Luận văn Thạc sĩ Khoa học Nông nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm sinh sản và sản xuất giống cá Chạch bùn (Misgurnus anguillicaudatus Cantor, 1842) tại Thừa Thiên Huế
lượt xem 6
download
Mục tiêu nghiên cứu đề tài là bảo tồn, phát triển nguồn lợi và chủ động tạo ra con giống cá Chạch bùn để cung cấp cho người nuôi tại tỉnh Thừa Thiên Huế và các vùng lân cận. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Nông nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm sinh sản và sản xuất giống cá Chạch bùn (Misgurnus anguillicaudatus Cantor, 1842) tại Thừa Thiên Huế
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cá Chạch bùn (Misgurnus anguillicaudatus Cantor, 1842) phân bố tự nhiên ở các nước châu Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Việt Nam. Cá Chạch bùn còn gọi là Chạch đồng, là một loài cá kinh tế cỡ nhỏ, sống chủ yếu ở lớp bùn trong ao, hồ, ruộng lúa, kênh mương… Ở nước ta, Chạch bùn thường gặp ở các tỉnh miền Bắc và Bắc miền Trung. Cá Chạch bùn cũng phân bố rộng rãi ở một số nước châu Á như Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Quốc. Do thịt thơm ngon, hàm lượng đạm cao tới 18,43%, chất béo ít chỉ có 2,69%, là động vật thủy sản nhiều đạm và ít mỡ, cá Chạch bùn đang là đối tượng được nhiều người ưa thích (Kim Văn Vạn, 2012) [55]. Tỉnh Thừa Thiên Huế có hệ thống sông suối, ao hồ khá phong phú, diện tích trồng lúa nước rộng lớn phân bố ở nhiều xã trên các địa bàn của tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho việc nuôi cá nước ngọt. Với các đối tượng nuôi thủy sản hiện nay chủ yếu là những đối tượng cá truyền thống (cá Trắm, cá Trôi, cá Chép, cá Mè, cá Rô phi,…) có giá trị kinh tế không cao, thì cá Chạch bùn là loài thủy sản có giá trị dinh dưỡng cao. Thịt cá béo, có mùi vị thơm ngon, có giá trị thương phẩm cao. Cá Chạch bùn là một loại thực phẩm có giá trị thương mại và có vai trò trong y học, có tác dụng bổ khí huyết, chống lão suy, tráng dương, trợ lực, thanh nhiệt… (Võ Ngọc Thám, 2011) [18]. Tuy nhiên, nguồn cung cấp thực phẩm cá Chạch bùn cho thị trường tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay chủ yếu là từ khai thác tự nhiên, sức ép khai thác ngày một lớn, do đó nguồn lợi ngày càng suy giảm. Lợi ích của cá Chạch bùn với cộng đồng về mặt kinh tế, dinh dưỡng là rất lớn, song đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ về đối tượng này. Chính vì vậy, nghiên cứu đặc điểm sinh sản và sản xuất giống cá Chạch bùn là rất cần thiết, nghiên cứu này nhằm đa dạng đối tượng nuôi và hướng việc sinh sản tự nhiên vào sinh sản nhân tạo để chủ động con giống cung cấp cho nhu cầu nuôi của người dân. Xuất phát từ thực tiễn trên, được sự định hướng của giáo viên hướng dẫn, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh sản và sản xuất giống cá Chạch bùn (Misgurnus anguillicaudatus Cantor, 1842) tại Thừa Thiên Huế”. 2. Mục đích của đề tài Bảo tồn, phát triển nguồn lợi và chủ động tạo ra con giống cá Chạch bùn để PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 2 cung cấp cho người nuôi tại tỉnh Thừa Thiên Huế và các vùng lân cận. 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 3.1. Ý nghĩa khoa học Kết quả của đề tài là cơ sở dữ liệu bổ sung cho đặc điểm sinh học sinh sản của cá Chạch bùn tại tỉnh Thừa Thiên Huế và Việt Nam đồng thời cung cấp những dẫn liệu quan trọng cho việc hoàn thiện quy trình sản xuất giống cá Chạch bùn phù hợp với điều kiện tự nhiên tại tỉnh Thừa Thiên Huế. 3.2. Ý nghĩa thực tiễn - Cung cấp các cơ sở cho việc bảo tồn, phát triển nguồn lợi cá Chạch bùn tại Thừa Thiên Huế. - Chủ động con giống để cung cấp cho nhu cầu nuôi của người dân tại Thừa Thiên Huế. PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu sản xuất nhân tạo cá nước ngọt 1.1.1. Thế giới Lịch sử của nghề sản xuất giống cá nuôi có thể tóm tắt sơ lược như sau: từ khi nghề nuôi cá ao, hồ, ruộng xuất hiện, vấn đề sản xuất giống cá nuôi cũng được đặc biệt quan tâm ở hầu hết các nước có nghề nuôi cá. Những nước có nghề nuôi cá lớn nhất phải kể đến là: Ai Cập, Trung Quốc, Nga... Một trong số đối tượng được đưa vào nuôi sớm nhất là cá Chép. Cá Chép đã được đưa vào nuôi cách đây 3600 năm trước công nguyên (TCN) ở Trung Quốc. Các nước Châu Âu phát triển nghề nuôi cá tương đối mạnh vào thế kỷ XII và XIII. Đặc biệt năm 1258 phát triển mạnh ở Pháp và năm 1660 phát triển mạnh ở Đức và Đan Mạch (Đàm Bá Long, 2006) [16]. Vào thời điểm này, nghề nuôi cá nước ngọt trên thế giới chủ yếu dựa vào nguồn giống thu gom từ tự nhiên như ở Trung Quốc cá giống được vớt từ sông Trường Giang, ở Campuchia cá giống được vớt từ Biển Hồ, ở Việt Nam từ sông Hồng, sông Mê Kông…(Đàm Bá Long, 2006) [16]. Tuy vậy, khi nghề nuôi cá phát triển mạnh thì nguồn giống thu từ tự nhiên đã không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn sản xuất. Hoạt động nuôi cá ngày càng được phát triển đa dạng về hình thức nuôi, đối tượng nuôi và mức độ thâm canh. Sự phát triển của các ngành khoa học khác như: thuỷ điện, thuỷ lợi, công nghiệp hoá học vv.. đã tác động nhất định và ngăn cản các loài cá di cư sinh sản, môi trường cho cá đẻ không phù hợp, do vậy ảnh hưởng nhiều đến số lượng, chất lượng giống cá ngoài tự nhiên. Do vậy, việc tạo ra đàn cá giống nhân tạo là đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn sản xuất (Đàm Bá Long, 2006) [16]. Sản xuất cá giống bằng con đường sinh sản nhân tạo là sự tác động của con người vào quá trình sinh sản của cá, hướng quá trình sinh sản của cá theo ý muốn của con người và theo một mục tiêu nhất định. Thông qua đặc điểm sinh học sinh sản của nhiều loài cá, con người đã nghiên cứu và tác động vào quá trình sinh sản của cá, tiến đến xây dựng và hoàn thiện quy trình sinh sản nhân tạo một số loài cá có giá trị kinh tế, đáp ứng nhu cầu thực tế (Đàm Bá Long, 2006) [16]. Thời kỳ đầu, người ta bắt cá đã thành thục ngoài tự nhiên đưa vào ao để cho cá đẻ. Hơn 2400 năm về trước, Phạm Nãi - đại thần của Việt Nam, sau khi đi sứ sang Trung Quốc đã viết cuốn “Phép nuôi cá”, trong đó mô tả cách kỹ thuật cho cá Chép đẻ PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 4 tự nhiên trong ao ở Trung Quốc, cụ thể: “ao rộng 6 mẫu (1mẫu = 1/15ha) được chia thành 9 ô, cho cỏ vào từng ô. Thả 20 cá cái mang trứng có chiều dài 60 cm và 4 cá Chép đực vào các ô, để nước yên tĩnh sau mấy ngày thì cá đẻ”. Đây là hình thức cho cá đẻ tự nhiên, phỏng theo hiện tượng sinh sản của cá trong tự nhiên, điều khiển môi trường, để chúng phải đẻ trứng theo ý muốn của con người. Tuy nhiên, hình thức cho cá đẻ như thế này mang lại hiệu quả sản xuất không cao (Đàm Bá Long, 2006) [16]. Mãi đến thế kỷ XIX, Monguri (1954) mới công bố thí nghiệm của tu sĩ người Pháp là Penshon thực hiện từ năm 1420. Penshon đã làm những máng ấp trứng đơn giản, đáy sử dụng một lớp cát khô, thành máng làm bằng lau, sậy, cành liễu. Sau đó thả trứng cá Hồi đã thụ tinh và đặt nơi nước chảy, trứng cá phát triển tốt, nở thành cá bột, có thể nói đó là công trình ấp trứng đầu tiên trên thế giới (Đàm Bá Long, 2006) [16]. Trong nửa đầu thế kỷ XVIII, người ta còn hoài nghi về sự thụ tinh của cá kể cả Linne (nhà bác học nổi tiếng). Họ cho rằng cá đực phóng tinh ra ngoài và cá cái hút tinh dịch vào và quá trình thụ tinh xảy ra trong cơ thể cá cái (Nguyễn Văn Kiểm, 2004) [15]. Năm 1763 và 1765, C.L.Jacobi (1711 - 1784) qua nghiên cứu nhiều năm đã thu được nhiều kết quả trong lĩnh vực sinh sản nhân tạo cá, đặc biệt là việc thụ tinh nhân tạo cho cá. Trước thời Jacobi, nhiều nhà khoa học cho rằng, cá cũng giống như các loài động vật khác, trứng được thụ tinh bên trong cơ thể bằng cách: con đực phóng tinh trùng vào nước và con cái thu lấy tinh ấy để tiến hành thụ tinh bên trong cơ thể của nó. Qua kết quả nghiên cứu cá Hồi, Jacobi đã chứng minh trứng cá được thụ tinh bên ngoài cơ thể, trứng và tinh trùng gặp nhau trong môi trường nước. Qua thí nghiệm này, ông đã xây dựng phương pháp thụ tinh ướt cho trứng cá (Nguyễn Văn Kiểm, 2004 ) [15]. Cùng với Jacobi, Zanvictor Kost - một nhà nghiên cứu phôi thai học, đã thiết lập công cụ ấp trứng cá và được gọi là công cụ của Kost. Cho đến năm 1852, ở Pháp đã xây dựng trại sản xuất giống cá và ở đó đã trang bị công cụ ấp trứng của Kost - dụng cụ ấp trứng này đã mang lại hiệu quả cao hơn (Đàm Bá Long, 2006) [16]. Năm 1854, Vrasskii (một người Đức) lần đầu tiên tiến hành thụ tinh nhân tạo trứng cá Hồi, loài Lota lota theo phương pháp thụ tinh ướt, nghiên cứu cấu tạo của trứng cá, của tinh trùng, đặc điểm của tinh trùng trước và sau khi vào môi trường nước, cấu trúc và sự phát triển của phôi trứng cá. Qua quan sát bằng kính hiển vi, Vrasskii đã nhận thấy việc thụ tinh bằng phương pháp ướt hiệu quả không cao chỉ đạt 10 - 20% và chính ông đã đề xuất phương pháp thụ tinh khô cho cá. Đây là phương pháp có kết quả tốt, tỷ lệ thụ tinh đạt 90%. Ngoài ra, Vrasskii còn nghiên cứu các khâu kỹ thuật khác trong sinh sản nhân tạo như: nuôi cá bố mẹ, bảo quản tinh trùng, ấp nở trứng cá, ương nuôi cá giống, kỹ thuật vận chuyển trứng cá thụ tinh... Kết quả nghiên cứu của Vrasskii đã bắt PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 5 đầu một thời đại kinh điển trong nghề nuôi cá, sản xuất cá giống, kéo dài trong nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX (Đàm Bá Long, 2006) [16]. Năm 1855, tại Mỹ đã xây dựng trại nuôi cá bố mẹ và lưu giữ tinh trùng của cá cho mục đích chọn giống. Cũng từ đây kỹ thuật sản xuất giống cá bằng phương pháp sinh sản nhân tạo được hình thành (Đàm Bá Long, 2006) [16]. Năm 1930, Cole và Hert đã nghiên cứu sử dụng huyết thanh ngựa chửa (HTNC). Dựa vào hàm lượng FSH cao mà nhiều nhà nghiên cứu đã dùng HTNC trên cá (Nguyễn Tường Anh, 1999b) [4]. Đầu thế kỷ XX, ngành thú y đã thu được thành tựu đáng kể khi sử dụng kích dục tố (KDT) kích thích cho động vật có vú sinh sản nhân tạo thành công, đã mở ra việc sử dụng kích dục tố trong sản xuất cá giống nhân tạo. Năm 1935, ở Brazil, Ihering đã cùng cộng tác viên tiến hành tiêm dịch chiết từ não thùy giàu kích dục tố cho loài cá Astina bimaculatus. Kết quả nghiên cứu của tác giả này cho thấy, cá đã đẻ nhân tạo thành công. Năm 1936, ở Liên Xô (cũ) Gherbilsky đã thí nghiệm tiêm dịch chiết não thuỳ vào sọ não của cá Tầm, giống Acipenser. Kết quả thí nghiệm cho thấy cá đã rụng trứng. Tuy thí nghiệm thành công, nhưng còn một số hạn chế khi tác giả của nghiên cứu này cho rằng: kích dục tố khi đưa vào cơ thể cá được dẫn đến tuyến sinh dục không bằng đường máu, mà đi vào xương sọ. Ngoài ra ông còn xác định sai vị trí não thùy. Nhưng sau khi Ihering công bố kết quả tại hội nghị sinh lí học tại Leningrad, thì Gherbilsky chuyển hướng tiêm KDT vào cơ. Từ đó kỹ thuật này được áp dụng trong các xí nghiệp sản xuất giống cá Tầm ở Liên Xô cũ (Đàm Bá Long, 2006) [16]. Từ năm 1935, nghề nuôi cá nước ngọt đã bước vào một thời kì mới. Con người có thể chủ động sản xuất giống cho một số loài cá theo yêu cầu và ý nuốn của mình bằng cách sử dụng kích dục tố. Lúc này lại nảy sinh ra một vấn đề cấp bách là việc cung cấp chất kích thích sinh sản nhân tạo cho nghề nuôi cá, vì qui mô sản xuất giống ngày càng mở rộng thì não thùy ngày càng khan hiếm. Và thực tế cho thấy, để có đủ lượng KDT tiêm cho một khối lượng cá bố mẹ lớn thì cần một khối lượng không nhỏ cá dùng để lấy não thùy. Do đó, yêu cầu của thực tiễn đặt ra là tìm một chất khác thay thế cho não thuỳ (Đàm Bá Long, 2006) [16]. Morozova, 1936 đã thành công trong việc đã kích thích cho cá Perca rụng trứng bằng nước tiểu của phụ nữ có thai, trong đó có chứa hormon HCG (Human Chorionic Gonadotropin), chất này có thể kích thích cho cá rụng trứng và sinh sản (Nguyễn Tường Anh, 2011) [6]. PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 6 Ở Trung Quốc, vào năm 1958, người ta đã cho cá Mè trắng và Mè hoa sinh sản thành công bằng não thùy thể và kích dục tố HCG. Sau này loại kích dục tố được dùng phổ biến trong sản xuất giống cá là GnRHa (Gonadotropin Releasing Hormone analog) có thể dùng riêng rẽ hoặc phối hợp với Domperidon (Dom) (Nguyễn Tường Anh, 2011) [6]. Ngoài ra, người ta còn sử dụng một số chất kích thích sinh sản khác như: huyết thanh ngựa chửa, các antiestrogen và các hormon steroid. Ngoài các thành tựu nghiên cứu về chất kích thích sinh sản, các công trình nghiên cứu về sản xuất nhân tạo giống cá còn đạt được các kết quả khác như: điều khiển giới tính; mẫu sinh nhân tạo; đa bội thể nhân tạo (được gọi là di truyền thực nghiệm – genetic manipulation), bảo quản tinh dịch bằng phương pháp lạnh sâu, khử dính trứng cá. Ngày nay, Trung Quốc và nước ta còn sử dụng các bể chứa có diện tích nhỏ cho cá đẻ bằng cách kết hợp kích thích sinh lý và sinh thái (tiêm kích dục tố và cá tự đẻ trứng) (Nguyễn Văn Kiểm, 2004) [15]. 1.1.2. Việt Nam Nước ta có hơn 1,4 triệu ha mặt nước và từ lâu nhân dân ta đã biết nuôi cá, nhưng cho đến đầu những năm 1960 vẫn phải lấy giống tự nhiên trên các triền sông vào mùa cá đẻ. Việc làm này đã trực tiếp làm suy giảm nguồn lợi thủy sản tự nhiên một cách đáng kể và dẫn đến một số loài cá quý hiếm có thể bị tuyệt chủng (Nguyễn Văn Kiểm, 2004) [15]. Tại Việt Nam, cá Chép là đối tượng được nuôi từ lâu đời, đặc biệt là ở những vùng miền núi, vùng dân tộc ít người, một số loài khác cũng được đưa vào ao nuôi như cá Trắm cỏ, cá Trôi, cá Trê... Ngoài việc đưa các đối tượng cá mới vào nuôi trong ao với diện tích ngày càng tăng, năng suất sản lượng ngày càng cao, vấn đề sản xuất nhân tạo cá giống cũng được đặt ra cụ thể hơn (Đàm Bá Long, 2006) [16]. Mãi đến 1963, cùng sự giúp đỡ của chuyên gia Trung Quốc, sự phối hợp các giáo viên Trường Đại học Thủy sản Cần Thơ, Trạm Nuôi cá Nước ngọt Đình Bảng đã nuôi vỗ và cho đẻ thành công cá Mè hoa bằng cách tiêm kích dục tố. Lần lượt sau đó là cá Trắm cỏ, Mè trắng, cá Trôi, cá Trê…cũng được cho đẻ nhân tạo thành công, cung cấp con giống cho nghề nuôi cá thương phẩm ở Việt Nam. Đây là bước ngoặc lớn trong lịch sử phát triển nghề cá ở Việt Nam nói chung và công tác sinh sản nhân tạo cá nói riêng (Nguyễn Tường Anh, 1979) [1]. Ở miền Nam, từ 1978 đã nuôi vỗ thành thục cá Tra trong ao và cho đẻ thành công năm 1979, đây là kết quả phối hợp giữa Khoa Thủy sản Trường Đại học Cần Thơ với Trường Trung học Nông nghiệp Long Định. Đến năm 1980 cho ra đời những con cá Tra bột bằng cách tiêm não thùy thể cá Chép. Tiếp sau đó là PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 7 một số loài có giá trị kinh tế khác cũng đã được thành công đáng kể như Mè vinh, cá He, cá Bống tượng, cá Trê vàng...(Đàm Bá Long, 2006) [16]. Năm 1993 - 1994 Khoa Thủy Sản Trường Đại học Cần Thơ kết hợp với CIRAD và ORSTOM của Pháp đã cho cá Tra và cá Ba sa đẻ thành công và cũng trong thời gian này việc lại tạo giữa cá Tra và Ba sa cũng đã thu được những kết quả khả quan (Đàm Bá Long, 2006) [16]. Từ năm 1997, 1998 và 1999 Bộ môn Kỹ thuật nuôi cá Nước ngọt, Khoa Nông nghiệp Trường Đại học Cần Thơ đã cho cá Tra bần, cá Hú, Lóc đen, Sặc rằn đẻ thành công. Và từ năm 2005, một số cá có giá trị kinh tế đã được nghiên cứu và cho sinh sản đạt hiệu quả cao như: cá Dầy Cyprinus centralus (Lê Đức Ngoan và ctv, 2005); cá Lóc Ophiocephalus macuratus (Trung tâm Khuyến ngư Quốc gia, 2006); cá Chài Leptobarus hoevenli (Đặng Văn Trường và ctv, 2006); cá Vồ đém Pangasius larnaudii (Lê Sơn Trang và ctv, 2006); cá Bỗng, cá Anh vũ (2006); cá Cóc Cyclocheilichthys enoplos (Phạm Văn Khánh và ctv, 2006). Cá Chim trắng Clossoma brachypomum (Nguyễn Công Thắng và ctv, 2006); cá Chạch sông Macrognathus siamensis (Nguyễn Văn Kiểm, Nguyễn Quốc Đạt, 2007). Trong những năm gần đây, công tác nghiên cứu cho sinh sản nhân tạo các loài cá có giá trị kinh tế, cá bản địa đang phát triển một cách nhanh chóng như cá Anh vũ, cá Vàng, cá Chiên...Ngoài ra còn có những nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học vào công tác lai tạo và chọn giống (Đàm Bá Long, 2006) [16]. Theo chiến lược phát triển nuôi trồng thuỷ sản của Thủ tướng chính phủ đến năm 2020: Kinh tế thủy sản đóng góp 30 - 35% GDP trong khối nông - lâm - ngư nghiệp, tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành thủy sản từ 8 - 10%/năm. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 8 - 9 tỷ USD. Tổng sản lượng thủy sản đạt 6,5 - 7 triệu tấn, trong đó nuôi trồng chiếm 65 - 70% tổng sản lượng. Để đạt được mục tiêu đặt ra, cần cải tạo nâng cấp, xây dựng các Trung tâm giống cấp I, trong đó có nâng cấp các Trại giống cá nước ngọt trọng điểm ở các tỉnh, thành Trung tâm giống Cấp I của Quốc gia. Nơi đây tập trung nghiên cứu và cho đẻ nhân tạo các loài cá mới có giá trị kinh tế cao, theo các quy trình kỹ thuật hiện đại, nâng cao số lượng và chất lượng con giống cung cấp cho nghề nuôi cá đang phát triển ở Việt Nam. Số lượng cá giống đang được sản xuất hiện nay chủ yếu là các đối tượng truyền thống có sản lượng cao như: cá Mè trắng, cá Tra, cá Chép... Ngoài ra cũng có nhiều loại cá được nhập nội có giá trị kinh tế như: cá Trắm cỏ, các loài cá Chép Ấn Độ, cá Chim trắng. Trong những năm gần đây, để đáp ứng nhu cầu con giống phục vụ cho nghề nuôi cá nước ngọt theo phương châm đa dạng hóa đối tượng, có nhiều loài cá có giá trị kinh tế khác đã được nghiên cứu và cho đẻ thành công như: cá Bống tượng, cá Sặc rằn, cá Rô đồng, cá Ba sa ở Đồng bằng sông Cửu Long. PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 8 Những thành công của công nghệ sản xuất giống cá nước ngọt đã và đang là cơ sở quan trọng, thúc đẩy sự phát triển không ngừng của nghề nuôi cá nước ngọt theo hướng công nghiệp ở Việt Nam (Đàm Bá Long, 2006) [16]. 1.1.3. Nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá ở Thừa Thiên Huế Trong những năm gần đây, các nghiên cứu sinh sản nhân tạo các loài cá nuôi ở khu vực Bắc Trung Bộ có những tiến bộ rõ rệt, nhiều loài cá nước ngọt được sinh sản nhân tạo thử nghiệm và đạt kết quả khả quan. Các nghiên cứu đó là các công trình nghiên cứu về sinh sản cá Trê đen Clarias fuscus ở Thừa Thiên Huế bằng một số tác nhân sinh thái (Hoàng Đức Đạt và Lê Thị Nam Thuận, 2001) [13]. Nghiên cứu sinh sản Cá Dìa Siganus guttatus (Lê Văn Dân và Lê Đức Ngoan, 2006) [8], kết quả nghiên cứu đã khẳng định có thể cho cá Dìa sinh sản trong điều kiện nhân tạo bằng cách hạ độ mặn. Kích thích cá Rô Hu Labeo rohita, cá Trắm cỏ và cá Chép sinh sản nhân tạo bằng C21 trong liều tiêm quyết định (Lê Văn Dân, 2007, 2011) [9], [10], [11] kết quả nghiên cứu cho thấy cả 3 loại steroid C21 (17,20P); (P) và (DOCA) đều có hiệu quả kích thích cả 3 loài cá trên, trong đó 17,20P là loại hormon có hiệu quả cao nhất. Nghiên cứu thành công về kết quả nuôi vỗ thành thục, cho sinh sản nhân tạo, ương nuôi giống cá Rô đồng Anabas testudineus đạt kết quả về tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở cao (Ngô Hữu Toàn và ctv 2010) [20]. Nghiên cứu hoàn thiện quy trình sản xuất giống cá Trê lai tại Trung tâm giống cấp I – Cư Chánh, Thừa Thiên Huế [12]. Các nghiên cứu trên đã góp phần rất lớn trong việc sản xuất giống cá nước ngọt tại khu vực Bắc Trung Bộ, đặc biệt là tỉnh Thừa Thiên Huế, góp phần đẩy mạnh sản xuất phục vụ phát triển nuôi trồng thủy sản. 1.2. Kích thích sinh sản nhân tạo cá 1.2.1. Nguyên lý chung về kích thích sinh sản cá Qua mối liên quan biểu hiện bằng sơ đồ hormon điều khiển sự chín noãn bào cá (hình 1.1) chúng ta có thể thấy, quá trình đẻ trứng của cá thực chất là một hoạt động sinh dục mang tính chất phản xạ không điều kiện. Hay nói một cách khác, sau khi một số yếu tố sinh thái như mưa, nhiệt độ, pheromon, dòng chảy kích thích lên các giác quan, thần kinh của các cơ quan ngoại cảm này sẽ sản sinh ra những xung động, những xung động đó lập tức được chuyển về trung khu thần kinh, kích thích vùng dưới đồi (hypothalamus) phóng thích GnRH (Gonadotropin releasing hormone) (Evans et al., 2006 [29]; Babin et al., 2007 [22]; Bone et al., 2008 [23]). PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 9 Các giác quan Các yếu tố sinh thái (mưa, nhiệt độ, pheromon) NÃO BỘ • Antiestrogen Hypothalamus (Clomiphen, Tamoxiphen) • Aromatase Inhibitor Feedback - (Fadrozole, Letrozole) GnRH GRIF (Estrogen) (Dopamin) • GnRH-A (LHRH-A, sGnRH-A, Buserelin) (Ovaprim) TUYẾN YÊN • Dopamine antagonist (Domperidone, Kích dục tố Pimozide) GTH II (LH)-Maturational Gonadotropin NANG TRỨNG • Kích dục tố (Não thùy cá, HCG, PMS) C21 steroid (17,20P) MPF • Steroid(17,20P;17P; TÚI MẦM DOC;Progesteron) NOÃN BÀO Hình 1.1. Sơ đồ trục não bộ - Tuyến yên – Nang trứng với những hoạt chất tự nhiên (bên trái) và những hoạt chất ngoại sinh có thể gây nên sự chín noãn bào và sự đẻ trứng ở cá (Nguyễn Tường Anh, 1999) Ngoài các GnRH người ta chứng minh được trong não bộ cá có yếu tố ức chế sự tiết KDT là dopamin (DA). Dopamin không những ức chế sự sản xuất và tiết kích dục tố một cách tự phát, ức chế sự tiết GnRH mà còn ức chế sự tiết kích dục tố được kích thích bởi các loại GnRH (Peter et al., 1997 [41]; Nguyễn Tường Anh, 1999a,b [3], [4]). Chính GnRH kích thích tuyến yên tiết ra kích dục tố FSH (Follicle stimulating hormone) và LH (Luteinizing hormone). FSH tác động đến nang trứng tạo thành E2 (17β - estradiol), E2 kích thích gan tổng hợp tiền chất noãn hoàng (vitellogenin) rồi phóng thích vào máu và được đưa vào tế bào trứng dưới sự điều khiển của các hormon PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 10 (Yaron et al., 2006) [52]) (hình 1.2). LH tác động đến nang trứng để hình thành các steroid C21, tác dụng của các steroid này tại bề mặt noãn bào nằm bên trong và gây ra sự chín, sự kiện quan trọng nhất cùng với hiện tượng rụng trứng dẫn đến sự đẻ trứng (Nagahama, 1997; Yaron et al., 2006) [40], [52]. Vai trò ức chế sự tiết kích dục tố của DA ở các loài cá khác được chứng minh một cách gián tiếp. Các chất đối kháng của DA đã tăng cường hiệu quả tiết KDT của các loại GnRHa, đó là các chất pimozid hoặc reserpin trên cá Chạch Trung Quốc (Lin et al., 1988) [38], cá Chép, cá Trê phi, cá Hồi Onchorhynchus rodurus (Nguyễn Tường Anh, 1997) [2]. Cho đến nay, có thể nói có hai yếu tố kiểm soát sự tiết KDT từ tuyến yên. Đó là GnRH (một peptid) và GRIF (dopamin). Đó cũng chính là những yếu tố thần kinh nội tiết từ não bộ, kiểm soát sự chín và rụng trứng ở cá (Yaron, Sivan, 2006) [52]. Khi nuôi trong ao do không có đầy đủ điều kiện sinh thái làm thỏa mãn những yêu cầu về sinh sản của cá bố mẹ, nên phải tiêm các chất kích thích sinh sản như các GnRHa, dopamine antagonist, não thùy cá, HCG, huyết thanh ngựa chửa, các steroid (17,20P; 17P; DOCA; DOC; P...) vào cơ thể để thay thế một phần hoạt động nội tiết của trục não bộ - tuyến yên - tuyến sinh dục kích thích cá bố mẹ đẻ trứng, phóng tinh. Hình 1.2. Sơ đồ cơ chế hormon điều khiển sự tạo noãn hoàng ở cá (Follet et al., 1968) 1.2.2. Các chất kích thích sinh sản nhân tạo phổ biến Trong sản xuất nhân tạo cá giống, chất kích thích sinh sản được sử dụng thường xuyên. Ngoài việc chủ động về thời gian, thời điểm bố trí sinh sản, việc dùng chất kích thích còn kích thích cá đẻ đồng loạt, đẻ róc, cho tỷ lệ đẻ, tỷ lệ trứng thụ tinh, tỷ lệ nở cao PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 11 và hiệu quả hơn nhiều so với việc không dùng chất kích thích. Tùy thuộc vào những loại cá khác nhau mà sử dụng loại chất kích thích khác nhau. Việc tiêm thuốc cũng khác nhau ở từng loại cá, có loài chỉ tiêm 1 liều duy nhất gọi là liều quyết định. Tùy vào loài cá, tùy vào cấu trúc buồng trứng, túi tinh….mà có loài sau khi tiêm kích dục tố thì tự sinh sản, có loài phải vuốt trứng, vuốt tinh, có loài thì phải mổ con đực lấy tinh hoàn để tiến hành thụ tinh nhân tạo. Vị trí tiêm cũng rất khác nhau và có ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ rụng trứng, tỷ lệ thụ tinh, thời gian hiệu ứng thuốc...Hiệu lực tác động khác nhau của từng loại thuốc chịu nhiều ảnh hưởng liên quan đến nguồn gốc cá, chất lượng nuôi vỗ, chế độ chăm sóc, yếu tố mùa vụ, tuổi, trọng lượng thân, kỹ thuật pha chế thuốc, kỹ thuật tiêm và các yếu tố môi trường liên quan. Nguyên tắc cơ bản của vấn đề kích thích cá sinh sản là: sử dụng đúng chất kích thích, đúng liều lượng và theo một trình tự hợp lý phù hợp với bản chất tác dụng của chất kích thích. Trong sinh sản nhân tạo tùy theo từng trường hợp cụ thể mà số lần tiêm chất kích thích khác nhau, tuy nhiên nguyên tắc chung của kích thích sinh sản cá là tiêm nhiều lần với liều lượng thấp phù hợp với từng giai đoạn phát triển của trứng. 1.2.2.1. GnRHa (Gonadotropin releasing hormone analog) Là những chất tổng hợp tương tự hormon phóng thích kích dục tố từ tuyến yên. Do những loài động vật có xương sống khác nhau có GnRH khác nhau nên các GnRHa cũng khác nhau. Hiện nay trong nghề cá người ta thường dùng 3 loại GnRHa: mGnRHa và Buserelin là 2 chất tương tự GnRH của động vật có vú; sGnRHa là chất tương tự GnRH của cá Hồi (Nguyễn Tường Anh, 1997, 1999b) [2], [4]. Đối với cá, trong 3 loại GnRHa, mạnh nhất là sGnRHa vì chúng có ái lực thụ thể cao nhất (Nguyễn Tường Anh, 2008) [5]. - Ovaprim Ovaprim (biệt dược cho cá đẻ của Canada) là hỗn hợp của 2 hoạt chất có thành phần gồm 20 μg sGnRHa và 10 mg Domeridon (Dom) trong 1 ml propylen glycol. Liều sử dụng cho cá cái là 1 ml/kg, cho cá đực là 0,5ml/kg. Ovaprim kích thích sự rụng trứng và tạo tinh trong quá trình sinh sản của hầu hết các loài cá; khi tiêm sẽ kích thích phóng thích những hormon tự nhiên trong não và tuyến sinh dục kích thích sinh sản bình thường. Ovaprim có hiệu quả tốt đối với hầu hết các loài cá nhưng giá thành cao gấp 4 - 5 lần so với LH-RHa (Trung Quốc) khi kích thích sinh sản 1 kg cá. Ovaprim có chứa một analog của cá Hồi (gonadotropin releasing hormone sGnRHa) và chất ức chế chất truyền thần kinh não bộ (dopamine). PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 12 - LH-RHa (Lutenizing Hormone – Releasing Hormone analog) LH-RHa có tác dụng như GnRH và được sử dụng kèm với thụ thể nhân tạo kháng dopamine là domperidone, có nhiều tên thương mại khác nhau nhưng sản phẩm thường sử dụng là motilium. Domperidone ngăn chặn ảnh hưởng ngược của dopamine gây ức chế hormon bình thường. Ở những loài cá khó sinh sản, domperidone cần thiết hỗ trợ rất hiệu quả đối với sGnRHa. Năm 1973, các nhà khoa học Trung Quốc đã tổng hợp một peptid gồm 10 acid amin dưới tên thương mại là LH-RHa. Sản phẩm thương mại LH-RHa khi sử dụng cho cá thì liều lượng gấp 100 lần sử dụng cho động vật. Sử dụng LH-RHa kết hợp với não thùy hay HCG kích thích sự rụng trứng và nhân dịch chuyển về cực động vật của tế bào nên tỷ lệ rụng trứng sẽ cao và ổn định. Hình 1.3. Thuốc LH-RHa + Dom Hiện nay, người ta sử dụng phổ biến nhất là LH-RHa (mGnRH) do Trung Quốc sản xuất. LH-RHa có ưu điểm là giá rẽ, sử dụng có hiệu quả với nhiều loài cá, tính đặc hiệu cho loài chỉ thể hiện ở mức hoạt tính (Lin, 1988) [38]. Tuy nhiên, khi sử dụng GnRHa cho cá đẻ thì thời gian tái phát dục của cá bố mẹ dài hơn, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở thường thấp hơn so với các loại chất kích thích sinh sản khác (Nguyễn Tường Anh, 2008) [5]. - DOM (Domperidone) Dom là một chất trong nhóm có tên gọi chung Dopamin antagonist (hoặc antidopamin) là chất kết hợp với LH-RHa có tác dụng triệt tiêu sự ức chế tiết kích dục tố của dopamin nội sinh. Domperidon sử dụng trong nghiên cứu có trong thuốc Motilium – M (jannsen), được sản xuất ở Thái Lan. PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 13 1.2.2.2. HCG (Human chorionic hormone) HCG (kích dục tố màng đệm hoặc kích dục tố nhau thai) được Zondec và Aschheim phát hiện từ năm 1927 trong nước tiểu người phụ nữ có thai từ 2 - 4 tháng là một polypeptide có khối lượng phân tử 36.000 kDa, nó được tiết ra từ màng đệm của nhau thai (Nguyễn Tường Anh, 1999b) [4]. HCG là một hormon polypeptide có chức năng như LH và FSH. Hình 1.4. Thuốc HCG (Human chorionic hormone) HCG là loại kích dục tố dị chủng được dùng có hiệu quả cho nhiều loài cá nhất. Ngoài các loài cá Mè, cá Trê, HCG còn có tác dụng gây rụng trứng cho các loài cá khác ở nước ta như cá Chày, cá Vền, cá Trôi, cá Bống, cá Vàng. Ở nước ngoài, HCG còn được dùng cho cá Chình (Yamamoto, Nagahama, 1973), cá Nheo mang túi Ấn Độ (Sundararaj, Goswami, 1966), cá Vược vằn (Stevens, 1967), cá Sóc (Hyrose, 1972), cá Bơn (Zanzerov, 1982), cá Acerina cernua (Barannikova và ctv, 1968), cá buffalo (Burlakov và ctv, 1982) (trích dẫn của Nguyễn Tường Anh, 1999b) [4]. Cá Ba sa (Pangasius bocourti) sinh sản tốt khi tiêm HCG với liều thấp (500 UI/kg cá) trong vài ngày và liều cao (1.500 và 2.500 UI/kg cá) (Cacot et al., 2002) [24]. Liều lượng HCG tiêm cho cá Trê trắng (Clarias batrachus) dao động từ 1.000-3.000 UI/kg cá (Sahoo et al., 2007) [42]. Liều lượng HCG sử dụng cho cá phụ thuộc rất nhiều vào mức độ tinh khiết của chế phẩm cũng như sự thành thục của cá. Thậm chí có loài khi sử dụng đơn độc HCG hiệu quả rất kém hoặc không có tác dụng. 1.2.2.3. Não thùy thể cá Vào những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng việc tiêm dịch chiết từ tuyến yên cá có thể làm cho cá sinh sản (Houssay, PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 14 1930; Von Ihering, 1937; Gherbilsky, 1938 trích dẫn bởi Nguyễn Tường Anh, 1999b) [4]. Hiện nay, não thùy cá được sử dụng dưới hai dạng là não tươi và não khô. Hai loại kích thích tố trong não thùy là FSH (Follicle Stimulating Hormone) và LH (Luteinizing Stimulating Hormone) được sản sinh ra nhiều nhất khi tuyến sinh dục thành thục. Não thùy thể tuyến yên được lấy ra từ những loài cá thuộc các loài cá Chép, Trắm, Mè, Trê,...đã thành thục khi còn tươi sống. Cá chết vài giờ thì hoạt tính kích dục chỉ còn khoảng 50% (Nguyễn Tường Anh, 1999b) [4]. Não thùy thể cá Chép được coi là kích dục tố mạnh cho nhiều loài cá kể cả các đối tượng khác họ và cả các loài cá biển. Đối với não thùy thể dùng phương pháp tiêm 2 lần; lần 1 (liều sơ bộ) 0,5mg/kg cá, lần 2 (liều quyết định) 5 - 6mg/kg cái. Nếu não thùy thể đạt chất lượng tốt thì kết quả kích thích sinh sản đạt hiệu quả rất cao. Tuy việc sử dụng phương pháp tiêm não thùy thể để kích thích cá sinh sản vẫn còn phổ biến trong nghề cá, từ lâu nó đã bộc lộ những điểm bất lợi. Đó là việc phải giết những cá đã thành thục có thể làm cá bố mẹ hoặc làm giảm giá trị thương phẩm của cá bị lấy não thùy. Não thùy thể lấy từ nhiều nguồn khác nhau nên hoạt tính không ổn định có thể gây những tổn thất về cá bố mẹ, kể cả kế hoạch và tiến độ sản xuất. Não thùy thể là hỗn hợp nhiều loại hormon nếu sử dụng không thích hợp có thể gây ra phản ứng phụ có hại, thậm chí gây chết cá bố mẹ được tiêm (Nguyễn Tường Anh, 1999b) [4]. 1.2.2.4. Steroid và 17,20P Đã có nhiều loại steroid C21 gây được sự chín và rụng trứng in vitro và in vivo, đôi khi còn được sử dụng trong quy mô sản xuất (Nguyễn Tường Anh, 1999a) [3]. Một số các steroid được sử dụng phổ biến hiện nay là Progesterone; DOC; DOCA; 17,20P; 17P. Progesterone đã được chứng minh là có hiệu quả ở nhiều loài cá, mặc dù tác dụng kích thích của nó có thể là một kết quả của sự chuyển hóa thành chất chuyển hóa mạnh hơn, là sự kích thích trực tiếp (Nagahama, 1997) [40]. Progesteron được sử dụng với liều tiêm 15 - 25mg/kg cá, hòa tan trong dung dịch dầu, tiêm vào buồng trứng. Từ lâu đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm dùng steroid kích thích cá sinh sản. Có 2 loại hormon steroid tự nhiên khác nhau được tạo ra ở nang trứng là yếu tố gây chính gây chín noãn bào trong sinh sản cá: đó là 17,20P và 17,20,21P (Devlin và Nagahama, 2002) [26]. DOC và DOCA được dùng rất có hiệu quả cho cá Trê phi (De Kimpe, Micha, 1974) [25] và cá Trê vàng Clarias macrocephalus (Trần Chí Học, 1988) [14]. Trên cá Nheo mang túi Heteropneustes fossilis, DOC và các acetat của nó có tác dụng gây chín và rụng trứng (Sundarazaj, Goswami, 1966) [44]. Các nhà nghiên cứu này còn nhận xét DOC mạnh gấp 5 lần hydrocortison và hai chất này lại có sự hợp lực tốt nhất ở tỉ lệ 1:2,5 PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 15 và 1:5. Cortexolon được thí nghiệm để kích thích sinh sản rất thành công trên quy mô sản xuất lớn cho cá Chép, cá Trắm cỏ. DOCA có tác dụng tốt trên cá Chình Anguilla anguilla (Epler, Beniarz, 1978) [28]; Brachydanio rerio (Van Ree et al., 1977) [48]; Salmo gairdneri (Jalarbert et al., 1972, 1973, 1976) [34], [35], [36]. Ở cá Trê vàng Clarias macrocephalus, DOC cũng là tác nhân gây phản ứng tan biến túi mầm ngang bằng với 17,20P trong những nghiên cứu in vitro (Haider, Rao, 1994) [33]. 17,20P được phát hiện ở nhiều loài cá trong thời gian thành thục sinh dục và sinh sản. 17,20P có nhiều ưu điểm là: dễ sử dụng, dễ bảo quản, có hoạt tính cao và đặc biệt là có khả năng phát huy tác dụng ở nhiệt độ khá thấp (13 oC) [6]. Tuy nhiên, 17,20P không phải chỉ có chức năng duy nhất là gây chín, mà nó còn là pheromon sinh sản ở một số loài cá như ở cá Vàng Carrasius auratus (Dulka et al., 1987) [27]; cá Hồi vân Salmon gairdneri (Liley et al., 1986) [37]; cá Rutilus rutilus (Lower et al., 1999) [39]. Nó kích thích phản ứng tập tính sinh lý của con đực và kích thích sự phóng thích LH ở giai đoạn thành thục và gây ra sự gia tăng sản sinh tinh dịch trong quá trình sinh sản. Ở cá Vàng cái sự phóng thích 17,20P đã làm gia tăng sự rụng trứng ở những con cá cái khác trong cùng nhóm (Dulka et al., 1987 [27]). Thực nghiệm về sự điều khiển của kích dục tố đối với việc tiết 17,20P cho thấy ở cá Chép sau khi được tiêm chất chiết xuất não thùy thể hoặc các hormon thì mức 17,20P trong huyết tương tăng lên nhanh chóng (Yaron et al., 2003, 2006) [51], [52]. Ở Việt Nam 17,20P đã được thực nghiệm kích thích sinh sản và bước đầu có kết quả trên cá Chép, các loài cá nhập từ Ấn độ, các loài cá Mè, cá Trê và gần đây nhất là cá Hú. Nếu GnRHa có ưu điểm là rẻ và dễ kiếm thì 17,20P có ưu điểm là rẻ, không mất hoạt tính ở nhiệt độ cao (100 0C), không bị phân hủy bởi vi khuẩn hay nấm. Những công trình nghiên cứu về sau, đặc biệt là những công trình nghiên cứu gây chín noãn bào cá in vitro và đo hàm lượng hormon steroid ở cá lúc chín và rụng trứng cho thấy 17,20P có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ở nhóm cá. Trong bài tổng quan “Tình hình các steroid gây chín noãn bào cá xương”, Scott và Canario (1987) đã kết luận rằng trong hàng chục hormon steroid đã thử nghiệm thì 17,20P là steroid gây chín in vitro mạnh nhất ở tất cả các thí nghiệm [43]. Ngoài các loại hormon là tác nhân sinh lý chủ yếu và quan trọng tác động đến hoạt động sinh sản của cá thì sự thành thục của tuyến sinh dục, tình trạng sức khỏe cá là những điều quyết định. Cá sẽ không thể tiếp nhận kích dục tố do con người cung cấp trong sinh sản nhân tạo nếu như tuyến sinh dục chưa đạt tới giai đoạn sẵn sàng cho sinh sản (giai đoạn IV). Cá yếu hoặc bị sốc sinh lý đều là những cản trở cho quá trình kích thích sinh sản nhân tạo cá. PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 16 1.3. Nghiên cứu về cá Chạch bùn 1.3.1. Trên thế giới 1.3.1.1. Một số đặc điểm sinh học Cá Chạch bùn (Misgurnus anguillicaudatus Cantor, 1842) thuộc giống cá Chạch bùn Misgurnus Lacápède, 1803, họ cá Chạch Cobitidae, bộ cá Chép Cypriniformes. Cá Chạch bùn còn được xếp vào nhóm cá có một số điểm đặc biệt có tên chung là weather fish, weather loach; cá có khả năng phát hiện ra sự thay đổi áp suất trong không khí nơi chúng sinh sống (khi trời sắp có giông bão) và phản ứng bằng những hành động khác lạ như bơi lung tung hoặc đứng dựng thẳng bằng đuôi (Fengyu và Bingxian, 1990) [32]. Cũng như các loài cá được gọi là loach, Chạch bùn có thân hình ống, thuôn dài giống như thân lươn. Màu sắc của thân thay đổi từ vàng đến xanh lục - oliu, nâu nhạt hay xám với phần bụng nhạt hơn. Miệng Chạch bùn có 5 đôi râu. Râu được dùng để đào sâu vào bùn tìm thức ăn và tìm nơi ẩn nấp. Cá Chạch bùn có thể dài đến 30 cm, thuộc loài cá săn mồi nơi tầng đáy, ăn tạp gồm các sinh vật nhỏ và các thực phẩm hữu cơ như rong, vi tảo. Cá không săn mồi bằng mắt nhưng bằng các phản ứng sinh hóa do râu nhận biết. Nhờ cơ thể có khả năng sản xuất một lớp chất nhờn, giúp thân luôn trơn và nhớt nên chúng có thể sống một thời gian ngắn trên cạn, và có thể sống tại những vùng nước thiếu dưỡng khí (Fengyu và Bingxian, 1990) [32]. Cá Chạch bùn thường sống trong hang, hốc bùn dưới đáy, chỉ nhô đầu ra ngoài. Cá trưởng thành thích những vùng nước tĩnh, hay chảy chậm. Cá ăn động vật thủy sinh nhỏ ở tầng đáy, chịu được nhiệt độ thay đổi từ 2 - 30oC (Wang et al., 2008) [48]. Một số yếu tố môi trường nước thích hợp cho cá sinh sống là: pH từ 6 – 7,5; nhiệt độ từ 18 - 24oC và độ cứng từ 5 - 12oH (Fengyu và Bingxian, 1990) [32]. Theo Fujimoto và CTV (2006), cá Chạch bùn là loài ăn tạp và không phải là loài kén ăn. Nó có thể ăn được nhiều loại thức ăn như: thức ăn cắt thành miếng và chìm, thức ăn viên, thức ăn xay nhỏ, và tảo. Có thể cho cá ăn ấu trùng muỗi, tôm, trùn chỉ, daphnia, và thức ăn có nguồn gốc thực vật như tảo. Chạch bùn còn có thể ăn ốc và kiểm soát sự phát triển của ốc. Chạch bùn thích hợp với bể có thể tích bằng hoặc lớn hơn 30 gallons (tương đương khoảng bằng hoặc lớn hơn 114 lít), với nền đáy là đá, sỏi, hay rễ cây. Chúng thích hợp với ánh sáng dịu. Nó sống tốt trong môi trường chỉ cần thay nước 10% trong vòng 1 tuần. Cá Chạch hầu hết cư trú ở đáy bể, nhưng thỉnh thoảng vẫn bơi ở tầng giữa và tầng mặt. Con đực trưởng thành có thể phân biệt với con cái nhờ vây ngực thứ hai dài và dày hơn, và giống hình tam giác hơn là hình cung tròn [31]. Theo Department of Primary Industries thì những cá thể có chiều dài >8 cm có thể phân biệt đực cái bằng vây ngực [54]. PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 17 Fujimoto và CTV (2006) đã mô tả sự phát triển của phôi cá Chạch bùn, trải qua nhiều giai đoạn và nở ra thành cá bột vào khoảng 48 giờ sau khi thụ tinh. Sau đó, cá bột trải qua 4 giai đoạn (khoảng 120 giờ sau khi thụ tinh), và bắt đầu sử dụng thức ăn từ 132 - 144 giờ sau khi thụ tinh [31]. Theo Waterwatch Victoria (2011), cá Chạch bùn thành thục sinh dục ở chiều dài 100 mm. Chúng là loài đẻ nhiều lần trong năm, và đẻ trứng dính. Mỗi lần đẻ có thể từ 4.000 - 16.000 trứng/cá thể tùy thuộc vào tuổi và kích thước thành thục của cá Chạch bùn. Cá Chạch là loài ăn tạp, phổ thức ăn rộng, bao gồm ấu trùng côn trùng, giáp xác, tảo và mùn bã hữu cơ [49]. 1.3.1.2. Nghiên cứu sinh sản nhân tạo Theo Fengyu và Bingxian (1990), tuổi thành thục lần đầu của cá Chạch bùn cái là từ 1+ - 2 năm và cá đực là 1 năm. Đặc điểm phát triển của tuyến sinh dục và các giai đoạn thành thục của tế bào trứng giống như cá Chép. Cá Chạch có thể đẻ nhiều lần trong năm. Sức sinh sản của cá Chạch tỷ lệ thuận với kích thước của cơ thể cá. Mùa sinh sản kéo dài từ giữa tháng 4 đến đầu tháng 10 hàng năm. Cá Chạch đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất về chiều dài trong năm thứ nhất và thứ hai nhưng tăng trưởng cao nhất về khối lượng thì xảy ra trong năm thứ hai. Đối với hình thức nuôi thâm canh, cá Chạch đạt kích thước thương phẩm vào tuổi thứ 2, khi chiều dài cá >11 cm [32]. Wang và CTV (2009) đã sử dụng GnRHa (liều đơn) và kết hợp với DOM để kích thích sự rụng trứng cá Chạch bùn cái được thu thập từ tự nhiên. Liều lượng các chất kích thích rụng trứng như sau: 2 mg/kg cá đối với não thùy thể khi tiêm liều sơ bộ. GnRHa tiêm liều đơn với liều lượng 10 µg (G10), 20 µg (G20), 40 µg (G40) và 60 µg (G60) /kg cá và phối hợp giữa GnRHa và DOM với liều 5 µg + 2,5 mg (GD5), 10 µg + 5 mg (GD10), 20 µg + 10 mg (GD20) và 40 µg + 20 mg (GD40)/kg cá. Sự kết hợp giữa GnRHa và DOM với liều 20 µg + 10 mg (GD20) and 40 µg + 20 mg (GD40)/kg cá cái cho kết quả là tỷ lệ rụng trứng cao và có giai đoạn từ liều sơ bộ đến liều quyết định ngắn nhất so với các thí nghiệm khác. Cũng như các loài khác trong họ cá Chép, nên kết hợp giữa DOM và GnRHa để kích thích sự rụng trứng của cá Chạch bùn [47]. Zhimin và Xiaozhu (2009) đã cho sinh sản nhân tạo cá Chạch bùn ở tỉnh Henan, Trung Quốc. Kết quả cho thấy khi dùng kết hợp LRH - A2 và (DOM) thì cho kết quả tốt hơn là dùng HCG và LRH - A2. Nếu với môi trường nước chảy và nhiệt độ từ 21 - 24oC, độ mặn khoảng 5 ‰ thì thu được số lượng lớn cá bột Chạch bùn có chiều dài từ 3,5 - 4,8 mm, với thời gian nở sau 25 giờ [50]. Suzuki (1983), chỉ ra rằng cá cái sau khi đẻ lần thứ nhất có thể đẻ tiếp trong vòng 20 ngày. Thí nghiệm cho sinh sản nhân tạo cá Chạch bùn được sử dụng chất kích thích rụng trứng là HCG (thí nghiệm tiến hành từng tháng) được tiến hành trong 28 PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 18 tháng. Có tối thiểu 70% cá cái tham gia sinh sản cho đến tháng thứ 13. Phần trăm cá tham gia sinh sản dao động từ tháng thứ 12 đến tháng thứ 20, và giảm sút nhanh chóng vào những tháng sau đó. Không có cá cái đẻ vào tháng thứ 27 và 28. Số lượng trứng trung bình mỗi lần đẻ của cá cái giảm nhẹ hay không đổi cho đến tháng thứ 15, sau đó thay đổi mạnh [45]. Wang và CTV (2008) đã nghiên cứu nhịp độ bắt mồi của cá bột Chạch bùn từ khi mới nở cho đến 40 ngày tuổi tính từ khi nở. Thức ăn sử dụng là Daphnia còn sống (Moina micrura). Cá bột có thể bắt mồi từ 3 - 4 ngày sau khi nở ở nhiệt độ 23 ± 0,5 o C. Cá bột ngày thứ 4 tăng cường bắt mồi vào lúc 10:00 và 16:00. Cường độ và tỷ lệ bắt mồi cao nhất của cá bột ngày thứ 12 là vào lúc 8:00, 12:00 và 18:00. Vào ngày 20, khi cá bột biến thái, cường độ và tỷ lệ bắt mồi cao nhất của cá bột vào lúc 6:00; 18:00 và 24:00. Cường độ bắt mồi cao nhất của cá con 30 ngày tuổi vào lúc 5:00 và 20:00, sau từ 1 - 2 giờ khi cá đạt tỷ lệ bắt mồi cao nhất. Nhịp độ bắt mồi của cá con ngày 40 giống như ngày 30. Dự đoán tỷ lệ thức ăn tối đa trên khối lượng đàn cá là 43,1%, 33,4%, 19,0%, 12,8%, và 5,8% vào các ngày tuổi tương ứng là 4, 12, 20, 30 và 40. Nhịp độ bắt mồi của cá con cũng khác nhau ở giai đoạn trước và sau khi biến thái. Hoạt động bắt mồi của cá bột cá Chạch bùn trước khi biến thái tập trung vào ban ngày (khi này cá bột ở trạng thái sống nổi), và tập trung vào ban đêm sau khi trải qua giai đoạn biến thái (khi này cá con ở trạng thái sống đáy). Kích thước và hình dạng của cá bột và cá con ở các ngày 4, 12, 20, 30 và 40 cũng được mô tả trong báo cáo này [48]. 1.3.2. Ở Việt Nam Cá Chạch bùn là một trong những đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế, giàu dinh dưỡng, được nhân dân ta ưa thích, loài cá này hứa hẹn sẽ mang lại một nguồn lợi to lớn cho sự phát triển nghề cá của nước nhà. Tuy nhiên, sự hiểu biết về loài cá này còn rất ít nên đến nay cá Chạch bùn chưa được nuôi phổ biến và số lượng của loài này đang khan hiếm dần do khai thác không hợp lý. Hiện nay, trong nước chưa có nhiều công trình nghiên cứu về đối tượng cá Chạch bùn, chủ yếu là nghiên cứu về phân loại còn nghiên cứu về sinh học, sinh sản và nuôi thương phẩm cá Chạch bùn rất hạn chế. Vì vậy, việc nghiên cứu sinh sản nhân tạo và nuôi thử nghiệm thương phẩm cá Chạch bùn trở nên cấp thiết và quan trọng, góp phần bảo vệ nguồn lợi cá Chạch bùn tự nhiên, đa dạng hóa đối tượng nuôi, thúc đẩy phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững. 1.3.2.1. Một số đặc điểm sinh học Tác giả Võ Văn Chi (1999) có mô tả loài Chạch bùn như sau: cá Chạch bùn có phần thân trước hình trụ tròn, phần đuôi dẹp một bên, dài 5 - 18 cm. Đầu cá nhọn, hơi tròn. Mắt nhỏ nằm ở hai bên đầu, khoảng cách giữa hai mắt rất ngắn. Có 5 đôi râu miệng trong đó 2 đôi ở đầu mõm, 2 đôi ở dưới mõm và 1 đôi ở góc miệng. Da mỏng PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 19 và dưới da có nhiều tuyến tiết chất nhờn nên rất trơn. Màu sắc của cá thay đổi theo màu nước nơi chúng sinh sống: toàn thân màu nâu, lưng màu nâu đen xậm hơn bụng, bụng màu vàng nhạt. Trên thân có nhiều chấm nhỏ, đôi khi tụ thành những chấm lớn. Ở gốc vây đuôi có một chấm to màu đen. Cá sinh sản vào các tháng 4 - 7. Cá cái có thể đẻ mỗi đợt khoảng 2.000 trứng. Mức sinh sản trung bình, mật độ cá có thể tăng gấp đôi sau từ 1 đến 4 năm. Cá ăn động vật thủy sinh nhỏ ở tầng đáy, chịu được nhiệt độ thay đổi từ 2oC đến 30oC. Cá Chạch bùn thường sống trong hang, hốc bùn dưới đáy, chỉ nhô phần đầu ra ngoài. Cá trưởng thành thích những vùng nước tĩnh hay chảy chậm [53]. Tác giả Kim Văn Vạn (2012) có viết về Chạch bùn như sau: Chạch bùn là một loài cá sống đáy, sống ở khu vực nông của sông, hồ, ao, ruộng, kênh mương. Ở nước ta, Chạch bùn thường gặp ở các tỉnh miền Bắc và Bắc Miền Trung. Chạch bùn cũng phân bố rộng rãi ở một số nước châu Á như Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Quốc. Do thịt thơm ngon, hàm lượng đạm cao tới 18,43%, chất béo ít chỉ có 2,69%, là động vật thủy sản nhiều đạm và ít mỡ, chạch bùn cũng đang là mặt hàng xuất khẩu. Bởi vậy Chạch bùn sớm trở thành một đối tượng nuôi [55]. Cá mình dài, đoạn trước vây bụng hình ống tròn, đoạn sau dẹt dần, cuống đuôi dẹt mỏng. Đầu tương đối nhọn, mắt nhỏ có da che phủ. Độ xiên của mõm lớn. Miệng ở phía dưới hình móng ngựa. Có 5 đôi râu, khe mang nằm ở chân vây ngực. Hậu môn ở gần vây hậu môn. Vây đuôi hình tròn, tuyến bên hoàn chỉnh. Hai bên lưng màu tro đậm, có con có đốm đen xen kẽ (Kim Văn Vạn, 2012) [55]. Cá Chạch là một loài cá sống đáy, sống ở khu vực nông của sông, hồ, ao, ruộng, kênh mương. Cá Chạch có sức thích nghi nhanh ở môi trường xấu. Khi nhiệt độ nước quá cao, hoặc quá thấp cá Chạch rúc xuống bùn. Khi thời tiết thay đổi bất thường hay khi có triệu chứng bệnh, cá Chạch nổi lên mặt nước. Ngoài hô hấp bằng da, mang, cá Chạch còn có thể thở bằng ruột, khi nước thiếu ôxy cá Chạch ngoi lên trực tiếp mặt nước để đớp không khí, thực hiện trao đổi khí ở trong ruột sau đó khí được thải qua hậu môn ra ngoài (Kim Văn Vạn, 2012) [55]. Cá Chạch ăn tạp, lúc nhỏ ăn động vật là chính, về sau chuyển dần sang ăn tạp. Giai đoạn trưởng thành cá Chạch ăn thực vật là chủ yếu. Cá Chạch cỡ dưới 5cm chủ yếu ăn luân trùng, râu ngành, chân chèo và các động vật phù du khác. Cỡ 5 - 8cm ngoài thức ăn động vật phù du, cá Chạch còn ăn giun nhỏ và ấu trùng muỗi lắc. Cỡ 8 - 9 cm cá Chạch còn ăn tảo khuê, thân lá cây cỏ non và hạt ngũ cốc, cỡ trên 9 cm cá Chạch chuyển sang ăn thức ăn là thực vật là chính. Nuôi trong ao cá Chạch còn ăn các thức ăn tinh. Nhiệt độ phù hợp cho cá Chạch sinh trưởng từ 15 - 30oC, thích hợp nhất từ 25 - 27oC. Ở nhiệt độ này cá Chạch ăn khỏe và mau lớn. Cá Chạch mới nở chỉ to bằng PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
- 20 đầu kim khâu, sau 1 tháng có chiều dài 2 - 3 cm, sau nửa năm được 4 - 6 cm, cá Chạch trưởng thành nặng 30 - 60 g, con to nhất nặng 100 g dài 20 cm. 1.3.2.2. Nghiên cứu sinh sản nhân tạo Bùi Huy Cộng và nhóm nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứu NTTS I đã tiến hành nghiên cứu thăm dò sinh sản nhân tạo cá Chạch bùn trong 2 năm từ tháng 7/2009 đến tháng 9/2010 đã tạo ra được 3000 con cá Chạch bùn giống cỡ 2 - 3 g/con. Nghiên cứu này đã sử dụng cá Chạch bùn bố mẹ cỡ 8 - 15 g/con, nuôi vỗ ở mật độ 20 con/m3, trong điều kiện bể xi măng có diện tích 30 m2, độ sâu 1,5 m, cho ăn bằng thức ăn viên 28 - 35% protein của hãng CP, có kích thích nước chảy 1 - 2 giờ/tuần. Não thùy, HCG (Human Chrionic Gonadotropin), LHRH-A (Luteinising Hormone - Releasing Hormone Analogue), DOM (Domperidon) đã được sử dụng để gây kích thích sinh sản cho cá. Kết quả thăm dò sinh sản cá Chạch bùn qua 2 đợt năm 2009 cho thấy sử dụng não thùy cho tỷ lệ cá đẻ 47 - 100%, tỷ lệ thụ tinh đạt 80% và tỷ lệ nở đạt 70% và ra được 3000 cá bột, còn sử dụng DOM + LHRH- A không có hiệu quả. Kết quả năm 2010 thăm dò sinh sản cá Chạch bùn cho thấy sử dụng HCG + não thùy mặc dù có tỷ lệ cá đẻ 13%, tỷ lệ thụ tinh 40% và tỷ lệ nở 50% nhưng cá bột bị chết. Chỉ sử dụng não thùy để tiêm cho sinh sản nhân tạo cá Chạch bùn cho kết quả tốt, có tỷ lệ đẻ đạt 47 - 100%, tỷ lệ thụ tinh 70 - 75%, tỷ lệ nở 60 - 70%, ra được 14400 cá bột [7]. Sau khi nở, cá bột được đưa vào ương trong bể xi măng có diện tích 2 m2/bể, độ sâu 1,2 m ở các mật độ 100 con/m2, 150 con/m2, 200 con/m2 mỗi mật độ được lặp lại 3 lần, thức ăn là lòng đỏ trứng gà luộc chín nghiền mịn và động vật phù du đã được lọc sạch, rửa bằng nước muối loãng 2%. Kết quả ương cá Chạch bùn từ cá bột cỡ 0,6 cm, sau 21 ngày tuổi cho thấy ương ở mật độ 100 con/m2 có kết quả tốt nhất, chiều dài trung bình 2,5 cm và tỷ lệ sống 60%. Kết quả ương cá Chạch bùn trong 3 bể xi măng (lập lại 3 lần) từ giai đoạn cá hương lên cá giống ở mật độ 100 con/m2. Cá thả có khối lượng trung bình 0,146 g/con, sau 43 ngày nuôi bằng thức ăn viên 35% protein cá đạt khối lượng trung bình 2,6 g/con. Kết quả tốc độ sinh trưởng trung bình của cá chạch bùn đạt 0,057 g/con/ngày; tỷ lệ sống dao động ở các bể 60 - 68%; hệ số chuyển hóa thức ăn trung bình là 1,5. Kết quả nghiên cứu của Võ Ngọc Thám (2012) thuộc khoa Nuôi trồng thủy sản trường đại học Nha Trang về công nghệ sinh sản nhân tạo cá Chạch bùn ở Khánh Hòa cho thấy khi kích thích cá đẻ bằng kích dục tố LHRH_A + DOM với liều lượng: 120µg LRH-A3 + 10mg Dom thì tỷ lệ cá đẻ đạt 100 %, tỷ lệ thụ tinh đạt 88,55%, tỷ lệ nở đạt 62,67 %, tổng số cá bột thu được 94.700 con. Kết quả ương cá giống từ cá bột lên cá hương đạt tỷ lệ sống thấp, dao động từ 5,3 – 10,1 %. Ương từ cá hương lên cá giống tỷ lệ sống đạt cao hơn 26,3 – 37,7 % [18]. PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 369 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 410 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 541 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 516 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 299 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 341 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 318 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 233 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 245 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 191 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn