intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Phân tích di truyền gen sửa chữa bắt cặp sai MSH2 từ bệnh nhân ung thư đại trực tràng

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:77

61
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nhằm đưa ra những kết quả nghiên cứu bước đầu về gen MSH2 ở các bệnh nhân ung thư đại trực tràng tại Việt Nam, nghiên cứu mới về các gen MMR khác nhằm phục vụ có hiệu quả trong việc chẩn đoán cũng như phát hiện sớm bệnh ung thư đại trực tràng đang có xu hướng ngày một gia tăng tại Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Phân tích di truyền gen sửa chữa bắt cặp sai MSH2 từ bệnh nhân ung thư đại trực tràng

  1.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân LỜI NÓI ĐẦU Theo tổ  chức Y tế  Thế  giới (WHO), hàng năm trên thế  giới có khoảng  10,1 triệu trường hợp mới mắc ung thư. Cũng theo tổ  chức này cho biết, mỗi  năm có khoảng 6,7 triệu người chết do ung thư. Tỷ lệ chết do ung thư chiếm tới   12% trong tổng số các nguyên nhân gây tử  vong ở người. Các loại ung thư hàng   đầu được tổng kết  ở  nam giới là ung thư  phổi, dạ  dày, đại trực tràng, tiền liệt   tuyến, gan;  ở  nữ  giới là ung thư  vú, đại trực tràng, cổ  tử  cung, dạ  dày và phổi  [30]. Trong hơn một thập niên trở  lại đây, tỷ  lệ  mắc ung thư  có xu hướng gia   tăng  ở  hầu hết các quốc gia trên thế  giới. Qua các kết quả  thống kê cho biết,   hiện toàn cầu có khoảng 25 triệu người đang sống chung với bệnh ung thư. Con   số này ước tính lên tới 30 triệu người vào năm 2020 nếu như chúng ta không tìm   ra liệu pháp can thiệp và chữa trị kịp thời. Riêng ở Việt Nam, mỗi năm có trên 150.000 người mắc ung thư. Trong đó,  khoảng 100.000 người chết vì căn bệnh quái ác này. Riêng số ca tử vong do ung   thư  đại trực tràng  ước tính khoảng 55.000 trường hợp. Đây được xem là những   con số đáng báo động và là thách thức lớn lao đối với Y học nước nhà. Hiện nay, trên thế  giới ung thư  đại trực tràng chiếm khoảng 11,5% tổng   số  các trường hợp ung thư  và chiếm tới 15,2% tổng số  trường hợp tử  vong có   nguyên nhân từ  ung thư. Loại ung thư này được nhận định là liên quan đến chế  độ ăn uống và lối sống, thường gặp  ở các nước phát triển và có xu hướng tăng  nhanh  ở  các nước đang phát triển. Căn bệnh này thường xuất hiện  ở  những   người có độ tuổi trên 50 và có xu hướng dần “trẻ hóa” trong hơn một thập niên   trở lại đây. Đặc biệt, những người có tiền sử viêm đại trực tràng hoặc trong gia   đình, dòng họ  có người bị  ung thư  đại trực tràng thì nguy cơ  mắc ung thư  đại  trực tràng xảy ra cao hơn. Nhiều nghiên cứu chỉ  ra rằng, một bộ  phận ung thư  Học viên Khóa 2010 – 2012                             1                               Nguyễn Thị Mai 
  2.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân đại trực tràng có xu hướng chung di truyền theo dòng họ  liên quan đến các gen   gây đột biến (mutator gene) [4]. Trong ung thư đại trực tràng, hội chứng HNPCC – ung thư ruột kết không  polyp di truyền còn gọi là hội chứng Lynch chiếm khoảng 15%. Hội chứng này  cũng được xem là một bệnh di truyền tương đối phổ biến và gần đây được biết  đến như  một căn bệnh riêng biệt [30]. Bên cạnh đó, HNPCC là hội chứng có  khuynh hướng ung thư không chỉ ở đại trực tràng mà còn liên quan đến các bệnh   ung thư ở các cơ quan khác nhau như dạ dày, ruột non, não, tụy, buồng trứng, cổ  tử cung và da. HNPCC là hội chứng có tính chất di truyền, vì nó có liên quan mật thiết   đến sự  sai hỏng một trong các gen thuộc hệ  thống gen sửa chữa bắt cặp sai   MMR. Hệ  thống này gồm 6 gen chính là  MLH1, MSH2, MSH3,  MSH6,  PMS2,   PMS6. Trong đó, MLH1 và  MSH2 được cho là hai gen có liên kết chặt đến sự  hình thành HNPCC. Bởi vì, nếu  MLH1  tham gia vào quá trình sửa chữa sự  sai   hỏng thì MSH2 lại đóng vai trò nhận diện các lỗi sai hỏng trong tái bản ADN.   Khoảng  40% các trường hợp mắc hội chứng Lynch với một đột biến được xác  định có liên quan đến đột biến gen MSH2. Hàng trăm đột biến gen này có khả  năng dẫn đến ung thư  đại trực tràng cũng như  các loại ung thư  khác liên quan   đến HNPCC [22]. Mặc dù ung thư  đại trực tràng, trong đó có ung thư  đại trực tràng mang  khuynh hướng di truyền là một trong những dạng ung thư  có tỷ  lệ  mắc phải  ở  Việt Nam khá cao nhưng những nghiên cứu về gen liên quan đến căn bệnh này  chưa nhiều, đặc biệt là những nghiên cứu về gen  MSH2. Chính vì thế, chúng tôi  tiến hành  “Phân tích di truyền gen sửa chữa bắt cặp sai   MSH2  từ  bệnh  nhân ung thư  đại trực tràng” nhằm đưa ra những kết quả  nghiên cứu bước   đầu về gen MSH2  ở các bệnh nhân ung thư đại trực tràng tại Việt Nam, nghiên   cứu mới về  các gen MMR khác nhằm phục vụ  có hiệu quả  trong việc chẩn  Học viên Khóa 2010 – 2012                             2                               Nguyễn Thị Mai 
  3.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân đoán cũng như  phát hiện sớm bệnh ung thư  đại trực tràng đang có xu hướng  ngày một gia tăng tại Việt Nam. Chươ ng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ UNG THƯ, BỆNH UNG THƯ VÀ GEN  UNG THƯ 1.1.1. Ung thư và bệnh ung thư Ung thư  là sự  phân chia một cách bất thường của một nhóm tế  bào tạo   thành những khối u. Các khối u này là tập hợp các tế  bào có quan hệ  di truyền   với nhau, chúng có khả năng phân chia không kiểm soát. Chính vì thế, thuật ngữ  “ung thư” theo nghĩa hẹp được dùng để  chỉ  những khối u có khả  năng xâm lấn  các tổ chức mô xung quanh gồm các tế bào bình thường [4]. Để phân biệt giữa khối u lành và khối u ác tính ta dựa vào khả  năng xâm   lấn của các tế  bào bất thường đối với các tế  bào xung quanh nó. Nếu là khối u  lành,  nó chỉ  hình thành nên  những tổ   chức  tế  bào  có  khả  năng sinh  sản bất   thường, khi tiếp xúc với mạch máu hay mạch bạch huyết cũng không có khả  năng di chuyển tới một vị  trí, một mô hay bất kì một cơ  quan nào khác [4].  Ngược lại, nếu là khối u ác tính sẽ có thể di chuyển (di căn) tới bất cứ vị trí nào   và tiếp tục tăng sinh mạnh ngay tại vị  trí mà chúng chuyển tới. Các u di căn có   khả  năng gây ra những rối loạn cục bộ chức năng của các mô, thậm chí cả  các   mô liên đới và có thể dẫn đến tử vong. Các khối u thường phát sinh từ  một tế  bào ban đầu bị  biến đổi di truyền  nhất định khiến chúng có khả  năng tăng sinh mạnh, được gọi là quá trình phát  sinh ung thư hay sự phát sinh ung thư. Các khối u thường bắt nguồn từ những u   Học viên Khóa 2010 – 2012                             3                               Nguyễn Thị Mai 
  4.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân nhỏ lành tính sau đó chuyển sang trạng thái ác tính và di căn. Các khối u này có xu   hướng tích lũy các biến đổi di truyền và tạo nên các đặc tính mới. Sự tích lũy các   gen ung thư ở các tế bào khối u chính là nguồn gốc phát sinh ung thư [4]. Bệnh ung thư được dùng để chỉ một nhóm bệnh đa dạng nào đó ở người.  Và trong số đó, một vài bệnh chỉ đơn thuần gây nên những biến đổi nhỏ về sinh   lí, còn phần lớn là gây ra những rối loạn sinh lí nghiêm trọng. Các bệnh ung thư  phổ biến ở người trưởng thành là các bệnh như ung thư biểu mô (caxinôm), ung   thư  mô liên kết (sacôm), ung thư  bạch huyết và bạch cầu còn gọi là các khối u  dạng lỏng [4]. Các bệnh ung thư  đều phát sinh do sự  biến đổi các gen tạo nên các alen  đột biến. Trong thực tế, sự  phát sinh các bệnh ung thư  lại liên quan đến nhiều   nhân tố. Nhờ những tiến bộ về khoa học kĩ thuật với các công cụ nghiên cứu và   phân tích di truyền hiện đại đã dần làm sáng tỏ  cơ  chế  phát sinh ung thư. Đặc   biệt, những nghiên cứu trong khoảng 20 năm trở lại đây đã mang lại những kiến  thức thiết thực và nhất quán. Những nghiên cứu này đã hình thành nên các nguyên  lý di truyền học ung thư. Tuy nhiên, mãi tới đầu thế kỉ XIX ung thư mới thật sự  được ghi nhận [4]. 1.1.2. Gen ung thư (oncogene) Gen ung thư là một dạng đột biến làm tăng nguy cơ ung thư hoặc làm thúc   đẩy quá trình phát sinh ung thư. Ngoài ra, gen ung thư cũng có thể được coi như  các dạng alen đặc biệt do các gen bình thường xuất hiện các đột biến [4]. Còn  gen gây ung thư được coi là một dạng đặc biệt của gen ung thư. Nếu gen ung thư  sinh ra bởi đột biến, thì gen gây ung thư  chỉ  làm thay đổi chứ  không làm mất   chức năng sản phẩm của protein mà gen đó tạo ra. Trong quá trình tăng trưởng, các khối u tích lũy dần các gen ung thư. Sự  tích lũy này chủ yếu theo ba con đường sau: Học viên Khóa 2010 – 2012                             4                               Nguyễn Thị Mai 
  5.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân 1. Sự tích lũy truyền qua các tế bào dòng sinh dục. 2. Sự tích lũy do đột biến tự phát trong tế bào sôma. 3. Sự tích lũy đột biến do lây nhiễm virut. Trong đó, gen ung thư dòng sinh dục chiếm tỉ lệ nhỏ (từ 0,1 – 10%) nhưng   lại rất đáng kể  trong các trường hợp gây ung thư   ở  người [4]. Còn gen ung thư  dòng tế bào sôma đươc gọi là các đột biến sôma. Đột biến sôma dùng để chỉ quá  trình phát sinh đột biến cũng như sản phẩm do quá trình đột biến đó tạo ra. Cả hai loại đột biến dòng sinh dục và đột biến sôma đều có thể làm biến  đổi một gen bình thường tạo nên dạng alen đột biến. Nhưng không phải tất cả  mọi đột biến gen đều dẫn đến phát sinh ung thư. Riêng dạng tích lũy gen ung thư trong cơ thể do nhiễm virut thì ít phổ biến  hơn và thường giới hạn trong một số bệnh nhất định (ví dụ  virut viêm gan B, C  gây ung thư gan, virut HPV gây ung thư cổ tử cung...). Ở dạng phát sinh ung thư  này, virut đóng vai trò quan trọng. Nó không chỉ là nhân tố truyền gen ung thư mà   còn trực tiếp làm biến đổi môi trường mà ở đó các gen ung thư có thể được nhân  lên nhanh chóng và được phát tán rộng rãi. 1.2. NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG 1.2.1. Lịch sử nghiên cứu ung thư đại trực tràng Ung thư đại trực tràng là bệnh lý khá phổ biến trong các bệnh ung thư có  liên quan đến hệ tiêu hóa. Trong đó, ung thư đại trực tràng không polyp di truyền  được xem là hội chứng thường gặp nhất khi nhắc đến ung thư  đại trực tràng.  Vào cuối thế  kỉ  XIX (năm 1895), ung thư  đại trực tràng được phát hiện bởi   Aldred Warthin. Theo quan sát của ông trên một gia đình làm thợ  may, có rất  nhiều người bị  chết bởi ung thư  đại trực tràng hoặc ung thư  nội mạc tử  cung   Học viên Khóa 2010 – 2012                             5                               Nguyễn Thị Mai 
  6.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân [34]. Tuy nhiên, ông chỉ dừng lại  ở việc quan sát mà chưa đi sâu vào nghiên cứu   những ghi chép của mình nên đặc tính di truyền của hội chứng này chỉ được biết  đến sau những công bố của bác sĩ Henry Lynch.  Theo kết quả của ông cho biết,  ở  các thế  hệ  đầu, ung thư  dạ  dày chiếm   ưu thế. Càng về  sau, ung thư  đại tràng xuất hiện càng nhiều hơn. Sự  thay đổi  này phản ánh những biến đổi của môi trường có liên quan đến từng giai đoạn  phát triển của bệnh ung thư  cũng như  loại ung thư, đồng thời khẳng định, sự  biến đổi môi trường là một trong những nhân tố quan trọng dẫn đến ung thư đại   tràng [4]. Hội chứng Lynch được chia thành hội chứng Lynch I và hội chứng Lynch  II để  phân biệt các gia đình chỉ  có ung thư  đại tràng với các gia đình có cả  ung  thư đại tràng lẫn các loại ung thư khác. Ngày nay, người ta cho rằng, các gia đình  có các bệnh ung thư liên quan tới ung thư ruột kết đều được coi là HNPCC [17]. Đến năm 1993, một sai hỏng mới và hiếm gặp trong hệ thống gen MMR   của một bệnh nhân mắc ung thư  ruột kết được phát hiện đã cung cấp một đầu  mối   quan  trọng   trong   quá   trình   nghiên  cứu  ung  thư   đại   trực   tràng  di   truyền.   Nghiên cứu được tiến hành trên những đột biến mất đoạn và đột biến khuếch  đại gen nhằm chỉ ra các gen ung thư và gen áp chế khối u mới. Kết quả, đã tìm   thấy các biến đổi sôma về  độ  dài các trình tự  lặp lại được biết đến như  các vi   vệ  tinh [19], [36]. Một nghiên cứu khác cũng tìm thấy những biến đổi liên quan   đến sự hình thành khối u  ở đoạn đầu ruột kết. Gần đây nhất, người ta đang nỗ  lực lập bản đồ  cho các vùng bị  mất tính dị  hợp tử  LOH và cũng đã phát hiện  được các đột biến ở trình tự vi vệ tinh. Nhờ đó người ta đã khám phá ra bản chất   di truyền của ung thư đại trực tràng và khẳng định, hội chứng này do một số gen  xảy ra các đột biến khác nhau, được di truyền qua các thế hệ và biểu hiện rõ rệt  ở  một số  dòng họ. Ngoài ra, tính hỗn tạp của các gen gây ung thư   ở  các bệnh  Học viên Khóa 2010 – 2012                             6                               Nguyễn Thị Mai 
  7.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân nhân ung thư ruột kết di truyền cũng được biết đến như là một tác nhân gây khó  khăn trong chẩn đoán và phát hiện bệnh [20]. 1.2.2.  Sơ lược về bệnh ung thư đại trực tràng  Ung thư đại trực tràng là một loại ung thư biểu mô, chiếm 11,5% tổng số  các ca ung thư  và chiếm tới 15,2% tổng số  các trường hợp tử  vong vì ung thư.   Loại ung thư này thường liên quan đến chế độ ăn uống và lối sống, gặp nhiều ở  các nước phát triển, đặc biệt là các nước phương Tây và đang có xu hướng gia   tăng ở các nước đang phát triển [4]. Riêng ở Việt Nam, ung thư đại trực tràng là một trong ba loại ung thư phổ  biến hay gặp đối với hệ  tiêu hóa. Do đó, ngày càng có nhiều dự  án tập trung   những nghiên cứu nhằm tìm ra nguyên nhân chủ  yếu dẫn đến tình trạng này.  Theo thống kê của Hội Ung thư Thành phố Hồ Chí Minh, ung thư đại trực tràng   nằm trong số 5 bệnh ung thư có số người mắc cao nhất. Một khảo sát mới nhất  về  tình trạng ung thư  tại Thành phố  Hồ  Chí Minh cho thấy, ung thư  đại trực  tràng xếp thứ  4  ở  nam giới (sau ung thư  gan, phổi, dạ  dày) và xếp thứ  3  ở  nữ  giới (sau ung thư cổ tử cung và ung thư vú). Học viên Khóa 2010 – 2012                             7                               Nguyễn Thị Mai 
  8.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân Hiện   nay,   y   học  chưa   biết   chính   xác  nguyên nhân gây ung thư  đại trực tràng. Tuy nhiên,  có những yếu tố  dẫn đến  nguy cơ chắc chắn làm dễ  mắc bệnh hơn tuổi tác. Vì  trên   9%   bệnh   nhân   ung  thư  đại trực tràng là trên  50   tuổi,   có   tiền   sử   bị  polyp, viêm loét đại tràng và bệnh Crohn (một loại bệnh do hồi tràng – đoạn cuối  ruột non bị tổn thương) trong gia đình có người mắc ung thư đại tràng hay đường  ruột.  Ung thư đại trực tràng là hội chứng khá phổ biến và được phân chia thành   3 loại chính, gồm: hội chứng u tuyến polyp theo dòng họ  (FAP) (Hình 1), hội   chứng HNPCC và các bệnh ung thư khác có liên quan đến hệ tiêu hóa. Trong đó,   hội chứng u tuyến polyp theo dòng họ đặc trưng bởi bệnh nhân mang hội chứng   này hình thành rất nhiều polyp trong ruột già từ khi còn khá trẻ. Các khối u có thể  quan sát được chiếm tỷ  lệ  rất nhỏ, số  ít trong đó có khả  năng hình thành u ác  tính. Hội chứng HNPCC đặc trưng bởi không xuất hiện các polyp mà thay vào đó   là sự xuất hiện u tuyến. Chính những u tuyến này có nguy cơ tiến triển thành ung   thư cao hơn nhiều [4]. 80% người mắc ung thư  ruột già dạng HNPCC có nguy cơ  mắc ung thư  đại trực tràng. Tuổi trung bình của người mắc bệnh ung thư ruột già đơn phát là   61, trong khi các bệnh nhân HNPCC đều phát triển ung thư ở độ  tuổi trung bình  là 42, tức là sớm hơn 20 năm. Đối với phụ nữ, có khoảng 20 –  60% bệnh nhân   HNPCC có nguy cơ mắc ung thư nội mạc tử cung. Tuổi trung bình cho chẩn đoán  Học viên Khóa 2010 – 2012                             8                               Nguyễn Thị Mai 
  9.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân ung thư  nội mạc tử  cung là 46 – 62. Trong số những phụ  nữ mắc HNPCC phát  triển thành ung thư ruột kết và ung thư nội mạc tử cung, khoảng 50% xuất hiện   ung thư  nội mạc tử  cung từ  trước đó [17]. Có thể  xem xét tỷ  lệ  mắc các bệnh  ung thư khác có liên quan đến HNPCC trong Bảng 1 dưới đây. Bảng 1: Thống kê các bệnh ung thư liên quan đến HNPCC [17] Ung thư liên quan đến  Tỷ lệ mắc  Nguy cơ mắc  Tuổi phát  HNPCC HNPCC bệnh bệnh Đại trực tràng 5.5% 80% 44 Nội mạc tử cung 2.7% 20­60% 46 Dạ dày
  10.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân HNPCC không, người ta đã thiết lập các tiêu chuẩn để  xác định các cá thể  có  nguy cơ cao với loại hội chứng này. Ngoài những chỉ dẫn của Bethesda cải tiến  là dựa vào thông tin lâm sàng, lịch sử  gia đình hoặc mô bệnh học hay các tiêu  chuẩn Amsterdam I và II, người ta còn tiến hành các xét nghiệm di truyền các đột   biến MMR. Tuy nhiên, các xét nghiệm này thường rất phức tạp, mất nhiều thời   gian và chi phí tốn kém. Chính vì thế, người ta đã đưa ra khuyến cáo rằng các   bệnh nhân có nguy cơ cao với hội chứng Lynch nên thực hiện phương pháp tiền   sàng lọc với phân tích MSI và hóa mô miễn dịch IHC. Khi đó, các cá thể có khối u  sẽ thể hiện mức độ bất ổn vi vệ tinh cao hoặc mất sự biểu hiện của các protein   MMR bằng IHC sau đó tiến hành xét nghiệm đột biến dòng mầm. Nếu tuân thủ  đúng việc sử  dụng hướng tiếp cận từng bước này thì hầu hết các trường hợp   mắc hội chứng Lynch đều được phát hiện và cho độ tin cậy rất cao [29]. 1.2.2.1. Nguyên nhân ung thư đại trực tràng Có nhiều nguyên nhân dẫn đến ung thư  đại trực tràng. Tuy nhiên, y học   chưa xác định rõ đâu là nguyên nhân chủ yếu. Người ta chỉ biết rằng, có một số  nguyên nhân khách quan khác ngoài yếu tố về tuổi tác hay yếu tố gia đình có tiền   sử  mắc các bệnh về  đại trực tràng liên quan đến HNPCC, đó là cách thức ăn  uống cũng như  lối sống của chúng ta. Ăn quá nhiều chất béo, thịt, mỡ, thức ăn  chứa nhiều Cholesterol sẽ làm tăng nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng. Hay ăn ít   hoặc không ăn các chất xơ như rau xanh, trái cây cũng là nguyên nhân dẫn tới sự  hình thành bệnh. Ngoài ra, những người thừa cân, béo phì cũng rất dễ  mắc loại   bệnh này. Chính vì thế, để  phòng tránh ung thư  đại trực tràng, ngoài chế  độ  ăn  uống hợp lý, tăng cường các hoạt động thể  dục, thể  thao thì từ  50 tuổi trở  đi,   mỗi người nên tới bác sĩ thăm khám định kỳ ít nhất 1 lần trong năm để  kịp thời   phát hiện những biến đổi tiềm ẩn giúp phòng tránh ung thư đại trực tràng. 1.2.2.2. Triệu chứng biểu hiện ung thư đại trực tràng Học viên Khóa 2010 – 2012                              10                                Nguyễn Thị   Mai 
  11.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân Ung thư đại trực tràng là căn bệnh có những triệu chứng ban đầu không rõ   rệt, nó có thể khởi phát ở bất cứ vị trí nào của đại trực tràng, từ phía trong ra phía  ngoài qua các lớp khác nhau của thành ruột. Ung thư   ở  mỗi vị  trí sẽ  có những  biểu hiện triệu chứng khác nhau và thông thường là có máu trong phân khi người   bệnh đi đại tiện. Đại đa số trường hợp, bệnh phát triển âm thầm qua nhiều năm.  Sự  phát triển của nó tương đối chậm chạp nên người bệnh hoàn toàn không có   một triệu chứng nào cho đến khi ung thư phát triển đến giai đoạn cuối và lan tràn  khắp nơi. Có tới 95% các trường hợp ung thư  đại tràng là loại ung thư  tế  bào   tuyến được bắt nguồn từ các tế bào thuộc lớp niêm mạc đại tràng. Ở giai đoạn sớm, triệu chứng bệnh thường không rõ rệt, nhiều khi người   bệnh chỉ đau bụng nhẹ, cũng có khi bị  trướng hay đầy bụng, đau tức vùng bụng  trước hoặc sau khi ăn. Tuy nhiên, triệu chứng được xem là có giá trị  chẩn đoán  bệnh đó là đại tiện ra máu, nhất là ở những người ở độ tuổi khoảng 45 – 55 hay   xảy ra các rối loạn tiêu hóa như có ngày bị táo bón, có ngày lại đi lỏng kiểu tiêu   chảy. 85% bệnh nhân nhập viện trong tình trạng bị ung thư giai đoạn giữa hoặc  đã chuyển sang giai đoạn di căn. Do tính chất nguy hiểm và tính phổ biến của bệnh nên những người trong   độ  tuổi từ  45 –   55 cần đi kiểm tra, xét nghiệm định kỳ  như  thử  phân, nội soi   ruột già. Ngoài ra, khi có những triệu chứng rối loạn  đường tiêu hóa như  ăn  không tiêu, táo bón, đầy bụng hoặc tiêu chảy thì cần khẩn trương đi khám ngay.   Khoảng 58% bệnh nhân bị  ung thư  được phát hiện khi bệnh đã bước sang giai  đoạn II và chuẩn bị sang giai đoạn di căn. Trên 85% số bệnh nhân mắc ung thư  đại trực tràng bị di căn và tử vong do phát hiện bệnh chậm. Vì vậy, cần hết sức   quan tâm đến những thay đổi của hệ tiêu hóa, đặc biệt với những người trong gia   đình có tiền sử về ung thư đại tràng hay các bệnh ung thư liên quan thì việc thăm   khám định kỳ là một việc làm rất cần thiết. Học viên Khóa 2010 – 2012                              11                                Nguyễn Thị   Mai 
  12.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân 1.2.2.3. Chẩn đoán lâm sàng bệnh ung thư đại trực tràng Ung thư đại trực tràng dạng HNPCC thường hình thành ung thư từ khi còn  khá trẻ, trung bình vào độ tuổi 40, có những trường hợp sớm hơn. Với các bệnh  nhân mang đột biến dòng mầm  ở  hội chứng này không những có nguy cơ  cao  phát sinh bệnh ung thư mà còn làm tăng nguy cơ mắc một số bệnh ung thư khác  như  ung thư  nội mạc tử  cung, dạ  dày, buồng trứng, ruột non, gan, mật, đường  tiết niệu trên, não và da. Việc chẩn đoán ung thư đại trực tràng di truyền có thể dựa trên cơ sở các   tiêu chuẩn lâm sàng Amsterdam hoặc các xét nghiệm di truyền phân tử  các đột  biến dòng mầm trong hệ thống gen nhận biết và sửa chữa bazơ bắt cặp sai. Năm   1990, tập đoàn hợp tác quốc tế về HNPCC đã thành lập các tiêu chí nhằm chẩn  đoán   lâm   sàng   cho   các   gia   đình   mắc   ung   thư   ruột   già   (gọi   là   tiêu   chuẩn   Amsterdam I) [31]. Tuy nhiên, các tiêu chí này  về  sau bị  coi là quá hạn chế  cho  chẩn đoán lâm sàng các bệnh ung thư khác có liên quan đến HNPCC và được sửa  đổi thành tiêu chuẩn Amsterdam II [32] được thể hiện qua Bảng 2. Bảng 2: Tiêu chuẩn Amsterdam I và II trong chẩn đoán lâm sàng HNPCC Tiêu chuẩn Amsterdam I Tiêu chuẩn Amsterdam II ­ Có tối thiểu ba người trong phả  ­ Có tối thiểu ba người trong phả  hệ mắc ung thư đại tràng. hệ mắc các bệnh ung thư liên quan  đến HNPCC.       ­   Một   người   là   trực   hệ   của   một   ­  Một người  là  trực  hệ   của  một   trong hai người còn lại. trong hai người còn lại. ­ Ít nhất có một người bị  các bệnh  ­ Ít nhất có một người bị  ung thư  ung thư liên quan đến HNPCC ở độ  đại tràng ở độ tuổi dưới 50. Học viên Khóa 2010 – 2012                              12                                Nguyễn Thị   Mai 
  13.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân tuổi dưới 50. Độ chính xác của một chẩn đoán dựa trên tiêu chuẩn lâm sàng phụ  thuộc   vào tính chính xác của những số liệu báo cáo về lịch sử các gia đình nghiên cứu. 1.2.3. Cơ sở phân tử của ung thư đại trực tràng di truyền Ung thư đại trực tràng là một trong những bệnh được xác định là di truyền   ngoài những nguyên nhân lối sống và tuổi tác. Do hội chứng này liên quan đến  đột biến xảy ra tại một trong các gen thuộc hệ thống nhận biết và sửa chữa các  bazơ  bắt cặp sai MMR. Hiện nay, tính bất  ổn vi vệ  tinh MSI và cơ  chế  MMR   được coi là cơ  sở  phân tử  giải thích sự  hình thành ung thư  đại trực tràng di  truyền. 1.2.3.1. Tính bất ổn vi vệ tinh Vi vệ tinh là các trình tự ADN ngắn (khoảng 1 – 4 nucleotide) lặp lại từ 10   – 100 lần, chúng phân bố  rộng khắp hệ  gen. Chính khả  năng đột biến cao của   các trình tự vi vệ tinh là nguyên nhân khiến chúng trở nên có tính đa hình cao.  Nghiên cứu về  cơ  sở  phân tử  của ung thư  đại trực tràng người ta đã tìm  thấy những biến đổi sôma về độ dài của các yếu tố lặp lại cao mà chúng ta gọi   là các vi vệ tinh. Khi những trình tự vi vệ tinh này bị biến đổi, chúng có thể liên   quan đến các khối u ở đoạn đầu đại trực tràng. Quan sát này đã cung cấp một sự  kết nối giữa các bất thường vi vệ tinh với sự hình thành ung thư  đại trực tràng.   Ngoài ra, trong khi lập bản đồ  di truyền, người ta cũng phát hiện ra các vùng bị  mất tính dị hợp tử LOH. Từ đó họ cũng đã phát hiện được các đột biến ở trình tự  vi vệ  tinh. Cùng với nhiều nghiên cứu khác, sự  bất  ổn  ở  các trình tự  vi vệ  tinh  được   tìm   thấy   ở   hầu   hết   các   bệnh   nhân   mắc   ung   thư   đại   trực   tràng   dạng  HNPCC. Tuy nhiên, trong các khối u phát hiện ở các bệnh nhân mắc HNPCC chỉ  khoảng 15% chứa các bất  ổn vi vệ tinh. Mặc dù các bất  ổn vi vệ tinh không có   Học viên Khóa 2010 – 2012                              13                                Nguyễn Thị   Mai 
  14.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân tác dụng lâm sàng, nhưng đó là dấu hiệu cụ thể cho thấy hệ thống sửa chữa bắt   cặp sai nhờ mạch ADN được methyl hóa bị lỗi [4]. Vi vệ  tinh là các trình tự  ADN lặp lại phân bố  rộng khắp hệ  gen nên sự  lặp lại cao của các vi vệ  tinh làm cho chúng thường bị  đột biến do hiện tượng  bắt cặp nhầm bởi sự ngắt quãng sợi ADN (slippage) trong quá trình sao chép. Các  đoạn lặp 1 nucleotide như An hoặc Gn và các đoạn lặp 2 nucleotide như (CA/GT) n  thường bị ảnh hưởng bởi sự ngắt quãng nhất. Chính sự  ngắt quãng này gây nên  sự bắt cặp sai hoặc giảm bớt số lượng bazơ trong trình tự lặp lại. Phần lớn các  bazơ  bắt cặp sai được sửa chữa bởi các cơ  chế  đọc sửa vốn có của phức hợp  ADN­polymerazse sao chép. Ở các tế bào bình thường, hầu hết các bazơ bắt cặp  sai thoát khỏi quá trình đọc sửa của phức hợp ADN­polymerase sao chép đều bị  phân giải bởi MMR. Các trình tự vi vệ tinh ở các tế bào sai hỏng về MMR dễ bị  ảnh hưởng và có xu hướng mở rộng hoặc thu ngắn trình tự  vi vệ tinh từ thế hệ  này sang thế hệ khác.  Tính bất ổn vi vệ tinh phản ánh tần số đột biến tăng, ảnh hưởng lên toàn   bộ hệ gen. Sự phát hiện MSI liên quan đến các sai hỏng MMR đã cung cấp một   mấu chốt quan trọng trong việc xác định các gen gây ung thư  ruột già dạng  HNPCC. MSI được đánh giá như  là mô hình đột biến giống với mô hình được  phát hiện ở nấm men và vi khuẩn mang các đột biến MMR [4]. Mặc dù tính bất ổn vi vệ tinh không có tác dụng trong chẩn đoán lâm sàng   ung thư ruột kết nhưng việc phát hiện ra MSI đã cung cấp một đầu mối khá quan  trọng trong việc xác định các gen liên quan đến ung thư đại trực tràng, đặc biệt là   các gen liên quan chặt đến hội chứng này như  MLH1, MSH2, MSH6, PMS2 [27],  [32]. 1.2.3.2. Cơ chế sửa chữa ADN bắt cặp sai Học viên Khóa 2010 – 2012                              14                                Nguyễn Thị   Mai 
  15.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân Trong quá trình sao chép ADN, khi xảy ra các sai hỏng, các bazơ  bắt cặp   sai ngay lập tức được sửa chữa bằng phức hợp ADN­polymerase sao chép có  chức năng đọc sửa. Kết quả, lỗi của quá trình sao chép ADN theo thống kê chỉ là  10­12 đến 10­9. Mức độ chính xác đáng kinh ngạc này cho thấy chỉ dưới 1% tế bào   sẽ  mang bazơ bắt cặp sai trong một pha S hoàn chỉnh. Bên cạnh cơ  chế  sửa lỗi  hoàn chỉnh của ADN­polymerase, các bazơ  bắt cặp sai trên mạch mới tổng hợp   được xử lý nhờ hệ  thống MMR do mạch ADN mới chưa được methyl hóa. Rất  hiếm trường hợp các bazơ bắt cặp sai tránh được sự  phát hiện của MMR trong   quá trình sao chép ADN [3]. Hệ   thống   MMR   nhận   ra  các   bazơ   bắt   cặp   sai   trong   quá  trình sao chép đồng thời cắt bỏ  các   bazơ   sai   hỏng   này   và   tiến  hành tổng hợp thay thế chúng. Ở  E. coli, giai đoạn đầu của MMR  liên quan đến 3 gen là mutS, mutL  và  mutH  mã   hóa   cho   3   protein  tương   ứng   là   mutS,  mutL   và  mutH.   Đầu   tiên   mutS   ở   dạng  dimer  sẽ   nhận   biết   và   liên   kết  vào bazơ  bắt cặp sai. Sau đó hệ  thống sửa chữa nhận ra bazơ nào  đúng, bazơ nào sai tương ứng với  mạch   nào   làm   khuôn   và   mạch  nào được tổng hợp mới để  tiến  hành sửa chữa những sai hỏng đó [3]. Học viên Khóa 2010 – 2012                              15                                Nguyễn Thị   Mai 
  16.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân Ở  E.  coli, hai mạch này được phân biệt bởi sự  methyl hóa  nucleotide  A  (gắn gốc CH3)  ở  trình tự  [GAmTC] (Hình 2). Trong quá trình sao chép, cả  hai  nucleotide   A  trên   cả   hai  mạch  của   phân  tử   ADN   khuôn  đều  được   sao  chép.   Nhưng khi sự sao chép vừa kết thúc thì chỉ có nucleotide A trên mạch khuôn được  methyl hóa còn nucleotide A trên mạch được tổng hợp mới chưa được methyl hóa  [4].  Lúc này mutS đã liên kết với bazơ  bắt cặp sai sẽ  tạo phức với mutL và   mutH ở dạng dimer để mang trình tự [GAmTC] chưa được methyl hóa ở vị trí bắt   cặp sai. MutH sẽ  làm đứt mạch ADN tại vị  trí trình tự  [GAmTC] chưa được  methyl hóa. Một enzym exonuclease sẽ cắt ADN không được methyl hóa đến hết   vị trí nucleotide bắt cặp sai. Sau đó enzym polymerase III và ligase sẽ tổng hợp bù  đoạn ADN mới và gắn đoạn ADN mới vừa tổng hợp vào khoảng trống bị  loại   bỏ do sai hỏng [3]. Ngoài   quá   trình   methyl   hóa   xảy   ra   đối   với   nucleotide   A   ở   trình   tự  [GAmTC],   quá   trình   methyl   hóa   còn   xảy   ra   đối   với   nucleotide   C   ở   trình   tự  CCm(A/T)GG.   Quá   trình   methyl   hóa   được   thực   hiện   nhờ   enzym  ADN­methyl  transferase. Cơ chế MMR cũng được tìm thấy ở Eukaryot. Dạng tương đồng với mutS  vi khuẩn của Eukaryot được gọi là dạng tương đồng mutS hay MSH được tìm   thấy ở nấm men (γMSH) và ở các tế bào người (hMSH) [15]. Sự kết hợp một số  dạng protein MSH tạo ra các phức hợp có chức năng giống với protein mutS ở vi  khuẩn. Ngoài ra, cơ  chế  MMR  ở  Eukaryot cũng hoạt động tương tự  như     ở  vi   khuẩn  E.  coli. Tuy nhiên các cơ  chế  nhận biết mạch khuôn và mạch mới tổng  hợp chưa được làm sáng tỏ  hoàn toàn.  Ở  người các gen có liên quan đến hoạt   động MMR gồm có các gen  MLH1,  MLH3,  MSH2,  MSH3,  MSH6,  PMS1,  PMS2  [9]. Trong đó phức hợp chứa gen MSH2 có chức năng tương đương với mutS ở E.  Học viên Khóa 2010 – 2012                              16                                Nguyễn Thị   Mai 
  17.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân coli, phức hợp chứa gen  MLH1  có chức năng tương đương với  mutL  ở  E.  coli.  Các đột biến xảy ra trong các gen này làm tăng cao nguy cơ  mắc các bệnh di  truyền trong đó có ung thư  đại trực tràng di truyền [12]. MMR là một quá trình  sinh học có tính bảo thủ  về  mặt tiến hóa. Các tế  bào người chứa ít nhất năm   trình tự tương đồng mutS và bốn trình tự tương đồng mutL. Bốn trong số các gen  này đóng vai trò quan trọng trong hệ thống MMR và gây ung thư đại trực tràng di   truyền khi chúng bị  đột biến. Toàn bộ  cơ  chế  MMR  ở  người được mô tả  trong  Hình 3. Trong khi các giai đoạn đầu tiên của cơ  chế  MMR  ở  vi khuẩn liên quan  đến hoạt tính của mutS và mutL  ở  dạng homodimer thì hai protein này  ở  người   lại hình thành các heterodimer theo nhiều tổ  hợp khác nhau [33].  Ở  dạng tương  đồng mutS, MSH2 đóng vai trò cơ bản trong quá trình nhận biết và bám vào các  bazơ bắt cặp sai. Phức hợp MSH3 và MSH6 lại đóng vai trò sửa đổi tính đặc hiệu   Học viên Khóa 2010 – 2012                              17                                Nguyễn Thị   Mai 
  18.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân của sự  nhận biết [23]. Riêng phức hợp heterodimer giữa MLH1 với PMS2 tham  gia vào quá trình nhận biết sự  bắt cặp sai và tiến hành các bước tiếp theo của   MMR. Quá trình này bao gồm việc cắt vùng ADN bị  sai hỏng, tổng hợp vùng  ADN mới tương ứng với vùng bị sai hỏng bị cắt bỏ và nối trở lại.  Trong cơ chế MMR ở người, heterodimer  MSH2 – MSH6 được gọi là phức  hợp mutSα  nhận đơn bazơ  bắt cặp sai chiếm từ 80% đến 90% các bắt cặp sai  trong tế bào [14]. Trong đó, MSH6 là tiểu đơn vị  nhận biết những sai hỏng đơn  bazơ. Heterodimer  MSH2  –  MSH3  được gọi là phức hợp mutSβ, có nhiệm vụ  nhận biết sai hỏng từ  2 đến 8 nucleotide, hay những đột biến mất hoặc thêm  bazơ  tạo ra các cấu trúc khác biệt như  vòng thắt diel do sự  lặp lại các bazơ  sai  hỏng. Đặc biệt, luôn có sự tương tác lẫn nhau trong ái lực nhận biết của mutSα  và mutSβ [15], [21]. Ngoài   ra,   ở   người   có   ba   dạng   tương   đồng   mutL   chính   là   heterodimer  MLH1  –  PMS2  (mutLα),   heterodimer  MLH1  –  PMS1  (mutLβ)   và   heterodimer  MLH1 – MLH3 (mutLγ) [13]. Sau khi dạng tương đồng mutS nhận biết các sai  hỏng, quá trình sửa chữa tiếp theo được thực hiện bởi dạng tương đồng mutL.  Đối với các sai hỏng dạng bắt cặp sai đơn nucleotide, dạng tương đồng mutLα  sẽ di chuyển tới vị trí cần sửa chữa và thực hiện chức năng xác định mạch ADN  nào là mạch chứa bazơ sai hỏng, mạch nào là mạch mang mã gốc. Sau đó phức  hợp này truyền thông tin tới các enzym sửa chữa  ở phía sau bao gồm các enzym  có vai trò cắt bỏ một vùng ADN, tái tổng hợp phần bị tổn thương và nối nó với   mạch được sửa chữa. Còn đối với các sai hỏng hình thành cấu trúc đặc biệt như  vòng thắt diel sẽ được dạng tương đồng mutLβ tham gia vào quá trình nhận biết  và sửa chữa. Riêng đối với dạng tương đồng mutLγ, vai trò sửa lỗi sai hỏng  trong sao chép ADN ở người vẫn chưa được làm sáng tỏ [15], [21]. Học viên Khóa 2010 – 2012                              18                                Nguyễn Thị   Mai 
  19.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân 1.3. HỆ THỐNG GEN MMR VÀ ĐỘT BIẾN GEN MSH2 VỚI HỘI CHỨNG  UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG 1.3.1. Hệ thống gen MMR Tất cả các hệ thống sửa chữa ADN (bao gồm cả hệ thống MMR) để hoạt  động có hiệu quả  cần có sự  phối hợp hoạt tính của nhiều protein tạo nên phức   hợp protein – protein và ADN – protein. Những đột biến gây bất hoạt  ở  các tế  bào mầm của một trong các gen MLH1, MSH2, MSH6, PMS2 dẫn đến sự thay đổi  hoạt tính của protein do chính các gen trên tạo ra. Cũng chính sự  thay đổi hoạt   tính của các protein này là nguyên nhân chủ  yếu dẫn đến tình trạng toàn bộ  hệ  thống MMR của cơ thể bị bất hoạt. Khi hệ thống MMR bị bất hoạt, các lỗi sai   hỏng trong quá trình tái bản ADN không được sửa chữa và tích tụ  ngày càng  nhiều qua các lần phân bào của cơ thể. Đây chính là nguyên nhân sâu xa của hầu   hết các bệnh ung thư trong đó có ung thư đại trực tràng. Người ta đã thống kê được một số gen chính trong hệ thống MMR có liên  quan đến ung thư đại trực tràng được biết đến thông qua Bảng 3. Bảng 3: Các gen MMR liên quan đến ung thư đại trực tràng Gen Vị trí trên  Số exon Số axit  Số đột biến đã được NST amin phát hiện MLH1 3p21 19 756 >250 MSH2 2p16 16 934 >170 MSH6 2p15 10 1360 >30 PMS2 7p22 15 862 Rất ít Trong đó, gen MLH1 nằm trên vai ngắn của NST số 3 (3p21) với 19 exon  có kích thước khoảng 57,36 kb [37]. Hiện nay đã phát hiện được trên 250 đột  Học viên Khóa 2010 – 2012                              19                                Nguyễn Thị   Mai 
  20.  Luận văn Cao học                                      ười hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng     Ng Vân biến tại gen này. Các đột biến trên MLH1 chiếm 50% các trường hợp đột biến ở  HNPCC và gây ra hội chứng HNPCC điển hình. Phân tích di truyền các gen MMR  ở người cho thấy rằng trên 90% bệnh nhân mắc HNPCC là do đột biến gen ở hai  gen MLH1 và MSH2. Riêng MLH1 có tần số  đạt đến 1/400 và MSH2 là 1/500 ở  nhiều quần thể [25]. Gen MSH2 nằm  ở  vai ngắn của NST số 2 (2p21) với 16 exon kích thước  khoảng 80,10 kb [37]. Hiện nay đã phát hiện được trên 170 đột biến  ở  gen này.   Các đột biến trên MSH2 chiếm khoảng trên 40% các trường hợp đột biến trong   hệ  thống MMR và gây ra hội chứng ung thư  đại trực tràng dạng HNPCC điển   hình. Các đột biến MSH2 liên kết mạnh với các dạng ung thư ngoài ruột kết hơn  so với các đột biến ở MLH1[35]. Gen MSH6 nằm trên vai ngắn của NST số 2 (2p15) kích thước khoảng 9,4   kb với 10 exon [37]. Đột biến trong MSH6 có khoảng 7% đến 10% các gia đình  có HNPCC. Đột biến dòng mầm của gen  MSH6 gây nên một dạng HNPCC không  điển hình, đặc trưng bởi độ  tuổi được chẩn đoán ung thư  và khả  năng mắc ung  thư nội mạc tử cung cao hơn đột biến ở gen MLH1 và MSH2 [13]. Gen PMS2 nằm trên vai ngắn của NST số 7 (7p22) kích thước khoảng 16   kb với 15 exon [37]. Đột biến ở gen này chiếm khoảng 3% các trường hợp mắc  HNPCC, hơn nữa còn liên quan đến sự  hình thành hội chứng Turcot ­ một hội   chứng mà các bệnh nhân có nguy cơ cao mắc ung thư não và ung thư  trực tràng   khi còn khá trẻ [4]. Tất cả các gen trên đều thuộc nhóm gen có khả năng gây đột biến khi xảy  ra sai hỏng. Đột biến ở những gen này đều có xu hướng dẫn đến sự tích lũy các  sai sót trong sao chép ADN và làm tăng tần số đột biến trong các tế bào (đặc biệt   là trong các tế  bào sôma) một cách nhanh chóng.  Ở  nấm men, đột biến về  các  gen thuộc nhóm MSH có thể được làm tăng từ 100 đến 700 lần so với tốc độ đột  Học viên Khóa 2010 – 2012                              20                                Nguyễn Thị   Mai 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2