Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới nhìn từ góc độ văn hóa
lượt xem 5
download
Đề tài nghiên cứu nhằm 3 chương trình bày con người trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kì đổi mới từ góc nhìn văn hoá; thiên nhiên trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kì đổi mới từ góc nhìn văn hoá; nghệ thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng từ góc nhìn văn hoá.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới nhìn từ góc độ văn hóa
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ............................................ LÊ VĂN KHẢI TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KÌ ĐỔI MỚI NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN HÀ NỘI - 2010
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ....................................................... LÊ VĂN KHẢI TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KÌ ĐỔI MỚI NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ Chuyên ngành : VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ VĂN ĐỨC HÀ NỘI - 2010
- MỤC LỤC Trang Mở đầu 1 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài. 1 2. Lịch sử vấn đề . 2 3. Phạm vi nghiên cứu. 5 4. Phương pháp nghiên cứu. 6 5. Kết cấu luận văn. 6 Nội dung Chương 1: Con người trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới từ góc nhìn văn hóa 7 1.1.Con người trong văn học thời kỳ đổimới. 7 1.2 Con người trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới từ góc nhìn văn hóa. 8 1.2.1. Con người từ góc nhìn văn hóa ứngxử. 9 1.2.2. Con người từ góc nhìn văn hóa tính dục 20 1.2.3. Con người từ góc nhìn văn hoá tâm linh 28 1.2.4. Con người từ góc nhìn bi kịch 31 Chương 2: Thiên nhiên trong truyện ngắn ma văn kháng thời kì đổi mới từ góc nhìn văn hoá 39 2.1. Văn hoá vùng trong cái nhìn thiên nhiên 39 2.2. Cõi sống tinh thần trong cái nhìn thiên nhiên 50 Chương 3 : Nghệ thuật Truyện ngắn Ma Văn Kháng từ góc nhìn văn hoá 58 3.1. Nghệ thuật xây dựng nhânvật: 58 3.2. Ngôn ngữ - Giọng điệu 70 3.3. Không gian, Thời gian nghệ thuật 78 Kết luận 85
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài. Diện mạo của một nền văn học dân tộc trước hết là sự góp mặt của những tên tuổi lớn. Trong văn học đương đại Việt Nam, Ma Văn Kháng là một nhà văn có vai trò không nhỏ trong hành trình đổi mới tư duy nghệ thuật. Sự nổi tiếng của ông là một điều không phải bàn cãi. Gần 50 năm hoạt động sáng tạo chi chút như con ong làm mật, từ truyện ngắn đầu tiên đến nay ông đã có một vốn liếng khá lớn về tiểu thuyết và truyện ngắn, trong đó có những tác phẩm đóng dấu trong lòng bạn đọc . Có thể nói, dù viết truyện ngắn từ những năm 1960 nhưng phải đến những năm tám mươi của thế kỉ trước, Ma Văn Kháng mới thật sự thành công về sáng tác truyện ngắn, đặc biệt là từ sau năm 1986. Phố cụt là tác phẩm mở đầu cho nghiệp viết truyện ngắn của ông.Truyện ngắn này được in trên trang nhất của Tuần báo văn nghệ 1961.Đây là tác phẩm có cốt truyện đơn giản, khám phá những cuộc đời lao động mới bằng những trang văn trong sáng, nóng hổi hơi thở cuộc sống.Từ đó ông trưởng thành dần và liên tiếp gặt hái thành công trong thể loại này. Ông đoạt giải cao nhất cuộc thi truyện ngắn 1967 – 1968 của Tuần báo văn nghệ. Sau đó, ông cho ra đời liên tiếp 5 tập truyện ngắn từ 1969 đến 1972. Từ 1986, truyện ngắn Ma Văn Kháng bứt phá, sung sức, nở rộ. Đề tài và chủ đề mở rộng.Tư duy đa chiều về cuộc sống và con người. Đến nay ông đã có 17 tập truyện ngắn, 10 tiểu thuyết, 3 truyện nhi đồng. Ông tiếp tục đoạt giải thưởng cho tác phẩm Xa phủ (trước 1986), Cây bút vàng cho truyện ngắn San Cha Chải trong cuộc thi truyện ngắn và kí 1996 – 1998 do Bộ công an và hội nhà văn tổ chức. Tập truyện Trăng soi sân nhỏ (1994) được giải thưởng hội đồng văn xuôi hội nhà văn 1995 và năm 1998 giải thưởng văn học Đông Nam Á. Năm 2001 ông nhận giải thưởng nhà 1
- nước về văn học nghệ thuật đợt 1. Năm 2009 ông cho xuất bản tiểu thuyết Một mình một ngựa và hồi kí Năm tháng nhọc nhằn năm tháng nhớ thương, cuốn tiểu thuyết Một mình một ngựa được nhận giải thưởng của hội nhà văn Hà Nội. Với một nội lực mạnh mẽ và một cá tính sáng tạo, nhà văn Ma Văn Kháng đã và đang chiêm nghiệm, nhập cuộc, lùi xa, đứng trên dòng chảy đất nước những năm chuyển động dữ dội và thời kì đổi mới để có một thương hiệu truyện ngắn Ma Văn Kháng. Ông nhận ra những cơn vật vã của toàn xã hội và “chấn thương”của trạng thái nhân thế. Ông đi vào bản chất của cuộc đấu tranh nội bộ thời hậu chiến với những mưu toan, quyền lực, chuyên quyền, a dua, nịnh bợ, với những cái ác, cái xấu hiện hình. Với một cây bút có nhiều trải nghiệm và in dấu trong lòng độc giả qua nhiều chặng đường sáng tác như vậy, với một tài năng truyện ngắn vượt trội, cần có một góc nhìn đa chiều hơn về văn chương của ông, nhất là mảng truyện ngắn viết trong thời kỉ đổi mới đến nay. Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hoá hiện đang là xu hướng tiếp cận toàn diện và sâu sắc về văn học. Chúng tôi chọn đề tài này để thấy được những biểu hiện văn hoá trong sáng tác truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kì đổi mới và sự ảnh hưởng tác động qua lại giữa văn hoá thời kì này đến thế giới nghệ thuật truyện ngắn của ông. 2. Lịch sử vấn đề Ma văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ngày 1/12/1936 tại Hà Nội. Bút danh Ma Văn Kháng gắn liền với quê hương thứ hai của ông- Lào Cai. Ông từng đi qua thời thiếu sinh quân, giáo viên dạy văn, hiệu trưởng cấp 2, cấp 3 phổ thông Lào Cai, làm báo, làm thư kí cho bí thư tỉnh uỷ Lào Cai. Năm 1974 ông chính thức trở thành hội viên hội nhà văn Việt Nam. Sau một thời kì dài gắn bó với Lào Cai, Ma Văn Kháng trở về Hà Nội mở ra một giai đoạn mới với tư cách nhà văn chuyên nghiệp. Hiện nay ông là là uỷ viên ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam. 2
- Như trên đã nói, sáng tác của ông đa dạng ở thể tài và nhất là những tập truyện ngắn ngày càng gây tiếng vang từ sau 1986. Lịch sử nghiên cứu về truyện ngắn Ma Văn Kháng đã đặt ra từ rất sớm. Năm 1961 truyện ngắn Phố cụt được in báo, gần hai năm sau trong một cuộc họp ở viện văn học, phó viện trưởng Nguyễn Minh Tân đã nói: “ Cây bút trẻ Ma Văn Kháng in nhiều truyện ở các báo được giới văn học và bạn đọc chú ý”( theo An ninh thế giới, ngày 26/9/2007) Đầu những năm 70, các cây bút phê bình nghiên cứu tập trung bàn về tập truyện Xa Phủ của Ma Văn Kháng, tác phẩm viết về cuộc sống và con người miền Tây, theo các nhà phê bình thì Xa Phủ vẫn là cảm hứng sử thi của văn học lúc bấy giờ, dạng truyện vừa trữ tình vừa có cốt truyện… Từ sau 1986 đến nay Ma Văn Kháng liên tiếp cho ra mắt những tập truyện ngắn gây tiếng vang rộng rãi: Ngày đẹp trời (1986), Vệ sĩ Quan Châu (1988), Trái chín mùa thu (1988), Heo may gió lộng (1992), Trăng soi sân nhỏ (1994), Ngoại thành (1996), Vòng quay cổ điển (1997), Ngày hội phố phường (2004), Đầm sen (2006), Trốn nợ (2008)…Những người quan tâm đến truyện của Ma Văn Kháng đều phát hiện ra đó là những trang văn triết luận đời sống hết sức nhất quán. Triết luận của Ma Văn Kháng là lấy tính người, tình người và sự hồn nhiên làm mẫu số để nhà văn trò chuyện về con người và cuộc đời. Những truyện hay nhất của Ma Văn kháng là nói về dòng đời, mạch sống. Các tập truyện trên đây của Ma Văn Kháng đã được phê bình trên các trang báo, các bài tham luận cũng như các công trình nghiên cứu. Phê bình về tập truyện Ngày đẹp trời, tác giả Bùi Việt Thắng phát hiện ra tính chất dự báo những vấn đề cốt yếu của cuộc sống, khai thác những chuyện đời thường. Tác giả Nguyễn Đăng Hiệp nhận xét về Đầm sen là đời thường, đầy ắp hơi thở của sự sống, nhân vật phụ nữ đời hơn cả. 3
- Đọc Heo may gió lộng, tác giả Trần Bảo Hưng cho đó là lối viết đượm tình yêu thương, thế giới tâm linh huyền bí với những nghiệp căn số mệnh… Cái nhìn toàn diện về truyện ngắn Ma Văn Kháng phải đến năm 1999 với các tác giả Lã Nguyên, Nguyễn Ngọc Thiện, Phong Lê… Tác giả Lã Nguyên phát hiện truyện ngắn Ma Văn kháng ở các cấp độ: Những kẻ mông muội nơi miền rừng núi ; những cảm khái thành thị với nhịp sống hiện đại nghiêng về tình người nhân văn; tính dục trào lộng . P.G.S, nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện - một người bạn mà gần như tác phẩm nào của Ma Văn Kháng cũng đọc đã nói: “ Chả lúc nào ông ấy không có truyện trong ngăn kéo đâu, cứ đến xin khéo may là được đấy”. Nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện bàn nhiều về đời sống tâm linh bí ẩn để đặt con người đúng chỗ trên trần thế, về dục vọng như một thuộc tính của con người trong tryện ngắn của Ma Văn Kháng. Năm 2008 tập truyện mới nhất của Ma Văn Kháng có tên Trốn nợ ra đời. Trốn nợ là chủ đề của cuộc hội thảo tại trụ sở hội nhà văn Việt Nam- cuộc hội thảo nằm trong khuôn khổ hoạt động của lớp bồi dưỡng lí luận phê bình khoá 1 do trung tâm bồi dưỡng viết văn tổ chức. Tại hội thảo này, T.S Nguyễn Thanh Tú đã khẳng định : Ma Văn Kháng vẫn viết những điều mình biết và chiêm nghiệm, ngồn ngộn những chi tiết. Nhà phê bình Văn Vinh đánh giá Ma Văn Kháng thể hiện một bút lực sung mãn, cường tráng. Nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan cho rằng: Hầu hết các tác phẩm đều gói chặt vào những không gian nhỏ bé, để lại dư vị bức bối. Có một thế giới cũ kĩ đang bàng hoàng trước những đổi thay của cuộc sống. Như vậy nghiên cứu về sáng tác truyện ngắn Ma Văn Kháng đã có một quá trình lịch sử từ những nhận định lẻ trên các tờ báo, đến những bài viết công phu, những tham luận có giá trị tại các hội thảo, tất cả đều tập trung khám phá sức sáng tạo đồi dào của truyện ngắn Ma Văn Kháng từ sau 1986. Ông đã 4
- chuyển đổi từ cách viết tư duy sử thi sang đời tư thế sự với những vấn đề nổi cộm về dòng đời, mạch sống, về luân lí đạo đức và giá trị con người trong vòng quay cổ điển của cuộc sống hiện đại. Những năm gần đây xuất hiện một số đề tài Khoa học ngữ văn nghiên cứu về Ma Văn Kháng như: Thi pháp truyện ngắn Ma Văn kháng ( luận văn thạc sĩ của Nguyễn Tiến Lịch), Nghệ thuật tự sự trong sáng tác Ma Văn Kháng ( luận án của nghiên cứu sinh Đỗ Phương Thảo)…Đây là những công trình khoa học có giá trị, dù mới chỉ dừng lại ở nghệ thuật sáng tác của Ma Văn Kháng nhưng sẽ là những gợi ý quý báu cho chúng tôi tiếp cận truyện ngắn của Ma Văn Kháng trong luận văn này. Chúng tôi chọn vấn đề: Truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kì đổi mới từ góc nhìn văn hoá là một cách tiếp cận mới mẻ, toàn diện. Không xuất phát từ quan điểm xã hội học đơn giản, cũng không xuất phát từ quan điểm nghệ thuật thuần tuý của nhà văn, công trình luận văn này muốn đạt tới một hiệu quả từ góc nhìn văn hoá để tìm hiểu, phát hiện và khẳng định chiều sâu giá trị những truyện ngắn Ma Văn Kháng trong một thời kì biến động . 3. Phạm vi nghiên cứu. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chủ yếu lấy truyện ngắn Ma Văn Kháng từ sau 1986 để làm đối tượng và phạm vi nghiên cứu, trong đó sẽ giải quyết vấn đề lớn sau đây: Thiên nhiên, con người và nghệ thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kì đổi mới được thể hiện từ chiều sâu kiến thức, vốn sống, tài năng của Ma Văn Kháng( tầm vóc văn hoá của nhà văn).Ba vấn đề này sẽ được soi chiếu từ các góc nhìn văn hoá chứ không phải phân tích thi pháp thông thường. Với hàng chục tập truyện ngắn thời kì đổi mới của Ma Văn Kháng, chúng tôi chỉ chọn những truyện hay tiêu biểu trong các tập :Heo May gió lộng, Đầm sen, Ngày hội phố phường, Trăng soi sân nhỏ, Vòng quay cổ điển, Trốn nợ, và 5
- đặc biệt là tập Truyện ngắn Ma Văn Kháng của nhà xuất bản hội nhà văn năm 2008 để làm phạm vi nghiên cứu cho luận văn này. Ngoài ra còn có một số truyện ngắn của ông thời kì trước 1986. 4. Phương pháp nghiên cứu. 4.1 Phương pháp hệ thống Là phương pháp giúp người nghiên cứu hệ thống xâu chuỗi các vấn đề trong một mối quan hệ biện chứng để có một cái nhìn toàn diện, tổng thể về vấn đề. Phương pháp này giúp chúng tôi tìm ra một hệ thống luận điểm xoay quanh việc khám phá truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kì đổi mới từ góc nhìn văn hoá. 4.2 Phương pháp thống kê. Phương pháp này giúp chúng tôi thống kê trên toàn bộ truyện ngắn Ma Văn Kháng để có một kết luận khoa học về thiên nhiên, con người, các kiểu người và tính cách, các trạng thái tâm lí, nghệ thuật đặc thù, thời gian và không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng. 4.3 Phương pháp so sánh Phương pháp này giúp chúng tôi so sánh đối chiếu giữa truyện ngắn Ma Văn kháng hai thời kì trước và sau 1986. So sánh truyện ngắn Ma Văn Kháng với những cây bút truyện ngắn cùng thời để thấy được nét đặc trưng từ góc nhìn văn hoá. 4.4 Các phương pháp hỗ trợ khác. 5. Kết cấu luận văn. Luận văn này gồm có ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận. Phần nội dung có ba chương: Chương 1: Con người trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kì đổi mới từ góc nhìn văn hoá. Chương 2: Thiên nhiên trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kì đổi mới từ góc nhìn văn hoá. 6
- Chương 3: Nghệ thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng từ góc nhìn văn hoá. 7
- PHẦN NỘI DUNG Chương 1: CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA 1.1. Con người trong văn học thời kỳ đổi mới. 1.1.1. Thay đổi về nhận thức, tư duy. Đại thắng mùa xuân năm 1975 mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, đồng thời cũng đưa tới một chặng đường mới của văn học Việt Nam. Tuy nhiên, văn học thời kỳ đổi mới được xác định từ 1986 đến nay, gắn liền với mốc lịch sử Đại hội VI của Đảng. Trong đại hội này đã xác định đường lối đổi mới toàn diện, mở ra một thời kỳ mới cho đất nước vượt qua thời kỳ khủng hoảng, bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Khi văn hóa xã hội có những biến động, nó sẽ tạo ra những chuyển đổi sâu sắc, mạnh mẽ trong quan niệm sống, cách nhìn nhận cuộc sống của mỗi người, đặc biệt là trong sáng tạo nghệ thuật - văn học thời kỳ này ở trong trạng thái chuyển động dữ dội của một cuộc trở dạ. Trước hết là “trở dạ” về nhận thức. Các nhà văn có nhu cầu nhận thức lại thực tại xã hội, nhìn thẳng vào sự thật, quan tâm tới đời sống ngổn ngang, bề bộn của thì hiện tại. Nhận thức, quan niệm của nhà văn về hiện thực cũng được mở rộng hơn. Hiện thực không chỉ là những biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng mà đó còn là cái hằng ngày với những quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan, phức tạp. Hiện thực, đó còn là đời sống cá nhân của mỗi con người với những vấn đề riêng tư, thầm kín nhất. Cũng trong không khí đó, một tư duy nghệ thuật mới đã hình thành. Văn học chuyển biến từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết, từ cảm hứng cao cả, hào hùng sang cảm hứng thế sự, đời tư gắn với những chiêm nghiệm, suy tư. Tư duy văn học mới hình thành, làm thay đổi các quan niệm về chức năng văn học, mối quan hệ giữa văn học và đời sống, nhà văn và bạn đọc, sự tiếp nhận văn học, quan niệm nghệ thật về con người… 1.1.2. Quan niệm và các góc nhìn về con người trong văn học thời kỳ đổi mới. 8
- Mở rộng quan niệm về hiện thực đi liền với đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người. Trước 1975, văn học sử thi đặt ra những vấn đề mang tầm vóc lịch sử, liên quan tới vận mệnh và sự sống còn của dân tộc. Con người được lý tưởng hóa, thần thánh hóa trong cảm hứng sử thi cao cả, hào hùng. Con người chỉ được nhìn với cái nhìn một chiều và được đo bằng chiều kích vĩ mô, thành anh hùng, dũng sĩ. Sau 1975, đặc biệt là từ sau Đại hội VI của Đảng, con người được văn học nhìn nhận, soi chiếu ở nhiều bình diện, tầng bậc, vị thế khác nhau. Con người không được lý tưởng hóa, lãng mạn hóa mà được nhìn nhận như nó vốn có, dưới sự tác động đa chiều, phức tạp của đời sống: con người với xã hội, với lịch sử, con người với phong tục, với thiên nhiên, con người trong mối quan hệ với người khác và với chính mình… Con người cũng được văn học khám phá ở cả tầng ý thức và vô thức, đời sống tư tưởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường. Văn học thời kỳ đổi mới đặc biệt quan tâm tới con người như một cá thể, một thực thể sống, trong đó chứa đựng cả phần nhân loại phổ quát. Nó nói thật to những gì văn học trước 1975 thường giấu kín hay chưa có điều kiện nói ra về con người. Vấn đề cái riêng trở thành mối quan tâm hàng đầu của người cầm bút. Như vậy, đổi mới văn học suy đến cùng là đổi mới quan niệm: quan niệm về con người, về đời sống, quan niệm về chức năng của văn học nghệ thuật. Trong văn học thời kỳ đổi mới, con người vừa là điểm xuất phát, là đối tượng khám phá chủ yếu, vừa là cái đích cuối cùng của văn học, đồng thời cũng là điểm quy chiếu, là thước đo giá trị của mọi vấn đề xã hội. Và cũng vì được soi chiếu từ nhiều góc độ khác nhau nên con người trong văn học thời kỳ đổi mới hiện ra đời hơn, thật hơn, toàn diện hơn nhiều so với trước đó. Đúng như GS Trần Đình Sử đã nói :“Sự đổi mới và đa dạng của văn học trước hết là đổi mới và đa dạng trong quan niệm nghệ thuật về con người”[42 ]. 9
- 1.2. Con người trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới từ góc nhìn văn hóa. Ma Văn Kháng là cây bút văn xuôi tiêu biểu của văn học thời kỳ đổi mới. Đặc biệt, truyện ngắn thời kỳ đổi mới của ông thể hiện một cái nhìn toàn diện, thấu đáo và tri ân đối với con người. Bằng giọng điệu vừa thâm trầm, sâu sắc, vừa trào lộng hài hước, vừa chua chát, cay nghiệt lại vừa mượt mà, nhẩn nha, Ma Văn Kháng đã say sưa kể với chúng ta về những mảnh đời, những số phận người chịu ảnh hưởng trực tiếp từ văn hóa thời đại họ sống. Từ góc nhìn văn hóa, con người trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới hiện lên thật đa diện. 1.2.1. Con người từ góc nhìn văn hóa ứng xử. Trong dòng chảy của lịch sử, mỗi cộng đồng dân tộc đã sáng tạo cho mình một nền văn hóa. Bản sắc văn hóa của cộng đồng được lưu giữ từ đời này qua đời khác. Văn học là một thành tố của văn hóa. Nó là sự tự ý thức văn hóa của mỗi dân tộc. Các biến động của lịch sử, xã hội, tư tưởng, quan niệm mới của thời đại… luôn tác động, chi phối cá tính sáng tạo của nhà văn. Trên tinh thần đổi mới tư tưởng, đổi mới tư duy, văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới và giao lưu, hội nhập đã in dấu ấn sâu đậm trong cách ứng xử của con người.Văn hoá đổi mới tác động đến văn học. Hay nói như PGS.TS Đoàn Đức Phương: “Hình tượng con người trong văn học mang những phẩm chất gắn với một nền văn hoá nhất định”[41 ;tr 30]. Từ góc nhìn văn hóa ứng xử, con người trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới hiện lên vừa cao cả vừa đời thường, vừa có cái đẹp, cái thiện lại vừa có cái xấu, cái ác. Con người bị xóa nhòa “khoảng cách sử thi” được đặt trong dòng đời đa tập, trong những mối quan hệ chằng chịt. Chính vì vậy, ngay trong cách ứng xử, con người trong truyện ngắn của ông cũng được khám phá từ nhiều chiều kích. 10
- 1.2.1.1. Cái đẹp và cái thiện. Đọc truyện ngắn Ma Văn Kháng giữa những ngày hè nắng nôi oi bức, tôi thật sự bị cuốn hút bởi thứ văn giàu chất đời, đầy ắp hơi thở của sự sống ấy. Nhiều trang truyện làm ta cảm thấy ấm lòng bởi các nhân vật đã lấy cái đẹp của tính người, tình người để đối nhân xử thế, để vượt lên nhưng thói thường của cuộc đời trần tục, đa đoan. Những cái méo mó, nghịch dị, cái phàm tục, dở dang cứ thu hút một số cây bút nào khác. Ma Văn Kháng “là nhà văn của cái đẹp trong dòng đời sinh hóa, bình dị, hồn nhiên, cái đẹp trong niềm hạnh phúc được làm người với ý nghĩa đích thực của nó chứ không phải là cái gì khác” [37;Tr 7]. Trước hết là cái đẹp trong ứng xử giữa con người với con người, cái đẹp ấy càng trở nên ngời sáng khi nhà văn đặt nhân vật của mình vào những tình huống oái oăm. Truyện ngắn Anh thợ chữa khóa xoay quanh nhân vật chính là Thiều. Anh rong ruổi hành nghề chữa khóa, đi khắp nơi để kiếm sống và thỏa chí bay nhảy của mình. Anh sống giữa đời nhẹ nhõm như một cuộc dạo chơi vô tư lự. Bên cạnh chân dung của một người tài hoa giữa đời thường, Ma Văn Kháng còn hướng người đọc tới hai người đàn bà trong cuộc đời anh Thiều. Họ ở vào tình cảnh “chồng chung đâu dễ ai nhường cho ai”.Vậy mà họ không có những cuộc đánh ghen tàn hại. Phải chăng vì mất mát to lớn quá nên có sức thanh lọc tâm hồn. Cái chết của anh Thiều trở thành sợi dây gắn kết những con người xa lạ. “Họ trở thành môn đệ chung một tôn giáo có giáo chủ là ông chồng thợ khóa đã khuất của họ” [16 ;Tr 282]. Người vợ cả dãi dầu khổ ải nhưng tấm lòng thảo thơm. Trong sâu thẳm con người chị là bản năng bảo tồn cái quan hệ máu mủ ruột rà thiêng liêng, là tình yêu sâu sắc, tẩm hương phụng thờ. Chính tình yêu đã hàn gắn đau thương, xóa bỏ hận thù, khiến hai người đàn bà có thể xích lại gần nhau hơn. Nếp trong Thư từ quê ra khi biết chồng mình đã yêu một người con gái khác thì không vội ghen tuông mà tìm cách hiểu kỹ về người con 11
- gái ấy. Chị biết rằng Nhung đến với Đương bằng một tình yêu chân thành. Trước tình cảm bị sẻ chia, chị không chỉ nghĩ đến nỗi xót xa, tủi phận cho mình, mà còn nghĩ đến chồng mình nửa đời chinh chiến, đến già mà vẫn còn cô độc. Chị lấy tình nghĩa để lý giải và giải quyết vấn đề. Bức thư gửi từ quê ra tràn đầy nước mắt và nỗi xót đau, nhưng mang sức nặng của lòng vị tha. Chính cách cư xử ấy khiến Đương và Nhung càng phải suy nghĩ để điều chỉnh lại hành vi của mình. Trong Trái chín mùa thu, ông Thụy, cô Bừng đều là những con người có số phận éo le. Người thì vợ mất, người thì chồng hy sinh. Hai mảnh đời vụn vỡ đã ghép lại thành đôi bằng chính sự đồng cảm, sẻ chia đầy thiêng liêng, cao thượng. Nhưng tình nghĩa quá khứ vẫn chưa thể phôi phai, chưa thể nằm yên trong ngăn kéo vô tình. Họ đã chia tay nhau sau một đêm Bừng nhìn ảnh mẹ Luyến, khóc thương mẹ Luyến và thương người chồng đã hi sinh của mình. Nhiều nhân vật trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng luôn ứng xử với đời, với người bằng cái phông văn hóa và kinh nghiệm dày dặn của mình. Qua cách hành xử của họ, ta thấy được họ thật sự là những người “xứng tầm”. Ông Bằng trong Chuyến tuần tra cuối cùng đã vào tuổi hưu trí. Chính ở cái tuổi tri thiên mệnh này, ông lại hay mủi lòng, tài năng dự đoán phát triển đến độ thăng hoa nhờ linh ứng tài tình kết hợp nhuần nhuyễn với sự trải nghiệm. Chuyến tuần tra cuối cùng như chính ông linh cảm, đã diễn ra không hoàn toàn thuận lợi. Chẳng phải vì ông không bắt được tên cướp xe máy, mà vì tội phạm hiện diện trước ông là một khuôn mặt non bấy, một gương mặt học trò, một gương mặt của con người nơi đầu nguồn nhân cách, một khuôn mặt chưa vướng bụi trần ai. Ông “bủn rủn hết cả chân tay, không quay đi mà đứng nhìn trân trân vào gương mặt kẻ tội phạm thiếu niên nọ, nước mắt lã chã tuôn rơi và gào lên thống thiết: “Trời ơi, sao lại đến nông nổi này hả, cháu ơi. Mày làm tao buồn quá… Hóa ra kinh nghiệm của cả một đời tao gom lại chỉ là để đối phó với mày ư, cháu ơi” [27 ; tr 215]. Cách ứng xử của ông Bằng không giống với cách ứng xử 12
- thông thường giữa người thi hành nhiệm vụ và tên tội phạm, không mang vẻ lạnh lùng, nguyên tắc mà thấm đẫm tinh thần nhân bản. Ông sững sờ, đau xót trước một tên tội phạm là thiếu niên. Ông run rẩy, gào thét trước vẻ non tơ, không dục niệm, tà vạy, chưa hoen ám những ý tưởng xấu xa của nó. Phải chăng, vẻ đẹp của tình người, tính người như là căn cốt của cuộc sống bình dị, hồn nhiên đã chi phối cách hành xử của ông Bằng. Cũng chính vì thế mà thiên truyện không có cái căng thẳng của một cuộc tuần tra, nó được cân bằng, được “chùng hóa” nhờ những linh cảm, trực giác, tài năng và sự trải nghiệm trong nghề nghiệp của ông Bằng. Cái đẹp không chỉ được thể hiện trong cách hành xử giữa người với người, mà còn thể hiện trong mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Bát ngát trời xanh là truyện ngắn gửi gắm nhiều thông điệp của tác giả. Con chim cu gáy do Thọ – bạn văn chương vọng niên tặng ông Khang mỗi lần cất tiếng là mỗi lần “nó gợi nhớ tình quê, nó đưa ta về đồng ruộng, xóm thôn, mùa màng, nó khiến ta rưng rưng một nỗi luyến nhớ xa xôi” [27 ; tr 8]. Nhưng những âm thanh nuột nà vàng ngọc ấy thực chất “chỉ là kết quả của một cuộc đọa đầy, hành xác của con người, chỉ đơn thuần là tiếng lộng thổn thức của một kẻ bị giam hãm tù đày, bị cách ly đồng loại” [27 ; tr 16]. Bị nhốt trong cái lồng chật hẹp, tối tăm, hoàn cảnh sống bí bức, khổ sở khiến con chim phẫn mà phát. Tiếng hót thể hiện nỗi nhớ trời xanh tự do, nhớ bầy, nhớ bạn, nhớ ruộng đồng. Một tiếng chim mà thăm thẳm nỗi đau. Cuối cùng, thằng cháu ông Khang mặc dù rất yêu quý con chim, đã thả nó về với bát ngát trời xanh. Hành động ấy thể hiện vẻ đẹp của một con người còn chưa vong thân xa cách cội nguồn. Đó là sự hòa hợp với tự nhiên, thuận theo tự nhiên mà sống. Cách ứng xử của đứa trẻ nhận được sự đồng tình của ông nó. Bởi “nó đã hiểu, đã ngộ ra một điều hệ trọng bằng trực cảm hồn nhiên của tuổi thiếu niên vô tư. Nó không cầm lòng 13
- được khi thấy con chim gáy phải sống trong tình cảnh ngục tù. Sự sung sướng, vui vẻ của ta rất không nên có trên nỗi đau tủi của kẻ khác” [27 ; tr 16]. Trong quan niệm của Ma Văn Kháng, cái đẹp trước hết là cái thiện, tính thiện là cội nguồn của mọi cái đẹp. Quan niệm này hoàn toàn khác biệt với Nguyễn Tuân. Trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân say sưa ca ngợi một tên đao phủ, bởi hắn có một lối chém treo ngành rất ngọt. Ông nhìn con người thuần túy từ phương diện thẩm mĩ chứ không soi chiếu từ góc nhìn đạo đức. Cái đẹp trong ngòi bút Nguyễn Tuân nhiều khi lại chính là những “ác hoa”. Ma Văn Kháng đi tìm cái đẹp ở những con người đời thường, trong đời sống bình dị, hồn nhiên, soi chiếu con người từ góc nhìn truyền thống. Trong không gian núi rừng, Pao (San Cha Chải) sống nặng tình, nặng nghĩa, thật thà, chất phác, nhân hậu. Cái đẹp trong một tâm hồn thiện ấy đang chuyển động, tự khôn lớn dần để trở nên có ích. Năm năm trời kiên trì, bền bỉ với trách nhiệm, Pao qua tuổi hai mươi từ lúc nào, nhưng anh đã thực sự lớn khôn, thực sự có ích cho đời. Quan niệm cái thiện là cái đẹp đặc biệt được Ma Văn Kháng thể hiện trong truyện Giàng Tả, kẻ lang thang, Giàng Tả đẹp, cái đẹp sức vóc, khỏe mạnh và luôn làm việc thiện. Tính thiện vốn có trong con người đẹp về thể xác đó. Được đặt trong mối quan hệ với Liphigơ, tên biệt kích, tên xã đội trưởng, tính thiện trong con người Giàng Tả càng trở nên nổi bật. Nhân vật Giàng Tả là sự đối thoại của nhà văn về vấn đề tốt – xấu. Giàng Tả tốt hồn nhiên như bản năng hoang sơ mông muội của anh. Anh giúp kẻ địch mà không biết là mình đang tiếp tay cho kẻ thù, sống ngây thơ hồn nhiên đến ngu muội. Chính lòng tốt một cách hồn nhiên đã làm hại Giàng Tả. Như vậy, bằng cái nhìn tri ân đối với con người, Ma Văn Kháng đã phát hiện ra cái đẹp trong chính những con người bình thường nơi cuộc đời trần tục. Không phải anh hùng, vĩ nhân mới có cách hành xử đậm nét văn hóa, không phải những con người to tát mới mang tâm hồn thiện. Cái đẹp, cái thiện tiềm ẩn 14
- trong những con người bình dị. Trong một lần trả lời phỏng vấn, Ma Văn Kháng đã từng tâm sự: “Thôi thúc tôi viết là cái đẹp của cuộc sống” [34]. Phải vậy chăng mà hầu hết các nhân vật trong truyện ngắn của ông đều là hiện thân cho cái đẹp, sống và hành xử theo tiếng gọi của chân, thiện, mỹ. Văn chương Ma Văn Kháng mang vẻ đẹp muôn đời như quan điểm của Tsecnưsepxki :“ Cái đẹp là cuộc sống, một sinh thể đẹp là qua chúng ta nhìn thấy cuộc sống hoặc làm cho chúng ta nghĩ đến cuộc sống” [8 ; tr 48 ]. 1.2.1.2. Cái xấu và cái ác. Không chỉ say sưa ca ngợi vẻ đẹp, tính thiện của con người, Ma Văn Kháng, với cái nhìn thấu triệt còn phát hiện ra cái xấu, cái ác tồn tại ngay trong cõi đời này. Ông xót xa, nhức nhối trước một nhân thế đang phai lạt nhân tình, thói ghen ghét, đố kị, phản trắc, vong ân, bội tình lên ngôi, chiếm chỗ, tạo thành một cặp bài trùng với cái đẹp, cái thiện. Bà Nhàn (Trung du chiều mưa buồn) xuất thân lao động, thất học, sống lưu lạc, may nhờ chút nhan sắc mà được vinh thân phì gia. Giờ đã lên tới chức trưởng phòng nhưng cách ăn nói, ứng xử của bà vẫn không sao che nổi quá khứ xuất thân hèn kém. Điều quan trọng hơn là sự đối xử tệ bạc, dửng dưng, lạnh lùng của bà Nhàn đối với vợ chồng người em khiến người ngoài cuộc cũng phải rùng mình “ai có thể sắt đá vô tình trước sự van nài, năn nỉ nghĩa tình sâu nặng như thế! Ai có thể sau những lời chân thực đẫm nước mắt lại đáp lại bằng giọng điệu kẻ cả, hợm hĩnh, lố lăng liên tục như thế” [16 ; tr 92). Cái chết của em gái cũng không đủ sức đánh động tâm linh bà. Tình máu mủ ruột thịt bị chối bỏ phũ phàng tàn nhẫn. Trong khi đó, ông trời cũng còn như biết khóc, đổ mưa rả rích, sụt sùi, tỉ tê. Mưa phụ họa cùng người chết trong nỗi buồn thê thiết. Sự suy thoái của tình người, sự xuống dốc của đạo đức, lương tâm còn được tác giả thể hiện trong truyện ngắn Suối mơ. Nhàn là người đàn bà xấu cả người cả nết. Gốc gác nông thôn nhưng đua đòi tơ tuốt. Mụ được chồng hết sức 15
- cưng chiều, yêu thương. Nhưng đúng là “công anh bắt tép nuôi cò. Cò ăn cò lớn cò rò lên cây”. Mụ đền đáp lại công ơn ấy bằng cách quay ra rỉa rói, khinh bỉ, coi thường anh là đồ quê kệch. Rồi mụ đi ngoại tình, để mặc chồng ốm đau sắp chết. Đó còn là Sấn (Nhiên, nghệ sĩ múa). Mụ bị tạo hóa chơi khăm cho cái hình hài tiên thiên bất túc, xấu xí lùn tẹt. Mụ ghen ghét những ai hơn mình. Mụ lên quai xanh vành chảo bới bọn đàn bà con gái xa xẩn đến phòng thường trực gặp ông Diệc. Mụ cay nghiệt, bĩu mỏ với Nhiên, nghiến răng tuyên bố: “Đừng trêu mẹ mướp mà xơ có ngày”. Hóa ra, cái xấu, cái ác có thể nảy sinh trong mỗi con người một cách vô thức từ nhu cầu thiết yếu. Chính Ma Văn Kháng đã từng lý giải thế này: “Cũng như sự hèn nhát, lòng hảo tâm, tình yêu mến, nỗi đau đời, niềm căm giận, thói đố kỵ ghen ghét, tính ích kỷ thâm căn, khả năng không thể yêu thương kẻ khác ngoài mình đều có cái mầm nguyên thủy, đều là nghiệp căn trong tăm tối, bền dai như sự sống, vì chính chúng đảm bảo cho sự sống an toàn của mỗi cá thể con người” [26 ; tr 276]. Chiên, Sự (Thầy Khiển) xuất thân là những kẻ chèo đò, bán cháo lòng, thế mà giờ đây hai anh em đều leo lên được nấc thang địa vị cao vót trong xã hội. Người làm chủ tịch, kẻ làm trưởng ty giáo dục. Bình mới nhưng rượu cũ. Những con người mang tướng mạo xấu xí, bần hàn ấy dù có đội lốt hào nhoáng thế nào vẫn hiện nguyên hình tính cách đê tiện, lừa lọc, ghen ghét, đố kỵ, hống hách, thích gây sự, hiếu chiến, tìm mọi cách vùi dập, hãm hại người khác. Cũng vậy, Chiến, thầy Ngọc Kim (Người đánh trống trường) cũng đều là những con người nhỏ nhen, ti tiện, thấy thầy Huân hơn mình và tỏ ra bất tuân phục thì nổ đom đóm mắt, tìm mọi cách hãm hại, vùi dập, khiến thầy Huân từ người say sưa với bục giảng, tận tâm với học trò giờ thành người mất dạy, thành người đánh trống trường, cuối cùng tìm tới cái chết bi thương: “Thầy tự treo cổ trên một cành si cạnh cái giếng nước ngôi đền thờ vị thánh dâm đãng, thiêng liêng” [20 ; tr 134]. Cái xấu, cái ác xuất hiện nhan nhản trong những trang truyện của Ma Văn Kháng. Đó là Kiến (Chọn chồng), 16
- tên mèo mả gà đồng, phường buôn lậu, ma cô, quái kiệt về lừa bịp và tình dục, đã hủy hoại cuộc đời người con gái vốn xuất thân trong gia đình có nề nếp. Đó còn là thằng Nhớn, không làm mà muốn có ăn, bám váy mấy ả cave để hưởng nhàn. Bản chất tôi đòi ăn sâu vào căn cốt con người hắn, thanh niên trai tráng mà cam phận sống tầm gửi vào mấy ả cave, nói năng thô lô, cư xử vô văn hóa với người mẹ còng lưng làm lụng nuôi gia đình… Tuy nhiên, có những cái xấu chưa hẳn là ác, ngược lại có những cái ác không được xem là xấu nếu ta nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện. Trong một số truyện ngắn như Vệ sỹ Quan Châu ; Cố Vinh, người xứ lạ… Ma Văn Kháng đã tập trung thể hiện cái ác như một bản năng hoang sơ, mông muội của con người. Sùng Sử (Cố Vinh, người xứ lạ) sống thuần túy bằng bản năng tàn bạo của núi rừng. Mọi hành động của hắn đều theo bản năng mà không hề có sự can thiệp của lý trí. Cố Vinh chỉ đơn thuần cho rằng Sùng Sử là một thể nghiệm về cái bản năng bất di bất dịch mà không giáo lý nào có thể cải hóa được của người Mông. Ông không nhận thấy hiểm họa ẩn đắng sau bản năng hoang sơ ấy. Cuối cùng, hại chúa chính là Juđa thân cận. Tên vệ sĩ nổi cơn ghen, theo bản năng bất tử cố hữu của y, giết chết Cố Vinh chỉ vì ông động vào con “cái” của hắn. Ác một cách bản năng còn phải kể tới Khun (Vệ sĩ Quan Châu) Khun chính là đại diện cho bản năng hoang sơ, mông muội nhất của núi rừng. Bản năng chi phối đến cả hình hài của Khun khiến mỗi khi nhìn hắn, người ta băn khoăn không hiểu là quỹ sứ hiện hình vào Khun hay chính Khun là quỷ sứ cỡ siêu đẳng. Hắn bạo liệt, tàn nhẫn, u mê, không ý thức được hành động của mình. Khi được hỏi tại sao lại thích giết người, lại trung thành với lão Quan Châu, thì hắn lờ mờ nhớ rằng chỉ vì một bữa tiệc mười một món mà hắn được cho ăn khi đang đói. Khi còn là một đứa trẻ, Khun đã tàn bạo. Nhưng khi rơi vào tay của Quan Châu, bản năng tàn ác ấy được nhân lên gấp bội. Khun “là sự hồi tổ, là sự lộn giống, là cái bản tính tàn bạo của đời sống rừng rú, là cái hoang 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 300 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 321 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn