phải chia xa (Chợ tình, Hoa bay cuối trời, Súc Hỷ...). Có tình yêu chớm nở nhƣng không thể kết trái bởi sự ngáng trở của tƣ tƣởng xã hội, của định kiến (Người săn gấu, Tượng trắng...). Và có những đôi lứa đã nên nghĩa vợ chồng vẫn còn gặp trái ngang (Mùa én gọi bầy). Đến với chuyện tình của Thim và Phón (Người săn gấu), ngƣời đọc cảm thƣơng cho mối tình của ngƣời con gái “con nhà quyền thế nhất vùng” với chàng trai mồ côi nghèo khổ có tài săn gấu. Tình yêu ấy đã vấp phải rào cản của tƣ tƣởng phân chia đẳng cấp trong xã hội phong kiến miền núi thời kì trƣớc cách mạng tháng Tám năm 1945. Anh trai của Phón ra lệnh đánh đập Thim hết sức dã man, xát muối vào vết thƣơng rồi bỏ lại trong rừng cho thú dữ ăn thịt. Thoát chết sau cái ngày đau thƣơng ấy, chàng trai săn gấu vào bộ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14
- đội. “Năm tháng qua đi, tuổi xuân của Thim đã gửi gắm ở khắp các chiến trƣờng nhƣng hình ảnh Phón vẫn không sao phai mờ trong tâm trí chàng trai săn gấu”. Đất nƣớc hòa bình, hành trình tìm lại “mối tình nhƣ cánh hoa đầu tiên mới nhú” của Thim kéo dài suốt mấy chục năm trời. Linh cảm của Thim khi nghe câu chuyện về ngƣời xƣa đã gieo hi vọng và niềm tin cho ông trong bao tháng năm tìm kiếm. Khát khao đoàn tụ sau hơn nửa đời ngƣời xa cách nhƣ càng mãnh liệt, tha thiết theo thời gian. Chàng trai trong tác phẩm Tượng trắng vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi bên đƣờng đƣợc những ngƣời bị bệnh hủi đƣa về nuôi dƣỡng. Chàng trở thành “chiếc phao để họ bám” giữa biển đời xô dạt vì là ngƣời duy nhất còn lành lặn nhƣ một con ngƣời bình thƣờng mà họ có quyền tiếp xúc. Ngƣời cha của cô gái chàng yêu không vƣợt qua đƣợc định kiến, ông đƣa con gái rời xa làng hủi. Quên thời gian, chỉ còn nhớ hình ảnh ngƣời thƣơng và mong ngày nàng trở lại, chàng trai tạc một khối đá trắng thành “bức tƣợng thiếu nữ hiển hiện nhƣ một con chim trắng với đôi mắt mơ màng thoáng ngơ ngác buồn”. Khi ngƣời con gái năm xƣa trở lại với mái tóc trên đầu đã bạc, “chỉ còn một bộ xƣơng ngƣời đã khô trắng, nằm rải rác trên thảm cỏ xanh mƣợt” dƣới bức tƣợng đá. Kiếp ngƣời hữu hạn, nhƣng chàng trai đã tạc vào thời gian khát vọng vĩnh hằng và niềm tin bất diệt vào tình yêu. Bằng những câu chuyện giản dị và cảm động, nhà văn Cao Duy Sơn đã đƣa ngƣời đọc đến với những mối tình sâu nặng và lãng mạn của các chàng trai cô gái thủy chung, có nghĩa có tình. Dù gặp bao thăng trầm trong cuộc sống, nhân vật của Cao Duy Sơn vẫn không nguôi khát vọng tình yêu, vẫn trọn vẹn niềm tin sắt son vào ngày mai tốt đẹp. Súc Hỷ từng có một thời trai trẻ lỡ đƣờng duyên phận, phải chôn chặt mối tình trong lòng để mấy chục năm sau nối lại, cùng Mú Dinh bâng khuâng trong hạnh phúc muộn mằn (Súc Hỷ). Sinh yêu Ếm nhiều lắm, “tƣởng sẽ chết nếu không lấy đƣợc nhau”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 301 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 322 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn