BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----oOo-----
NGUYỄN THỊ HUYỀN
KIỂM TOÁN HẢI QUAN
(KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN)
TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2010
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----oOo-----
NGUYỄN THỊ HUYỀN
KIỂM TOÁN HẢI QUAN
(KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN)
TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Kế toán - Kiểm toán
Mã số: 60.34.30
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. MAI THỊ HOÀNG MINH
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2010
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những thông
tin và nội dung trong đề tài này dựa trên nghiên cứu thực tế và hoàn toàn đúng
với nguồn trích dẫn.
Tác giả đề tài: Nguyễn Thị Huyền
3
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự truyền thụ kiến thức của tất cả Quý thầy cô Khoa
sau đại học Trường Đại học kinh tế -TP Hồ Chí Minh trong thời gian học tập tại
trường.
Đồng thời, tôi luôn cám ơn sâu sắc Phó Giáo sư.Tiến sĩ. Mai Thị Hoàng Minh
đã hướng dẫn tận tâm tôi trong suốt quá trình hoàn thành đề tài nghiên cứu.
Tôi xin cám ơn các đồng nghiệp, các cán bô công chức kiểm toán sau thông
quan của Tổng cục Hải quan đã giúp đỡ và tư vấn cho tôi trong suốt thời gian nghiên
Học viên : Nguyễn Thị Huyền
4
cứu của mình.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN Association of Southeast Asia Nations- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam
Á
APEC Asia pacific Economic Cooperation - Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á Thái
Bình Dương
AFTA Asean Free trade Area –Khu vực mậu dịch tự do Asean
AKFTA Asia – Korea Free trade Area - Hiệp định về thương mại hàng hoá Asean –
Hàn Quốc
AEO Authorized Economic Operators
BTC Bộ Tài Chính
CEPT Common Effective Preferentical On Tariffs - Chương trình cắt giảm thuế
quan có hiệu lực chung
C/O Certificate of Origin - Chứng nhận xuất xứ hàng hoá
GATT General Agreement on Tariff and Trade- Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại.
GTGT Giá trị gia tăng
KTSTQ Kiểm toán sau thông quan
L/C Letter of credit - thư tín dụng
CIF Cost Insurance Freight - giá trong Inconterms ( giá, phí bảo hiểm, phí vận chuyển)
CNF Cost and Freight - giá trong Inconterms (giá, phí vận chuyển)
I Insurance – phí bảo hiểm
F Freight – phí vận chuyển
5
FOB Free on board – giá trong Inconterms ( Giá giao qua mạn tàu)
PCA Post Clearance Audit - Kiểm toán Hải quan
FDI Foreign Direct Investment - Đầu tư trực tiếp nước ngoài
XNK Xuất nhập khẩu
TCHQ Tổng Cục Hải quan.
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
VNĐ Việt Nam đồng.
UBNN Ủy ban nhân dân
VPHC Vi phạm hành chính.
WCO World Customs Organization-Tổ chức Hải quan Thế giới.
WTO World Trade Organization-Tổ chức Thương mại Thế giới.
6
JICA Japan International Cooperation Agency - Tổ chức Hợp tác Quốc tế Nhật Bản
MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt
Lời mở đầu : …………………………………………………………………..………1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN HẢI QUAN (KIỂM TRA SAU
THÔNG QUAN) .……………………………………………………...……………..4
1.1 Vài nét về lịch sử hình thành nghiệp vụ kiểm toán hải quan ……………………....4
1.2 Khái niệm kiểm toán hải quan ...………...………………………………….…......5
1.3 Đối tượng của kiểm toá sau thông quan ………...………..…….…………….…..7
1.4- Phạm vi kiểm toán hải quan ………...……………..………………….…………..8
1.5. Mục đích chính của kiểm toán hải quan ………...……...…………………………9
1.6. Vai trò của kiểm toán hải quan …………………….....………………..………...10
1.7. Quản lý nhà nước về kiểm toán hảiquan………………..…………………….....10
1.8. Kinh nghiệm KTSTQ của hải quan một số nước trên thế giới………….………..18
1.9 . Những kinh nghiệm rút ra cho hoạt động ……………………………………….22
Kết luận chương 1………………………………………………………………..……23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA KIỂM TOÁN HẢI QUAN VIỆT NAM
TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
2.1. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam…………...……………….…..24
2.1.1. Thực trạng hoạt động XNK của Việt Nam trong thời gian từ 2005-2009……..25
2.1.1.1 Kết quả hoạt động XNK từ 2005-2009……………………………………......26
2.1.1.2 Gian lận thương mại trong hoạt động xuất nhập khẩu…………..……….…....28
2.1.2. Quản lý nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu……………………………..…30
2.1.2.1. Một số nội dung cơ bản quản lý XNK giai đoạn 2005 đến 2010…...……..…31
2.1.2.2. Tổng quát thực trạng quản lý Nhà nước đối với hoạt động XNK ...……..…..32
2.1.3. Thực trạng kiểm toán hải quan ……………………..……….……………..…..34
2.1.3.1. Về con người ………………………………………...……………………....34
2.1.3.2. Về đào tạo………………………………………………………………….…36
2.1.3.3- Kết quả đạt được hoạt động kiểm toán sau thông quan …………………..
7
….38
2.1.3.4. Công tác phối hợp thực hiện…………………………………………..……...52
2.1.3.5. Thực trạng về hệ thống thông tin ……………..………………………….…..53
2.2 Những hạn chế của KTSTQ ……….……………………………………....54
2.2.1. Hạn chế về con người …………………………...………...………………....54
2.2.2. Hạn chế về pháp lý ……………………...……...……………………………55
2.2.3 Hạn chế về qui trình hoạt động ……………………………………………….56
2.2.4. Hạn chế về đào tạo ……………………………………………………………..57
2.2.5. Hạn chế về hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu ……………………………….58
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế ……………………………………………..….59
2.4. Đánh giá về kiểm toán sau thông quan …………………………………………..60
Kết luận chương 2 ………………………………………………………………….…64
CHƯƠNG 3 : NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA KIỂM
TOÁN HẢI QUAN TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
3.1. Mục tiêu xây dựng giải pháp……………….……..…………………………..….65
3.3. Các giải pháp ………………………………..….……………………………..….66
3.2. Căn cứ xây dựng giải pháp………………….…..……………………………..…65
Kết luận chương 3……………………………………………………………………..76
Kết luận …………………………………………………………………………..…...77
Danh mục tài liệu tham khảo
8
Phụ lục
LỜI MỞ ĐẦU
1 - Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hình thành nên các mối
quan hệ kinh tế Quốc tế. Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực
như: ASEAN, Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại Việt
- Mỹ, Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việc gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới
và khu vực làm giao lưu thương mại quốc tế không ngừng phát triển, đặc biệt là giao
lưu hàng hóa do tính lợi thế so sánh giữa các quốc gia, theo đó lưu lượng hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu qua các cửa khẩu Hải quan ngày càng gia tăng. Với tổng kim
ngạch xuất, nhập khẩu tăng lên qua các năm, từ năm 2005 đến năm 2009 trung bình
tăng 18,4 %, nhất là năm khi Việt Nam gia nhập WTO (năm 2007, kim ngạch XNK
tăng 25 %, số lượng doanh nghiệp XNK tăng 16,3% so với cùng kỳ năm 2006). Số
lượng tờ khai xuất khẩu, nhập khẩu khẩu tăng lên qua các năm ( năm 2005: 1.762.000
tờ, năm 2009: 3.289.000 tờ, tăng 87% so với 2005). Chính sách mở cửa nền kinh tế hội
nhập kéo theo sự gia tăng không ngừng về số lượng và tính chất phức tạp, đa dạng của
hàng hóa xuất nhập khẩu, Hải quan không thể và cũng không cần thiết phải kiểm tra
toàn bộ hàng hóa xuất nhập khẩu ngay tại cửa khẩu mà phải có biện pháp khác để
thông quan hàng hóa của Doanh nghiệp nhanh chóng đáp ứng được yêu cầu của
thương mại quốc tế và bảo đảm hoạt động kinh doanh cho các Doanh nghiệp, nhưng
vẫn phải đảm bảo được yêu cầu chức năng quản lý kinh tế chặt chẽ của Hải quan,
chống gian lận thương mại một cách hữu hiệu, thu thuế đúng và đủ đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu.
Đối với các Doanh nghiệp việc yêu cầu thông quan hàng hóa nhanh chóng
thuận tiện, tiết kiệm chi phí để đảm bảo việc hoạt động kinh doanh là thực sự cần thiết,
nhưng bên cạnh đó vấn đề chấp hành luật pháp về hải quan và nghĩa vụ nộp thuế còn
chưa tự giác. Khi thực hiện chính sách giảm bớt việc kiểm tra hàng hóa tại cửa khẩu,
9
hiện tượng gian lận thương mại qua việc xác định giá tính thuế, áp mã hàng hóa, khai
báo định mức hàng gia công, hàng sản xuất - xuất khẩu… của Doanh nghiệp còn khá
phổ biến, dẫn đến ảnh hưởng không ít đến việc thất thu thuế của Nhà nước. Để thực
hiện được nhiệm vụ thực thi trên và chống thất thu thuế do gian lận của Doanh nghiệp
ngành Hải quan đã thực hiện chính sách từ “tiền kiểm” sang “ hậu kiểm ” nghiệp vụ
đó chính là kiểm tra sau thông quan ( Kiểm toán hải quan ), cho phép Hải quan kiểm
tra chính thức ở giai đoạn sau khi thông quan hàng hóa, đảm bảo tính tuân thủ luật
pháp và chống gian lận thuế của cộng đồng doanh nghiệp.
Để thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng quản lý kinh tế nhà nước, ngành Hải
quan không ngừng cải cách hiện đại hóa thủ tục hải quan, trong đó phát huy vai trò
“hậu kiểm” kiểm toán sau thông quan tạo mạng lưới an toàn cho khâu thông quan
nhanh chóng với phương thức quản lý rủi ro để nâng cao hiệu quả hoạt động của
ngành trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
TRA SAU THÔNG QUAN) TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ”
Từ các lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “KIỂM TOÁN HẢI QUAN (KIỂM
làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ kinh tế.
2- Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao vai
trò công tác kiểm toán sau thông quan của ngành Hải quan trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế, để tạo thuận lợi cho thương mại phát triển, tạo môi trường bình đẳng
và công bằng trong cộng đồng doanh nghiệp góp phần bảo vệ nguồn thu ngân sách góp
phần thực hiện hội nhập khu vực và Quốc tế.
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ đi sâu nghiên cứu một số vấn
đề lý luận cơ bản về kiểm toán sau thông quan, qua đó làm rõ vai trò quan trọng của
pháp luật về kiểm toán sau thông quan. Phần cơ bản của luận văn tập trung vào việc
nghiên cứu đánh giá thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu trong thời kỳ hội nhập và
thực trạng công tác kiểm toán Hải quan từ khi Quốc hội ban hành Luật Hải quan, Luật
Hải quan sửa đổi năm 2005, đặc biệt khi Việt Nam là thành viên chính thức của tổ
chức Thương mại Thế giới WTO đến nay, luận văn phân tích làm rõ những hạn chế,
tồn tại của kiểm toán sau thông quan, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp hoàn thiện hoạt
10
động kiểm toán hải quan phù hợp với tình hình hội nhập kinh tế của đất nước.
3- Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất
nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian từ 2005- 2009 trước và sau khi Việt Nam
chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO (năm 2007) và những
hoạt động kiểm toán sau thông quan trong khoảng thời gian trên, luận văn nghiên cứu
thực tiễn việc áp dụng các quy định của pháp luật về lĩnh vực kiểm toán hải quan của
ngành Hải quan.
Đối tượng nghiên cứu: Phân tích các vấn đề hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt
động kiểm toán Hải quan trong ngành Hải quan.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử, trong đó vận dụng các quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử khi xem
xét, đánh giá từng vấn đề cụ thể. Phân tích trạng thái phát triển của hoạt động kiểm
toán sau thông quan trong ngành Hải quan, có xem xét kinh nghiệm của một số nước
có hoạt động kiểm toán sau thông quan phát triển hoàn thiện.
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, qui nạp …. để
giải quyết những vấn đề được đặt ra trong đề tài.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục luận
văn gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kiểm toán hải quan ( kiểm tra sau thông quan)
Chương 2: Thực trạng của kiểm toán hải quan Việt Nam trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Chương 3: Những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của kiểm toán hải
11
quan trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN HẢI QUAN (KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN )
1.1 Vài nét về lịch sử hình thành nghiệp vụ kiểm toán hải quan
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, Hội đồng hợp tác Hải quan nay là Tổ chức
Hải quan thế giới (World Customs Organization- WCO) đã bắt đầu nghiên cứu các
biện pháp quản lý hải quan tiên tiến, trong đó có biện pháp tiến hành kiểm tra sau khi
hàng hóa đã được thông quan. Cơ sở kiểm tra là các chứng từ hải quan, sổ sách kế toán
và các giấy tờ khác còn lưu lại tại cơ quan Hải quan, tại doanh nghiệp và các bên liên
quan khác về hàng hóa đã thông quan hay còn gọi bằng một thuật ngữ chuyên môn là
“kiểm tra trên cơ sở kiểm toán”.
Trên thực tế, Hải quan một số nước từ lâu đã áp dụng các biện pháp quản lý này
khi tiến hành các cải cách về thủ tục hải quan, hiện đại hóa các quy trình thủ tục hải
quan. Việc áp dụng biện pháp kiểm toán sau thông quan giúp cơ quan Hải quan tập
trung vào việc chỉ kiểm tra những đối tượng trọng điểm có hoạt động xuất nhập khẩu
không minh bạch.
Công ước Kyoto ngày 18/05/1973 về đơn giản hóa và hài hòa thủ tục hải quan
được xem là công ước sơ khai đầu tiên có những quy định về kiểm toán sau thông
quan. Tuy nhiên mãi đến tháng 9 năm 1999, khi sửa đổi, bổ sung công ước Kyoto thì
nghiệp vụ kiểm toán hải quan mới được tổ chức hải quan Thế giới chính thức đưa vào
chương trình hoạt động nhằm nhanh chóng hoàn thiện và tiến tới áp dụng rộng rãi hệ
thống kiểm tra hàng hóa sau khi thông quan nhằm tạo thuận lợi nhất cho hoạt động
thương mại quốc tế.
- Những tiền đề của công tác kiểm toán hải quan ở Việt Nam
Vào cuối những năm 1990, kiểm tra sau thông quan ở Việt Nam đang là một
vấn đề mới mẻ. Bởi vì từ trước đến nay chúng ta vẫn đang thực hiện chủ yếu là
phương pháp quản lý hải quan truyền thống (lấy việc kiểm tra thực tế hàng hóa làm
căn cứ chính để quản lý). Việc làm này đã hạn chế quá trình thông quan hàng hóa của
12
doanh nghiệp, gây ùn tắc và là nguồn gốc phát sinh tiêu cực, phiền hà. Kể từ năm
1999, ngành Hải quan đã từng bước cải cách thủ tục hải quan, đã áp dụng biện pháp
tiên tiến về quản lý hải quan là “nguyên tắc quản lý rủi ro ” khi tiến hành kiểm tra
hàng hóa xuất nhập khẩu.
Phương pháp quản lý rủi ro được thực hiện trong hoạt động quản lý hải quan là
thay vì phải kiểm tra 100% toàn bộ lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu thì cơ quan hải quan
áp dụng kiểm tra hàng hóa theo phân loại hàng hóa ra thành nhiều luồng khác nhau
theo từng tính chất, chủng loại, mức độ rủi ro cao hay thấp về gian lận thương mại,
trốn thuế. Cụ thể là phân theo: “Luồng xanh” kiểm tra đại diện 5% lô hàng (hiện nay là
miễn kiểm tra); “Luồng vàng” kiểm tra từ 20-30% lô hàng (hiện nay kiểm đến 10% lô
hàng); “Luồng đỏ” kiểm tra 100% lô hàng (hiện nay kiểm tra đến toàn bộ).
Khi ngành hải quan áp dụng biện pháp này đã giảm đáng kể việc kiểm tra thực
tế hàng hóa XNK trong quá trình thông quan hay nói một cách khác là giảm biện pháp
tiền kiểm, thì đồng thời tăng cường các biện pháp kiểm tra sau khi hàng hóa đã được
thông quan, nghĩa là tăng cường biện pháp “hậu kiểm”. Đó là nguyên nhân hình thành
nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan của Hải quan Việt Nam. Kiểm tra sau thông quan
được chính thức hoạt động kể từ khi Luật Hải quan có hiệu lực thi hành ngày
01/01/2002
1.2. Khái niệm về kiểm tra sau thông quan ( Kiểm toán hải quan)
Tổ chức Hải quan thế giới ( Word Customs Organization – WCO ) và Hải quan
các nước gọi là Kiểm toán sau thông quan ( Post Clearance Audit – PCA) hoặc Kiểm
toán hải quan (Customs Audit). Việt Nam hiện nay gọi là kiểm tra sau thông quan. Do
vậy các cụm từ “Kiểm tra sau thông quan”, “Kiểm toán sau thông quan”, “Kiểm
toán hải quan”, đều có ý nghĩa như nhau.
- Theo tổ chức Hải quan thế giới (WCO): “KTSTQ là quy trình công tác cho phép
viên chức hải quan kiểm tra tính chính xác của hoạt động khai hải quan bằng việc kiểm
tra các hồ sơ, tài liệu ghi chép về kế toán và thương mại liên quan đến hoạt động buôn
bán, trao đổi hàng hóa và tất cả các số liệu thông tin, bằng chứng khác cho cơ quan hải
quan mà hiện tại đang được các đối tượng kiểm tra (cá nhân hoặc doanh nghiệp) trực
13
tiếp hay gián tiếp tham gia vào hoạt động buôn bán quốc tế nắm giữ”
Theo Công ước Kyoto về đơn giản hóa và hài hòa thủ tục hải quan của Tổ chức
Hải quan thế giới: Kiểm tra trên cơ sở kiểm toán là các biện pháp được cơ quan hải
quan tiến hành nhằm thỏa mãn mục đích của họ trong việc xác định tính xác thực và
chân thật của các tờ khai hàng hóa thông qua kiểm tra các chứng từ, biên bản, hệ
thống kinh tế và dữ liệu thương mại của các bên liên quan.
Trong tài liệu do APEC biên soạn cho các nước đang triển khai thực hiện Hiệp
định trị giá GATT thì định nghĩa “ Kiểm toán sau thông quan là một quá trình nhằm
tạo điều kiện cho các nhân viên Hải quan kiểm tra độ chính xác trong khai báo hải
quan, thông qua việc kiểm tra các số sách, hồ sơ lưu trữ, hệ thống kinh doanh và tất
cả các dữ liệu thương mại về hải quan liên quan do các cá nhân, công ty trực tiếp
hoặc gián tiếp tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế nắm giữ.”
Tại Việt Nam: điều 32 Luật Hải quan sửa đổi bổ sung năm 2005 thì KTSTQ là
hoạt động kiểm tra của cơ quan hải quan nhằm thẩm định tính chính xác, trung thực
nội dung các chứng từ mà chủ hàng, người được chủ hàng ủy quyền, hoặc tổ chức, cá
nhân trực tiếp xuất khẩu, nhập khẩu đã khai, nộp, xuất trình với cơ quan hải quan đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan. KTSTQ đồng thời cũng là
thẩm định tuân thủ pháp luật trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu.
Như vậy kiểm tra sau thông quan được hiểu là việc tiến hành công tác kiểm
toán sau khi tiếp nhận khai báo và kết thúc thủ tục giải phóng lô hàng xuất khẩu, nhập
khẩu khỏi khu vực quản lý của hải quan.
Trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày đăng ký tờ khai hàng hóa xuất nhập khẩu đã
được thông quan, cơ quan quản lý nhà nước về hải quan có quyền ra quyết định
KTSTQ đối với những hàng hóa có dấu hiệu gian lận thuế, gian lận thương mại, vi
phạm quy định về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hoặc thẩm định sự tuân thủ pháp luật
đối với hàng hóa đã được thông quan nhằm đảm bảo tính công bằng, minh bạch, lành
mạnh trong cạnh tranh đối với sản xuất, lưu thông hàng hóa.
Để thực hiện các cuộc kiểm tra sau thông quan này công chức Hải quan phải
14
vận dụng các kiến thức chuyên ngành như: Thương mại quốc tế, Kế toán - kiểm toán,
Tin học, ngoại ngữa và các nghiệp vụ về hải quan… trên tư duy về kiểm toán để phát
hiện sai sót, gian lận trong hoạt động xuất nhập khẩu
1.3. Đối tượng của KTSTQ
KTSTQ tiến hành kiểm tra các cá nhân, doanh nghiệp có liên quan trực tiếp hay
gián tiếp đến kinh doanh XNK đang hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Không phân biệt thành phần kinh tế, nguồn vốn sở hữu cũng không phải chờ đợi sự
thỏa thuận hoặc văn bản yêu cầu của doanh nghiệp. Đặc điểm này làm cho kiểm toán
hải quan khác hẳn với các loại hình kiểm toán khác:
- Kiểm toán Nhà nước chỉ có quyền kiểm tra các đơn vị có liên quan đến quá
trình quản lý, sử dụng vốn của ngân sách nhà nước.
-Kiểm toán độc lập chỉ thực hiện kiểm toán theo các hợp đồng đã ký kết với đối
tượng kiểm toán
- Kiểm toán nội bộ do đơn vị tổ chức ra và chỉ được phép kiểm tra các hoạt
động của chính đơn vị đó.
Như vậy đối tượng KTSTQ gồm các chủ thể liên quan đến hoạt động kinh
doanh XNK và hệ thống sổ sách, chứng từ.
1.3.1 Các chủ thể
Để xác minh tính chính xác của việc khai hải quan, KTSTQ sẽ kiểm tra và thu
thập thông tin từ các cá nhân, đơn vị sau:
- Các chủ thể liên quan trực tiếp đến kinh doanh XNK gồm doanh nghiệp hoặc
cá nhân.
- Các chủ thể liên quan gián tiếp đến hoạt động XNK, bao gồm:
+ Các đại lý khai thuê hải quan.
+ Các doanh nghiệp nhập khẩu ủy thác.
+ Các doanh nghiệp kho vận ngoại thương.
+ Các hãng vận tải hàng hóa XNK.
+ Các hãng bảo hiểm hàng hóa XNK.
+ Các ngân hàng thương mại.
+ Cơ quan thuế nội địa.
15
+ Người mua hàng nhập khẩu trên thị trường nội địa.
+ Các cơ quan, tổ chức giám định hàng hóa,….
Trong số những đối tượng KTSTQ nêu trên, đối tượng chính của KTSTQ là các
chủ thể liên quan trực tiếp đến kinh doanh XNK đó chính là những nhà xuất nhập
khẩu. Khi quá trình kiểm tra để xác minh về người nhập khẩu gặp khó khăn, chẳng hạn
như thiếu các chứng từ, KTSTQ sẽ được tiến hành với các đối tượng KTSTQ khác
nhằm hoàn tất việc xác minh việc khai báo hàng hóa nhập khẩu. Trên thực tế, các đối
tượng có liên quan gián tiếp đến thương mại quốc tế thường lưu giữ những chứng từ
rất có giá trị cho KTSTQ. Ví dụ như: một bức điện chuyển tiền liên ngân hàng, một
chứng từ bảo hiểm, một chứng thư giám định, một phiếu thu tiền vận chuyển, một
chứng từ mua hàng nhập khẩu trên thị trường nội địa….là có thể có căn cứ xác định và
kết luận một cuộc KTSTQ.
1.3.2 Sổ sách và chứng từ
Những sổ sách chứng từ sẽ được kiểm tra trong quá trình KTSTQ bao gồm:
- Những giấy tờ liên quan đến thủ tục hải quan như: tờ khai hải quan, hóa đơn
thương mại, phiếu đóng gói, giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa, vận tải đơn, hợp đồng
bảo hiểm,…
- Các chứng từ thương mại như: hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng hỗ trợ
kỹ thuật, hợp đồng chi hoa hồng, phiếu đặt hàng,
- Các chứng từ ngân hàng : L/C, lệnh chuyển tiền, chứng từ thanh toán …
- Sổ sách và chứng từ kế toán như: chứng từ kế toán sổ kế toán liên quan đến lô
hàng xuất nhập khẩu, bản kê của ngân hàng, giấy chứng nhận nợ/có,…
Để thực hiện KTSTQ, cơ quan hải quan phải yêu cầu đối tượng kiểm tra có nghĩa vụ
lưu giữ sổ sách và chứng từ liên quan đến lô hàng hóa xuất nhập khẩu trong thời gian 5
năm kể từ ngày đối tượng kiểm tra đăng ký tờ khai hải quan theo quy định của Luật
Hải quan. Đây là các hồ sơ chính sẽ được tiến hành KTSTQ
1.4. Phạm vi kiểm toán hải quan
Việc kiểm toán sau thông quan được thực hiện sau khi hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu đã được thông quan trong các trường hợp
- Có dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan hoặc có khả năng vi phạm pháp luật
16
hải quan
- Kiểm tra theo kế hoạch để đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật hải quan của
người khai hải quan đối những trường hợp chưa có dấu hiệu vi phạm pháp luật
Việc kiểm tra các chứng từ, sổ sách, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã dược qui
định trong Điều 65 chương VI Nghị định số 154/2005/NĐ-CP của chính phủ ban hành
ngày 15 tháng 12 năm 2005 như sau:
* Kiểm tra tính hợp pháp, chính xác của các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan, sự
phù hợp của các chứng từ kèm theo tờ khai với các nội dung khai trong tờ khai và các
qui định của pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa.
* Kiểm tra chứng từ kế toán, sổ kế toán, báo cáo tài chính và các chứng từ khác
có liên quan đến hàng hóa
* Kiểm tra thực tế hàng hóa nhập khẩu của đơn vị được kiểm tra trong trường
hợp cần thiết và còn điều kiện.”
Như vậy kiểm tra sau thông quan chỉ xét đoán các chứng từ hải quan, thương
mại, kế toán, các ghi chép kế toán có liên quan đến lô hàng đã xuất hoặc nhập khẩu.
Đặc điểm này khẳng định chức năng riêng biệt chuyên ngành không thể thay thế của
kiểm toán và phân biệt nó với mọi loại hình kiểm tra, kiểm toán khác.
1.5. Mục đích chính của kiểm toán hải quan
Kiểm tra việc chấp hành Luật hải quan, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
cũng như các qui định khác về xuất nhập khẩu từ đó mà phát hiện, ngăn chặn tình
trạng gian lận trốn thuế hoặc vi phạm Luật hải quan, vi phạm chính sách mặt hàng xuất
nhập khẩu.
Quá trình thực hiện một cuộc kiểm toán hải quan nhân viên Hải quan phải kiểm
tra xét đoán xem doanh nghiệp có tuân thủ các văn bản pháp luật đã qui định hay
không, xét về góc độ này kiểm toán hải quan thuộc loại hình kiểm toán tuân thủ.
Nhưng mục đích chính của kiểm toán hải quan là phát hiện tình trạng gian lận như gian
lận quan giá, số lượng, chính sách loại hình, thuế suất … để trốn thuế vì vậy kiểm tra
xét đoán sổ sách và chứng từ kế toán, ngân hàng tức là phải vận dụng nhiều kiến thức
kiểm toán tài chính. Như vậy xét về bản chất thì kiểm toán hải quan thuộc loại hình
17
kiểm toán tuân thủ - tài chính.
Cũng cần hiểu thêm rằng hoạt động của Nhà nước, trước hết là Luật hải quan,
Luật thuế, Luật kế toán, Luật ngân hàng … các Luật này của các nước không giống
nhau. Vì vậy nội dung, phương pháp và phạm vi hoạt động kiểm toán hải quan của các
nước không giống nhau.
1.6. Vai trò của kiểm toán hải quan
KTSTQ là biện pháp nâng cao năng lực quản lý nhà nước về hải quan, thực hiện
chống gian lận thương mại có hiệu quả toàn diện bằng việc thực hiện đơn giản hóa, tự
động hóa thủ tục hải quan, nhằm thông quan hàng hóa nhanh, nhờ đó góp phần tích cực
vào việc thúc đẩy phát triển thương mại quốc tế, cải thiện môi trường đầu tư, góp phần tạo
môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong sản xuất và lưu thông.
KTSTQ chính là biện pháp góp phần đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh Luật hải
quan, tuân thủ các quy định và các hiệp định thương mại Quốc tế.
KTSTQ là biện pháp hữu hiệu ngăn chặn tình trạng thất thu thuế, duy trì nguồn
thu ngân sách, giảm chi phí quản lý về hải quan, giảm thiểu rủi ro cho các đối tượng
tham gia: Doanh nghiệp, công chức hải quan.
KTSTQ tạo điều kiện nâng cao hiệu lực trong các lĩnh vực như: quản lý hạn
ngạch, chống bán phá giá, trợ giá,… Với thời hạn hồi tố là 5 năm kể từ ngày đăng ký tờ
khai, việc thực hiện KTSTQ góp phần quyết định vào việc chấm dứt tình trạng “chỉ cần
qua khỏi cửa khẩu hải quan là bình an vô sự” vì không còn ai hỏi đến nữa.
Về mặt dài hạn, KTSTQ đạt được hiệu quả trong việc làm cho Doanh nghiệp
hiểu và tuân thủ các quy định và yêu cầu khác của pháp luật ở mức độ cao và tự giác.
Việc đánh giá mức độ tuân thủ không phải đối với tất cả các nhà nhập khẩu. Nó
được áp dụng cho các nhà nhập khẩu đã được xác định thông qua quá trình xử lý số
liệu như tính toán số lượng những tờ khai quan trọng, số thuế phải nộp… Bằng việc
xác định các nhà nhập khẩu trọng yếu đó và sử dụng quy trình đánh giá mức độ tuân
thủ, có thể đảm bảo cho cơ quan hải quan rằng những người tham gia chính đó sẽ tuân
thủ. Lợi ích khác của việc đánh giá mức độ tuân thủ cho cả Hải quan và Doanh nghiệp
là hàng hóa và tờ khai, sẽ không phải kiểm tra thực tế toàn bộ như trong quy trình làm
thủ tục hải quan truyền thống trước đây nữa.
18
1.7. Quản lý nhà nước về kiểm toán hải quan
Trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện
nhiều biện pháp cải cách và hiện đại hóa công tác quản lý hành chính trong khu vực
công, thể hiện đúng cam kết trong quá trình đàm phán và gia nhập tổ chức thương mại
thế giới –WTO năm 2007. Hải quan là khu vực quản lý nhà nước đã được Việt Nam
cam kết nhiều nhất khi gia nhập WTO với định hướng tạo thuận lợi cho thương mại và
đảm bảo tuân thủ pháp luật. Với hai mục tiêu “tạo thuận lợi cho thương mại” và “kiểm
soát” thì phương thức quản lý hải quan truyền thống sẽ không thực hiện được đồng
thời hai mục tiêu của ngành Hải quan, do vậy phương pháp truyền thống được thay thế
dần bằng phương thức quản lý rủi ro hiện đại, chuyển đổi từ “tiền kiểm” sang “hậu
kiểm”- kiểm toán sau thông quan
Việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan nói chung và kiểm toán hải
quan nói riêng được thể hiện trong việc xây dựng một khung pháp lý minh bạch và dự
đoán được là thực sự cần thiết trong tiến trình hội nhập nền kinh tế Quốc tế của Việt
Nam.
Một nền tảng quan trọng trong hệ thống cơ sở pháp lý của Nhà nước về kiểm
toán hải quan được dựa trên cở sở pháp lý quốc tế của WTO và WCO
1.7.1. Cơ sở pháp lý quốc tế của hoạt động kiểm toán hải quan
(1) Công ước Kyoto sửa đổi 1999
Tiền thân là công ước quốc tế quy định về đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục
Hải quan ra đời năm 1973 và có hiệu lực 1974, vào tháng 6 năm 1999- WCO đã quyết
định sửa đổi Công ước Kyoto năm 1973 thành Công ước Kyoto sửa đổi bao gồm: Nghị
định thư sửa đổi, nội dung Công ước, phụ lục tổng quát, phụ lục chuyên đề và hướng
dẫn thực hành. Công ước Kyoto sửa đổi đã được cộng đồng Hải quan quốc tế (kể cả
Việt Nam) xem như một công cụ được thiết kế nhằm chuẩn hóa và hài hòa hóa các
chính sách, thủ tục Hải quan của mọi thành viên WCO. Một trong những mục tiêu
quan trọng của Công ước là “hỗ trợ thương mại quốc tế”, nhưng vẫn duy trì kiểm soát
Hải quan đối với tất cả hàng hóa ra vào lãnh thổ Hải quan. Kiểm toán hải quan là một
trong những kỹ thuật kiểm soát Hải quan hiện đại được định nghĩa tại Chương 2-Phụ
lục tổng quát- “kiểm tra trên cơ sở kiểm toán là các biện pháp do cơ quan Hải quan
19
tiến hành để kiểm tra sự chuẩn xác và trung thực của các tờ khai thông qua việc kiểm
tra các sổ sách chứng từ, hệ thống kinh doanh hay các số liệu thương mại có liên quan
do các bên có liên quan đang quản lý” và quy định hoạt động cụ thể tại Mục 7-
Chương 6- Phụ lục tổng quát -Chuẩn mực 6.6 - với nội dung kiểm tra chọn lọc những
“người” có liên quan đến quá trình vận tải hàng hóa quốc tế, từ đó nó phác họa bức
tranh toàn cảnh về các giao dịch của doanh nghiệp có liên quan đến Hải quan thông
qua những ghi chép trong sổ sách kế toán của họ.
Bên cạnh đó, sự chuyển đổi từ phương thức kiểm tra 100% mọi hàng hóa ra vào
lãnh thổ Hải quan, sang phương thức kiểm tra chọn lọc với sự trợ giúp của hệ thống
quản lý rủi ro hiện đại, cho phép cơ quan Hải quan phân bổ nguồn lực một cách hợp
lý-tối ưu trong suốt quá trình kiểm soát Hải quan. Về phía doanh nghiệp, hệ thống
quản lý rủi ro sẽ góp phần làm giảm chi phí thông quan cho những doanh nghiệp tuân
thủ tốt luật pháp thông qua chế độ ưu tiên với sự can thiệp tối thiểu của Hải quan trong
quá trình Trước – Trong – Sau thông quan hàng hóa.
(2) Hiệp định trị giá GATT 1994
Theo yêu cầu phát triển của thương mại quốc tế và do kết quả trực tiếp của vòng đàm
phán Uruguay ( Uruguay Round 1986 -1994 ) có 123 nước tham gia, ngày 15 tháng 4
năm 1994 tại Marrakest (Maroc) các nước đã tham gia ký kết hiệp định trị giá GATT
1994, Điều 17 của Hiệp định này vẫn giữ nguyên văn như điều 17 của Hiệp định trị giá
GATT 1979. Ngoài ra mục 6 phụ lục III của Hiệp định trị giá GATT 1994 có tựa đề
“về quyền bảo lưu” cũng ghi nhận :
“ Điều 17 của Hiệp định thừa nhận rằng trong khi thực hiện Hiệp định, Hải quan có
quyền kiểm tra về tính trung thực và độ chính xác của mọi khai báo cáo, chứng từ hoặc
tờ khai hải quan mà chủ hàng đã xuất trình cho Hải quan để xác định trị giá hải quan.
Điều này được hiểu là công việc kiểm tra đó nhằm thẩm định xem các yếu tố trị giá đã
khai báo hoặc trình bày với hải quan có liên quan tới việc xác định tính đầy đủ hoàn
chỉnh và độ chính xác của trị giá hải quan. Còn tuỳ thuộc vào thủ tục và Luật pháp của
mỗi nước nhưng nói chung các nước thành viên có quyền đòi hỏi sự cộng tác toàn diện
của người nhập khẩu trong các cuộc kiểm tra này”
20
(3) Văn kiện của tổ chức Hải quan thế giới ( WCO)
Theo yêu cầu của các Bộ trưởng phụ trách về hải quan của các nước thành viên. Uỷ
ban về xác định trị giá hải quan thuộc tổ chức hải quan thế giới WCO đã phát hành
thành văn kiện sau:
“ khi tờ khai hải quan đã được xuất trình và khi Hải quan có lý do để nghi ngờ tính
trung thực hoặc độ chính xác của các thông tin chi tiết hoặc các chứng từ mà người
nhập khẩu đã xuất trình để chứng minh cho tờ kahi hải quan; hải quan có thể yêu cầu
người nhập khẩu giải thíchh thêm, kể cả việc cung cấp thêm các chứng từ hoặc các
bằng chứng khác, các chứng từ này nhằm chứng minh cho tổng số tiền thực tế đã
thanh toán hay sẽ phải thanh toán của trị giá đã khai báo và các khoản chi phí được
điều chỉnh phù hợp với các qui định của Điều 8. Nếu sau khi nhận được các thông tin
hay người nhập khẩu không trả lời hải quan vẫn có lý do chính đáng để nghi ngờ tính
trung thực hay độ chính xác của trị giá đã khai báo thì có thể vận dụng điều 11 và có
thể nghĩ rằng trị giá hải quan của hàng nhập đó không thể xác định được theo các qui
định của Điều 1. Trước khi đưa ra quyết định cuối cùng hải quan sẽ thông báo cho
người nhập khẩu bằng văn bản ( nếu cần )những số liệu cơ bản về việc nghi ngờ tính
trung thực và độ chính xác của các thông tin chi tiết hoặc các chứng từ đã xuất trình
và người nhập khẩu phải xác định thời gian hợp lý để trả lời. Khi quyết định cuối cùng
đã được công bố thì hải quan sẽ thông báo cho người nhập khẩu bằng văn bản nội
dung của quyết định cũng như các dẫn liệu cơ bản của quyết định đó”
Như vậy Công ước Kyoto sửa đổi 1999, Điều 17 Hiệp định trị giá GATT 1994 và các
văn kiện của hải quan thế giới WCO và các phụ lục đính kèm được coi là cơ sở pháp lý
quốc tế cho hoạt động kiểm toán sau thông quan. Điều đó cắt nghĩa tại sao kiểm toán
hải quan của các nước có thể thực hiện quyền kiểm tra kiểm soát của mình ở các Doanh
nghiệp có vố đầu tư nước ngoài mà không gặp khó khăn gì.
1.7.2. Cơ sở pháp lý của Việt Nam
Một trong những điều kiện bắt buộc của các quốc gia là thành viên WTO là
phải thực hiện hiệp định trị giá GATT. Trên thực tế không một quốc gia nào thực hiện
hiệp định trị giá GATT mà lại không duy trì và phát triển hệ thống kiểm toán sau thông
quan. Việt Nam đã là quan sát viên của tổ chức thương mại thế giới WTO từ năm 1993
21
và đã chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO vào 11/01/2007
vì vậy phải xây dựng một môi trường pháp lý để duy trì và phát triển nghiệp vụ kiểm
toán sau thông quan cho phù hợp với cam kết là một yêu cầu tất yếu. Những văn bản
dưới đây là nền móng tạo dựng môi trường pháp lý cho hoạt động kiểm toán hải quan
Việt Nam.
(1) Nghị định 16 CP
Ngày 20/03/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định 16/CP “Qui định việc xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan”. Điều 3 NĐ 16/CP
qui định như sau: “ Để đảm bảo việc xử phạt có chứng lý công minh, các cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân có trách nhiệm cung cấp các tài liệu
có liên quan đến hàng hóa, đồ vật xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất
cảnh, nhập cảnh vi phạm hành chính về hải quan khi cơ quan hải quan yêu cầu”
Mặc dù Nghị định 16/CP đến nay đã được thay thế nhưng có thể nói đây là văn
bản pháp lý đầu tiên của Việt Nam cho phép hải quan yêu cầu người khai hải quan
xuất trình các chứng từ tài liệu có liên quan đến hàng hóa XNK.
(2) Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 1998
Ngày 20/05/1998 tại kỳ họp Quốc Hội khóa 10 đã thông qua Luật số
04/1998/QH10- Luật sử đổi bổ sung một số điều của luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu.
Khoản 5 Mục 5 Điều 1 của Luật này qui định như sau: “ Nếu phát hiện và kết luận có
sự gian lận trốn thuế, cơ quan thuế có trách nhiệm truy thu tiền thuế, tiền phạt trong
thời gian 5 năm trở về trước, kể từ ngày kiểm tra phát hiện có sự gian lận trốn thuế,
trường hợp đối tượng nhầm lẫn trong kê khai, cơ quan thuế có trách nhiệm truy thu
hoặc hoàn trả tiền thuế đó trong thời hạn một năm trở về trước, kể từ ngày kiểm tra
phát hiện nhầm lẫn đó”
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999. Qui định trên đây cũng cho thấy
để phát hiện và kết luận có sự gian lận trồn thuế thì phải kiểm tra. Vì vậy qui định này
là cơ sở pháplý đặc biệt quan trọng cho nghiệp vụ kiểm toán hảiquan của Hảiquan Việt
Nam.
(3) Luật Hải quan năm 2001
Tại Điều 32 Luật Hải quan của Việt Nam được Quốc hội Nước CHXHCNVN
22
thông qua: “ Trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật Hải quan đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan, cơ quan Hải quan được áp
dụng biện pháp kiểm tra sau thông quan. Luật cũng qui định các cơ quan tổ chức, cá
nhân có liên quan phải tạo điều kiện cung cấp chứng từ kế toán, các thông tin, tài liệu
cần thiết phục vụ cho việc kiểm tra của Hải quan.
(4) Luật Hải quan sửa đổi số 42/2005/Q H 11 ngày 14 tháng 6 năm 2005
Điều 32 được sửa đổi bổ sung như sau :
Kiểm tra sau thông quan được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
“ Có dấu hiệu gian lận thuế, gian lận thương mại, vi phạm qui định về quản lý
xuất khẩu, nhập khẩu”
“Đối với các trường hợp không thuộc quy định trên thì căn cứ vào kết quả phân
tích thông tin từ cơ sở dữ liệu, từ trinh sát hải quan, từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân,
Hải quan nước ngoài để quyết định kiểm tra sau thông quan”
Như vậy việc kiểm tra sau thông quan được mở rộng phạm vi quyền kiểm tra để
ngày càng tăng cường vai trò của kiểm tra sau thông quan trong hoạt động của hải
quan.
(5) Nghị định 154/2005 NĐ-CP ngày 15/12/2005
Ngày 15/12/2005 Chính phủ đã có nghị định 154/2005 NĐ-CP qui định chi tiết
vể kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu.
(6) Thông tư số 79/2009/TT-BTC ngày 20/4/2009 (thay thế thông tư 114/2005/TT-BTC
ngày 15/12/2005 hướng dẫn chi tiết Nghị định số 154)
(7)Quyết định số 1383/QĐ-TCHQ ngày 14/7/2009 hướng dẫn quy trình nghiệp vụ KTSTQ
1.7.3. Qui trình kiểm toán sau thông quan
Trên cơ sở hệ thống văn bản pháp lý qui định về KTSTQ. Qui trình kiểm toán
hải quan được quy định khi tiến hành hoạt động KTSTQ thành quy trình nghiệp vụ với
2 giai đoạn
Giai đoạn 1 : Kiểm tra tại trụ sở cơ quan Hải quan.
Trước khi tiến hành kiểm tra hồ sơ, thực tế hàng hoá có liên quan tại doanh
nghiệp, hoạt động kiểm toán hải quan phải được tiến hành tại trụ sở cơ quan Hải quan,
23
giai đoạn này bao gồm 7 bước cơ bản sau:
Bước 1:Thu thập thông tin
Thông tin sẽ được nhân viên Hải quan bộ phận kiểm tra sau thu thập từ nhiều
nguồn khác nhau như: khâu phúc tập hồ sơ của các cửa khẩu, kết quả của các cuộc
KTSTQ trước đó, danh bạ quản lý doanh nghiệp xuất nhập khẩu, báo chí, Internet
hoặc từ các cơ quan quản lý nhà nước khác. Toàn bộ thông tin sẽ được tập hợp thành
dữ liệu riêng phục vụ cho KTSTQ của cả đơn vị.
Bước 2: Phân loại thông tin từ cơ sở dữ liệu.
Từ những dữ liệu thu thập ở bước 1, thông tin sẽ được chia thành 2 loại là có
dấu hiệu vi phạm và loại không có dấu hiệu vi phạm. Căn cứ phân loại phụ thuộc các
lĩnh vực như: doanh nghiệp trọng điểm , mặt hàng trọng điểm, trị giá tính thuế lớn,
thuế suất cao hoặc những phạm vi được cho là có nguy cơ xảy ra sai sót và do từng
nhân viên chuyên trách đảm nhận công việc phân loại.
Bước 3: Phân tích thông tin đã lựa chọn.
Từ kết quả phân loại bước 2, kiểm toán viên sẽ tiếp tục phân tích sâu những
thông tin phản ánh “dấu hiệu vi phạm”, bằng những phương pháp so sánh, đối chiếu và
các kỹ thuật phân tích khác. Họ sẽ tiến hành tìm kiếm những chứng cứ để làm cơ sở
cho những dấu hiệu vi phạm đã xác định và kết quả sẽ được báo cáo lãnh đạo bộ phận.
Bước 4:Lựa chọn hồ sơ, đối tượng kiểm tra.
Căn cứ trên kết quả nhận định tại bước 3, lãnh đạo bộ phận kiểm tra sau sẽ
quyết định việc lựa chọn hồ sơ để kiểm toán viên kiểm tra. Đây là bước rất quan trọng
và bước đầu tiên kiểm tra hồ sơ hải quan. Số lượng hồ sơ hải quan phải kiểm tra là bao
nhiêu và lựa chọn ưu tiên kiểm tra sẽ phụ thuộc vào từng địa phương và tính chất
nghiêm trọng của các dấu hiệu phát hiện.
Bước 5: Kiểm tra hồ sơ hải quan.
Bước này sẽ do những công chức được lãnh đạo bộ phận phân công và tiến hành
theo từng trường hợp cụ thể của “dấu hiệu vi phạm” hoặc theo kế hoạch đã định.
Bước 6: Kết luận kiểm tra.
Đối với những hồ sơ đã đầy đủ, rõ ràng và chưa phát hiện có dấu hiệu sai phạm
thì kiểm tra viên sẽ cập nhật vào hệ thống dữ liệu và chuyển trả hồ sơ lưu trữ hoặc sẽ
24
tiến hành kiểm tra theo kế hoạch tại trụ sở doanh nghiệp.
Đối với những hồ sơ xác định có vi phạm thì lãnh đạo bộ phận KTSTQ sẽ yêu
cầu các đối tượng có liên quan như: Hải quan làm thủ tục thông quan, doanh nghiệp
phải giải trình làm rõ.
Bước 7: Giải trình và xác minh.
Nếu những giải trình của các đối tượng có liên quan (Hải quan làm thủ tục
thông quan, doanh nghiệp) chấp nhận sai phạm trong hồ sơ và kịp thời chấn chỉnh
cũng như khắc phục sai sót (nộp thuế bổ sung, nộp phạt vi phạm), hồ sơ sẽ được cập
nhật thông tin vào hệ thống dữ liệu và chuyển về lưu trữ.
Ngược lại, các đối tượng không giải trình, hoặc nội dung giải trình không thuyết
phục thì lãnh đạo KTSTQ sẽ báo cáo lãnh đạo cục quyết định xác minh tại những đơn
vị có liên quan khác như: Ngân hàng, cơ quan Thuế nội địa, Hãng vận tải, Công ty bảo
hiểm… làm cơ sở cho quyết định tiến hành KTSTQ tại doanh nghiệp.
Giai đoạn 2: Kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp.
Sau khi kết thúc giai đoạn 1, cơ quan hải quan sẽ xác định trường hợp cần tiến
hành kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp. Đối tượng kiểm tra là những hồ sơ hải quan, các
loại sổ sách kế toán và các chứng từ có liên quan được lưu giữ tại doanh nghiệp, hoạt
động này sẽ được tiến hành trong 2 trường hợp:
(1) Kiểm tra theo kế hoạch được tiến hành nhằm đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật
hải quan của Doanh nghiệp, nên phạm vi kiểm tra rộng và dàn trải với thời gian quy định
thực hiện tối đa là 15 ngày làm việc. Kế hoạch kiểm tra sau thông quan trong trường hợp
này sẽ được xây dựng dựa trên“ kết quả phân tích thông tin từ cơ sở dữ liệu, từ trinh sát
Hải quan, từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân, Hải quan nước ngoài để quyết định kiểm tra
sau thông quan.”[Điều 32-Luật Hải quan sửa đổi năm 2005]
(2) Kiểm tra theo “dấu hiệu vi phạm”, thời gian thực hiện tối đa cuộc kiểm tra là
5 ngày làm việc, đây là giai đoạn tiến hành kiểm tra đi vào chiều sâu với phạm vi đã
xác định là những vấn đề phát hiện nghi vấn chưa được làm rõ qua giải trình của doanh
nghiệp hoặc doanh nghiệp không giải trình.
25
Giai đoạn này bao gồm 5 bước phải được tiến hành theo trình tự như sau:
Bước 3 Tiến hành kiểm tra
Bước 1 Lập kế hoạch kiểm tra
Bước 2 Ban hành quyết định kiểm tra
Bước 4 Lập Bản kết luận kiểm tra
Bước 5 Tổ chức thực hiện kết luận kiểm tra
(Nguồn: www.customs.gov.vn/ThuTucHaiQuan/Print.aspx?ID=112–ngày 06/01/2010)]
Nhìn chung, mô hình kiểm tra sau thông quan qua 2 giai đoạn hiện nay, gần như
là công việc kiểm tra giấy tờ theo phương thức truyền thống tại bàn làm việc của cán bộ
Hải quan đối với các khoản thuế phải nộp của doanh nghiệp, tìm ra các lỗi vi phạm trong
bộ hồ sơ hải quan, từ đó truy thu các khoản thuế còn thiếu và phạt vi phạm .
1.8. Kinh nghiệm kiểm toán sau thông quan của Hải quan một số nước trên thế giới
1.8.1. Indonesia
Là nước điều phối viên của ASEAN về chương trình KTSTQ, kinh nghiệm của
Hải quan Indonesia cũng rất cần được xem xét trong điều kiện của đất nước ta hiện nay
KTSTQ trị giá GATT
Việc chuyển từ xác định trị giá hải quan từ phương pháp Brucxell sang nguyên
tắc của Hiệp định GATT/WTO đã khiến cho trị giá hải quan và tổng số thuế trong thời
gian đầu giảm xuống so với trước, nhưng sau một thời gian Hải quan Indonesia áp
dụng kiểm toán và KTSTQ thì giá khai báo của doanh nghiệp cũng như số thu thuế
tăng dần lên.
Từ thực tế của Hải quan Indonesia, có thể thấy rằng việc xác định trị giá hải
quan chỉ thực sự có hiệu quả khi áp dụng KTSTQ. Nếu không đồng ý với trị giá giao
dịch mà nhà nhập khẩu khai báo thì cơ quan Hải quan có thẩm quyền kiểm tra sổ sách
kế toán của doanh nghiệp. Đây là điều rất quan trọng để cơ quan Hải quan có thể quản
lý, chống gian lận thương mại khi thực hiện Hiệp định trị giá GATT. Tại Indonesia,
trong năm 2003, thông qua công tác KTSTQ, Hải quan đã phát hiện khoảng
20.000/1.000.000 giao dịch có khai báo sai, thấp về trị giá. Ở cấp Trung ương Indonesia
26
có một đơn vị Hải quan về KTSTQ, 13 Cục Hải quan vùng đều có đơn vị hải quan làm
nhiệm vụ KTSTQ. Hải quan Indonesia có khoảng 1.000 kiểm toán viên được phân bổ
trên toàn quốc (tổng số công chức hải quan là 11.000 người).
Sử dụng sách hướng dẫn về trị giá và KTSTQ
Hải quan Indonesia có vai trò điều phối trong lãnh vực KTSTQ và xác định trị
giá hải quan. Hải quan Indonesia đã hoàn thành sách hướng dẫn về KTSTQ. Trong đó
có rất nhiều nội dung đã được Hải quan các nước ASEAN áp dụng trên thực tế. Đối
với việc xác định trị giá hải quan, Hải quan Indonesia cũng đã hoàn thành sách hướng
dẫn về xác định trị giá hải quan của Hải quan ASEAN và cũng được các nước sử dụng.
Đây là những tiến bộ đáng kể trong quá trình hợp tác của Hải quan khu vực thời gian
qua.
Xây dựng cơ sở dữ liệu giá phục vụ KTSTQ
Cơ sở dữ liệu về trị giá hải quan tập trung tại TCHQ Indonesia (cấp Trung ương).
Tại TCHQ có Cục Kỹ thuật Hải quan, trong đó có Phân cục trị giá hải quan. Tại Phân cục
trị giá hải quan có 01 phòng được tin học hóa chịu trách nhiệm thu thập thông tin về trị giá
hải quan để phát hiện những bất hợp lý, những gian lận về thuế nhập khẩu qua giá của đối
tượng nhập khẩu.
Thông tin được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, chẳng hạn từ 4 tùy viên Hải
quan Indonesia ở nước ngoài tại Nhật Bản, Bỉ, Singapore, Hồng Kông; thông tin được thu
thập từ Internet; từ kiểm tra giá của hàng hóa trên thị trường quốc tế; từ trị giá giao dịch ở
cửa khẩu cũng được truyền về TCHQ,…. Sau đó, thông tin được tiến hành xử lý để đưa vào
cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác KTSTQ của cơ quan hải quan.
1.8.2. Úc
Hiện nay, Hải quan Úc áp dụng hai loại hình KTSTQ, đó là kiểm tra trọng điểm
và kiểm tra hoạt động giao dịch. Cơ quan Hải quan có quyền kiểm tra tất cả các hoạt
động của khách hàng liên quan tới hoạt động hải quan. Trong đó bao gồm: hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu, khấu trừ thuế quan, kho ngoại quan, cấp giấy phép xuất
nhập khẩu và thuế.
Quy trình kiểm tra sau thông quan
Những hồ sơ, tài liệu chính mà Hải quan quan tâm trong quá trình KTSTQ là
27
những tài liệu liên quan tới hoạt động thương mại (bao gồm cả tài liệu điện tử) như:
đơn đặt hàng, giấy chứng nhận, hóa đơn vận chuyển, vận đơn hàng không, giấy phép,
bản hợp đồng, danh mục kê khai hàng hóa, giấy chứng nhận phương thức thanh toán.
Đối với một số trường hợp, Hải quan có thể kiểm tra cả những hệ thống và quy trình
hoạt động của doanh nghiệp.
Xử lý vi phạm
Trong trường hợp nếu nhóm kiểm tra sau thông quan phát hiện dấu hiệu không
minh bạch trong hồ sơ của doanh nghiệp, Hải quan sẽ có cuộc tiếp xúc với doanh
nghiệp vi phạm để thảo luận về những sai phạm đặc biệt. Trong phạm vi pháp luật cho
phép, những sai phạm có thể được chỉnh lý nếu doanh nghiệp đồng ý nộp khoản thuế
cho số hàng vi phạm. Đối với một số trường hợp vi phạm nghiêm trọng thì áp dụng
những hình phạt thích đáng, bao gồm cả truy tố trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp
doanh nghiệp không đồng ý với kết quả của nhóm KTSTQ, doanh nghiệp có thể gửi
đơn khiếu nại lên cơ quan Hải quan yêu cầu xem xét lại. Thực tế doanh nghiệp có
quyền tranh luận về kết quả KTSTQ.
1.8.3. Nhật bản
KTSTQ của Hải quan Nhật Bản dựa trên quy định quyền của nhân viên hải quan
được hỏi về sổ sách và các tài liệu liên quan đến doanh nghiệp đã được lưu lại và bảo mật,
được tiến hành theo những luật đã ban hành không chỉ riêng Luật Hải quan.
- Quyền được KTSTQ: Khi nhận thấy tính cần thiết phải tiến hành một vụ việc
KTSTQ, nhân viên hải quan có quyền được chất vấn người nhập khẩu trong phạm vi
Luật cho phép, phúc tập các sổ sách và tài liệu liên quan tới hàng hóa nhập khẩu hoặc
kiểm tra hàng hóa (Điều 105 Luật Hải quan Nhật Bản).
- Truy thu thuế: Công việc KTSTQ của nhân viên hải quan được quy định tại
Luật Thuế tiêu thụ nội địa và thuế quan, có hiệu lực từ tháng 10/1997 nhằm duy trì sự
công bằng trong việc tính thuế xuất nhập khẩu của Hải quan và các loại thuế khác đối
với người phải nộp thuế đồng thời khuyến khích việc doanh nghiệp trung thực tự giác
tính thuế đúng.
- Phương pháp KTSTQ: KTSTQ giới hạn trong một vài trường hợp mà số thuế
28
chênh lệch bị phát hiện vượt trội chứ không làm tất cả. Nhân viên hải quan chỉ yêu cầu
những tài liệu cần thiết, khuyến khích người nhập khẩu đưa ra bản khai chính xác để
giảm bớt mức thuế bắt buộc của họ.
Quy trình KTSTQ của Nhật bản, với ngành Hải quan phát triển hiện đại đứng
hàng thứ 11/150 [theo “The Logistics Performance Index and Its Indicator – 2007”],
cho thấy quy trình KTSTQ tại Nhật cũng gồm các bước chính như sau :
+ Thu thập thông tin từ hồ sơ quản lý doanh nghiệp theo các tiêu chí rủi ro
xác định.
+Phân tích thông tin .
+Lựa chọn doanh nghiệp kiểm tra.
+Phân tích thông tin của nhóm doanh nghiệp này.
+Thực hiện khảo sát trước khi tiến hành kiểm tra.
+Hoạch định chiến lược kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp.
+Tiến hành kiểm tra tại doanh nghiệp .
+Xử lý kết quả sau cuộc kiểm tra tại doanh nghiệp, thông tin phải được phản
Thu thập thông tin
Cập nhật lại thông tin
hồi vào hệ thống.
HHồồ ssơơ rrủủii roro Risk Profiling) ((Risk Profiling)
Phân tích thông tin/cơ sở dữ liệu
PCAPCA
ThThựựcc hihiệệnn kikiểểmm totoáánn
ChChọọnn llựựaa Selection) ((Selection)
Khảo sát trước kiểm toán
Làm kế hoạch
(Pre-Audit Survey)
Phân tích thông tin/cơ sở dữ liệu
Sơ đồ :Quy trình kiểm toán Hải quan (KTSTQ) của Hải quan Nhật (Nguồn: Tài liệu giảng dạy KTSTQ (PCA) của Hải quan Nhật bản tháng 07- 2006).
29
Sơ đồ :Quy trình kiểm toán Hải quan của Hải quan Nhật (Nguồn: Tài liệu giảng dạy KTSTQ (PCA) của Hải quan Nhật bản tháng 07- 2006).
1.9 . Những kinh nghiệm rút ra cho hoạt động kiểm toán sau thông quan của Hải
quan Việt Nam.
So với các nước thì hoạt động kiểm toán sau thông quan của Việt Nam còn mới
mẻ và hiệu quả hoạt động chưa cao, tuy nhiên khi đối chiếu với một số nước trong khu
vực và trên thế giới có thể rút ra một số nhận xét như sau:
- Về đối tượng, phạm vi kiểm tra đây là những nội dung được qui định rõ trong
Luật hải quan, Nghị Định 154/ /2005 NĐ-CP ngày 15/12/2005 về kiểm tra sau thông
quan về cơ bản cũng tương tự như các nước
- Về qui trình kiểm toán sau thông quan: Cũng như một số nước trong khu vực, ở
Việt Nam chúng ta qui trình tiến hành KTSTQ cũng bắt đầu từ việc thu thập thông tin
đối với hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp từ nhiều nguồn thông tin khác
nhau. Trên cơ sở đó phân tích, tổng hợp đánh giá lựa chọn những doanh nghiệp có dấu
hiệu vi phạm tiến hành kiểm tra tại trụ sở cơ quan hải quan trên tinh thần chỉ ra những
sai phạm, nếu Doanh nghiệp chấp nhận thì đưa ra kết luận truy thu thuế và phạt vi
phạm theo văn bản qui định. Trong trường hợp Doanh nghiệp giải trình chưa thuyết
phục thì việc KTSTQ sẽ tiếp tục được tiến hành tại trụ sở Doanh nghiệp và Hải quan
có quyền kiểm tra tất cả hồ sơ, chứng từ, sổ sách kế toán liên quan tới lô hàng XNK
- Về kỹ thuật quản lý rủi ro: chúng ta cần xây dựng các nội dung sau:
+ Hệ thống các tiêu chí tuân thủ pháp luật và hệ thống đánh giá mức độ tuân thủ
pháp luật .
+ Kỹ thuật khoa học phân loại rủi ro và xác định rủi ro
+ Áp dụng có hệ thống kỹ thuật rủi ro ở tầm chiến lược cho đến tầm chiến thuật
+ Quản lý rủi ro trong lĩnh vực KTSTQ gồm việc đánh giá rủi ro liên quan đến
hàng hóa XNK, các doanh nghiệp, và tập trung nhân viên kiểm toán hải quan vào các
lĩnh vực, chuyên đề có độ rủi ro cao
Cần thiết phải xây dựng hệ thống quản lý rủi ro phục vụ riêng cho bộ phận
KTSTQ, bởi đây là nguồn cung cấp thông tin từ đối tượng kiểm tra cần thiết cho hoạt
động KTSTQ.
- Về công nghệ thông tin : phải đưa công nghệ thông tin vào sử dụng có hiệu
30
quả trong việc thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau phục vụ KTSTQ
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương 1, luận văn đã làm rõ cơ sở lý luận của kiểm toán hải quan. Luận
văn đã đưa ra được mục đích, vai trò và quản lý nhà nước trong lĩnh vực kiểm toán
sau thông quan trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và cơ sở pháp lý Quốc tế , cơ
sở pháp lý của Việt Nam, cho việc hoạt động kiểm toán sau thông quan.
Chương 1 cũng đề cập tới những kinh nghiệm của các nước đã áp dụng nghiệp
vụ KTSTQ có hiệu quả trong hoạt động để thấy tầm quan trọng của nghiệp vụ này
trong bảo vệ chính sách thưong mại của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi phát triển
thương mại, đầu tư, đảm bảo lợi ích người tiêu dùng, an ninh quốc gia, môi trường…
và một điều quan trọng là đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm cho hoạt động kiểm toán sau thông quan của Việt Nam.
Qua đó nhận thấy kiểm toán sau thông quan là thực sự cần thiết và không thể thiếu trong
tiến trình cải cách và hiện đại hóa ngành Hải quan phù hợp với yêu cầu thực tế của sự phát
triển chung trong nền kinh tế thế giới, trong giai đoạn toàn cầu hóa.
Dựa trên những nghiên cứu ở chương 1 tác giả sẽ phân tích, đánh giá thực trạng
hoạt động XNK và thực trạng hoạt động của KTSTQ Việt Nam trong thời gian trước
và sau khi Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO ở
31
chương 2.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA KIỂM TOÁN HẢI QUAN VIỆT
NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
2.1 Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Năm 2007 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, nhưng tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã thực sự trải qua gần 20 năm. Từ đầu thập
niên 1990, đất nước bắt đầu mở cửa nền kinh tế, đẩy mạnh với thông thương bên ngoài
và tiếp nhận luồng vốn FDI.
Năm 1995 Việt Nam trở thành thành viên ASEAN đánh dấu bước đi quan trọng
đầu tiên trong nhập kinh tế quốc tế. Từ năm 1996 nước ta bắt đầu thực hiện hiệp định
ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT nhằm thiết lập khu vực thương mại tự do
trong khối ASEAN (AFTA) với lịch trình cắt giảm thuế quan mà mốc cuối cùng của
hiệp định là năm 2006 khi toàn bộ các mặt hàng, trừ mặt hàng trong danh mục nông
sản nhạy cảm và Danh mục loại trừ hoàn toàn phải đưa về mức thuế suất 0 - 5%.
Năm 2000 Việt nam ký kết và thực hiện hiệp định Thương mại song phương Việt
Nam – Hoa kỳ với những nội dung và phạm vi cam kết sát với chuẩn mực WTO.
Năm 2002 nước ta ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN-
Trung Quốc trong vòng 10 năm. Lĩnh vực tự do hóa bao gồm thương mại hàng hóa,
thương mại dịch vụ đầu tư cũng như các hợp tác khác về Tài chính, Ngân hàng, Công
nghiệp …
Nước ta cũng tham gia vào khu vực thương mại tự do ASEAN- Hàn Quốc
(AKFTA) được ký lại lần thứ 3 vào tháng 8/2006 với cam kết lộ trình cắt giảm thuế
quan bắt đầu từ năm 2007. Theo cam kết trong Hiệp định thương mại hàng hóa, Việt
Nam phải cắt giảm thuế theo lộ trình với đích cuối cùng là xoá bỏ thuế nhập khẩu của
ít nhất 90% mặt hàng trong danh mục thông thường vào 1/1/2015.
Đầu năm 2007 nước ta trở thành thành viên chính thức của WTO. Các cam kết
WTO của Việt Nam, tương tự như cam kết của các nước mới gia nhập khác, nhằm xoá
bỏ việc phân biệt đối xử giữa hàng nội địa và nhập khẩu hoặc giữa đầu tư trong và
ngoài nước, minh bạch hóa các chính sách. Các lĩnh vực quan trọng nhất mà Việt Nam
32
có cam kết gồm mở cửa thị trường thông qua cắt giảm các hàng rào thuế quan, chính
sách giá cả minh bạch, không phân biệt đối xử và phù hợp với với các qui định của
WTO… Tuân thủ hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan của WTO ngay từ
khi gia nhập; tuân thủ về hiệp định kiểm tra trước khi giao hàng cũng như các hiệp
định có liên quan của WTO; duy trì hệ thống thủ tục hải quan thống nhất, minh bạch,
đơn giản, và phù hợp với chuẩn mực quốc tế … cam kết mở thị trường dịch vụ tài
chính, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ kế toán, dịch vụ thuế.
Có thể thấy WTO không phải là điểm bắt đầu và kết thúc quá trình hội nhập và
đổi mới của nước ta. Các hiệp định tự do thương mại khu vực và song phương có mức
độ mở cửa cao hơn cam kết trong WTO. Những khác biệt trong cam kết giữa các hiệp
định thương mại có thể tạo ra hiệu ứng thương mại và đầu tư khác nhau. Chính vì vậy
tác động của các hiệp định đó đến nền kinh tế Việt Nam sâu sắc hơn là trong khuôn
khổ của khu vực tự do thương mại thuần túy. Điều rõ ràng là tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế, tự do hóa thương mại, đầu tư và chuyển sang thể chế kinh tế thị trường đang
diễn ra ngày càng sâu rộng và không thể đảo ngược. Nền kinh tế Việt Nam đang ngày
càng hội nhập sâu rộng hơn vào kinh tế thế giới.
Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn càng đẩy mạnh thương mại phát triển đặc biệt
là thương mại quốc tế, việc mua bán giao lưu hàng hóa giũa các nước và Việt Nam
ngày càng tăng nhanh về tốc độ và khối lượng, trị giá. Từ nhu cầu gia tăng phát triển
ngoại thương đòi hỏi việc quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu ngày
càng phải đổi mới để phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế hội nhập tạo điều
kiện cho thương mại phát triển.
2.1.1 Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian từ
2005-2009
XNK là một ngành kinh tế quan trọng, đảm nhận chức năng lưu thông hàng
hóa, dịch vụ giữa trong nước và ngoài nước góp phần đắc lực vào tiến trình phát triển
đất nước. Nhờ XNK thế lực và nguồn lực của từng nước được khai thác mạch mẽ và
mang lại hiệu quả cao trong sự phát triển kinh tế của toàn xã hội. Vì vậy bất cứ một
quốc gia nào cũng quan tâm tới hoạt động XNK để phát triển kinh tế, đặc biệt là trong
33
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Ở Việt Nam, hoạt động XNK thực sự phát triển mạnh mẽ từ khi gia nhập tổ
chức kinh tế thế giới WTO năm 2007. Hoạt động XNK đã mang lại một phần trong
nguồn thu cho ngân sách Nhà nước qua việc thu thuế XNK. Nhưng cũng từ hoạt động
XNK trong thời kỳ mở cửa này, đã phát sinh những mặt trái của nó khi việc quản lý
chưa chặt chẽ đó là: gian lận thương mại, buôn lậu trái phép, làm ảnh hưởng tới việc
phát triển sản xuất, kinh doanh, môi trường, chính trị trong nước và thất thu thuế của
Nhà nước.
2.1.1.1 Kết quả hoạt động XNK từ 2005 đến 2009
Từ năm 2005 đến 2009 trước và sau khi Việt Nam là thành viên chính thức của
tổ chức thương mại thế giới WTO, hoạt động XNK đã đạt được những kết quả sau:
(1) Số lượng doanh nghiệp tham gia XNK
Bảng 1: Số lượng doanh nghiệp xuất nhập khẩu
26.645
30.988
36.600
39.799
Năm 2006 2007 2008 2009
Số lượng Doanh nghiệp XNK
(Nguồn : Tổng cục Hải quan – Báo cáo tổng kết từ năm 2005- 2009)
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam chính thức là thành viên của WTO dẫn
đến việc chính sách điều hành của Chính phủ, các Bộ ngành và Bộ Tài chính có sự
thay đổi đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động XNK làm số lượng doanh nghiệp XNK
tăng lên 16,3% so với năm 2006, Năm 2009 tăng 49% so với năm 2006.
Số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động XNK tăng thêm, dẫn tới số lượt tờ
khai XNK, kim nghạch XNK gia tăng mạnh mẽ đòi hỏi ngành Hải quan trong hoạt
động quản lý Nhà nước đối với hoạt động XNK phải đáp ứng được yêu cầu phát triển
chung của nền kinh tế và các cam kết gia nhậpWTO.
34
(2) Số lượng tờ khai làm thủ tục XNK
Bảng 2: Số lượng tờ khai xuất nhập khẩu qua các năm
Đơn vị tính : (nghìn tờ)
1.848 946 902
2.990 1570 1420
3.289 1775 1514
Năm 2005 2006 2007 2008 2009
Số lượng tờ khai Lượng tờ khai nhập Lượng tờ khai xuất Tỷ lệ kiểm tra thực tế/ tổng số tờ khai
1.762 853 909 59,8%
24%
2.284 1181 1103 22%
23%
17%
(Nguồn : Tổng cục Hải quan – Báo cáo tổng kết từ năm 2005- 2009)
Với số liệu trên cho thấy số lượng tờ khai nhập khẩu tăng dần qua các năm đặc
biệt năm 2007 năm đầu tiên gia nhập WTO tăng 23,6% so với năm 2006. Năm 2009
tăng 44% so với năm 2006. Như vậy cho thấy, khối lượng hàng hóa XNK luân chuyển
qua cửa khẩu ngày càng gia tăng mạnh mẽ, đòi hỏi qui trình nghiệp vụ thông quan
hàng hóa XNK phải thực sự thông thoáng để tạo thuận lợi cho thương mại phát triển,
đồng thời vẫn đảm bảo được về mặt quản lý Nhà nước của Hải quan.
Năm 2007 là năm đầu tiên gia nhập WTO, thủ tục hải quan đối với hàng hóa
XNK là một phần chủ yếu trong quản lý hoạt động XNK của Nhà nước trong thời kỳ
hội nhập. để hoàn thành nhiệm vụ Nhà nước và Bộ tài chính đã giao, ngành Hải quan
đã đặt ra mục tiêu năm 2007 là “Hoàn thiện các chính sách của Hải quan cho phù hợp
với các qui định của WTO. Tập trung và đẩy nhanh tốc độ hiện đại hóa ngành Hải
quan … Tạo thuận lợi hơn nữa cho đầu tư, thương mại”[trích báo cáo tổng kết ngành
Hải quan năm 2007]
Theo cam kết, đến năm 2010 tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa trên số lượng tờ
khai Hải quan là 10%, như vậy 90% lượng hàng hóa XNK, sẽ không phải kiểm tra
thực tế tại khâu thông quan. Điều này thực sự phù hợp và có lợi cho các Doanh nghiệp
tự giác tuân thủ tốt pháp luật, nhưng đối với các Doanh nghiệp không tuân thủ pháp
luật sẽ lợi dụng điều kiện này để gian lận thương mại, buôn lậu. Khắc phục tình trạng
trên thì ngành Hải quan phải tăng cường khâu “hậu kiểm” đó là kiểm toán sau thông
quan tìm ra những hành vi gian lận không tuân thủ pháp luật trong hoạt động XNK của
35
các Doanh nghiệp
(3) Kim ngạch XNK
Bảng 3: Kim ngạch xuất nhập khẩu từ 2005 đến 2009
Đơn vị tính : tỷ USD
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
Tổng kim ngạch XNK hàng năm
62,70
69,74
86,83
133,96
125,00
32,87 36,87
58,54 75,42
Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch nhập khẩu Trung bình tăng hàng năm
29,15 33,55 9%
11%
38,85 47,98 25%
54%
56,50 68,50 -7%
(Nguồn : Tổng cục Hải quan – Báo cáo tổng kết từ năm 2005- 2009)
Khi Việt Nam chưa là thành viên WTO kim ngạch XNK năm 2006 đạt 69.74 tỷ
USD tăng so với 2005 là 11%. Năm 2007 khi Việt nam chính thức là thành viên của
WTO kim nghạch XNK tăng 25%. Đặc biệt năm 2008 một năm sau khi gia nhập WTO
kim ngạch xuất khẩu tăng đột biến là 54% so với năm 2007. Năm 2009 tổng kim
ngạch XNK giảm do tác động mạnh của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng tính
bình quân từ năm 2005 đến năm 2009 tổng kim ngạch XNK tăng 18,4 %
2.1.1.2- Gian lận thương mại trong hoạt động xuất nhập khẩu
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, hiện nay ở nước ta có khoảng 40.000
doanh nghiệp (tính đến hết năm 2009) đang hoạt động ở lĩnh vực xuất nhập khẩu. Việc
đông đảo các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động đa chức năng vừa
có sản xuất, kinh doanh - dịch vụ vừa có xuất nhập khẩu đã góp phần quyết định đưa
sản phẩm hàng hóa của Việt Nam tham gia sâu rộng vào thị trường thế giới; góp phần
đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển, hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.
Với mục đích hoạt động của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, nên trong
quá trình sản xuất, kinh doanh tất cả các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh khốc
liệt trong “ một sân chơi chung”. Để đạt được mục đích của mình, trên tổng thể thì hầu
hết các doanh nghiệp hoạt động trên nguyên tắc tôn trọng pháp luật, làm những gì mà
luật pháp không cấm.
Tuy nhiên, bên cạnh một số Doanh nghiệp hoạt động chấp hành tốt pháp luật
36
cũng còn có một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp cố tình vi phạm pháp luật khi
hoạt động XNK nhằm mục đích thu lợi bất chính từ việc trốn thuế. Trong hoạt động
XNK có nhiều hình thức gian lận thương mại như :
Gian lận thương mại về nhập khẩu
- Gian lận về mức thuế suất khi áp mã hàng hóa, để hưởng thuế suất thấp bằng
hình thức như: cố ý khai sai bản chất hàng hóa, tên gọi hàng hóa, kết qủa giám định sai
- Gian lận về khai báo trị giá tính thuế để gian lận thuế XNK: Doanh nghiệp
khai báo trị giá tính thuế thấp hơn trị giá thực tế thanh toán nhằm mục đích khai thấp
số thuế phải nộp vào ngân sách nhà nước. Đây là cách thức rất phổ biến trong hoạt
động nhập khẩu hàng hoá khi áp dụng hiệp định trị giá GATT/WTO xác định trị giá
tính thuế, Ngành hải quan đã phát hiện được ở nhiều doanh nghiệp vi phạm thông qua
việc kiểm tra, tham vấn giá.
- Gian lận về xuất xứ hàng hóa để hưởng chênh lệch về mức thuế suất thấp. Tùy
theo các cam kết của các Hiệp định đã được ký kết, cùng một loại hàng hóa, sản phẩm
từ các quốc gia hoặc nhóm quốc gia khi nhập khẩu vào Việt Nam sẽ phải chịu các mức
thuế suất khác nhau khi tính thuế nhập khẩu. Một số doanh nghiệp đã lợi dụng điều
này để giả mạo giấy chứng nhận xuất xứ, khai báo sai lệch để hưởng thuế suất ưu đãi
đặc biệt. Chẳng hạn cùng một linh kiện máy tính của nhà sản xuất IBM nếu có xuất xứ
từ Mỹ sẽ có mức thuế suất khác với linh kiện của hãng IBM có xuất xứ từ khối các
nước ASEAN.
- Gian lận về định mức. Đây là dạng vi phạm phổ biến của các doanh nghiệp có
chức năng nhập nguyên liệu về để gia công hay sản xuất hàng để xuất khẩu cho các đối
tác nước ngoài, nguyên liệu nhập khẩu được miễn thuế, không thu thuế. Đối với dạng
gian lận này, doanh nghiệp lập định mức cấu thành sản phẩm cao hơn định mức thực tế
tiêu hao. Phần chênh lệch về nguyên vật liệu được tiêu thụ ở thị trường nội địa, nhằm
chiếm đoạt thuế nhập khẩu.
- Gian lận về ưu đãi đầu tư,đối với các dự án. Lợi dụng chính sách về ưu đãi về
thuế đối với các dự án ưu đãi đầu tư để hưởng thuế suất
Gian lận thương mại về xuất khẩu
- Gian lận khai tăng trị giá thực tế hàng xuất khẩu, để chuyển tiền chênh lệch
37
bất hợp lý từ nước ngoài về Việt Nam. Do chính sách của Nhà nước khuyến khích xuất
khẩu hàng hóa, mức thuế suất đối với hàng xuất khẩu thông thường bằng 0%, Doanh
nghiệp đã lợi dụng chính sách này phục vụ mục đích trên.
- Thủ đoạn chiếm đoạt thuế GTGT: Để tạo động lực cho sản xuất trong nước
phát triển, nhà nước luôn có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt
động hướng về xuất khẩu, nhất là đối với các sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp.
Nhằm góp phần khai thác tiềm năng nội lực mở rộng ngành nghề, giải quyết lao động
dư thừa ở lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ
cấu kinh tế. Trong đó có biện pháp hoàn thuế GTGT cho các doanh nghiệp xuất khẩu
sử dụng sản phẩm trong nước. Lợi dụng chính sách này, nhiều doanh nghiệp đã gian
lận bằng cách mua hóa đơn, lập chứng từ xuất hàng khống để chiếm đoạt tiền hoàn
thuế GTGT của nhà nước.
- Hình thức trung gian, tức là doanh nghiệp trong nước thông qua một nước mà
Việt Nam cam kết ưu đãi về thuế suất để đưa hàng sang một nước thứ ba tiêu thụ. Lợi
nhuận mà doanh nghiệp có được khi dùng cách thức này là tăng sức mạnh trước các
đối thủ cạnh tranh. Biện pháp này của doanh nghiệp không sớm thì muộn cũng sẽ bị
đối tác phát hiện. Họ sẽ có những biện pháp chống trả, trừng phạt. Hậu quả là làm cho
uy tín sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam bị ảnh hưởng trên thương trường quốc tế.
- Vi phạm về sở hữu trí tuệ, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hóa. Kiểu
vi phạm này là: Khoản lợi nhuận chênh lệch doanh nghiệp có được do gắn nhãn mác
của các nhà sản xuất, các hãng có uy tín lớn của nước ngoài vào sản phẩm của mình để
đánh lừa người tiêu dùng. Bằng chứng là một số doanh nghiệp Việt Nam bị các hãng
như Honda, Nike, Hynos,… kiện vừa qua là chứng minh cho sự vi phạm này.
2.1.2. Quản lý nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc gia, vì
vậy quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK là một trong những nhiệm vụ cấp thiết
của Nhà nước, nhất là trong giai đoạn hội nhập mạnh mẽ. Đối với Việt Nam nội dung
quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK được thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật
trong đó nêu rõ “ Nhà nước thống nhất quản lý ngoại thương, có chính sách mở rộng
giao lưu hàng hóa với nước ngoài trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng,
38
cùng có lợi theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, khuyền khích các thành phần
kinh tế sản xuất hàng hóa xuất khẩu và tham gia xuất khẩu theo qui định của pháp
luật; có chính sách ưu đãi để đẩy mạnh xuất khẩu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước,
ưu tiên nhập khẩu vật tư thiết bị, công nghệ cao kỹ thuật hiện đại để phát triển sản
xuất” [Luật thương mại 10/05/1997. Điều 16]
2.1.2.1. Một số nội dung cơ bản quản lý XNK giai đoạn 2005 đến 2010
- Chúng ta đã thay đổi cơ bản cơ chề điều hành XNK. Chính sách và qui định XNK
được công bố cho cả một thời kỳ dài 5 năm thay cho hàng năm trước đây. Trước đây
việc xây dựng chính sách được theo từng năm dẫn tới khó khăn cho các cơ quan quản
lý XNK và các doanh nghiệp XNK điển hình là tình trạng bị động trong kinh doanh và
xử lý vụ việc tồn đọng trong quản lý.
- Quyền kinh doanh XNK của tất cả các doanh nghiệp tiếp tục được mở rộng tất cả các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo qui định của pháp luật được
phép XNK tất cả các loại hàng hóa trừ các mặt hàng Nhà nước cấm xuất, nhập khẩu;
cấm kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện. Danh mục hàng hóa XNK theo hạn
nghạch và giấy phép của Bộ thương mại từng bước cũng được giảm dần và hầu hết các
biện pháp quản lý số lượng hàng hóa nhập khẩu đều có lộ trình loại bỏ.
- Giảm thiểu qui định về đầu mối kinh doanh XNK. Đối với những mặt hàng kinh
doanh phải có đầu mối như Gạo, phân bón, rượu, than, xăng dầu …. Trong đó đã thực
hiện cơ chế bãi bỏ giao hạn nghạch xuất khẩu gạo, nhập khẩu phân bón và việc qui
định đầu mối kinh doanh XNK đối với hai mặt hàng này thuộc loại phải quản lý bằng
hạn nghạch một thời gian dài
- Xây dựng lộ trình giảm thiểu các biện pháp hạn chế định lượng XNK theo hướng
giảm dần các công cụ phi thuế quan thuộc nhóm đang áp dụng và tăng dần các công cụ
bảo hộ mới theo thông lệ quốc tế như hạn ngạhch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế theo
mùa vụ, chống bán phá giá… những đổi mới này đã tích cực thúc đẩy hoạt động XNK
phát triển từ năm 2005 đến năm 2009 kim ngạch XNK tăng bình quân 18,4 %
- Tiếp tục cải cách hệ thống chính sách thuế XNK theo hướng hiện đại và phù hợp với
cam kết quốc tế và khu vực. Bãi bỏ bảng giá tối thiểu, áp dụng giá tính thuế theo trị giá
39
giao dịch thực tế trên qui định hiệp định trị giá GATT/WTO. Cắt giảm thuế quan và thuế
xuất khẩu đối với hàng hóa được qui định tại các văn bản ban hành theo lộ trình cam kết
gia nhập WTO [QĐ 106/2007/QĐ-BTC ngày 26/12/2008]
- Tiếp tục ban hành những chính sách quản lý ngoại hối phù hợp với diễn biến của thị
trường ngoại tệ và thực tiễn hoạt động XNK nhằm đáp ứng yêu cầu vận hành của nền
kinh tế bằng một loạt các biện pháp tích cực của Nhà nước như: giảm qui định tỷ lệ kết
hối, đơn giản hóa thủ tục cấp phép vận chuyển, mở tài khoản giao dịch ngoại tệ…
2.1.2.2. Tổng quát thực trạng quản lý Nhà nước đối với hoạt động XNK
- Về quá trình đổi mới chính sách quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK
Cùng với đổi mới kinh tế và thực hiện cam kết hội nhập, quản lý nhà nước vế
hoạt động XNK từng bước được chuyển đổi cả về tư duy, nội dung và phương pháp
quản lý tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho lưu thông hàng hóa XNK và hoạt động
của thương nhân trong nước và quốc tế.
+ Quá trình đổi mới công tác quản lý đối với hoạt động XNK nhằm tập trung
vào các mục tiêu : định hướng các hoạt động XNK phục vụ nền kinh tế đang chuyển
đổi và nhanh chóng tiếp cận với thương mại Quốc tế. Quá trình này được thực hiện
theo từng giai đoạn gắn liền với trình độ năng lực của nền kinh tế đất nước và theo
hướng loại bỏ những cấm đoán, hạn chế XNK và giảm dần sự can thiệp bằng các biện
pháp hành chính và các công cụ đã lỗi thời.
+ Cùng với sử dụng các chính sách công cụ có tính chất vĩ mô để điều chỉnh hoạt
động XNK như chính sách mặt hàng, chính sách thuế, chính sách tài chính ngân hàng,
hệ thống pháp luật Nhà nước đã từng bước nới lỏng các điều kiện kinh doanh XNK,
đồng thời tăng cường cải cách hành chính, giảm thiểu chi phí kinh doanh, minh bạch hóa
và đơn giản hóa qui trình thủ tục về hải quan và hành chính công.
+ Để quản lý các hoạt động XNK đi đúng hướng và hiệu quả, cùng với ban
hành các bộ luật cơ bản như Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư nước
ngoài, Luật thuế XNK … Nhà nước còn ban hành hàng loạt các văn bản dưới Luật về
quản lý XNK và đổi mới cơ chế quản lý hoạt động XNK.
+ Chính phủ đã ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương
tham gia các tổ chức kinh tế và thương mại khu vực và Quốc tế để phục vụ cho chính
40
sách ngoại thương và mở đường cho hoạt động XNK vươn ra thế gới. Việc trở thành
thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO là công cụ điều hành hoạt
động thương mại và XNK của nước ta, đồng thời là cơ sở để chúng ta xây dựng sách
lược, chiến lược kinh tế đẩy nhanh tiến trình hội nhập.
Quá trình đổi mới công tác quản lý hoạt động XNK đã tác động tích cực đến hoạt
động XNK tạo môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh XNK vận hành theo cơ chế
thị trường, góp phần khơi dậy tiềm năng sáng tạo, và tính chủ động của các đơn vị kinh
doanh thuộc mọi thành phần kinh tế để phát triển xuất khẩu. Đặc biệt công tác quản lý
XNK đã khắc phục được tình trạng phân biệt đối xử, tạo dựng được thế và lực của nước
ta trong thương mại Quốc tế, khai thông thị mới, mở rộng quan hệ buôn bán trao đổi, tạo
ra nhiều thuận lợi cho XNK hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam
- Về mô hình quản lý các chủ thể XNK
Cùng với những bước tiến của tiến trình cải cách thương mại, hệ thống chủ thể
hoạt động trong lĩnh vực XNK cũng được hình thành phát triển ngày càng gia tăng ,
thuộc năm nhóm sau đây:
+ Nhóm thứ nhất: Các doanh nghiệp XNK cấp trung ương chủ yếu Doanh
nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp quốc doanh, trực thuộc chính phủ hoặc thuộc các Bộ,
Ngành.
+ Nhóm thứ hai: Các doanh nghiệp XNK địa phương gồm các doanh nghiệp
Nhà nước cấp Tỉnh, Thành phố, Quận, Huyện.
+ Nhóm thứ ba: Các doanh nghiệp XNK thuộc lĩnh vực FDI
+ Nhóm thứ tư: Các doanh nghiệp XNK ngoài quốc doanh, các tổ chức, cá
nhân, các tổ chức, cá nhân và các thành phần khác có hàng hóa dịch vụ XNK
+ Nhóm thứ năm: Các doanh nghiệp XNK thuộc các khu chế xuất và công
nghiệp, khu kinh tế mở, khu thương mại tự do, khu kinh tế cửa khẩu…
- Về cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK
Cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước đối với hoạt độnmg XNK của nước ta trong
những năm qua tương đối ổn định bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp từ Trung
ương đến địa phương. Cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK được
thiết lập theo ba cấp:
41
+ Chính phủ
+ Các Bộ ngành và Uy ban nhân dân Tỉnh, Thành phố
+ Các Cục, Sở liên quan và Ủy ban nhân dân Quận, Huyện
- Về hệ thống các công cụ chính sách quản lý XNK áp dụng trong thời gian qua
Cũng giống như các nước trên thế giới, nước ta đều thiết lập hầu hết các công
cụ chính sách cần thiết để điều chỉnh các hoạt động XNK. Đồng thời tuỳ theo mục tiêu
phát triển kinh tế trong từng giai đoạn để thực thi các công cụ và giải pháp đã được
thiết lập cho thích hợp vừa phải phát triển thương mại nhưng đảm bảo việc bảo hộ nền
sản xuất trong nước.
2.1.3. Thực trạng kiểm toán hải quan
2.1.3.1. Về con người
Số lượng cán bộ: Lực lượng KTSTQ đã tăng dần về số lượng từ năm 2005 với
210 công chức, chiếm tỷ lệ 2,7 % biên chế toàn ngành, đến năm 2009 đã tăng lên 480
công chức , chiếm tỷ lệ khoảng 4.9 % biên chế toàn ngành, so với yêu cầu trong tình
hình chuyển hoạt động hải quan từ “ tiền kiểm” sang “ hậu kiểm “ thì chưa thể đáp
ứng được, so sánh với tỷ lệ các nước trong Khu vực và trên thế giới thì rất thấp (chiếm
từ 10-25%).
Bảng 4: Số lượng nhân viên kiểm tra sau thông quan trong toàn ngành Hải quan
Đơn vị tính : người
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
Tổng biên chế ngành HQ
7913
8297
8717
9606
9731
Lực lượng kiểm toán hải quan
210
400
430
460
480
Tỷ lệ % trong toàn ngành HQ
2.7%
4.8%
4.9%
4.8%
4.9%
(Nguồn : Tổng cục Hải quan – Báo cáo tổng kết từ năm 2005- 2009)
Như vậy, với tỷ lệ số lượng cán bộ kiểm toán hải quan trên thì việc gia tăng về
42
kim ngạch xuất khẩu, số lượng tờ khai xuất, nhập khẩu, lượng hàng hoá xuất nhập qua
các năm thì với lực lượng kiểm toán hải quan thực tế sẽ không đủ nhân lực để thực
hiện khối lượng công việc phát sinh thực tế
Chất lượng cán bộ: Trình độ chuyên môn có gần 94% tốt nghiệp đại học và trên
đại học ; còn lại là cao đẳng và trung học. Trình độ ngoại ngữ tiếng Anh có 17% tốt
nghiệp đại học, có gần 65% trình độ B và C, có 12,7 % trình độ A và 5,3% tốt nghiệp
ngoại ngữ khác. Về trình độ tin học có 3% trình độ kỹ thuật viên, 100 % trình độ tin
học văn phòng và 2% trình độ B. Có 60% được đào tạo phổ cập đến nghiệp vụ kế toán,
chứng từ thương mại, Thanh toán quốc tế. Một số được đào tạo về kỹ năng kiểm toán ,
điều tra, giám định tài liệu, xử lý vi phạm hành chính
Mặc dù trình độ cán bộ đã được tiêu chuẩn hóa theo quy định của TCHQ theo
công văn 2722/TCHQ-TCCB ngày 12/6/2003, nhưng xét về mặt bằng chung tại thời
điểm hiện nay không đủ cán bộ có trình độ làm công tác KTSTQ, chưa có chuyên gia
kiểm toán sau thôngquan, đặc biệt về chuyên môn kế toán, kiểm toán doanh nghiệp. So
sánh với chuẩn mực cán bộ theo tiêu chuẩn Asean thì chưa đáp ứng được.
Cán bộ KTSTQ thường chỉ được đào tạo chuyên sâu một lãnh vực nhất định
như Tài chính kế toán, Ngoại thương, Luật,… trong khi đó công tác KTSTQ đòi hỏi
kiến thức tổng hợp. Vì vậy cán bộ hiện nay thiếu chuyên nghiệp, thiếu chuyên sâu,
chất lượng còn yếu so với yêu cầu thực tế, thiếu 06 kỹ năng cơ bản của cán bộ làm
KTSTQ . Đó là các kỹ năng: kỹ năng nắm biết luật pháp, thủ tục trong thương mại
quốc tế; kỹ năng KTSTQ ; kỹ năng kế toán; Có thực tế kinh doanh trong nước và quốc
tế kể cả hệ thống ngân hàng; Có kiến thức công nghệ thông tin bao gồm cả quá trình
xử lý thông tin điện tử, thương mại điện tử; Có kiến thức ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng
Anh) đủ để hiểu nội dung hồ sơ, chứng từ.
Về nhận thức: Cán bộ công chức kiểm toán sau thông quan trong những năm
đầu còn coi nhẹ công việc này, chưa thấy được vai trò của công việc “hậu kiểm”, tâm
lý ngại va chạm với đồng nghiệp tại khâu thông quan khi thực hiện công việc kiểm tra
Cán bộ kiểm tra sau thông quan còn có tâm lý ngại va chạm về quan hệ giữa hai khâu
43
thông quan và sau thông quan
Đến nay tình trạng này đã dần được khắc phục. Các cấp Lãnh đạo đã quan hơn
tới lĩnh vực này, cán bộ công chức ngày càng nhận thức rõ được tầm quan trọng của
nghiệp vụ kiểm toán sau thông quan.
2.1.3.2. Về đào tạo
Ngành Hải quan đã chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo lại cho công chức làm
công tác KTSTQ . Đã phối hợp với các đơn vị trong và ngoài ngành Tài chính, trong
và ngoài nước tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ KTSTQ , trị giá tính thuế theo
GATT, bồi dưỡng kiến thức về nghiệp vụ ngoại thương, thanh toán quốc tế…
Hiện nay toàn ngành đã đào tạo 11 chuyên gia chuyên sâu về nghiệp vụ
KTSTQ do Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA- Japan International Cooperation
Agency) nhằm đào tạo xây dựng đội ngũ giảng viên chủ chốt phục vụ tiến trình hiện
đại hóa thủ tục hải quan Việt Nam.
Hệ thống đào tạo công chức Hải quan Việt Nam có thể chia thành 2 giai đoạn từ
những năm trước 2005 và giai đoạn từ năm 2006 trở lại đây.
Giai đoạn từ năm 2005 trở về trước, nhiệm vụ đào tạo công chức Hải quan do
Trường Cao đẳng Hải quan phụ trách (24 giáo viên và 37 cán bộ hành chánh- số liệu từ
báo cáo của Dự án hỗ trợ kỹ thuật chuẩn bị cho dự án hiện đại hóa Hải quan Việt
Nam– 2005)[Trích báo cáo dự án hỗ trợ kỹ thuật chuẩn bị cho dự án hiện đại hóa Hải
quan VN -2005], là đơn vị đào tạo duy nhất của ngành Hải quan thành lập từ năm 1995
với các nhiệm vụ chính:
- Đào tạo bậc cử nhân cao đẳng Hải quan thời hạn 3 năm.
- Đào tạo nghiệp vụ Hải quan tổng hợp, tập trung ngắn hạn 3 tháng .
- Đào tạo các chuyên đề Hải quan ngắn hạn từ 3 ngày trở lên.
Kể từ năm 2006 đến nay, Trung tâm đào tạo nghiệp vụ Hải quan thuộc TCHQ đã
đảm nhận nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng công chức toàn ngành với sự hỗ trợ đắc lực của đội
ngũ hơn 50 giảng viên kiêm chức. Đã mở và đào tạo được nhiều lớp nghiệp vụ chuyên sâu
như: nghiệp vụ kiểm toán, kỹ năng tranh tụng trước toà, kỹ năng kiểm tra hồ sơ, chứng từ;
44
thu thập thông tin; lập hồ sơ hành chính và xử lý các vụ việc hành chính …
Bảng 5: .Kết quả đào tạo nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan qua các năm
Năm
2007
Tỷ lệ
2008
Tỷ lệ
2009
Tỷ lệ
Nghiệp vụ Tổng hợp
369
306
489
Nghiệp vụ thông quan
1423
2582
1792
(ĐVT: Lượt người )
Nghiệp vụ KTSTQ
1081
9,4% 1209
12% 415
3,5%
Nghiệp vụ Kiểm soát CBL và xử lý
558
1095
2449
8.071
4885
6594
Các loại hình khác (ngoại ngữ, tin học, quản lý nhà nước, …tập huấn ngoài nước)
Toàn ngành đào tạo và bồi dưỡng
11.502
10.077
11.739
(Nguồn : Tổng cục Hải quan - công văn số 7951/TCHQ ngày 29/12/2009)
Hệ thống tài liệu hỗ trợ cho công tác đào tạo nghiệp vụ Hải quan nói chung
cũng như nghiệp vụ Kiểm tra sau nói riêng, được đội ngũ giảng viên kiêm chức đảm
nhiệm biên soạn dựa trên hai nội dung chính: các quy định hiện hành của Luật hải
quan và những khái niệm chuẩn trong quy trình hiện đại hóa Hải quan của Tổ chức Hải
quan Thế giới (WCO).
Về hệ thống tài liệu phục vụ đào tạo nghiệp vụ KTSTQ và các nghiệp vụ hỗ trợ
như: kế toán, điều tra cơ bản, tố tụng, thẩm định tài liệu… cơ bản được đội ngũ giảng
viên cùng các chuyên gia trong và ngoài ngành Hải quan xây dựng dựa trên những quy
định hiện hành của hệ thống Luật Việt Nam, những công ước Quốc tế Việt Nam công
nhận, nên về mặt lý thuyết giúp học viên nắm vững về quy trình nghiệp vụ kiểm tra
sau.
Tuy vậy, mặc dù đã xây dựng kế hoạch đào tạo tổng thể, chuyên sâu cho toàn
hệ thống nhưng tổ chức triển khai thực hiện chưa có hiệu quả. Nội dung đào tạo chưa
45
thật cụ thể, chưa thật phù hợp với đối tượng, thời gian. Nên kết quả chưa cao.
2.1.3.3. Kết quả đạt được hoạt động kiểm toán sau thông quan
2.1.3.3.1- Kết quả tổng hợp
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC NĂM 2005
Thu ngân sách toàn ngành Hải quan : 49.978 tỷ đồng
Tổng số vụ kiểm tra sau thông quan : 375 vụ
Trong đó :
+ Kiểm tra tại trụ sở Hải quan : 364 vụ
+ Kiểm tra tại doanh nghiệp : 11 vụ
Tổng số tiền thuế phải truy thu : 9,5 tỷ đồng
Tổng số tiền đã truy thu : 8,5 tỷ đồng
Tỷ lệ thu ngân sách kiểm tra sau trên tổng thu ngân sách chiếm : 0.017%
(Nguồn : Tổng cục hải quan- Báo cáo tổng kết năm 2005)
Đây là năm thứ 3 kể từ khi hoạt động ( năm 2003) việc nhận thức về vai trò của
khâu “hậu kiểm” chưa thực sự nâng cao. Do vậy kết quả thu thuế từ khâu kiểm tra sau
này chưa cao, nhưng bước đầu đã khẳng định được vai trò “hậu kiểm” trong hoạt động
kiểm soát của ngành Hải quan.
Công tác kiểm tra sau thông quan đã tập trung vào các trường hợp gian lận về
trị giá hải quan, về các loại hình sản xuất- xuất khẩu, gia công, đầu tư. Kiểm tra sau
thông quan đối với một số mặt hàng nhập khẩu trọng điểm có thuế suất cao, trị giá lớn
như : ôtô, xăng dầu, linh kiện lắp ráp theo tỷ lệ nội địa hóa.
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC NĂM 2006
Thu ngân sách toàn ngành Hải quan : 54.500 tỷ đồng
Tổng số vụ kiểm tra sau thông quan : 513 vụ
Trong đó :
+ Kiểm tra tại trụ sở Hải quan : 484 vụ
+ Kiểm tra tại doanh nghiệp : 29 vụ
46
Tổng số tiền thuế phải truy thu : 79 tỷ đồng
Tổng số tiền đã truy thu : 57 tỷ đồng
Tỷ lệ thu ngân sách kiểm tra sau trên tổng thu ngân sách chiếm : 0,1%
(Nguồn : Tổng cục hải quan- Báo cáo tổng kết năm 2006)
Năm 2006 là năm chuẩn bị các điều kiện cơ bản cho hoạt động kiểm tra sau
thông quan lâu dài theo hướng chính qui chuyên nghiệp và thực hiện việc kiểm tra theo
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan, được cụ thể hóa trong chỉ thị
800/CT-TCHQ ngày 01/03/2006 về tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan đối
với hàng hóa XNK của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan. Đã mở rộng phạm vi
quyền kiểm tra các doanh nghiệp XNK. Do vậy so với 2005 số vụ kiểm tra tăng lên và
thu ngân sách từ kiểm tra sau cũng tăng lên rõ rệt.
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC NĂM 2007
Thu ngân sách toàn ngành Hải quan: 72.602 tỷ đồng
Tổng số vụ kiểm tra sau thông quan: 628 vụ
Trong đó :
+ Kiểm tra tại trụ sở Hải quan: 591 vụ
+ Kiểm tra tại doanh nghiệp: 37 vụ
Tổng số tiền thuế phải truy thu: 180 tỷ đồng
Tổng số tiền đã truy thu: 90,9 tỷ đồng
Tỷ lệ thu ngân sách kiểm tra sau trên tổng thu ngân sách chiếm : 0,12%
(Nguồn : Tổng cục hải quan- Báo cáo tổng kết năm 2007)
Năm 2007 là năm đầu tiên gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO của Việt
Nam, trong lĩnh vực Hải quan phải thực hiện cam kết nhiều đổi mới về qui trình thủ
tục trong kế hoạch hiện đại hóa ngành Hải quan. Số lượng doanh nghiệp tham gia
XNK gia tăng một cách đáng kể, kéo theo lượng hàng hóa XNK gia tăng. Dẫn tới vấn
đề “hậu kiểm ”càng phải thể hiện vai trò của mình để thực hiện mục tiêu tạo thuận lợi
cho thương mại phát triển nhưng vẫn đảm bảo được nguồn thu cho ngân sách.
Năm 2007, lực lượng kiểm tra sau thông quan tập trung vào thực hiện 03 nhóm
47
nhiệm vụ :
- Kiểm tra sau thông quan đánh giá sự tuân thủ của doanh nghiệp trong khai báo
Qua hoạt động kiểm tra, đã đánh giá được sự tuân thủ pháp luật của phần lớn
các doanh nghiệp nhập khẩu các mặt hàng lỏng, hàng rời (truy thu 66,5 tỷ đồng ), vải
vụn, nguyên liệu được miễn thuế 5 năm theo pháp luật về đầu tư (đã truy thu 3,3 tỷ
đồng), ôtô nhập khẩu tạo tài sản cố định của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong
lĩnh vực vận tải hành khách công cộng bằng đường bộ (dự kiến truy thu khoảng vài
chục tỷ đồng ), vỏ bao thuốc lá…
- Tập trung xác định và kiểm tra đối với những doanh nghiệp, loại hình, mặt hàng
trọng tâm, trọng điểm như : Loại hình doanh nghiệp gia công, sản xuất xuất khẩu.
Mặt hàng trọng điểm như : ôtô, sắt thép, mỹ phẩm …
Cụ thể qua kiểm tra đã phát hiện được những vi phạm nghiêm trọng, có vụ truy
thu hàng chục tỷ đồng (vụ Baseaserco Vũng Tàu, ôtô chở khách, thép lá cán nguội, vật
tư thiết bị điện của ban quản lý điện miền Trung, miền Nam…).
Đã phát hiện và kiến nghị Thủ tướng chấn chỉnh những yếu kém trong quản lý
Nhà nước, như yếu kém trong quản lý lĩnh vực đầu tư (thẩm định dự án, kiểm tra sau
cấp phép, vai trò điều phối quản lý, kiểm tra của cơ quan cấp phép đầu tư, Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố).
Qua kiểm tra đã tìm thấy những yếu kém quan trọng trong quản lý của cơ quan
Hải quan như:
* Yếu kém trong kiểm tra xuất xứ hàng hóa:
+ Không nắm vững yêu cầu quản lý, như cho rằng kiểm tra xuất xứ chỉ là kiểm
tra giấy C/O, hình thức không sai thì coi như xuất xứ đúng, không biết rằng yêu cầu
chính của kiểm tra xuất xứ là xem hàng hóa có đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ không.
Thiếu các kiến thức liên quan đến xuất xứ hàng hóa (như mã số, mã vạch) nên ngay cả
khi trên nhãn hiệu, bao bì sản phẩm thể hiện xuất xứ của một nước, nhưng C/O lại xác
định xuất xứ của một nước khác mà cán bộ Hải quan cũng không phát hiện ra. Không
hiểu biết về mặt hàng, công nghệ sản xuất chúng nên không phát hiện được các nghi
vấn về vấn đề xuất xứ. Ví dụ: Hàm lượng trị giá của thép lá cán nguội chủ yếu được
48
hình thành từ nguyên liệu và ở công đoạn cán nóng, nếu một quốc gia chỉ thực hiện
công đoạn cán nguội thì không thể đảm bảo tiêu chuấn xuất xứ. Hoặc để sản xuất ra
sản phẩm sữa bột hộp phải qua các công đoạn chính là sấy ướt, sấy khô, pha trộn, đóng
gói, trong đó nguyên liệu và công đoạn sấy khô chiếm phần giá trị gia tăng chủ yếu
của sản phẩm. Nếu nguyên liệu không phải của nước hay khu vực xuất xứ, công đoạn
sản xuất lại chỉ gồm pha trộn, đóng gói thì phải nghĩ ngay đến tiêu chuẩn xuất xứ có
đáp ứng không.
* Yếu kém trong nắm vững chính sách, pháp luật:
+ Khi áp dụng trị giá GATT thì một số nơi không quan tâm đến việc giá đã bao
gồm đủ các thành phần của trị giá (C, I, F) chưa. Chính vì thế mà có nơi đã tính thuế
theo giá CNF theo điều kiện giao hàng trong hợp đồng, không cộng I.
+ Hàng nhập khẩu theo điều kiện giao hàng FOB, người nhập khẩu tự thuê tàu
và mua bảo hiểm, có hợp đồng, có chứng từ I, F, nhưng Hải quan không căn cứ vào
chứng từ I, F để xác định trị giá tính thuế, mà lại tính I, F theo công thức (thấp hơn
chứng từ).
+ Không nắm vững các khái niệm trong các văn bản pháp luật nên lúng túng.
Ví dụ, trong lĩnh vực ưu đãi đầu tư, các khái niệm “linh kiện”, “nguyên liệu”, “vật tư”
là khác nhau, nhưng cán bộ Hải quan không phân biệt được nên áp dụng miễn thuế sai.
* Yếu kém trong quản lý đối với hàng gia công:
Hiện nay, lượng nhân lực bố trí cho quản lý hàng gia công là khá lớn, nhưng
hiệu quả quản lý rất thấp, hầu như doanh nghiệp khai thế nào thì hải quan chấp nhận y
như thế, không phát hiện sai sót, gian lận gì. Có tình trạng đó là do:
+ Nhận thức không đúng: hiện tượng khá phổ biến là phần lớn công chức quản
lý hàng gia công nhận thức rằng, pháp luật đã quy định doanh nghiệp chịu trách nhiệm
về định mức, tỷ lệ hao hụt, tỷ lệ tiêu hao thì hải quan không cần kiểm tra. Đó là một sai
lầm nghiêm trọng. Pháp luật chỉ quy định doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm, chứ
không hạn chế việc cơ quan hải quan kiểm tra, mà trái lại, với trách nhiệm một cơ
quan quản lý, cơ quan hải quan phải kiểm tra. Tất nhiên là phải có biện pháp kiểm tra
49
phù hợp để không gây phiền hà, khó khăn, làm tăng chi phí cho doanh nghiệp.
+ Từ nhận thức không đúng dẫn đến biện pháp quản lý không đúng, không hiệu
quả: tập trung hầu hết nguồn lực vào các khâu quản lý chỉ mang tính hình thức (đăng
ký hợp đồng, đăng ký hồ sơ hải quan, thanh khoản), mà không tập trung nguồn lực cho
yêu cầu mấu chốt của quản lý hàng gia công là quản lý lượng nguyên liệu nhập khẩu,
các định mức và lượng sản phẩm xuất khẩu.
- Xây dựng lực lượng kiểm tra sau chuyên nghiệp có chuyên môn cao về nghiệp vụ
Nhận thức về kiểm tra sau trong ngành đã có những chuyển biến quan trọng .
Toàn lực lượng hoạt động kiểm tra sau thông quan đã dần biết cách làm bài bản ở một
số đơn vị như mạnh dạn tiếp cận những vấn đề khó gai góc như vấn đề xuất xứ hàng
hóa , phát hiện bất cập của chính sách và tổ chức thực hiện chính sách.
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC NĂM 2008
Thu ngân sách toàn ngành Hải quan: 117. 349 tỷ đồng
Tổng số vụ kiểm tra sau thông quan: 723 vụ
Trong đó :
+ Kiểm tra tại trụ sở Hải quan: 682 vụ
+ Kiểm tra tại doanh nghiệp: 41 vụ
Tổng số tiền thuế phải truy thu: 204,9 tỷ đồng
Tổng số tiền đã truy thu: 173,2 tỷ đồng
Tỷ lệ thu ngân sách từ kiểm tra sau trên tổng thu ngân sách chiếm : 0,15%
(Nguồn : Tổng cục hải quan- Báo cáo tổng kết năm 2008)
Năm 2008, đã xây dựng được qui trình kiểm tra sau thông quan và tổ chức
hướng dẫn thực hiện trong toàn Ngành. Nội dung kiểm tra tập trung vào các vấn đề
nổi cộm như: kiểm tra về giá, các vấn đề ưu đãi về thuế, các trường hợp miễn hoàn
thuế, không thu thuế, xuất xứ hàng hóa.
Trong quá trình thực hiện còn nhiều nhận thức khác nhau về Luật nhất là khi
xem xét xử lý các vụ việc cụ thể. Chất lượng công tác phúc tập hồ sơ tại một số Cục
Hải quan địa phương còn yếu, chủ yếu là hình thức sắp xếp lại hồ sơ, nguồn thông tin
50
thu được từ công tác phúc tập chưa hỗ trợ được nhiều cho công tác kiểm tra sau.
Đối với các vụ kiểm tra có số truy thu lớn , đòi hỏi phải có sự phối hợp trao đổi
ý kiến giữa các đơn vị trong và ngoài Ngành lên mất nhiều thời gian. Cơ sở dữ liệu
thông tin còn nhiều hạn chế khó khăn cho việc phục vụ công tác kiểm tra sau thông
quan.
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC NĂM 2009
Thu ngân sách toàn ngành Hải quan: 122.293 tỷ đồng
Tổng số vụ kiểm tra sau thông quan: 783 vụ
Trong đó :
+ Kiểm tra tại trụ sở Hải quan: 746 vụ
+ Kiểm tra tại doanh nghiệp: 37 vụ
Tổng số tiền thuế phải truy thu: 309 tỷ đồng
Tổng số tiền đã truy thu: 243 tỷ đồng
Tỷ lệ thu ngân sách từ kiểm tra sau trên tổng thu ngân sách chiếm : 0,2%
(Nguồn : Tổng cục hải quan- Báo cáo tổng kết năm 2009)
Trong năm 2009, Cục kiểm tra thông quan đã phát hiện kiểm tra và chỉ đạo lực
lượng kiểm tra được nhiều vấn đề, vụ việc rất mới, mang tính thời sự, rủi ro cao và gây
thất thu thuế lớn cho ngân sách Nhà nước như: phí bản quyền, phí kỳ vụ, các khoản
phải cộng vào trị giá hải quan (bao gồm cơ cấu trị giá mặt hàng than xuất khẩu); Thuế
tiêu thụ đặc biệt đối với xe ôtô chở tiền nhập khẩu, xe ôtô chở người khai là xe tải Van
để hưởng thuế suất thấp. Vấn đề miễn thuế nhập khẩu của các dự án đầu tư… Kết quả
kiểm tra đã truy thu cho ngân sách khoản tiền lớn góp phần tích cực cùng toàn ngành
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thu ngân sách năm 2009.
Một số chuyên đề đạt hiệu quả rất cao như :
+ Chuyên đề phí bản quyền và các khoản phải cộng vào trị giá hảiquan đã truy
thu 73,54 tỷ đồng do Cục KTSTQ, Cục hải quan Quảng Ninh.
+ Chuyên đề kiểm tra xe chở người 5 chỗ khai là xe VAN, số tiền quyết định
truy thu 33,9 tỷ đồng, đã thu 7,5 tỷ đồng ( do Cục KTSTQ)
+ Chuyên đề kiểm tra thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe ôtô chở tiền nhập khẩu:
51
quyết định ấn định thuế đối với 11 doanh nghiệp số tiền 17 tỷ đồng (đã thu được 5,32
tỷ đồng). Giao địa phương quyết định truy thu với các doanh nghiệp khác khoảng 110
tỷ đồng.
+ Chuyên đề kiểm tra miễn thếu nhập khẩu của các dự án ưu đãi đầu tư sân Golf
- bất động sản- Nhà hàng, vui chơi có thưởng. Cục KTSTQ đã kiểm tra mẫu truy thu
đối với 02 doanh nghiệp hơn 3,7 tỷ đồng, phát hiện nhiều vấn đề trong quản lý nhà
nước đối với loại hình này.
+ Chuyên đề KTSTQ mặt hàng thép Bo. Chỉ đạo Cục Hải quan Hà Nội KTSTQ
tại trụ sở 01 Doanh nghiệp. Dựa trên kết quả kiểm tra, tham mưu cho Tổng Cục ban
hành công văn hướng dẫn chung trong toàn ngành, làm căn cứ để lực lượng KTSTQ
triển khai chỉ đạo truy thu thuế đối với các lô hàng tương tự đã nhập khẩu (dự kiến số
tiền truy thu trên 70 tỷ đồng).
+ Đang tiến hành các biện pháp cưỡng chế hành chính theo qui định của Pháp
luật đối với 01 Doanh nghiệp liên doanh vận tải hành khách để truy thu số tiền 25,01 tỷ
đồng; 01 doanhnghiệp nhập khẩu mặt hàng thẻ nhớ điện thoại di động, máy ảnh số tiền
14,4 tỷ đồng.
2.1.3.3.2. Đánh giá một số vụ việc KTSTQ cụ thể
(1) Trên lãnh vực nhập nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu:
Vụ thứ nhất: Vụ KTSTQ tại Công ty T - Bình Dương
- Dấu hiệu vi phạm
+ Nguyên phụ liệu không tái xuất còn tồn từ năm 2005 trở về trước tại kho bảo
thuế của Công ty T theo thông báo thuế số 929/TB-KCNST ngày 21/11/2006 số tiền
thuế là 138.940.000.000 đồng. Sau đó theo số liệu quyết toán nguyên phụ liệu tồn kho
bảo thuế đến ngày 31/12/2006 của Chi cục hải quan Sóng thần thì nguyên phụ liệu
nhập khẩu trước ngày 31/12/2005 chỉ còn tồn gọng nhựa gắn nhãn, số lượng 5.899.175
cái và ngày 09/03/2007 Công ty đã thực hiện tiêu hủy nguyên phụ liệu trên
+ Phế liệu : Công ty có xuất bán phế liệu nhưng không khai báo với cơ quan hải
quan.
+ Hồ sơ thanh khoản: Kiểm tra hồ sơ thanh khoản năm 2006 của Công ty phát
hiện một số sai sót nhập liệu.
52
+ Định mức: Nghi ngờ Công ty khai báo định mức cao, định mức bất hợp lý
- Chuẩn bị trước khi tiến hành KTSTQ
+ Kiểm tra hồ sơ thanh khoản: yêu cầu Chi cục hải quan S.T cung cấp hồ sơ
thanh khoản. Kiểm tra hồ sơ thanh khoản năm 2006, 2007 đối chiếu số liệu thanh
khoản với tờ khai XNK.
+ Lựa chọn định mức để kiểm tra
+ Lập kế hoạch kiểm tra
+ Yêu cầu Công ty cung cấp hồ sơ
+ Dự kiến một số nội dung sẽ tiến hành kiểm tra
- Thành lập đoàn kiểm tra
- Nội dung các công việc kiểm tra
+ Kiểm tra giấy phép kinh doanh, giấy phép thành lập kho bảo thuế, kiểm tra tư
cách pháp nhân của người đại diện theo pháp luật.
+ Kiểm tra hợp đồng chuyển giao công nghệ và các hoạt động liên quan.
+ Kiểm tra hồ sơ hải quan của các lô hàng XNK. Kiểm tra hồ sơ thanh khoản
kho bảo thuế.
+ Kiểm tra chứng từ kế toán, sổ sách kế toán, báo cáo tài chính.
+ Kiểm tra chứng từ kho, chuơng trình quản lý theo dõi xuất nhập kho, báo cáo
tồn kho.
+ Kiểm tra thực tế hàng tồn kho với báo cáo tồn kho.
- Cách thức kiểm tra
+ Tiếp nhận sự trình bày của Công ty
+ Đưa ra nhận định hướng kiểm tra
+ yêu cầu cung cấp báo cáo
+ Phân tích những vần đề và kiểm tra thực tế
+ Ghi nhận những lỗi sai phạm của Công ty
+ Yêu cầu Công ty giải trình những lỗi sai phạm
- Quá trình kiểm tra phát hiện như sau:
Nghiên cứu hồ sơ thanh khoản Hải quan nhận thấy Công ty kê khai không có
lượng nguyên phụ liệu tồn kho quá thời hạn 365 ngày kề từ ngày đăng ký với hải quan
53
đến ngày thanh khoản phải chịu thuế.
Nguyên phụ liệu tồn từ năm 2005 trở về trước tại kho bảo thuế không tái xuất,
hải quan đã ra thông báo thuế số tiền là 138.940.000.000 đồng, nhưng sau đó công ty
đã thanh khoản chỉ còn tồn 5.899.175 cái gọng nhựa gắn nhãn và Công ty đã xin tiêu
huỷ.
Hồ sơ thanh khoản năm 2007 Công ty đã sử dụng hết nguyên phụ liệu năm
2006 trở về trước chỉ còn tồn năm 2007. Qua kiểm tra thực tế Hải quan phát hiện một
lượng lớn nguyên phụ liệu nhập khẩu có nguồn gốc năm 2006.
Kiểm tra hồ sơ thanh khoản phát hiện một số lỗi cập nhật dữ liệu không chính
xác.
Kiểm tra định mức Công ty khai báo với Hải quan với định mức trên chương
trình TIV ( định mức do công ty mẹ ở nước ngoài cung cấp) và lệnh sản xuất thực tế
của Công ty phát hiện kiểm tra 142 định mức, đã phát hiện 49 định mức Công ty khai
báo cao hơn so với thực tế sản xuất và tính ra số thuế truy thu là khá cao.
Kho nguyên phụ liệu quản lý rất chặt chẽ tách bạch giữa nguyên phụ liệu loại
hình kho bao thuế với loại hình kinh doanh (nguyên phụ liệu loại hình kho bảo thuế
dán tem kiểm soát màu xanh, nguyên phụ liệu loại hình kinh doanh dán tem kiểm soát
màu đỏ). Tuy nhiên đến khâu sản xuất không tách bạch theo hai loại hình. Công ty
không khái báo theo mã nguyên phụ liệu của chương trình (TIV) và (VIE): 43.000 mã
nguyên phụ liệu, mà khai báo hải quan gộp lại chỉ còn 50 mã nguyên phụ liệu, điều
này gây khó khăn cho công tác quản lý hải quan.
Hải quan phát hiện qua kiểm tra thấy Công ty tự ý thay đổi mã sản phẩm đối với
sản phẩm không đạt chất lượng (nghĩa là cùng một mã sảnn phẩm nhưng khi khai báo
với hải quan khai thành nhiều mã sản phẩm khác nhau). Tự ý tiêu huỷ cho, tặng….
Sổ sách chứng từ kế toán, báo cáo tài chính: Công ty không in sổ sách chi tiết
theo qui định. Công ty không mở sổ chi tiết để phản ánh số lượng của từng nguyên vật
liệu, vật tư khi nhập kho. Kế toán không theo dõi chi tiết nguyên phụ liệu của kho bảo
thuế, cuối kỳ kế toán dựa vào số liệu báo cáo từ kho bảo thuế để lập báo cáo tài chính.
Có sự chênh lệch số liệu về trị giá giữa kho nguyên phụ liệu và sồ kế toán ( 8 tỷ VNĐ),
54
tại cùng một thời điểm số liệu cuối kỳ này không được phản ánh đúng đầu kỳ sau.
Hàng tồn kho, khi tiến hành khảo sát và kiểm tra thực tế kho, hải quan phát hiện
kho còn tồn nguyên phụ liệu có nguồn gốc nhập khẩu năm 2006, trong khi đó Công ty
khai báo (thanh khoản năm 2007) là sử dụng hết nguyên phụ liệu năm 2006 trở về
trước chỉ còn tồn nguyên phụ liệu năm 2007 năm 2008. Công ty thừa nhận vấn đề này
là do nguyên phụ liệu dư do nhà cung cấp nguyên phụ liệu cung cấp dư so với chứng
từ.
- Những vi phạm của Công ty qua KTSTQ phát hiện :
+ Khai tăng so với dịnh mức tiêu hao mà không khai bổ sung trước thời điểm cơ
quan hải quan kiểm tra.
+ Tự ý thay đổi mục đích sử dụng hàng hóa (thành phẩm, phế liệu) được miễn
thuế mà không khai thuế.
+ Khai sai về số lượng đối với hàng hóa nhập khẩu dẫn đến thiếu số tiền thuế
phải nộp
+ Lập và khai không đúng các nội dung trong hồ sơ thanh khoản dẫn đến tăng
số tiền thuế được miễn.
- Kết quả từ công tác KTSTQ
+ Truy thu thuế : 30.783.534.000 đồng
+ Phạt vi phạm hành chính trong lĩng vực thuế 5.176.659.000 đ
- Kết quả khai báo bổ sung
+ Truy thu thuế : 3.188.148.000 đồng
+ Phạt chậm nộp số tiền thuế : 317.515.000 đồng
+ Phạt vi phạm hành chính về hải quan : 1.000.000 đồng
+ Khai báo bổ sung nguyên phụ liệu dư, trị giá: 22.177.991.000 đồng
Vụ thứ hai : Công ty D.Y chuyên hoạt động nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng
xuất khẩu (mặt hàng ảnh, album). Qua thông tin thu được biết công ty bán sản phẩm
vào nội địa mà không khai báo với cơ quan Hải quan, cơ quan Hải quan tiến hành điều
tra, phân tích hồ sơ, chứng từ liên quan đến hoạt động XNK của công ty. Kết quả được
55
xác định như sau:
Đối với loại hình kinh doanh: nhập nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu thì
tất cả sản phẩm đều phải xuất khẩu trong thời gian ân hạn thuế và nhà nước không thu
thuế nhập khẩu nguyên liệu, công ty sẽ tiến hành thanh khoản với cơ quan hải quan
phần nguyên liệu nhập khẩu với thành phẩm xuất khẩu căn cứ trên định mức sản xuất
01 đơn vị sản phẩm và hao hụt cho phép trong quá trình sản xuất. Phần nguyên liệu
thừa không xuất khẩu, tiêu thụ nội địa phải khai báo với cơ quan Hải quan và phải nộp
thuế theo quy định hiện hành.
Tuy vậy cho đến thời điểm cơ quan Hải quan kiểm tra phát hiện, công ty hoàn
toàn không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan Hải quan việc đã
sử dụng nguyên liệu nhập khẩu sản xuất hàng xuất khẩu để sản xuất ra sản phẩm tiêu
thụ vào thị trường nội địa. Khi bị phát hiện công ty biện minh rằng đã sử dụng định
mức hao hụt của Nhà nước cho phép để bán những sản phẩm là thứ phẩm. Tuy nhiên
lý lẽ trên không được chấp nhận vì cơ quan Hải quan đã chứng minh trên các hóa đơn
bán hàng và xác minh đối tác mua thực tế và một thực tế là công ty đã tiêu thụ một số
lượng lớn sản phẩm vào nội địa, không kê khai truy nộp thuế nhập khẩu nguyên phụ
liệu dẫn đến tình trạng công ty không có đủ sản phẩm xuất khẩu để thanh lý cho các tờ
khai nhập khẩu nguyên phụ liệu, dẫn đến tình trạng nợ đọng thuế kéo dài.
Kết quả KTSTQ xác định, công ty vi phạm quy chế quản lý Hải quan đối với
nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu. Cơ quan Hải quan xác định số thuế
NK tương ứng với số nguyên phụ liệu nhập khẩu công ty dùng sản xuất sản phẩm tiêu
thụ nội địa là 3,183 tỷ đồng. Cơ quan Hải quan tiến hành xử phạt và truy thu đủ tiền
thuế nộp ngân sách Nhà nước.
(2). Trên lĩnh vực hàng nhập kinh doanh :
* Hành vi vi phạm trong việc khai báo trị giá tính thuế:
- Công ty TNHH Thương mại T. H đăng ký nhập khẩu các mặt hàng: sữa các
loại, thức uống bổ dưỡng Socola uống liền, kẹo trái cây từ công ty N. Thai Lan
Kết quả kiểm tra sau thông quan: Từ thu thập thông tin nghi vấn trong việc
nhập khẩu ủy thác thành phẩm thương hiệu N để phân phối trên thị trường nội địa của
56
công ty TNHH T. H cho công ty TNHH N Việt Nam là không đúng nội dung giấy
phép đầu tư, vi phạm luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Cơ quan Hải quan đã tiến
hành kiểm tra toàn bộ hồ sơ nhập khẩu; làm việc với công ty; yêu cầu công ty cung cấp
hồ sơ, chứng từ kế toán để thu thập tài liệu chứng minh hành vi vi phạm pháp luật về
thuế của công ty.
Qua khai thác thông tin, cơ quan Hải quan đã nhận định Công ty TNHH
Thương mại T. H là đại lý độc quyền của Công ty N. Thái Lan tại Việt Nam, có khả
năng sai phạm trong việc khai báo trị giá tính thuế đối với các lô hàng nhập khẩu vừa
qua. Điều tra mở rộng toàn bộ tờ khai nhập khẩu của công ty, nhận thấy: Công ty
không xuất trình hợp đồng đại lý mua bán và không khai báo tính thuế theo giá được
quy định đối với hàng hóa mua bán theo hợp đồng đại lý mà khai báo theo giá trên hóa
đơn nhập khẩu. Cơ quan Hải quan ra quyết định KTSTQ đối với công ty. Kết quả
KTSTQ xác định công ty kê khai, xác định không đúng các căn cứ tính thuế. Cụ thể:
Doanh nghiệp phải cung cấp 02 hợp đồng đại lý ký kết giữa công ty TNHH
Thương mại T. H và Công ty N. Thái Lan để chứng minh mối quan hệ giữa hai bên.
Ngoài ra, bằng biện pháp phân tích giá bán hàng nhập khẩu trên cơ sở thông tin thu
thập, đơn vị KTSTQ đã củng cố thêm chứng cứ, khẳng định việc thực hiện hợp đồng
đại lý là có thật trên thực tế, thể hiện qua bảng giá mua và bảng giá bán, trong đó có
các khoản hoa hồng đại lý được quy định cho người nhập khẩu, người phân phối,
người bán lẻ trong cơ cấu giá bán hàng hóa. Ngoài ra, đơn vị KTSTQ còn phát hiện
thêm các khoản chi phí quản lý, quảng cáo và tiếp thị mà Công ty thanh toán cho đại
diện Công ty N. Thái Lan chỉ định theo Hợp đồng hợp tác tiếp thị và phân phối sản
phẩm N nhằm thực hiện 02 hợp đồng đại lý đã ký.
Với những bằng chứng và số liệu được phát hiện, công ty TNHH Thương mại
T.H thừa nhận toàn bộ sai phạm về khai báo không đúng giá tính thuế do thực hiện
hợp đồng đại lý. Cơ quan Hải quan đã tiến hành truy thu số tiền thuế là 8,068 tỷ đồng
vào ngân sách Nhà nước. Đồng thời cơ quan Hải quan chuyển hồ sơ cơ quan Công an
để khởi tố hình sự về tội trốn thuế.
* Khai báo trị giá thấp để trốn thuế nhập khẩu:
- Cơ quan Hải quan tiến hành KTSTQ đối với doanh nghiệp tư nhân T.N. Qua
57
đối chiếu 68 bộ hồ sơ lưu tại cơ quan Hải quan với những chứng từ, sổ sách kế toán
lưu tại trụ sở doanh nghiệp, cơ quan Hải quan đã phát hiện 43/68 tờ khai khai báo
không đúng trị giá tính thuế. Cơ quan Hải quan đã tiến hành truy thu thuế nộp ngân
sách nhà nước 947 triệu đồng.
- Công ty TNHH và giao nhận H.V nhập khẩu lô hàng 02 xe ôtô: 01 xe ôtô hiệu
Toyota Lexus LS 430 do Nhật sản xuất, giá khai báo 20.000 USD/xe; 01 xe ôtô hiệu
BMW 745 Li 4.398 cc do Đức sản xuất, giá khai báo 22.000 USD/xe.
Qua công tác tham vấn, tham khảo thông tin giá chào bán trên Internet, có trừ
chi phí đàm phán, cơ quan Hải quan bác bỏ trị giá giao dịch đối với 02 xe ôtô trên và
điều chỉnh giá tính thuế theo phương pháp 6- giá tính thuế theo phương pháp suy luận.
Cụ thể, 01 xe ôtô hiệu Toyota Lexus LS 430 do Nhật sản xuất, giá điều chỉnh theo
phương pháp suy luận là 40.948 USD/xe; 01 xe ôtô hiệu BMW 745 Li 4.398 cc do
Đức sản xuất, giá điều chỉnh theo phương pháp suy luận là 54.204 USD/xe.
(3) Một số lĩnh vực khác:
Một số doanh nghiệp lợi dụng một số cơ quan chức năng của nhà nước quản lý
sơ hở, như cơ quan giám định để làm sai lệch bản chất, tính chất công dụng hàng hóa
nhằm áp mã số hàng hóa có thuế suất thấp. Cụ thể công ty Z.M nhập khẩu mặt hàng
thép tấm, công ty khai và kết quả giám định cũng đều khẳng định dùng phương pháp
mạ điện phân có thuế suất nhập khẩu bằng 10%. Qua công tác KTSTQ, cơ quan Hải
quan xác minh, điều tra loại thép này có phương pháp mạ là nhúng nóng, có thuế suất
nhập khẩu là 30%. Như vậy công ty đã lợi dụng sơ hở của cơ quan giám định nhằm
khai báo trốn thuế nhà nước tới 20% cho mặt hàng nhập khẩu của mình.
Các số liệu trên cho thấy sai phạm trong lĩnh vực XNK liên quan đến hoạt động
hải quan vẫn đang còn nhiều vấn đề phức tạp cần được quan tâm, đặc biệt trong bối
cảnh gian lận thương mại, trốn thuế như hiện nay thì áp lực đối với công tác KTSTQ là
rất lớn.
* Qua một số vụ vi phạm cụ thể mà công tác KTSTQ đã phát hiện và xử lý, có
thể khẳng định một số dự báo các lãnh vực mà doanh nghiệp cố ý sai phạm nhằm trốn
thuế nhà nước như sau:
Thứ nhất: Trị giá tính thuế hàng hóa, hiện nay việc gian lận thương mại qua giá
58
tính thuế ngày càng đa dạng và tinh vi hơn. Doanh nghiệp khai báo thấp giá nhập khẩu
để trốn thuế, khai cao hàng xuất khẩu để hoàn thuế đầu vào: vấn đề này vẫn là phổ
biến. Vì vậy kiểm tra trị giá hải quan đối với hàng hoá XNK là một mục kiểm toán
quan trọng nhất trong hoạt động KTSTQ.
Thứ h ai : Mã số thuế nhập khẩu: Việc phân loại hàng hóa là một trong những
thủ tục thương mại quan trọng nhất do Hải quan quản lý. Đây là một lĩnh vực kỹ thuật
cao đòi hỏi có những chuyên gia được đào tạo bài bản và có nhiều năm kinh nghiệm.
Biểu thuế hiện nay được xây dựng dựa trên cơ sở phân loại hàng hóa theo Danh mục
HS, tuy nhiên do trình độ công nghệ phát triển ngày càng cao, cho nên thường xuyên
có những hàng hóa mới xuất hiện trên thị trường, vì vậy còn xảy ra tình trạng một mặt
hàng có thể phân loại áp mã tính thuế vào nhiều mức khác nhau, gây nên sự tranh chấp
giữa cơ quan quản lý và đối tượng nhập khẩu. Mặt khác, trong biểu thuế còn có quá
nhiều bậc, với mức thuế suất khác nhau rất nhiều.
Chính từ cấu trúc phức tạp của biểu thuế, nên gây khó khăn cho cả người quản
lý và người thực hiện, thậm chí còn tạo những kẽ hở để người nhập khẩu ẩn lậu thuế.
Thứ ba: Khai gian định mức sử dụng nguyên phụ liệu đối với loại hình gia
công, sản xuất xuất khẩu: việc này có thể là vấn đề lớn mà doanh nghiệp lợi dụng
chính sách ưu đãi của nhà nước để gian lận.
Doanh nghiệp gian lận loại hình này bằng nhiều cách như: khai định mức cao
hơn thực tế sản xuất để dôi dư nguyên phụ liệu, nhằm tiêu thụ nguyên phụ liệu hay
thành phẩm vào thị trường nội địa mà không khai báo, nộp thuế cho nhà nước. Hoặc
doanh nghiệp lợi dụng sự thông thóang, tạo điều kiện thuận lợi miễn kiểm tra hàng hóa
thực tế để xuất khống nhằm dôi dư nguyên phụ liệu hoặc thành phẩm tiêu thụ nội địa,
gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp làm ăn chân
chính, tạo môi trường cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động kinh tế nói chung.
Thứ tư: Gian lận, giả mạo hàng hóa có xuất xứ từ các nước ASEAN (C/O Form
D) để được hưởng thuế suất ưu đãi, đây là hiện tượng mới, có thể lan rộng nếu ngành
Hải quan không có biện pháp quản lý hữu hiệu.
Thứ n ăm , Lợi dụng cơ chế ưu đãi miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế với doanh nghiệp
59
đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để gian lận, trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế.
Để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhà nước đưa ra các chính sách ưu đãi,
miễn thuế cho các dự án đầu tư. Ví dụ, nhà nước cho phép miễn thuế nhập khẩu đối
với máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải dùng trong dây chuyền công nghệ, khi thay
đổi mục đích sử dụng phải khai báo với cơ quan quản lý và nộp đủ thuế. Tuy nhiên,
thực tế nhiều năm qua có nhiều doanh nghiệp lợi dụng chính sách ưu đãi của nhà nước
thực hiện hoạt động không minh bạch gây nhiều khó khăn, tiêu tốn nhiều thời gian
kiểm tra, quản lý của nhà nước.
2.1.3.4. Công tác phối hợp thực hiện
* Phối hợp trong ngành
Tại cơ quan Tổng cục, việc phối hợp công tác giữa Cục KTSTQ và các đơn vị
Vụ, Cục chưa được chặt chẽ trong lĩnh vực chỉ đạo nghiệp vụ, cung cấp và trao đổi
thông tin.
Trong những năm 2005, 2006, 2007 Tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố và các
Chi cục: chức năng các đơn vị còn chồng chéo nhau giữa các đơn vị như giá, thuế,
kiểm soát, và KTSTQ, dẫn đến tình trạng các đơn vị không làm hết chức năng của
mình, không phát huy hết nguồn lực, giảm hiệu quả quản lý.
Việc phối hợp giữa các Cục Hải quan tỉnh, thành phố và Tổng cục chưa thật sự
tốt. Nhiều vụ việc liên quan đến nhiều đơn vị nhưng Cục KTSTQ không nắm cụ thể
được chi tiết tình hình dẫn đến vụ việc điều tra chậm, lâu kết thúc hồ sơ.
* Phối hợp ngoài ngành
Mặc dù Bộ Tài chính đã có Quyết định số 1081/QĐ-BTC ngày 06/4/2004 ban
hành quy chế về việc phối hợp công tác giữa hệ thống Thuế, Hải quan, Kho bạc Nhà
nước, đồng thời ba ngành đã có văn bản số 1537/TCT-TCHQ-KBNN ngày 25/4/2004
hướng dẫn Quyết định trên, tuy nhiên việc triển khai thực hiện ở cấp Trung ương cũng
như địa phương chưa thật sự đạt hiệu quả.
Thông tư liên tịch số 01/2006/TTLT-BTC-NHNN ngày 04/01/2006 giữa Bộ Tài
chính và Ngân hàng Nhà nước đã tạo cơ sở pháp lý cần thiết trong việc trao đổi thông
tin với hệ thống ngân hàng phục vụ công tác KTSTQ. Trước đó, việc trao đổi và được
cung cấp thông tin liên quan đến thanh toán quốc tế qua hệ thống ngân hàng của lực
60
lượng KTSTQ gặp rất nhiều khó khăn.
Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể mối quan hệ giữa cơ quan hải quan
và các cơ quan có liên quan khác như vận tải, bảo hiểm, quản lý thị trường, công an,…
trong trao đổi, cung cấp thông tin. Vì vậy, việc được cung cấp, trao đổi thông tin từ các
Ngành khác phục vụ công tác KTSTQ còn nhiều hạn chế.
Ngành Hải quan chưa chú trọng nhiều tới công tác hợp tác quốc tế với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù đã tham gia biên soạn Sổ tay KTSTQ
ASEAN, nhưng nhìn chung công tác phối hợp quốc tế chưa có hiệu quả, chưa biết tận
dụng những lợi thế của những quốc gia đi trước, đặc biệt trong tham khảo kinh nghiệm
đối với công tác rất mới này.
2.1.3.5. Thực trạng về hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu phục vụ công tác kiểm toán sau
thông quan
Thông tin phục vụ cho công tác KTSTQ rất hạn chế cụ thể:
Đối với hoạt động KTSTQ, mặc dù cơ sở pháp lý cho việc cập nhật, khai thác,
sử dụng và quản lý thông tin đã được quy định tại các văn bản pháp quy về công tác
KTSTQ nhưng trong vấn đề này còn rất nhiều hạn chế và bất cập. Có thể đánh giá hệ
thống KTSTQ hiện nay không có đủ thông tin để chủ động thực hiện nhiệm vụ.
* Tại cấp Tổng cục
- Cục KTSTQ đã phối hợp Cục Công nghệ thông tin xây dựng Danh bạ doanh
nghiệp hoạt động XNK trên phạm vi toàn quốc từ năm 2004. và cuối năm 2008 đã
hoàn thành đưa vào hệ thống quản lý rủi ro. Tuy nhiên, thông tin trên danh bạ chưa
đạt yêu cầu quản lý. Nên việc sử dụng chưa đạt hiệu quả.
- Thực tế KTSTQ quan đến nay chưa có một hệ thống phần mềm quản lý rủi ro
cung cấp thông tin phục vụ cho công tác KTSTQ. Hệ thống phần mềm cung cấp trao
đổi dữ liệu thông tin với các ngành như Kho bạc, Tổng cục Thuế,… chưa được triển
khai. Thông tin cung cấp cho việc KTSTQ hiện nay chủ yếu lấy từ bộ phận thông quan
như thông tin từ phúc tập hồ sơ, bộ phận giá tính thuế và các thông tin từ những cuộc
kiểm tra trước.
* Tại Cục Hải quan địa phương
Ngoài những bất cập như chưa có phần mềm riêng cho toàn hệ thống KTSTQ
61
như đã đề cập ở trên, việc khai thác và sử dụng các thông tin từ chương trình sẵn có
trong Ngành còn hạn chế. Cụ thể, có địa phương có tương đối đủ các chương trình
(trong phạm vi của Cục), có nơi chưa có đủ, có nơi có chương trình nhưng chưa có dữ
liệu, có nơi được cấp quyền sử dụng khai thác, có nơi bị hạn chế, có nơi bị hạn chế
hoàn toàn.
Bộ phận phúc tập hồ sơ của khâu thông quan chưa thực sự hiệu quả, mang nặng
tính hình thức, nên thông tin cung cấp cho bộ phận sau thông quan chưa nhiều và
không hiệu quả
Nhìn chung, cơ sở hạ tầng và trang thiết bị của các đơn vị còn rất yếu, thiếu
máy móc, máy cũ. Hệ thống đường truyền nhiều nơi không đảm bảo.
2.2. Những hạn chế của KTSTQ
2.2.1- Hạn chế về con người
- Chưa được sự quan tâm của Lãnh đạo các cấp trong ngành Hải quan, nhận
thức vai trò của KTSTQ trong cấp Lãnh đạo còn coi nhẹ, dẫn tới cán bộ, nhân viên
KTSTQ tâm lý không yên tâm với công việc chuyên môn.
- Số lượng nhân viên KTSTQ đến năm 2009 đạt 480 người chiếm tỷ lệ 4,9% trong
toàn ngành Hải quan, con số này còn quá ít so với tiêu chuẩn qui định, so sánh với tỷ lệ
các nước trong khu vực và trên thế giới thì rất thấp(các nước đạt từ 10-25%)
- Thực trạng của hoạt động XNK trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế theo thống
kê:
Bảng 6: Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu
Nội dung
2005
2006
2007
2008
2009
62,7
69,74
86,83
133,96
125
Tổng kim ngạch XNK hàng năm( tỷ USD) Số lượng tờ khai XNK (nghìn tờ)
1.762
1.848
2.284
2.990
3.289
59,8% 24%
22%
23%
17%
Tỷ lệ kiểm tra thực tế /tổng tờ khai (%)
(Nguồn : Tổng cục Hải quan – Báo cáo tổng kết từ năm 2005- 2009-)
Để đáp ứng được vai trò “hậu kiểm” trong qui trình hoạt động kiểm soát của
Ngành hải quan đối với hoạt động XNK khi mà tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa tại
khâu thông quan ngày càng giảm, theo cam kết khi hội nhập đến năm 2010 tỷ lệ kiểm
62
tra thực tế hàng hóa tại khâu thông quan chỉ cho phép kiểm tra là 10% hàng hoá thực tế
thông quan. Như vậy theo sự phát triển thực tế số lượng kimh ngạch XNK, số lượng
hàng hóa XNK ngày càng gia tăng, thì với số lượng nhân viên KTSTQ thực tế quá ít
ỏi dẫn tới sẽ không đáp ứng được nhu cầu thực tế của hoạt động của kiểm tra sau.
- Chất lượng cán bộ KTSTQ về thực tế chưa đáp ứng được hết yêu cầu của
nghiệp vụ KTSTQ . Cán bộ KTSTQ thường chỉ được đào tạo chuyên sâu một lĩnh vực
nhất định như Tài chính kế toán, Ngoại thương, Luật,…Trong khi đó nghiệp vụ
KTSTQ đòi hỏi kiến thức tổng hợp như: kiến thức về Ngoại thương, Kế toán- kiểm
toán, Ngoại ngữ, tin học, Nghiệp vụ hải quan, Luật, điều tra, …. Đây là một trong
những hạn chế lớn khi thực hiện nghiệp vụ KTSTQ .
2.2.2. Hạn chế về pháp lý
- Theo quy định hiện hành “trong trường hợp cần thiết và còn điều kiện thì
kiểm tra thực tế hàng hóa.”[đoạn 4-Điều 32-Luật Hải quan sửa đổi 2005] cho thấy
việc kiểm tra thực tế hàng hóa tại doanh nghiệp trong các cuộc KTSTQ là yếu tố phụ
và chưa cho phép các kiểm toán viên Hải quan kiểm tra các quy trình có sử dụng hàng
hóa nhập khẩu, đây chính là một hạn chế cho hiệu quả hoạt động KTSTQ.
Trong tương lai khi Hải quan triển khai hoàn thiện mô hình doanh nghiệp ưu
tiên (AEO) trong khâu thông quan hàng hóa “tiền kiểm”- và doanh nghiệp tự nguyện
yêu cầu KTSTQ đối với họ để củng cố uy tín kinh doanh, cũng như hưởng lợi thế ưu
tiên trong thông quan thì Luật Hải quan hiện hành chưa quy định về trường hợp này.
- Trong giai đoạn này một số địa phương vẫn còn hiểu sai về KTSTQ như giai
đoạn đầu: “e ngại KTSTQ ảnh hưởng đến đơn vị (ở Cục Hải quan); chưa quan tâm
đến kiểm tra hồ sơ sau khi đã thông quan (ở Chi cục Hải quan)….điều kiện phương
tiện làm việc thiếu thốn, không được ủng hộ (ở các Chi cục KTSTQ)” [Nguồn: TCHQ-
Báo cáo tổng kết 2007], đây có lẽ là một trong những nguyên nhân chính làm cho kết
quả hoạt động KTSTQ chưa cao mặc dù cơ sở Luật tương đối hoàn thiện, và vẫn còn
tồn tại đến hiện nay.
- Trong Luật quy định về trách nhiệm của nhân viên hải quan khi gây thiệt hại
cho doanh nghiệp, nhưng lại không có quy định bảo vệ họ trước pháp luật trong quá
63
trình tác nghiệp sử dụng phương pháp quản lý rủi ro. Trong hoạt động KTSTQ, luôn
tồn tại những rủi ro tiềm tàng khó phát hiện và Luật hải quan cũng chưa quy định bảo
vệ người kiểm toán viên khi xảy ra rủi ro kết quả ngược lại với kết luận kiểm toán tuân
thủ tốt của doanh nghiệp điều này gây tâm lý lo ngại cho nhân viên Hải quan.
- Bên cạnh, quy định khuyến khích doanh nghiệp tự kiểm tra và tự khắc phục
hậu quả nếu có sai sót, tại Khoản 4 Điều 66 Nghị định 154/2005/NĐ-CP, thì các quy
định về các mức phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan trong các giai đoạn
vừa qua là quá thấp, không có tính răng đe ngăn ngừa -vi phạm từ phía doanh nghiệp.
Khắc phục yếu điểm này, Chính phủ đã tiến hành tăng các mức phạt VPHC trong lĩnh
vực Hải quan tại Nghị định số 18/2009/NĐ-CP, ví dụ như đối với vi phạm về khai Hải
quan và khai thuế thì mức phạt tăng tối đa 20 triệu đồng, gấp đôi mức quy định trước
đây.
Tóm lại, Luật Hải quan sửa đổi 2005 cùng các quy định hướng dẫn dưới luật
trong giai đoạn từ 2006 đến nay đã tạo điều kiện mở rộng quyền hạn của hoạt động
KTSTQ như : tiến hành KTSTQ theo kế hoạch với thời hạn tối đa là 15 ngày làm việc,
nhằm thẩm định tính chính xác trong hồ sơ khai báo Hải quan của doanh nghiệp, đã
phần nào hỗ trợ cho khâu “tiền kiểm” bổ sung nguồn thu, góp phần tạo công bằng,
bình đẳng. Tương lai Luật Hải quan sẽ sửa đổi hoàn thiện hơn nữa để tạo thuận lợi
nhất cho số đông những Doanh nghiệp tuân thủ luật Hải quan, tạo môi trường hành
chính thuận lợi và tin cậy cho cộng đồng doanh nghiệp, nhằm củng cố và tạo dựng
niềm tin về hình ảnh Hải quan hiện đại trong cộng đồng .
2.2.3 Hạn chế về qui trình hoạt động kiểm toán sau thông quan
Quy trình KTSTQ đang vận hành hiện nay vẫn còn một số yếu điểm gây cản trở
lớn làm giảm hiệu quả hoạt động của lực lượng KTSTQ:
-Về mặt kỹ thuật: thiếu vắng sự hỗ trợ của hệ thống quản lý rủi ro hiện đại trong
khâu phân tích thông tin để xác định đối tượng tiến hành kiểm tra.
-Về mặt thông tin doanh nghiệp: hiện chưa đầy đủ hay nói cách khác là thiếu
hẳn những thông tin về lịch sử kinh doanh của doanh nghiệp như: thông tin nộp thuế,
ngành hàng chuyên doanh, chủ thật sự của doanh nghiệp là ai và các thông tin quan
64
trọng khác.
-Về mặt kết hợp với các bộ phận Hải quan khác, cũng như các cơ quan hành
chính bên ngoài trong việc chia sẻ thông tin có liên quan đến hoạt động doanh nghiệp
vẫn còn rất hạn chế (mất nhiều thời gian), và hiện chưa có một trung tâm dữ liệu tổng
hợp về doanh nghiệp để có thể chia sẻ thông tin giữa các cơ quan chính phủ khi cần
thiết.
Thực trạng, trong giai đoạn 1-thực hiện tại trụ sở cơ quan Hải quan, toàn bộ
công việc được cán bộ kiểm toán hải quan thực hiện thủ công dựa trên phân quyền
tiếp cận cơ sở dữ liệu thông tin sơ cấp, bao gồm: thông tin về tờ khai Hải quan, dữ liệu
trị giá Hải quan và hệ thống quản lý rủi ro khâu thông quan.
Vì vậy, khâu xử lý thông tin sơ cấp để tiến hành các bước phân tích tiếp theo là
nơi phải mất nhiều thời gian nhất, có khi mất hàng tuần mới chọn lọc được đối tượng
cần kiểm tra.
Ngoài ra, theo quy định của Công tước Kyoto thì hoạt động kiểm tra của Hải
quan diễn ra sau khi thông quan hàng hóa phải được thực hiện trên cơ sở kiểm toán
với nền tảng tiến hành dựa vào rủi ro được hệ thống xác định. Hoạt động KTSTQ hiệu
quả là phần lớn dựa vào thông tin từ hệ thống quản lý rủi ro và kết quả kiểm tra sau
phải được cập nhật vào hệ thống. Do vậy, công việc của nhân viên kiểm tra sau tại trụ
sở Hải quan sẽ trở nên nhẹ nhàng và nhanh chóng hơn với sự trợ giúp của chương trình
quản lý rủi ro và xử lý thông tin.
Tại Việt Nam, việc áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro hiện đại đã được cụ thể hóa
thành nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch hiện đại hóa Hải quan từ đầu năm 2004. Tuy
nhiên, kỹ thuật quản lý rủi ro vẫn chưa được xác định đúng tầm quan trọng cũng như lợi
ích khi tiến hành thực hiện, dẫn đến việc chậm trễ trong thực hành.
2.2.4. Hạn chế về đào tạo
Hệ thống đào tạo chưa có những giảng viên, chuyên gia trong lĩnh vực kiểm
toán sau thông quan, vì thực tế ở Việt Nam hoạt động kiểm toán hải quan còn mới và
chưa thực sự mạnh.
Hệ thống đào tạo nghiệp vụ kiểm tra sau hiện nay chỉ tập trung về lý thuyết–
phương pháp giảng dạy truyền thống thuần về lý thuyết là chính và thiếu hệ thống bài
65
tập thực hành kỹ năng KTSTQ. Trong khi đó hoạt động kiểm tra sau là một hoạt động
“hậu kiểm” cần nhiều kỹ năng thực hành lẫn kiến thức tổng hợp nhiều lĩnh vực như: kế
toán, tài chính, thanh toán quốc tế, phân tích hoạt động doanh nghiệp, kiến thức luật
thương mại, luật kinh tế và các nền tảng hành chính khác.
Chưa có nhiều lớp đào tạo chuyên sâu về các chuyên đề như Kiểm toán, Ngoại
thương, Luật, … cho cán bộ KTSTQ để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. Hệ thống tài
liệu, sách tham khảo theo chuyên đề chưa thực sự có nhiều.
Hội nghị chuyên đề về công tác KTSTQ tổ chức còn ít, nên chưa phát huy được
tính học hỏi và phổ biến kinh nghiệm giữa các đơn vị KTSTQ trong nước cũng như
trong khu vực và trên thế giới.
2.2.5. Hạn chế về hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu
Trong nghiệp vụ KTSTQ thông tin từ các doanh nghiệp hoạt động XNK là thực
sự cần thiết cho một cuộc KTSTQ. Thực tế, thông tin mà bộ phận KTSTQ có được
hiện nay chủ yếu từ khâu thông quan như bộ phận giá, phúc tập hồ sơ, nguồn thông tin
này chưa thực sự đầy đủ về hoạt động XNK của một doanh nghiệp vì chỉ trên cơ sở
phân tích hồ sơ XNK, chưa có đầy đủ một bức tranh hoàn hảo về kinh doanh của
doanh nghiệp
Chưa có một phần mềm quản lý rủi ro riêng phục vụ cho bộ phận kiểm tra sau
thông quan, nên việc lựa chọn thông tin gặp rất nhiều khó khăn vì còn mang tín chất
thủ động và phụ thuộc nhiều vào chủ quan của cán bộ kiểm toán hải quan
Sự phối hợp thông tin giữa Hải quan và các cơ quan chức năng khác như : Ngân
hàng, Thuế nội địa, Các hãng vận tải, giao nhận hàng hóa , Công an… chưa có sự nối
mạng trong cùng hệ thống, để quản lý các Doanh nghiệp. Ví dụ như: Hải quan muốn
xác minh một doanh nghiệp có bao nhiêu tài khoản ở các ngân hàng khi hoạt động
kinh doanh, thì phải gửi công văn đi bao nhiêu ngân hàng ? để có thông tin xác minh
phải mất nhiều thời gian chờ đợi trả lời.. vv
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế KTSTQ
2.3.1. Nguyên nhân chủ quan
- Nhận thức của một số Lãnh đạo các cấp trong ngành Hải quan về vị trí, vai
trò, tầm quan trọng của KTSTQ chưa đúng và đầy đủ dẫn đến công tác tổ chức, chỉ
66
đạo thực hiện chưa đúng, chưa sát sao, ngại đụng chạm, thậm chí không ủng hộ công
tác này. Cũng chính vì nhận thức chưa đúng nên tư tưởng của cán bộ, công chức làm
công tác KTSTQ chưa thật sự yên tâm, chưa cống hiến đúng khả năng của mình cho
công việc. Nguyên nhân này đã ảnh hưởng trực tiếp và toàn diện đến hiệu quả công tác
KTSTQ trong toàn ngành Hải quan.
- Tổ chức bộ máy và con người đang làm công tác KTSTQ hiện nay không thể
đáp ứng được yêu cầu quản lý theo Luật hải quan và Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu do thiếu về số lượng, yếu về chất lượng đặc biệt là yếu kỹ năng KTSTQ, trong khi
đây là lĩnh vực mới, khó, chưa có kinh nghiệm trong hoạt động và quản lý.
- Thiếu cơ chế phối hợp, hiệu quả giữa các đơn vị trong cơ quan Tổng cục trong
triển khai thực hiện công tác KTSTQ. Tại các Cục hải quan địa phương, nhiệm vụ giữa
các phòng tham mưu còn chồng chéo, không tận dụng được kết quả của nhau.
- Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của TCHQ còn thiếu, chưa đồng bộ và chưa
kết nối với các đơn vị Bộ Tài chính và các Bộ ngành liên quan. Hệ thống thông tin
phục vụ công tác KTSTQ chưa hoàn thiện, việc truy cập các hệ thống cơ sở dữ liệu
hiện có khó khăn về cơ chế, nên hạn chế nhiều đối với công tác KTSTQ của toàn
ngành.
2.3.2 Nguyên nhân khách quan
- Về nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp XNK và của các Bộ ngành liên
quan về bản chất, vai trò, tầm quan trọng của KTSTQ chưa đúng, chưa đủ nên chưa
hợp tác, ủng hộ và phối hợp với ngành Hải quan.
- Ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp chưa cao, còn nhiều doanh nghiệp
chạy theo mục đích lợi nhuận nên đã cố tình làm sai pháp luật. Bên cạnh đó thì chế tài
xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật chưa đủ mạnh và nghiêm túc thực hiện
- Cơ chế quản lý chưa theo kịp sự thay đổi của chính sách tạo thuận lợi cho hoạt
động XNK, do đó một số doanh nghiệp lợi dụng để gian lận, trốn thuế như: Thủ tục
thành lập doanh nghiệp đơn giản nên số lượng doanh nghiệp tăng mạnh trong khi công
tác kiểm soát, phối hợp còn bị buông lỏng, đây là nguyên nhân để doanh nghiệp lợi
dụng quy định về thời gian ân hạn thuế khi nhập khẩu hàng hóa, doanh nghiệp nợ thuế,
67
sau đó phá sản, giải thể, bỏ trốn…
- Việc cung cấp, trao đổi thông tin phục vụ công tác KTSTQ giữa các Bộ,
ngành có liên quan vẫn chưa thật sự chủ động, chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết,
chưa được Luật hóa sự cần thiết và trách nhiệm phối hợp của các Bộ, Ngành và UBND
có liên quan để hỗ trợ cho công tác KTSTQ.
- Thủ đoạn gian lận thương mại diễn ra phổ biến dưới nhiều hình thức, mức độ
ngày càng tinh vi, phức tạp và có xu hướng ngày càng gia tăng trong điều kiện cơ sở
hạ tầng hỗ trợ thông tin kiểm tra còn nhiều hạn chế.
+ Gian lận xảy ra khi áp dụng trị giá GATT đối với những mặt hàng nhạy cảm,
thuế suất cao, trị giá lớn.
+ Doanh nghiệp dùng hai hệ thống sổ kế toán để đối phó với đoàn kiểm tra hoặc
không hợp tác, chống đối quyết định KTSTQ.
+ Lợi dụng một số loại hình ưu đãi thuế của nhà nước để gian lận, trốn thuế như
đối với loại hình gia công, nhập nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu, đầu tư nước
ngoài,…
+ Lợi dụng dịch vụ thanh toán nhanh, tiện lợi và khó quản lý để chuyển ngân
lậu và gian lận về trị giá thanh toán cho lô hàng nhập khẩu.
Tóm lại, ở trên tác giả đã đưa ra đánh giá về thực trạng của công tác KTSTQ.
Còn nhiều bất cập cần phải khắc phục, cải cách trong thời gian tới cả về cơ sở vật chất
kỹ thuật đến nhận thức của con người, mà điều quan trọng phải từ quyết tâm của lãnh
đạo các cấp thì công tác này mới thực sự được cải thiện, mang lại hiệu quả kinh tế.
2.4. Đánh giá về KTSTQ
Trong tiến trình cải cách hiện đại hóa ngành Hải quan Việt Nam, để phù hợp
với yêu cầu hội nhập kinh tế của đất nước, KTSTQ đã chính thức đi vào hoạt động từ
đầu năm 2003 theo các quyết định của BTC số 16 và số 37 về việc thành lập đơn vị
nghiệp vụ KTSTQ thuộc TCHQ (Cục kiểm tra sau thông quan) và các Cục hải quan
địa phương (cấp Chi cục kiểm tra sau thông quan). Một trong những chức năng chính
của KTSTQ được xác định là công cụ hữu hiệu chống gian lận thương mại, bảo vệ
nguồn thu và tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho mọi doanh nghiệp kinh doanh
68
xuất nhập khẩu.
Tuy là lực lượng mới thành lập, nhưng kết quả hoạt động KTSTQ thời gian qua
đã đạt được những kết quả sau:
* Về hệ thống văn bản pháp lý
Đã hình thành được hệ thống văn bản, tạo được hành lang cơ sở pháp lý cho
hoạt động kiểm tra sau thông quan, như: luật Hải quan số 29/2001/QH10, luật Hải
quan sửa đổi số 42/2005/QH11, Nghị định 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005, Thông
tư 79/2009TT-BTC ngày 20/04/2009. Quyết định 621/QĐ-TCHQ ngày 2903/2006 nay
được thay bằng quyết định 1383/QĐ-TCHQ ngày 14/07/2009 và nhiều các văn bản
pháp lý khác như Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Luật quản lý thuế số 78 ….
Các văn bản nêu trên đã đáp ứng được kịp thời khi triển khai thực hiện kiểm tra
sau thông quan và ngày càng hoàn thiện hơn đáp ứng được yêu cầu thực tế phát sinh.
* Về lực lượng làm công tác kiểm toán sau thông quan
- Từ khi mới thành lập năm 2003 có 173 người trên tổng số toàn ngành là 7.700
người chiếm 2,2%, đến năm 2009 toàn ngành có khoảng 480 người trên tổng số 9.731
người chiếm 4.9%, như vậy về lực lượng, đã ngày càng tăng lên đáp ứng được yêu cầu
của ngành nói chung. Tuy nhiên theo tiêu chuẩn của ASEAN thì tỷ lệ phải chiếm 10%
trong tổng số toàn ngành
- Cơ cấu, chất lượng nguồn nhân lực : là lực lượng mới hình thành trong hoạt
động của ngành Hải quan, lực lượng nhân viên phần lớn là chuyển từ các khâu nghiệp
vụ tính thuế, kiểm hóa nhiều năm, nên có nhiều kinh nghiệm trong công tác. Bên cạnh
đó là lực lượng trẻ mới vào ngành có trình độ chuyên môn về kế toán, kiểm toán, ngoại
thương, luật… tinh thần làm việc hăng hái yêu nghề, nhiệt huyết, năng động với công
việc.
Bên cạnh những ưu điểm đạt được còn bị hạn chế bởi trong ngành kiểm tra sau
thông quan chưa có những chuyên gia kiểm toán sau thông quan thực sự. Tỷ lệ học đại
học cao nhưng lại phần lớn ngành học lại trái với nghiệp vụ đang làm, một cán bộ làm
kiểm toán hải quan thường chỉ biết một chuyên ngành như kế toán, nhưng ngoại
thương lại ở trình độ thấp…
69
* Về công tác đào tạo
Đã mở được nhiều lớp học đào tạo nghiệp vụ kiểm toán sau thông quan cho
ngành do giảng viên kiêm chức trong Vụ, Cục thuộc nghành Hải quan giảng dạy và
nhiều giáo viên các trường Đại học trong nước và các chuyên gia kiểm toán.
Ngoài ra một số Hải quan địa phương có lưu lượng hàng hóa XNK lớn như Hải
quan TP. HCM, Hải quan Hà Nội, Đồng Nai, Hải Phòng, Bình Dương, Quảng Ninh đã
tổ chức nhiều lớp học về nghiệp vụ như: tin học tổng hợp, phân loại hàng hóa, kỹ năng
tranh tụng trước tòa, nghiệp vụ ngoại thương … cho cán bộ công chức kiểm tra sau.
Trong các năm qua có nhiều cán bộ kiểm tra sau được cử đi học tập khảo sát về
kiểm tra sau ở một số nước như : Nhật bản, Pháp, Trung Quốc...
* Về cơ cấu tổ chức
Hệ thống KTSTQ ở Việt Nam gồm 2 cấp từ Tổng cục Hải quan đến các Cục hải
quan địa phương.
- Cấp Tổng cục có: Cục KTSTQ với chức năng và quyền hạn theo Quyết định
số: 1015/QĐ-BTC ngày 11/5/2010 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Cục Kiểm tra sau thông quan trực thuộc TCHQ. Theo đó, Cục Kiểm
tra sau thông quan là đơn vị trực thuộc Tổng cục Hải quan, có chức năng tham mưu,
giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các
đơn vị trong ngành hải quan thực hiện công tác kiểm tra sau thông quan; trực tiếp thực
hiện kiểm tra sau thông quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao và theo
quy định của pháp luật.
- Cấp Cục: có Chi cục KTSTQ do Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương tổ chức thực hiện công tác KTSTQ trong phạm vi địa
bàn quản lý về KTSTQ tại các chi cục, cửa khẩu. Thực hiện việc giám sát phúc tập hồ
sơ và kiểm tra sau thông quan các doanh nghiệp trên địa bàn quản lý của Cục hải quan
Thành phố, Tỉnh.
* Về tình hình thực hiện
Từ khi thành lập năm 2003 cho đến nay kết quả hoạt động của KTSTQ đã đóng
góp một phần vào việc thực hiện nhiệm vụ chung của ngành Hải quan trong tiến trình
70
cải cách hiện đại hóa ngành Hải quan theo yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Sau 05
năm hoạt động, số truy thu thuế từ kiểm tra sau và tổng số vụ kiểm tra sau đối với
doanh nghiệp XNK như sau:
Bảng 7: Số liệu tổng hợp từ năm 2005-2009
Năm
2006
2007
2008
2009
200 5
Tổng cộng
3.022
Tổng số vụ kiểm tra sau thông quan
375
513
628
723
670
Tổng số tiền thuế đã truy thu (tỷ đồng)
8,5
57
90,9
173,2
243
572,6
26.64
Tổng số doanh nghiệp tham gia XNK
30.98 8
36.60 0
39.79 9
5
Tỷ lệ DN bị kiểm tra / tổng DN
1.9%
2%
2%
1.7%
( Nguồn : tổng hợp theo báo cáo tổng kết của ngành hải quan từ năm 2005- 2009)
Số tiền thuế truy thu từ nghiệp vụ kiểm tra sau ngày càng gia tăng, năm 2009
đạt 243 tỷ tăng 40% so với năm 2008. Năm 2008 đạt 173,2 tỷ tăng 90% so với năm
2007. Qua số liệu trên cho thấy hoạt động KTSTQ ngày càng hiệu quả hơn
Tuy nhiên, qua số liệu tổng hợp trên cho thấy số tiền thuế truy thu từ kiểm tra
sau thông quan chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng thu ngân sách từ hoạt động XNK.
Tỷ lệ doanh nghiệp kiểm tra sau chiếm bình quân khoảng 1,9 % trên tổng doanh
nghiệp XNK ,con số này là quá ít, thực tế cho thấy việc “hậu kiểm” chưa phát huy hết
71
được vai trò của mình trong hoạt động kiểm soát của Ngành hải quan.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 2, luận văn đã đi sâu vào đánh giá thực trạng hoạt động XNK , quản lý
Nhà nước về hoạt động XNK trong thời kỳ hội nhập kinh tế Quốc tế, đặc biệt từ khi
Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Luận văn
cũng đề cập các hình thức gian lận trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Từ thực tế
hoạt động XNK này cho thấy việc cần thiết phải thay đổi phương pháp quản lý Hải
quan đối với hàng hóa XNK từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” để phù hợp xu hướng
phát triển kinh tế là tạo thuận lợi cho thương mại phát triển là thực sự cần thiết.
Luận văn thu thập, phân tích thông tin về thực trạng hoạt động của KTSTQ
Việt Nam từ năm 2005-2009 trên các lĩnh vực như: tổ chức, con người, kết quả hoạt
động, hệ thống thông tin …. Qua đó thấy được hoạt động KTSTQ đã thực sự hỗ trợ
cho khâu “tiền kiểm”, nhưng bên cạnh đó hoạt động KTSTQ còn tồn tại nhiều hạn chế
do các nguyên nhân chủ quan, khách quan.
Từ việc phân tích thực tế hoạt động KTSTQ đã cho thấy một số hạn chế của
KTSTQ, từ đó tác giả đưa ra một số giải pháp, để nâng cao vai trò của hoạt động
KTSTQ, góp phần vào tiến trình cải cách hiện đại hóa ngành Hải quan trong tiến trình
72
hội nhập kinh tế quốc tế.
CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA KIỂM
TOÁN HẢI QUAN TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
3.1 Mục tiêu xây dựng các giải pháp
- Xuất phát từ yêu cầu cải cách hiện đại hóa và cải cách thủ tục hành chính
ngành hải quan, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ hội nhập
kinh tế Quốc tế. Thay đổi phương pháp quản lý truyền thống sang quản lý rủi ro,
chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, nhưng vẫn đảm bảo được chức năng quản lý
Nhà nước về mặt hải quan đối với hàng hóa XNK.
- Do yêu cầu hội nhập và phát triển thương mại Quốc tế, trong khi khả năng kiểm
soát của hải quan chỉ có giới hạn về nhân lực, nhận thức, trang thiết bị kỹ thuật.
- Yêu cầu thực hiện các điều ước, cam kết quốc tế của Việt Nam và Hải quan
Việt Nam khi tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO.
- Yêu cầu tiếp cận kỹ thuật nghiệp vụ tiên tiến về Hải quan.
- Bức xúc từ thực tiễn công tác KTSTQ trong ngành Hải quan.
3.2 Căn cứ xây dựng các giải pháp
- Về nhận thức chung của lãnh đạo các Cấp trong ngành hải quan còn coi nhẹ
công tác KTSTQ. Nếu nhận thức này không được thay đổi thì về lâu dài lực lượng
KTSTQ khó có thể thực hiện được những mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của ngành đề
ra.
- Hệ thống tổ chức: đã thành lập được Cục kiểm tra sau thông quan, Phòng
kiểm tra sau thông quan thuộc các chi Cục hải quan Thành phố, Tỉnh. Nhưng do mới
hoạt động nên chức năng, nhiệm vụ của KTSTQ còn bị hạn chế. Một số Phòng kiểm
tra sau thông quan của các Cục hải quan địa phương hoạt động còn chưa hiệu quả,
không phát huy được vai trò của mình.
- Cán bộ công chức làm kiểm tra sau thông quan được điều chuyển từ nhiều bộ
phận nghiệp vụ khác nhau về hoặc tuyển dụng mới vào ngành, phần lớn chưa được
đào tạo sâu về nghiệp vụ kiểm toán, điều tra, kế toán … Do đó trình độ năng lực chưa
73
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
- Điều 32- Luật hải quan sửa đổi năm 2005 qui định “trong trường hợp cần
thiết và còn điều kiện thì kiểm tra thực tế hàng hóa” “ Thời hạn kiểm tra trực tiếp tại
đơn vị được kiểm tra của mỗi quyết định kiểm tra tối đa là 05 ngày làm việc” Những
qui định trên phần nào hạn chế công tác kiểm toán sau thông quan.
- Chưa có qui định pháp lý về trách nhiệm của các ngành như Ngân hàng, Thuế,
Các hãng vận tải, bảo hiểm, Các lực lượng chức năng trong việc phối hợp với cơ quan
Hải quan thực hiện KTSTQ.
- Hệ thống thông tin, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác KTSTQ còn
rất hạn chế chưa có hệ thống quản lý rủi ro phục vụ cho công tác KTSTQ mặc dù đã
được xây dựng từ năm 2004.
- Chất lượng công tác phúc tập hồ sơ ở khâu thông quan còn mang nặng tính
hình thức, ngại va chạm nên hạn chế việc tìm ra dấu hiệu vi phạm cung cấp thông tin
cho KTSTQ.
- Công việc KTSTQ tại doanh nghiệp còn rất ít, chủ yếu chỉ mới tiến hành kiểm
tra tại trụ sở của cơ quan hải quan.
3.3 Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của kiểm toán sau thông quan trong tiến
trình hội nhập kinh tế Quốc tế.
Công tác KTSTQ thực hiện thời gian qua chưa đáp ứng được yêu cầu thực sự
của Luật hải quan, vẫn còn nhiều doanh nghiệp lợi dụng gian lận thương mại, trốn thuế
như tác giả đã phân tích ở chương II. Phải khẳng định lại KTSTQ của Hải quan Việt
Nam là một công tác nghiệp vụ còn nhiều mới mẻ và còn gặp nhiều khó khăn, hiện
đang trong quá trình vừa triển khai, vừa làm, vừa nghiên cứu học hỏi để hoàn thiện. Do
vậy, trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề có tính
chất lý luận và thực tiễn về công tác KTSTQ; phân tích thực trạng tình hình KTSTQ
của Hải quan Việt Nam trong thời gian từ năm 2005 -2009, tác giả đề suất một số giải
pháp cơ bản cần được triển khai đồng bộ nhằm nâng cao vai trò KTSTQ trong hoạt
động của Ngành hải quan, với mong muốn hoạt động KTSTQ thực sự có hiệu quả
trong thời kỳ ngành Hải quan đang cải cách và hiện đại hóa nhằm hội nhập khu vực và
thế giới.
74
3.3.1 Giải pháp về con người
Hoàn thiện hệ thống tổ chức của lực lượng KTSTQ từ cấp Tổng cục tới Chi cục
Hải quan, Cửa khẩu. Cán bộ lãnh đạo, nhân viên KTSTQ phải đảm bảo có năng lực
thực sự thực hiện công tác KTSTQ ( đưa vào những người đạt tiêu chuẩn và kịp thời
đưa ra những người không đáp ứng được yêu cầu). Những cán bộ, nhân viên KTSTQ
đã có kinh nghiệm và nghiệp vụ không nên luân chuyển theo định kỳ của ngành qui
định, như vậy sẽ khó khăn trong việc đào tạo nghiệp vụ chuyên môn kiểm toán hải
quan.
Về số lượng cán bộ kiểm toán hải quan phải đạt tỷ lệ ít nhất là 10% toàn ngành.
Theo tiêu chuẩn của các nước trong khu vực và trên thế giới, thì tỷ lệ nhân viên kiểm
toán hải quan phải đạt từ (10% -25%) trong tổng số cán bộ công chức hải quan. Như
vậy bộ phận KTSTQ mới thực sự phát huy được vai trò “hậu kiểm”, tăng tỷ lệ kiểm tra
sau thông quan đối với các doanh nghiệp XNK , từ đó đảm bảo tính tuân thủ pháp luật
của các Doanh nghiệp và kịp thời phát hiện hành vi gian lận trốn thuế của những
doanh nghiệp vi phạm pháp luật.
Ở cấp Tổng cục :
- Cục kiểm tra sau thông quan cần được bố trí, sắp xếp đầy đủ số lượng Cán bộ
lãnh đạo cục, lãnh đạo phòng và nhân viên các phòng chức năng đi vào hoạt động.
- Lãnh đạo Cục, Phòng và nhân viên trong Cục kiểm tra sau thông quan tự hoàn
thiện mình, không ngừng học tập và thông qua hoạt động thực tiễn để nâng cao năng
lực công tác.
Tăng cường, quán triệt nhận thức của các cấp lãnh đạo trong lĩnh vực KTSTQ.
Đối với cán bộ lãnh đạo phải thực sự nhận thức được vai trò của công tác KTSTQ.
- Mọi hoạt động của Cục kiểm tra sau thông quan phải hướng về cơ sở, tăng
cường ciông tác kiểm tra , hướng dẫn hỗ trợ hoạt động của các địa phương.
Ở cấp Cục hải quan thành phố, tỉnh:
- Lãnh đạo Cục hải quan Tỉnh, Thành phố cần quan tâm hơn đối với công tác
kiểm toán hải quan, xác định đúng vị trí, vai trò của công tác kiểm toán sau thông quan
trong nghiệp vụ hải quan.
- Tất cả các địa phương cần triển khai tổ chức kiểm toán theo qui định, lựa
75
chọng những cán bộ có năng lực, kinh nghiệm công tác, phẩm chất đạo đức cho công
tác này. Tăng cường cán bộ công chức kiểm tra sau cho các Chi cục hải quan, đào tạo
nghiệp vụ theo hướng chuyên sâu theo từng lĩnh vực cho cán bộ kiểm tra sau như lĩnh
vực trị giá, xuất xứ, phân loại hàng hóa, gia công, sản xuất-xuất khẩu, đầu tư.
Ở cấp Chi cục Hải quan
Cấp Chi cục Hải quan không thực hiện quyết định kiểm tra sau thông quan
nhưng đây là nơi cung cấp nguồn thông tin rồi rào và đáng tin cậy ở khâu phúc tập hồ
sơ phục vụ cho công tác KTSTQ. Vì vậy phải tổ chức phúc tập 100% hồ sơ đã thông
quan. Nâng cao chất lượng công tác phúc tập hồ sơ nhằm phát hiện dấu hiệu vi phạm
pháp luật hải quan từ đây.
Như vậy để Ngành hải quan nâng cao được hiệu quả của công tác KTSTQ thì
việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống tổ chức của lực lượng kiểm toán sau thông quan,
nâng cao năng lực cán bộ kiểm toán hải quan là giải pháp hàng đầu và khi bố trí công
chức kiểm toán hải quan phải có đủ một sồ điều kiện như: Tốt nghiệp Đại học tài chính,
kế toán, ngoại thương, luật. Trong đó số cán bộ kiểm toán hải quan được đào tạo chuyên
ngành Kế toán - Kiểm toán ( chủ yếu là kế toán doanh nghiệp) chiếm khoảng 60%, đồng
thời phải có kiến thức về nghiệp vụ hải quan như: thủ tục hải quan, áp mã tính thuế, trị
giá tính thuế, xuất xứ hàng hóa. Được đào tạo thêm về các kỹ năng như điều tra, am hiểu
kiến thức về luật, ngoại ngữ, tin học. Đặc biệt, cán bộ kiểm toán hải quan phải có phẩm
chất chính trị, đạo đức tốt, bản lĩnh nghiệp vụ vững vàng, không vi phạm kỷ luật liên
quan đến tiêu cực tham nhũng.
3.3.2 Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật hiệu quả, chặt chẽ, thống nhất và
đồng bộ
- Hệ thống văn bản pháp lý như Luật hải quan, Luật thuế xuất nhập khẩu, Luật
quản lý thuế … tương đối đầy đủ để hoạt động KTSTQ được phát huy tốt, nhưng bên
cạnh đó cần phải có hệ thống pháp luật đồng bộ trong công tác xử lý vi phạm hành
chính để tạo điều kiện cho công tác kiểm toán sau thông quan. Các biện pháp cưỡng
chế hành chính theo trình tự đạt hiệu quả không cao dẫn tới nợ đọng thuế lớn. Do các
quy định tại Luật hải quan, Luật quản lý thuế và các văn bản dưới Luật chưa thống
nhất hoặc chưa rõ ràng; thẩm quyền của các cơ quan quản lý thuế chưa đủ mạnh; Nội
76
hàm của các quy phạm pháp luật còn chồng chéo…
Vì vậy, cần ban hành văn bản quy định chi tiết về KTSTQ có nghiên cứu thật
kỹ kinh nghiệm của Hải quan các nước trên thế giới, đối chiếu với thực tiễn ở Việt
Nam, tiến hành dự thảo, lấy ý kiến góp ý kiến trong và ngoài ngành để khi ban hành
văn bản có tính khả thi cao.
- Trong tương lại việc kiểm toán sau thông quan sẽ có nhiều cuộc kiểm tra tại
doanh nghiệp, cũng như theo kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới
ngành Hải quan Việt Nam cần thiết phải nhanh chóng xây dựng hệ thống “chuẩn mực
kiểm tra sau thông quan” với mục đích ngăn ngừa các trường hợp có thể dẫn đến tha
hóa đội ngũ kiểm toán viên Hải quan trong quá trình tác nghiệp tại trụ sở doanh
nghiệp.
3.3.3 Nhóm giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ, phục vụ cho hoạt động kiểm toán hải
quan
(1) Cần thiết hoàn thành và áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong khâu kiểm toán sau
thông quan
Mục tiêu chiến lược phát triển của ngành Hải quan đến năm 2010, Hải quan
Việt Nam phấn đấu trở thành Hải quan tiên tiến trong khu vực ASEAN, hiện đại theo
tiêu chuẩn Quốc tế.
Tầm nhìn 2020: Quản lý hải quan theo hướng tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu, đầu tư và du lịch; thực hiện hải quan điện tử; cơ quan Hải quan hoạt động
có tính chuyên nghiệp, minh bạch và liêm chính.
Ngành Hải quan sẽ dần từng bước chuyển đổi phương pháp quản lý nghiệp vụ
thủ công, truyền thống, sang thực hiện kỹ thuật quản lý rủi ro theo phương pháp quản
lý hiện đại. KTSTQ là một trong những biện pháp được áp dụng trong công tác quản lý
hải quan hiện đại. Nó chỉ thực sự phát huy vai trò và hiệu quả khi ngành Hải quan đã
áp dụng đồng bộ nguyên tắc quản lý rủi ro trong tất cả các khâu của quy trình thủ tục
hải quan, từ khâu kiểm tra trước thông quan (Điều tra chống buôn lậu) đến khâu kiểm
tra trong thông quan (tiếp nhận khai báo, giám sát, kiểm hóa, tính thuế) và đến khâu
KTSTQ.
Hiện nay, Hải quan các nước trên thế giới khi áp dụng hệ thống quản lý rủi ro
77
trong khâu kiểm toán sau thông quan đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Việt
Nam đã có mối quan hệ thương mại với hàng trăm nước trên thế giới và khu vực, như
vậy tốc độ lưu chuyển hàng hóa qua các cửa khẩu là rất cao. Một yêu cầu cấp thiết
hiện nay là phải hỗ trợ cho quy trình KTSTQ mảng kỹ thuật quản lý rủi ro thiết kế trên
phần mềm, kết hợp với chương trình xử lý thông tin tự động tích hợp. Ưu điểm nổi bật
của hệ thống sẽ giúp nhanh chóng xác định một cách khoa học và linh hoạt các khu
vực rủi ro cao và trình tự kiểm tra doanh nghiệp sẽ được thiết lập cụ thể, hợp lý, tạo
thuận lợi cho việc lập kế hoạch KTSTQ trong những thời đoạn khác nhau.
(2) Về mặt thông tin doanh nghiệp
Trong quá trình thu thập, phân tích thông tin phục vụ cho công việc kiểm toán
sau thông quan, cần có một trung tâm dữ liệu tổng hợp về doanh nghiệp như: ngành
nghề kinh doanh chính, lịch sử hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình nộp
thuế, vi phạm của doanh nghiệp có hay không?…để cán bộ kiểm toán khai thác phân
tích phục vụ cho nghiệp vụ kiểm tra của mình.
(3) Về qui trình và chất lượng phúc tập hồ sơ
Để đánh giá được doanh nghiệp một cách sâu hơn, quản lý có trọng tâm, trọng
điểm trên cơ sở lý thuyết về quản lý rủi ro trong công tác hải quan thì phải quan tâm
tới hiệu quả của công tác phúc tập hồ sơ XNK trong khâu thông quan. Bởi vì phúc tập
hồ sơ là việc sẽ phát hiện ra sai sót từ cả hai phía Hải quan và Doanh nghiệp, từ đó sửa
chữa bổ sung hoàn thiện . Đồng thời phúc tập hồ sơ cũng là nơi cung cấp nguồn thông
tin quan trọng về hoạt động XNK của các doanh nghiệp cho hoạt động kiểm tra sau, là
nơi phát hiện những doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm pháp luật Hải quan. Như vậy
theo tôi cần phải :
+ Phúc tập phải có trọng điểm
Hiện nay, việc phúc tập theo báo cáo thì 100% tờ khai XNK được phúc tập,
nhưng chất lượng công tác phúc tập không cao, mang nặng hình thức, ngại va chạm
khi phát hiện sai sót, chạy theo số lượng tờ khai, số lượng cán bộ phúc tập hồ sơ còn ít
so với khối lượng công việc thực tế. Để khắc phục được thực tế này có một số biện
pháp cụ thể như:
* Đối với các tờ khai thuộc loại hình gia công, sản xuất - xuất khẩu, tạm nhập
78
tái xuất, tạm xuất – tái nhập, các Chi cục hải quan nên thực hiện việc phúc tập khi
làm công tác thanh khoản thuế, thanh khoản hợp đồng gia công. Nếu các doanh nghiệp
không thanh khoản tờ khai theo đúng thời hạn qui định thì cần kiểm tra và phúc tập
toàn bộ các tờ khai XNK của doanh nghiệp.
* Đối với các tờ khai thuộc loại hình ưu đãi đầu tư, hưởng ưu đãi thuế nhập
khẩu cần kiểm tra kỹ về giấy phép cấp ưu đãi, mặt hàng đầu tư làm rõ chế độ ưu đãi
theo văn bản hiện hành.
* Đối với nhhững mặt hàng, nhạy cảm thuế suất cao như ôtô, sắt thép, mỹ phẩm
…cần phải nắm bắt được giá tính thuế qua tham khảo giá nhập từ nhiều nguồn thông
tin khác nhau.
+ Trang bị kiến thức và thông tin cho cán bộ phúc tập.
Để công tác phúc tập hồ sơ có hiệu quả cao, cán bộ phúc tập phải nắm bắt được
các qui trình các khâu nghiệp vụ trước, trong khâu thông quan như: đăng ký tờ khai,
kiểm tra giá tính thuế, kiểm hóa áp mã hàng hóa. Cán bộ phúc tập không được tiếp xúc
trực tiếp với hàng hóa nên yêu cầu bộ phận kiểm hóa phải lưu trữ đầy đủ hồ sơ về các
bằng chứng mô tả đúng bản chất hàng hóa như: Catalogue, hồ sơ kỹ thuật, chứng thư
giám định... để lấy cơ sở so sánh với các lô hàng giống hệt hoặc tương tự trước đây từ
đó phát hiện sai sót.
Cán bộ phúc tập hồ sơ phải có kiến thức về tin học, ngoại ngữ thành thạo để đọc được
chứng từ thương mại, tra cứu dữ liệu trên hệ thống phần mềm quản lý rủi ro ở khâu thông
quan. Nắm bắt kịp thời các chế độ chính sách ban hành một cách thường xuyên.
3.3.4 Giải pháp về đào tạo
Con người là yếu tố quan trọng quyết định cho mọi sự thành công, do vậy
ngành Hải quan nói chung và bộ phận kiểm tra sau thông quan nói riêng, muốn thực
hiện được nhiệm vụ tăng cường kiểm toán sau thông quan thì phải thực sự chú ý tới
việc đào tạo trang bị kiến thức tổng hợp cho cán bộ kiểm toán hải quan một cách
chuyên nghiệp, bản lĩnh vững vàng, giàu kinh nghiệm để thực hiện công việc chuyên
môn. Do vậy cần thiết phải :
Thứ nhất : Chuẩn hóa chương trình đào tạo nghiệp vụ KTSTQ gắn liền với đội
ngũ cán bộ KTSTQ. Cần quy định chế độ học tập bắt buộc đối với cán bộ nghiệp vụ
79
KTSTQ về nghiệp vụ cơ bản và hàng năm bồi dưỡng cập nhật kiến thức. Thông qua tài
liệu KTSTQ, kinh nghiệm thực tiễn của các nước đã thực hiện tốt nghiệp vụ KTSTQ,
sổ tay nghiệp vụ KTSTQ ASEAN kết hợp với Luật hải quan, các văn bản quy phạm
pháp luật hướng dẫn nghiệp vụ KTSTQ và thực tiễn KTSTQ, ngành Hải quan phải xây
dựng bộ giáo trình chuẩn phục vụ công tác giảng dạy KTSTQ. Một chương trình đào
tạo khoa học, hợp lý phải đồng nghĩa với sự thống nhất trong toàn ngành. Tính thống
nhất trong quá trình đào tạo sẽ dẫn đến sự thống nhất về nhận thức, về phương pháp tư
duy và phong cách làm việc thực tế của nhân viên KTSTQ.
Thứ hai: Không ngừng nâng cao trình độ cán bộ kiểm toán hải quan
Tiếp tục mở các lớp đào tạo KTSTQ có chuyên gia nước ngoài hướng dẫn; cử
cán bộ đi học ở nước ngoài bằng nguồn tài trợ. Kết thúc mỗi khóa học, mỗi học viên
cần có nhận xét thật khách quan, minh bạch điểm mạnh và điểm yếu về nội dung,
phương pháp đào tạo nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của chuyên gia trong thời
gian tới.
- Cử một số cán bộ có trình độ đi thực tế học tập kinh nghiệm KTSTQ tại các
nước đã thực hiện tốt nghiệp vụ này. Tuy nhiên, cán bộ tham gia cần phải đúc kết bài
học ngay sau chuyến đi, báo cáo trước Lãnh đạo TCHQ và các tổ chức có liên quan để
rút ra bài học, kinh nghiệm và phương hướng áp dụng vào điều kiện thực tế của Hải
quan Việt Nam.
- Tiếp tục tập trung và mở rộng thêm đào tạo đội ngũ chuyên viên hàng đầu về
KTSTQ do JICA đào tạo nhằm tăng thêm đội ngũ vừa là chuyên gia có trình độ
chuyên môn cao vừa là giáo viên kiêm chức về KTSTQ, có khả năng sư phạm tốt.
- Thực tế việc kiểm tra chứng từ trong thương mại, kế toán, hải quan trong tình
hình thực tế công nghệ thông tin phát triển rất khó phát hiện chứng từ giả, nên phải mở
lớp đào tạo kỹ năng phát hiện chứng từ giả và trang thiết bị máy móc kỹ thuật hiện đại
phục vụ công việc này.
Thứ ba: hàng năm nên tổ chức nhiều hội nghị chuyên đề về kiểm tra sau thông
quan, để từ đó cán bộ kiểm toán hải quan có điều kiện trao đổi kinh nghiệm trong
chuyên môn, phát huy tối đa những ưu điểm và hạn chế những nhược điểm trong hoạt
80
động tác nghiệp của mình.
3.3.5 Giải pháp tăng cường mối quan hệ kết hợp giữa Hải quan với các Ngành
chức năng như: Ngân hàng, Thuế nội địa, Hãng vận chuyển, Cơ quan giám
định… bằng việc tạo lập kênh thông tin giữa các cơ quan
Hoạt động XNK và thanh toán quốc tế có mối quan hệ mật thiết, ràng buộc lẫn
nhau trong quá trình tồn tại và phát triển thương mại quốc tế. Việc thanh toán tiền
hàng XNK thông qua ngân hàng là thông tin thực sự cần thiết đối với cơ quan hải
quan, khi thẩm định về việc xác định trị giá tính thuế cho một lô hàng XNK. Bằng các
phương thức thanh toán như L/C ( Letter of credit – tín dụng chứng từ), T/T
( Telegraphic Transfer - chuyển tiền bằng điện, D/P (Document Against Payment - nhờ
thu trả ngay), D/A (Document Against Acceptance- nhờ thu trả chậm ) , thông qua các
chứng từ thanh toán ngân hàng là bằng chứng xác thực xác định tổng số tiền phải
thanh toán cho khách hàng của một lô hàng nhập khẩu.
Hải quan cần biết một doanh nghiệp có bao nhiêu tài khoản và ở những ngân
hàng nào? để kiểm soát thanh toán cho từng lô hàng của doanh nghiệp.
Sau khi thông quan hàng hóa, doanh nghiệp thực sự bán ra và khai báo thuế với
cơ quan thuế nội địa như thế nào? đã đầy đủ theo đúng số lượng, giá khai báo nhập
khẩu không?
Thông tin về số lượng hàng vận chuyển, trị giá bảo hiểm chính xác là bao nhiêu.
Kết quả giám định xác định đúng bản chất của hàng hóa.
Những thông tin trên được cung cấp một cách kịp thời, chính xác và nhanh
chóng sẽ là điều kiện cần thiết và có cơ sở pháp lý cao trong đấu tranh với doanh nhiệp
phục vụ cho kiểm toán sau thông quan.
Vì vậy phải có một cơ chế pháp lý, để phối kết hợp cung cấp thông tin giữa Hải
quan và các cơ quan chức năng trên khi có yêu cầu kiểm tra. Cần có trung tâm khai
thác dữ liệu tổng hợp sẽ phục vụ ngày càng tốt hơn cho công tác kiểm toán hải quan
hiện đại.
Có cơ chế phối hợp giữa Ngành hải quan và Ngành ngoại giao để xác minh, xác
nhận tài liệu, chứng từ ở nước sở tại có cơ quan Ngoại giao Việt Nam đóng trụ sở
(nghiên cứu chức danh Tùy viên Hải quan tại Đại sứ quán Việt Nam tại một số nước
81
có kim ngạch XNK lớn với Việt Nam)
3.3.6 Giải pháp tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho KTSTQ
Là lực lượng mới được thành lập trong ngành cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ
cho công tác còn chưa đầy đủ. Do vậy, ngành Hải quan phải tiến hành rà soát cơ sở hạ
tầng, trụ sở, trang thiết bị của các đơn vị trong ngành, trong đó có đơn vị KTSTQ để
xác định nhu cầu. Đây là yêu cầu cần được ưu tiên trong việc phát triển ngành. Phải bố
trí môi trường làm việc khang trang, thực sự là cơ quan công quyền của Nhà nước, có
đủ diện tích để bố trí nơi làm việc cho cán bộ, đủ diện tích để bố trí lắp đặt hệ thống
máy móc, phương tiện, trang thiết bị làm việc đầy đủ như máy tính xách tay, máy ảnh,
máy phát hiện chứng từ giả, máy ghi âm …. để lực lượng KTSTQ có đủ phương tiện
tác nghiệp tốt nhất.
3.3.7 Chế độ đãi ngộ đối với lực lượng làm công tác KTSTQ
Trong công tác KTSTQ có nhiều hoạt động nghiệp vụ mang tính chất điều tra
xác minh, thu thập thông tin tình báo, áp dụng đồng bộ các biện pháp kiểm toán, kế
toán, giám định, thu thập chứng cứ trong và ngoài nước, trưng dụng các chuyên gia,
các nhà khoa học giỏi trong KTSTQ nhưng lại không có nguồn quỹ chi phục vụ hoạt
động nghiệp vụ trong khi đó trên cùng một mặt trận chống buôn lậu, gian lận thương
mại và hàng giả (Kiểm toán Nhà nước được trích 2% số tiền do Kiểm toán Nhà nước
phát hiện và kiến nghị; Lực lượng chống buôn lậu thuộc ngành Hải quan cũng có quy
chế riêng về kinh phí chi cho hoạt động nghiệp vụ…).
Do vậy Bộ Tài chính nên cho phép lực lượng KTSTQ được trích khoảng 1%
trên tổng số tiền truy thu, ấn định thuế để có nguồn kinh phí phục vụ: mua tin; chi phí
hợp lý khác; trích thưởng để động viên, khuyến khích kịp thời đối với các tập thể, cá
nhân trực tiếp tham gia hoạt động KTSTQ…
3.3.8 Đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật Hải quan về kiểm toán sau thông quan
trong cộng đồng doanh nghiệp
Tuyên truyền tới cộng đồng doanh nghiệp hiểu rõ được vai trò và mục đích của
công tác kiểm toán sau thông quan, là tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại phát
triển, rút ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí thông quan hàng hóa XNK cho doanh
nghiệp. Tạo thuận lợi cho hoạt động XNK đối với những doanh nghiệp chấp hành tốt
82
pháp luật, ngăn chặn những hành vi gian lận, trốn thuế của các doanh nghiệp vi phạm
pháp luật, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp tiến tới sự phát
83
triển tích cực của nền kinh tế hội nhập quốc tế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3, trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động KTSTQ ở chương 2, tác
giả đưa ra những mục tiêu và căn cứ để xây dựng những giải pháp chung và giải
pháp cụ thể của công tác KTSTQ từ đó để nâng cao vai trò của hoạt động KTSTQ
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ những mục tiêu, căn cứ và các giải pháp đã trình bày trong chương 3, tác giả
thấy Ngành hải quan cần :
- Đẩy mạnh công tác thu thập thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh XNK
của các doanh nghiệp trên địa bàn quản lý của từng đơn vị, để từ đó làm cơ sở tiền đề
cho các cuộc kiểm toán sau thông quan.
- Tập trung kiểm toán các doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật, trốn thuế
hoặc trì hoãn nghĩa vụ nộp thuế . Kiểm toán sau thông quan việc chấp hành nghĩa vụ
thuế đối với các loại hình kinh doanh như: sản xuất - xuất khẩu, gia công, đầu tư, mặt
hàng có thuế suất nhập khẩu cao, giá tính thuế nhạy cảm
- Tăng cường kiểm toán sau thông quan tại trụ sở của doanh nghiệp. Khi kiểm
tra tại doanh nghiệp sẽ làm sáng tỏ bức tranh toàn diện kinh doanh của đối tượng kiểm
toán
- Tăng cường số vụ kiểm toán sau thông quan trên tỷ lệ số doanh nghiệp tham
gia hoạt động XNK, để từ đó nâng cao tính tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp
khi tham gia hoạt động XNK và phát hiện ra các hành vi gian lận trốn thuế của các
84
doanh nghiệp.
KẾT KUẬN
Hoạt động KTSTQ ở Việt Nam còn mới mẻ, là khâu nghiệp vụ rất khó khăn và
phức tạp không những đối với Hải quan Việt Nam mà còn đối với Hải quan các nước
trong khu vực và trên thế giới. Để đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế,
trong chiến lược tầm nhìn hải quan năm 2020 là phải phát triển Hảiquan hiện đại,
chuyên nghiệp, hiệu quả vì vậy ngành Hải quan phải thay đổi phương thức quản lý
nhà nước đối với hoạt động XNK từ “tiền kiểm” sang ”hậu kiểm”, tiến tới việc kiểm
tra thực tế hàng hóa XNK ở khâu thông quan năm 2010 đạt 10% tỷ lệ thực tế hàng hóa,
nâng cao vai trò của hoạt động KTSTQ để hỗ trợ tạo điều kiện thương mại quốc tế
phát triển đáp ứng yêu cầu phát triển chung của nền kinh tế, nhưng vẫn giữ vững được
chức năng quản lý nhà nước của ngành Hải quan. KTSTQ là một công cụ đắc lực trong
đấu tranh chống vi phạm pháp luật về hải quan. KTSTQ là nhiệm vụ trọng tâm, trọng
điểm trước bối cảnh gian lận thương mại, trốn thuế ngày một gia tăng hiện nay.
Qua nghiên cứu, phân tích, đánh giá, tổng hợp, luận văn đã đề cập và làm rõ các
nội dung sau:
1. Luận văn đã hệ thống hóa những vấn đề có tính chất lý luận cơ bản của
nghiệp vụ KTSTQ như: Khái niệm, đối tượng, vai trò, mục đích, quản lý nhà nước đối
với KTSTQ.
2. Đánh giá thực trạng của hoạt động XNK và hoạt động KTSTQ trong thời kỳ
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam.
3. Đề xuất một số giải pháp giải pháp để nâng cao vai trò hoạt động KTSTQ
trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Do nội dung nghiên cứu còn khá mới mẻ. Về phía tác giả khả năng, kinh
nghiệm và tư duy khoa học còn nhiều hạn chế, do đó kết quả nghiên cứu không thể
tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Tác giả luận văn mong nhận được sự quan
tâm góp ý của quý Thầy, Cô, các Nhà khoa học, các Nhà hoạch định chính sách cùng
bạn bè, đồng nghiệp để tác giả tiếp tục bổ sung nhằm hoàn thiện hơn luận văn của
85
mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Tổng cục hải quan, Nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan ( tài liệu tham khảo – lưu
hành nội bộ), tác giả Phạm Ngọc Hữu
2. Đại học kinh tế TP HCM, Kiểm toán, 2008, Nhà xuất bản lao động
3. TS. Đoàn Hồng Lê, Đổi mới quản lý nhà nước đối với XNK ở nước ta trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Đà Nẵng .
4. Giáo trình chống gian lận thương mại. Tác giả Đoàn Hồng Lê
5. Luc De Wulf và José B.Sokol (2004), Sổ tay hiện đại hóa Hải quan, Ban Thương
mại của Ngân hàng thế giới, Washington, DC.Ngân hàng thế giới.
6. Quốc Hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2001), Luật Hải quan số
29/2001/QH10.
7. Quốc Hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Luật Hải quan số
42/2005/QH11.
8. Quốc Hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Luật thương mại ngày
10/05/1997.
9. Quốc Hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2006), Luật quản lý thuế số
78/2006/QH11.
10. Chính Phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Nghị định số 154/2005/NĐ-
CP ngày 15/12/2005.
11. Chính Phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2007), Nghị định số 40/2007/NĐ-
CP ngày 16/3/2007.
86
12. Bộ Tài Chính (2009), Thông tư số 79/2009/TT-BTC ngày 20/4/2009
13. Tổng Cục Hải quan (2009), Quyết định số 1383/2009/QĐ-TCHQ ngày 14/7/2009
14. Tổng cục Hải quan (2005-2009), Báo cáo tổng kết ngành Hải quan, Hà Nội.
15. Cục Kiểm tra sau thông quan (2005-2009), Báo cáo tổng kết , Hà nội
16. Báo cáo hội nghị chuyên đề kiểm toán sau thông quan 2005,2006,2007
17. Báo hải quan các số từ năm 2008 đến 2009
18. PGS.TS Mai Thị Hoàng Minh, Kiểm toán hải quan-công cụ chống gian lận thương
mại, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ
Tiếng Anh:
19. Customs and Tariff Bureau (1998), Japanese Laws concerning customs-1st edition,
Ministry of Finance, Tokyo.
20. The State Gazette of the Republic of Indonesia (1995), Indonesia Law on
Customs-No.10/1995, Jakarta.
21. United Nations (2006), Trade Facilitation Handbook, NewYork and Geneva.
22. WCO Asia/Pacific (2007), Workshop on Customs Enforcement against
Commercial Fraud 20-24 August 2007, Program 4: Post clearance Audit and Traders’
87
self-compliance, NACEN (India).
PHỤ LỤC 1
BẢNG THÔNG SỐ VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN GIAI ĐOẠN 2005-2009 (Nguồn : Tổng cục Hải quan – Báo cáo tổng kết từ năm 2005- 2009)
Năm 2005 2006 2007 2008 2009
Tổng số vụ KTSTQ
375
628
513
723
670
Số vụ tại trụ sở Hải quan
364
484
682
636
551
11
29
41
34
30
9,5 8,5 210(3)
591 37 180 90,9 430(2)
309 243 480
Trung bình 2005-2009 582
Số quyết định ban hành kiểm tra tại Doanh nghiệp Số tiền thuế phải truy thu Số tiền đã truy thu Lực lượng KTSTQ (người) Số lượng doanh nghiệp XNK Tỷ lệ số phải truy thu/Tổng thu
Số tiền truy thu/vụ Số tiền truy thu/Kiểm toán viên
0,02 % 0,03 45
204,9 79 173,2 57 460(1) 400 26.645(4) 30.988 36.600 39.799 33508 0,17% 0,17 0,14% 0,25 % 0,28 446
0,25 % 0,46 644
% 0,29 419
0,15 198
1,9%
2,0% 2,0% 1,7%
0,11%
0,12% 0,11% 0,09%
Tỷ lệ Doanh nghiệp bị kiểm tra/Lượng DN Tỷ lệ Doanh nghiệp bị kiểm tra tại trụ sở
1,79
1,28 2%
1,46 2%
1,57 2%
1,40 2%
97%
94%
94%
94%
95%
Số vụ KTSTQ/người/năm Tỷ lệ vụ KTSTQ /Tổng số doanh nghiệp Tỷ lệ vụ KTSTQ tại trụ sở Hải quan
Ghi chú :
(1) : Nguồn:“Dự án hiện đại hóa Hải quan Việt Nam – Can thiệp bằng ngoại lệ -2008“ (2) : Tính bình quân năm 2007 =(Số đầu năm 2007+ số cuối năm 2008)/2 = (400+460)/2 . (3) : Số liệu ước tính từ báo cáo tổng kết 2006-Tổng cục Hải quan. (4) : Tính toán từ báo cáo tổng kết 2007-Tổng cục Hải quan.
88
(Đơn vị tính : Tỷ đồng)
Năm 2005 2006 2007 2008 2009
Thu ngân sách Số lượng tờ khai (nghìn tờ) Lượng Tờ khai nhập Lượng tờ khai xuất Số lượng tờ khai đã phúc tập Tỷ lệ kiểm tra thực tế/tổng TK Số tiền thuế phải truy thu từ phúc tập Số tiền đã truy thu từ phúc tập
49.97 8 1.762 853 909 1.069 59,8% 25,788 86
54.50 0 1.848 946 902 1.848 24% 30 19
72.60 2 2.284 1.181 1.103 2.062 22% 43,9 37,3
117.3 49 2.990 1.570 1.420 3.295 23% 80,34 72,18
122.2 93 3.289 1.775 1.514 3.329 17% 109,46 99,14
Tổng biên chế ngành Hải quan (người)
7.913
8.297
8.717
9.606
9.731
Năm Tổng kim ngạch XNK hàng năm Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch nhập khẩu Trung bình tăng hàng năm 2005 62,7 29,15 33,55 9%
(ĐVT : Tỷ USD) 2009 125 56,5 68,5 -7%
2008 133,96 58,54 75,42 54% 2006 69,74 32,87 36,87 11% 2007 86,83 38,85 47,98 25%
Trung bình tăng từ 2005-2009
18,4 %
24%
22%
Tỷ lệ kiểm tra thực tế/tổng TK
59,8%
23%
17%
-Hàng xuất khẩu
19%
13%
-Hàng nhập khẩu
30%
31%
89
PHỤ LỤC 2
Tiến trình hình thành cơ sở pháp lý của hoạt động KTSTQ tại Việt Nam
từ năm 2002 đến năm 2009.
Năm
2002-2005
2006
1/7/2007->2008
14/7/2009
Luật quản lý thuế số 78
1
Luật Hải quan số 29/2001/QH10
Luật Hải quan số 42/2005/QH11
Điều 32
Điều 32
Điều 77, Điều 78
Nghị định 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007
2
Nghị định 102/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001
Nghị định 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005
Thông tư 114/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005
3
Thông tư 96/TT-BTC ngày 10/10/2003
Thông tư 79/2009/TT-BTC ngày 20/4/2009
Quyết định 621/QĐ-TCHQ ngày 29/3/2006
4
Quyết định1563/QĐ-TCHQ ngày 02/12/2003
Quyết định số 1383/QĐ-TCHQ ngày 14/7/2009
5
Nghị định 155/2005/NĐ-CP
Nghị định 40/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007, hiệu lực 05/2007
NĐ 60/2002/NĐ-CP ngày 06/6/2002, Hiệu lực 01/7/2002
Thông tư 40/2008/TT-BTC ngày 21/5/2008, hiệu lực 07/2008
TT 118/2003/TT-BTC ngày 08/12/2003, Hiệu lực 01/01/2004
Thông tư 113/2005/TT- BTC, ngày 15/12/2005, Hiệu lực 01/01/2006
Nghị định 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003, Hiệu lực 01/01/2004
Lĩnh vực
Nghị định 128/2008/NĐ- CP ngày 16/12/2008, Hiệu lực 01/01/2009
HC
Nghị định 138/2004/NĐ-CP ngày 17/6/2004, Hiệu lực – Trong lĩnh vực Hải quan
Lĩnh vực
Nghị định 18/2009/NĐ-CP ngày 18/2/2009, hiệu lực 01/5/2009
HQ
Nghị định 97/2007/NĐ- CP ngày 07/6/2007, Hiệu lực 01/7/2007
90
PHỤ LỤC 3
Thu thập thông tin
Phân loại
Phân tích
Chọn hồ sơ/đối tượng kiểm tra
Lưu hoặc kiểm tra theo kế hoạch
Kiểm tra hồ sơ HQ
Giải trình, xác minh, Lập kế hoạch kiểm tra
Lưu hồ sơ (giải trình chấp nhận; chấp nhận sai phạm;ấn định thuế)
Quyết định tiến hành kiểm tra tại doanh nghiệp
(Nguồn: www.customs.gov.vn/ThuTucHaiQuan/Print.aspx?ID=112 – ngày 06/01/2010)
91
Sơ đồ các bước tiến hành KTSTQ tại trụ sở cơ quan Hải quan
PHỤ LỤC 4
Các công trình nghiên cứu về Kiểm tra sau thông quan từ trước đến nay
Đề tài nghiên cứu cấp ngành (Hải quan)
Nội dung
TT Mã số 1 Tác giả Cục KTSTQ Nguyễn Viết Hồng
09-N2004 Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra sau thông quan đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của kế hoạch cải cách, phát triển hiện đại hóa Hải quan giai đoạn 2004-2006
2 08-N2005 Xây dựng và hoàn thiện mô hình kiểm tra sau thông quan của Hải quan Việt Nam
01-N2006 Nâng cao nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan 3 Cục KTSTQ Nguyễn Viết Hồng Cục KTSTQ Hoàng Việt Cường đối với hoạt động thanh toán quốc tế qua ngân hàng
02-N2006 Nâng cao hiệu quả kiểm tra sau thông quan 4 Cục KTSTQ Nguyễn Văn Bình đối với hàng hóa xuất nhập khẩu theo loại hình gia công
92
5 04-N2008 Xây dựng phần mềm thu thập và khai thác thông tin phục vụ kiểm tra sau thông quan Cục KTSTQ Tạ Thị Mão