BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

-----oOo-----

NGUYỄN THỊ HUYỀN

KIỂM TOÁN HẢI QUAN

(KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN)

TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2010

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

-----oOo-----

NGUYỄN THỊ HUYỀN

KIỂM TOÁN HẢI QUAN

(KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN)

TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Chuyên ngành: Kế toán - Kiểm toán

Mã số: 60.34.30

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. MAI THỊ HOÀNG MINH

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2010

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những thông

tin và nội dung trong đề tài này dựa trên nghiên cứu thực tế và hoàn toàn đúng

với nguồn trích dẫn.

Tác giả đề tài: Nguyễn Thị Huyền

3

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn sự truyền thụ kiến thức của tất cả Quý thầy cô Khoa

sau đại học Trường Đại học kinh tế -TP Hồ Chí Minh trong thời gian học tập tại

trường.

Đồng thời, tôi luôn cám ơn sâu sắc Phó Giáo sư.Tiến sĩ. Mai Thị Hoàng Minh

đã hướng dẫn tận tâm tôi trong suốt quá trình hoàn thành đề tài nghiên cứu.

Tôi xin cám ơn các đồng nghiệp, các cán bô công chức kiểm toán sau thông

quan của Tổng cục Hải quan đã giúp đỡ và tư vấn cho tôi trong suốt thời gian nghiên

Học viên : Nguyễn Thị Huyền

4

cứu của mình.

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ASEAN Association of Southeast Asia Nations- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam

Á

APEC Asia pacific Economic Cooperation - Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á Thái

Bình Dương

AFTA Asean Free trade Area –Khu vực mậu dịch tự do Asean

AKFTA Asia – Korea Free trade Area - Hiệp định về thương mại hàng hoá Asean –

Hàn Quốc

AEO Authorized Economic Operators

BTC Bộ Tài Chính

CEPT Common Effective Preferentical On Tariffs - Chương trình cắt giảm thuế

quan có hiệu lực chung

C/O Certificate of Origin - Chứng nhận xuất xứ hàng hoá

GATT General Agreement on Tariff and Trade- Hiệp định chung về thuế quan và

thương mại.

GTGT Giá trị gia tăng

KTSTQ Kiểm toán sau thông quan

L/C Letter of credit - thư tín dụng

CIF Cost Insurance Freight - giá trong Inconterms ( giá, phí bảo hiểm, phí vận chuyển)

CNF Cost and Freight - giá trong Inconterms (giá, phí vận chuyển)

I Insurance – phí bảo hiểm

F Freight – phí vận chuyển

5

FOB Free on board – giá trong Inconterms ( Giá giao qua mạn tàu)

PCA Post Clearance Audit - Kiểm toán Hải quan

FDI Foreign Direct Investment - Đầu tư trực tiếp nước ngoài

XNK Xuất nhập khẩu

TCHQ Tổng Cục Hải quan.

TNHH Trách nhiệm hữu hạn

VNĐ Việt Nam đồng.

UBNN Ủy ban nhân dân

VPHC Vi phạm hành chính.

WCO World Customs Organization-Tổ chức Hải quan Thế giới.

WTO World Trade Organization-Tổ chức Thương mại Thế giới.

6

JICA Japan International Cooperation Agency - Tổ chức Hợp tác Quốc tế Nhật Bản

MỤC LỤC

Danh mục các chữ viết tắt

Lời mở đầu : …………………………………………………………………..………1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN HẢI QUAN (KIỂM TRA SAU

THÔNG QUAN) .……………………………………………………...……………..4

1.1 Vài nét về lịch sử hình thành nghiệp vụ kiểm toán hải quan ……………………....4

1.2 Khái niệm kiểm toán hải quan ...………...………………………………….…......5

1.3 Đối tượng của kiểm toá sau thông quan ………...………..…….…………….…..7

1.4- Phạm vi kiểm toán hải quan ………...……………..………………….…………..8

1.5. Mục đích chính của kiểm toán hải quan ………...……...…………………………9

1.6. Vai trò của kiểm toán hải quan …………………….....………………..………...10

1.7. Quản lý nhà nước về kiểm toán hảiquan………………..…………………….....10

1.8. Kinh nghiệm KTSTQ của hải quan một số nước trên thế giới………….………..18

1.9 . Những kinh nghiệm rút ra cho hoạt động ……………………………………….22

Kết luận chương 1………………………………………………………………..……23

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA KIỂM TOÁN HẢI QUAN VIỆT NAM

TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.

2.1. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam…………...……………….…..24

2.1.1. Thực trạng hoạt động XNK của Việt Nam trong thời gian từ 2005-2009……..25

2.1.1.1 Kết quả hoạt động XNK từ 2005-2009……………………………………......26

2.1.1.2 Gian lận thương mại trong hoạt động xuất nhập khẩu…………..……….…....28

2.1.2. Quản lý nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu……………………………..…30

2.1.2.1. Một số nội dung cơ bản quản lý XNK giai đoạn 2005 đến 2010…...……..…31

2.1.2.2. Tổng quát thực trạng quản lý Nhà nước đối với hoạt động XNK ...……..…..32

2.1.3. Thực trạng kiểm toán hải quan ……………………..……….……………..…..34

2.1.3.1. Về con người ………………………………………...……………………....34

2.1.3.2. Về đào tạo………………………………………………………………….…36

2.1.3.3- Kết quả đạt được hoạt động kiểm toán sau thông quan …………………..

7

….38

2.1.3.4. Công tác phối hợp thực hiện…………………………………………..……...52

2.1.3.5. Thực trạng về hệ thống thông tin ……………..………………………….…..53

2.2 Những hạn chế của KTSTQ ……….……………………………………....54

2.2.1. Hạn chế về con người …………………………...………...………………....54

2.2.2. Hạn chế về pháp lý ……………………...……...……………………………55

2.2.3 Hạn chế về qui trình hoạt động ……………………………………………….56

2.2.4. Hạn chế về đào tạo ……………………………………………………………..57

2.2.5. Hạn chế về hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu ……………………………….58

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế ……………………………………………..….59

2.4. Đánh giá về kiểm toán sau thông quan …………………………………………..60

Kết luận chương 2 ………………………………………………………………….…64

CHƯƠNG 3 : NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA KIỂM

TOÁN HẢI QUAN TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ

3.1. Mục tiêu xây dựng giải pháp……………….……..…………………………..….65

3.3. Các giải pháp ………………………………..….……………………………..….66

3.2. Căn cứ xây dựng giải pháp………………….…..……………………………..…65

Kết luận chương 3……………………………………………………………………..76

Kết luận …………………………………………………………………………..…...77

Danh mục tài liệu tham khảo

8

Phụ lục

LỜI MỞ ĐẦU

1 - Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hình thành nên các mối

quan hệ kinh tế Quốc tế. Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực

như: ASEAN, Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại Việt

- Mỹ, Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việc gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới

và khu vực làm giao lưu thương mại quốc tế không ngừng phát triển, đặc biệt là giao

lưu hàng hóa do tính lợi thế so sánh giữa các quốc gia, theo đó lưu lượng hàng hóa

xuất khẩu, nhập khẩu qua các cửa khẩu Hải quan ngày càng gia tăng. Với tổng kim

ngạch xuất, nhập khẩu tăng lên qua các năm, từ năm 2005 đến năm 2009 trung bình

tăng 18,4 %, nhất là năm khi Việt Nam gia nhập WTO (năm 2007, kim ngạch XNK

tăng 25 %, số lượng doanh nghiệp XNK tăng 16,3% so với cùng kỳ năm 2006). Số

lượng tờ khai xuất khẩu, nhập khẩu khẩu tăng lên qua các năm ( năm 2005: 1.762.000

tờ, năm 2009: 3.289.000 tờ, tăng 87% so với 2005). Chính sách mở cửa nền kinh tế hội

nhập kéo theo sự gia tăng không ngừng về số lượng và tính chất phức tạp, đa dạng của

hàng hóa xuất nhập khẩu, Hải quan không thể và cũng không cần thiết phải kiểm tra

toàn bộ hàng hóa xuất nhập khẩu ngay tại cửa khẩu mà phải có biện pháp khác để

thông quan hàng hóa của Doanh nghiệp nhanh chóng đáp ứng được yêu cầu của

thương mại quốc tế và bảo đảm hoạt động kinh doanh cho các Doanh nghiệp, nhưng

vẫn phải đảm bảo được yêu cầu chức năng quản lý kinh tế chặt chẽ của Hải quan,

chống gian lận thương mại một cách hữu hiệu, thu thuế đúng và đủ đối với hàng hóa

xuất khẩu, nhập khẩu.

Đối với các Doanh nghiệp việc yêu cầu thông quan hàng hóa nhanh chóng

thuận tiện, tiết kiệm chi phí để đảm bảo việc hoạt động kinh doanh là thực sự cần thiết,

nhưng bên cạnh đó vấn đề chấp hành luật pháp về hải quan và nghĩa vụ nộp thuế còn

chưa tự giác. Khi thực hiện chính sách giảm bớt việc kiểm tra hàng hóa tại cửa khẩu,

9

hiện tượng gian lận thương mại qua việc xác định giá tính thuế, áp mã hàng hóa, khai

báo định mức hàng gia công, hàng sản xuất - xuất khẩu… của Doanh nghiệp còn khá

phổ biến, dẫn đến ảnh hưởng không ít đến việc thất thu thuế của Nhà nước. Để thực

hiện được nhiệm vụ thực thi trên và chống thất thu thuế do gian lận của Doanh nghiệp

ngành Hải quan đã thực hiện chính sách từ “tiền kiểm” sang “ hậu kiểm ” nghiệp vụ

đó chính là kiểm tra sau thông quan ( Kiểm toán hải quan ), cho phép Hải quan kiểm

tra chính thức ở giai đoạn sau khi thông quan hàng hóa, đảm bảo tính tuân thủ luật

pháp và chống gian lận thuế của cộng đồng doanh nghiệp.

Để thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng quản lý kinh tế nhà nước, ngành Hải

quan không ngừng cải cách hiện đại hóa thủ tục hải quan, trong đó phát huy vai trò

“hậu kiểm” kiểm toán sau thông quan tạo mạng lưới an toàn cho khâu thông quan

nhanh chóng với phương thức quản lý rủi ro để nâng cao hiệu quả hoạt động của

ngành trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế

TRA SAU THÔNG QUAN) TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ”

Từ các lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “KIỂM TOÁN HẢI QUAN (KIỂM

làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ kinh tế.

2- Mục đích nghiên cứu của luận văn

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao vai

trò công tác kiểm toán sau thông quan của ngành Hải quan trong tiến trình hội nhập

kinh tế quốc tế, để tạo thuận lợi cho thương mại phát triển, tạo môi trường bình đẳng

và công bằng trong cộng đồng doanh nghiệp góp phần bảo vệ nguồn thu ngân sách góp

phần thực hiện hội nhập khu vực và Quốc tế.

Để đạt được mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ đi sâu nghiên cứu một số vấn

đề lý luận cơ bản về kiểm toán sau thông quan, qua đó làm rõ vai trò quan trọng của

pháp luật về kiểm toán sau thông quan. Phần cơ bản của luận văn tập trung vào việc

nghiên cứu đánh giá thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu trong thời kỳ hội nhập và

thực trạng công tác kiểm toán Hải quan từ khi Quốc hội ban hành Luật Hải quan, Luật

Hải quan sửa đổi năm 2005, đặc biệt khi Việt Nam là thành viên chính thức của tổ

chức Thương mại Thế giới WTO đến nay, luận văn phân tích làm rõ những hạn chế,

tồn tại của kiểm toán sau thông quan, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp hoàn thiện hoạt

10

động kiểm toán hải quan phù hợp với tình hình hội nhập kinh tế của đất nước.

3- Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận văn

Phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất

nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian từ 2005- 2009 trước và sau khi Việt Nam

chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO (năm 2007) và những

hoạt động kiểm toán sau thông quan trong khoảng thời gian trên, luận văn nghiên cứu

thực tiễn việc áp dụng các quy định của pháp luật về lĩnh vực kiểm toán hải quan của

ngành Hải quan.

Đối tượng nghiên cứu: Phân tích các vấn đề hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt

động kiểm toán Hải quan trong ngành Hải quan.

4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy

vật lịch sử, trong đó vận dụng các quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử khi xem

xét, đánh giá từng vấn đề cụ thể. Phân tích trạng thái phát triển của hoạt động kiểm

toán sau thông quan trong ngành Hải quan, có xem xét kinh nghiệm của một số nước

có hoạt động kiểm toán sau thông quan phát triển hoàn thiện.

Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, qui nạp …. để

giải quyết những vấn đề được đặt ra trong đề tài.

5. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục luận

văn gồm 03 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về kiểm toán hải quan ( kiểm tra sau thông quan)

Chương 2: Thực trạng của kiểm toán hải quan Việt Nam trong tiến trình hội

nhập kinh tế quốc tế.

Chương 3: Những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của kiểm toán hải

11

quan trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN HẢI QUAN (KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN )

1.1 Vài nét về lịch sử hình thành nghiệp vụ kiểm toán hải quan

Từ những năm 60 của thế kỷ XX, Hội đồng hợp tác Hải quan nay là Tổ chức

Hải quan thế giới (World Customs Organization- WCO) đã bắt đầu nghiên cứu các

biện pháp quản lý hải quan tiên tiến, trong đó có biện pháp tiến hành kiểm tra sau khi

hàng hóa đã được thông quan. Cơ sở kiểm tra là các chứng từ hải quan, sổ sách kế toán

và các giấy tờ khác còn lưu lại tại cơ quan Hải quan, tại doanh nghiệp và các bên liên

quan khác về hàng hóa đã thông quan hay còn gọi bằng một thuật ngữ chuyên môn là

“kiểm tra trên cơ sở kiểm toán”.

Trên thực tế, Hải quan một số nước từ lâu đã áp dụng các biện pháp quản lý này

khi tiến hành các cải cách về thủ tục hải quan, hiện đại hóa các quy trình thủ tục hải

quan. Việc áp dụng biện pháp kiểm toán sau thông quan giúp cơ quan Hải quan tập

trung vào việc chỉ kiểm tra những đối tượng trọng điểm có hoạt động xuất nhập khẩu

không minh bạch.

Công ước Kyoto ngày 18/05/1973 về đơn giản hóa và hài hòa thủ tục hải quan

được xem là công ước sơ khai đầu tiên có những quy định về kiểm toán sau thông

quan. Tuy nhiên mãi đến tháng 9 năm 1999, khi sửa đổi, bổ sung công ước Kyoto thì

nghiệp vụ kiểm toán hải quan mới được tổ chức hải quan Thế giới chính thức đưa vào

chương trình hoạt động nhằm nhanh chóng hoàn thiện và tiến tới áp dụng rộng rãi hệ

thống kiểm tra hàng hóa sau khi thông quan nhằm tạo thuận lợi nhất cho hoạt động

thương mại quốc tế.

- Những tiền đề của công tác kiểm toán hải quan ở Việt Nam

Vào cuối những năm 1990, kiểm tra sau thông quan ở Việt Nam đang là một

vấn đề mới mẻ. Bởi vì từ trước đến nay chúng ta vẫn đang thực hiện chủ yếu là

phương pháp quản lý hải quan truyền thống (lấy việc kiểm tra thực tế hàng hóa làm

căn cứ chính để quản lý). Việc làm này đã hạn chế quá trình thông quan hàng hóa của

12

doanh nghiệp, gây ùn tắc và là nguồn gốc phát sinh tiêu cực, phiền hà. Kể từ năm

1999, ngành Hải quan đã từng bước cải cách thủ tục hải quan, đã áp dụng biện pháp

tiên tiến về quản lý hải quan là “nguyên tắc quản lý rủi ro ” khi tiến hành kiểm tra

hàng hóa xuất nhập khẩu.

Phương pháp quản lý rủi ro được thực hiện trong hoạt động quản lý hải quan là

thay vì phải kiểm tra 100% toàn bộ lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu thì cơ quan hải quan

áp dụng kiểm tra hàng hóa theo phân loại hàng hóa ra thành nhiều luồng khác nhau

theo từng tính chất, chủng loại, mức độ rủi ro cao hay thấp về gian lận thương mại,

trốn thuế. Cụ thể là phân theo: “Luồng xanh” kiểm tra đại diện 5% lô hàng (hiện nay là

miễn kiểm tra); “Luồng vàng” kiểm tra từ 20-30% lô hàng (hiện nay kiểm đến 10% lô

hàng); “Luồng đỏ” kiểm tra 100% lô hàng (hiện nay kiểm tra đến toàn bộ).

Khi ngành hải quan áp dụng biện pháp này đã giảm đáng kể việc kiểm tra thực

tế hàng hóa XNK trong quá trình thông quan hay nói một cách khác là giảm biện pháp

tiền kiểm, thì đồng thời tăng cường các biện pháp kiểm tra sau khi hàng hóa đã được

thông quan, nghĩa là tăng cường biện pháp “hậu kiểm”. Đó là nguyên nhân hình thành

nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan của Hải quan Việt Nam. Kiểm tra sau thông quan

được chính thức hoạt động kể từ khi Luật Hải quan có hiệu lực thi hành ngày

01/01/2002

1.2. Khái niệm về kiểm tra sau thông quan ( Kiểm toán hải quan)

Tổ chức Hải quan thế giới ( Word Customs Organization – WCO ) và Hải quan

các nước gọi là Kiểm toán sau thông quan ( Post Clearance Audit – PCA) hoặc Kiểm

toán hải quan (Customs Audit). Việt Nam hiện nay gọi là kiểm tra sau thông quan. Do

vậy các cụm từ “Kiểm tra sau thông quan”, “Kiểm toán sau thông quan”, “Kiểm

toán hải quan”, đều có ý nghĩa như nhau.

- Theo tổ chức Hải quan thế giới (WCO): “KTSTQ là quy trình công tác cho phép

viên chức hải quan kiểm tra tính chính xác của hoạt động khai hải quan bằng việc kiểm

tra các hồ sơ, tài liệu ghi chép về kế toán và thương mại liên quan đến hoạt động buôn

bán, trao đổi hàng hóa và tất cả các số liệu thông tin, bằng chứng khác cho cơ quan hải

quan mà hiện tại đang được các đối tượng kiểm tra (cá nhân hoặc doanh nghiệp) trực

13

tiếp hay gián tiếp tham gia vào hoạt động buôn bán quốc tế nắm giữ”

Theo Công ước Kyoto về đơn giản hóa và hài hòa thủ tục hải quan của Tổ chức

Hải quan thế giới: Kiểm tra trên cơ sở kiểm toán là các biện pháp được cơ quan hải

quan tiến hành nhằm thỏa mãn mục đích của họ trong việc xác định tính xác thực và

chân thật của các tờ khai hàng hóa thông qua kiểm tra các chứng từ, biên bản, hệ

thống kinh tế và dữ liệu thương mại của các bên liên quan.

Trong tài liệu do APEC biên soạn cho các nước đang triển khai thực hiện Hiệp

định trị giá GATT thì định nghĩa “ Kiểm toán sau thông quan là một quá trình nhằm

tạo điều kiện cho các nhân viên Hải quan kiểm tra độ chính xác trong khai báo hải

quan, thông qua việc kiểm tra các số sách, hồ sơ lưu trữ, hệ thống kinh doanh và tất

cả các dữ liệu thương mại về hải quan liên quan do các cá nhân, công ty trực tiếp

hoặc gián tiếp tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế nắm giữ.”

Tại Việt Nam: điều 32 Luật Hải quan sửa đổi bổ sung năm 2005 thì KTSTQ là

hoạt động kiểm tra của cơ quan hải quan nhằm thẩm định tính chính xác, trung thực

nội dung các chứng từ mà chủ hàng, người được chủ hàng ủy quyền, hoặc tổ chức, cá

nhân trực tiếp xuất khẩu, nhập khẩu đã khai, nộp, xuất trình với cơ quan hải quan đối

với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan. KTSTQ đồng thời cũng là

thẩm định tuân thủ pháp luật trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa

xuất khẩu, nhập khẩu.

Như vậy kiểm tra sau thông quan được hiểu là việc tiến hành công tác kiểm

toán sau khi tiếp nhận khai báo và kết thúc thủ tục giải phóng lô hàng xuất khẩu, nhập

khẩu khỏi khu vực quản lý của hải quan.

Trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày đăng ký tờ khai hàng hóa xuất nhập khẩu đã

được thông quan, cơ quan quản lý nhà nước về hải quan có quyền ra quyết định

KTSTQ đối với những hàng hóa có dấu hiệu gian lận thuế, gian lận thương mại, vi

phạm quy định về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hoặc thẩm định sự tuân thủ pháp luật

đối với hàng hóa đã được thông quan nhằm đảm bảo tính công bằng, minh bạch, lành

mạnh trong cạnh tranh đối với sản xuất, lưu thông hàng hóa.

Để thực hiện các cuộc kiểm tra sau thông quan này công chức Hải quan phải

14

vận dụng các kiến thức chuyên ngành như: Thương mại quốc tế, Kế toán - kiểm toán,

Tin học, ngoại ngữa và các nghiệp vụ về hải quan… trên tư duy về kiểm toán để phát

hiện sai sót, gian lận trong hoạt động xuất nhập khẩu

1.3. Đối tượng của KTSTQ

KTSTQ tiến hành kiểm tra các cá nhân, doanh nghiệp có liên quan trực tiếp hay

gián tiếp đến kinh doanh XNK đang hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.

Không phân biệt thành phần kinh tế, nguồn vốn sở hữu cũng không phải chờ đợi sự

thỏa thuận hoặc văn bản yêu cầu của doanh nghiệp. Đặc điểm này làm cho kiểm toán

hải quan khác hẳn với các loại hình kiểm toán khác:

- Kiểm toán Nhà nước chỉ có quyền kiểm tra các đơn vị có liên quan đến quá

trình quản lý, sử dụng vốn của ngân sách nhà nước.

-Kiểm toán độc lập chỉ thực hiện kiểm toán theo các hợp đồng đã ký kết với đối

tượng kiểm toán

- Kiểm toán nội bộ do đơn vị tổ chức ra và chỉ được phép kiểm tra các hoạt

động của chính đơn vị đó.

Như vậy đối tượng KTSTQ gồm các chủ thể liên quan đến hoạt động kinh

doanh XNK và hệ thống sổ sách, chứng từ.

1.3.1 Các chủ thể

Để xác minh tính chính xác của việc khai hải quan, KTSTQ sẽ kiểm tra và thu

thập thông tin từ các cá nhân, đơn vị sau:

- Các chủ thể liên quan trực tiếp đến kinh doanh XNK gồm doanh nghiệp hoặc

cá nhân.

- Các chủ thể liên quan gián tiếp đến hoạt động XNK, bao gồm:

+ Các đại lý khai thuê hải quan.

+ Các doanh nghiệp nhập khẩu ủy thác.

+ Các doanh nghiệp kho vận ngoại thương.

+ Các hãng vận tải hàng hóa XNK.

+ Các hãng bảo hiểm hàng hóa XNK.

+ Các ngân hàng thương mại.

+ Cơ quan thuế nội địa.

15

+ Người mua hàng nhập khẩu trên thị trường nội địa.

+ Các cơ quan, tổ chức giám định hàng hóa,….

Trong số những đối tượng KTSTQ nêu trên, đối tượng chính của KTSTQ là các

chủ thể liên quan trực tiếp đến kinh doanh XNK đó chính là những nhà xuất nhập

khẩu. Khi quá trình kiểm tra để xác minh về người nhập khẩu gặp khó khăn, chẳng hạn

như thiếu các chứng từ, KTSTQ sẽ được tiến hành với các đối tượng KTSTQ khác

nhằm hoàn tất việc xác minh việc khai báo hàng hóa nhập khẩu. Trên thực tế, các đối

tượng có liên quan gián tiếp đến thương mại quốc tế thường lưu giữ những chứng từ

rất có giá trị cho KTSTQ. Ví dụ như: một bức điện chuyển tiền liên ngân hàng, một

chứng từ bảo hiểm, một chứng thư giám định, một phiếu thu tiền vận chuyển, một

chứng từ mua hàng nhập khẩu trên thị trường nội địa….là có thể có căn cứ xác định và

kết luận một cuộc KTSTQ.

1.3.2 Sổ sách và chứng từ

Những sổ sách chứng từ sẽ được kiểm tra trong quá trình KTSTQ bao gồm:

- Những giấy tờ liên quan đến thủ tục hải quan như: tờ khai hải quan, hóa đơn

thương mại, phiếu đóng gói, giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa, vận tải đơn, hợp đồng

bảo hiểm,…

- Các chứng từ thương mại như: hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng hỗ trợ

kỹ thuật, hợp đồng chi hoa hồng, phiếu đặt hàng,

- Các chứng từ ngân hàng : L/C, lệnh chuyển tiền, chứng từ thanh toán …

- Sổ sách và chứng từ kế toán như: chứng từ kế toán sổ kế toán liên quan đến lô

hàng xuất nhập khẩu, bản kê của ngân hàng, giấy chứng nhận nợ/có,…

Để thực hiện KTSTQ, cơ quan hải quan phải yêu cầu đối tượng kiểm tra có nghĩa vụ

lưu giữ sổ sách và chứng từ liên quan đến lô hàng hóa xuất nhập khẩu trong thời gian 5

năm kể từ ngày đối tượng kiểm tra đăng ký tờ khai hải quan theo quy định của Luật

Hải quan. Đây là các hồ sơ chính sẽ được tiến hành KTSTQ

1.4. Phạm vi kiểm toán hải quan

Việc kiểm toán sau thông quan được thực hiện sau khi hàng hóa xuất khẩu,

nhập khẩu đã được thông quan trong các trường hợp

- Có dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan hoặc có khả năng vi phạm pháp luật

16

hải quan

- Kiểm tra theo kế hoạch để đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật hải quan của

người khai hải quan đối những trường hợp chưa có dấu hiệu vi phạm pháp luật

Việc kiểm tra các chứng từ, sổ sách, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã dược qui

định trong Điều 65 chương VI Nghị định số 154/2005/NĐ-CP của chính phủ ban hành

ngày 15 tháng 12 năm 2005 như sau:

* Kiểm tra tính hợp pháp, chính xác của các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan, sự

phù hợp của các chứng từ kèm theo tờ khai với các nội dung khai trong tờ khai và các

qui định của pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa.

* Kiểm tra chứng từ kế toán, sổ kế toán, báo cáo tài chính và các chứng từ khác

có liên quan đến hàng hóa

* Kiểm tra thực tế hàng hóa nhập khẩu của đơn vị được kiểm tra trong trường

hợp cần thiết và còn điều kiện.”

Như vậy kiểm tra sau thông quan chỉ xét đoán các chứng từ hải quan, thương

mại, kế toán, các ghi chép kế toán có liên quan đến lô hàng đã xuất hoặc nhập khẩu.

Đặc điểm này khẳng định chức năng riêng biệt chuyên ngành không thể thay thế của

kiểm toán và phân biệt nó với mọi loại hình kiểm tra, kiểm toán khác.

1.5. Mục đích chính của kiểm toán hải quan

Kiểm tra việc chấp hành Luật hải quan, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

cũng như các qui định khác về xuất nhập khẩu từ đó mà phát hiện, ngăn chặn tình

trạng gian lận trốn thuế hoặc vi phạm Luật hải quan, vi phạm chính sách mặt hàng xuất

nhập khẩu.

Quá trình thực hiện một cuộc kiểm toán hải quan nhân viên Hải quan phải kiểm

tra xét đoán xem doanh nghiệp có tuân thủ các văn bản pháp luật đã qui định hay

không, xét về góc độ này kiểm toán hải quan thuộc loại hình kiểm toán tuân thủ.

Nhưng mục đích chính của kiểm toán hải quan là phát hiện tình trạng gian lận như gian

lận quan giá, số lượng, chính sách loại hình, thuế suất … để trốn thuế vì vậy kiểm tra

xét đoán sổ sách và chứng từ kế toán, ngân hàng tức là phải vận dụng nhiều kiến thức

kiểm toán tài chính. Như vậy xét về bản chất thì kiểm toán hải quan thuộc loại hình

17

kiểm toán tuân thủ - tài chính.

Cũng cần hiểu thêm rằng hoạt động của Nhà nước, trước hết là Luật hải quan,

Luật thuế, Luật kế toán, Luật ngân hàng … các Luật này của các nước không giống

nhau. Vì vậy nội dung, phương pháp và phạm vi hoạt động kiểm toán hải quan của các

nước không giống nhau.

1.6. Vai trò của kiểm toán hải quan

KTSTQ là biện pháp nâng cao năng lực quản lý nhà nước về hải quan, thực hiện

chống gian lận thương mại có hiệu quả toàn diện bằng việc thực hiện đơn giản hóa, tự

động hóa thủ tục hải quan, nhằm thông quan hàng hóa nhanh, nhờ đó góp phần tích cực

vào việc thúc đẩy phát triển thương mại quốc tế, cải thiện môi trường đầu tư, góp phần tạo

môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong sản xuất và lưu thông.

KTSTQ chính là biện pháp góp phần đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh Luật hải

quan, tuân thủ các quy định và các hiệp định thương mại Quốc tế.

KTSTQ là biện pháp hữu hiệu ngăn chặn tình trạng thất thu thuế, duy trì nguồn

thu ngân sách, giảm chi phí quản lý về hải quan, giảm thiểu rủi ro cho các đối tượng

tham gia: Doanh nghiệp, công chức hải quan.

KTSTQ tạo điều kiện nâng cao hiệu lực trong các lĩnh vực như: quản lý hạn

ngạch, chống bán phá giá, trợ giá,… Với thời hạn hồi tố là 5 năm kể từ ngày đăng ký tờ

khai, việc thực hiện KTSTQ góp phần quyết định vào việc chấm dứt tình trạng “chỉ cần

qua khỏi cửa khẩu hải quan là bình an vô sự” vì không còn ai hỏi đến nữa.

Về mặt dài hạn, KTSTQ đạt được hiệu quả trong việc làm cho Doanh nghiệp

hiểu và tuân thủ các quy định và yêu cầu khác của pháp luật ở mức độ cao và tự giác.

Việc đánh giá mức độ tuân thủ không phải đối với tất cả các nhà nhập khẩu. Nó

được áp dụng cho các nhà nhập khẩu đã được xác định thông qua quá trình xử lý số

liệu như tính toán số lượng những tờ khai quan trọng, số thuế phải nộp… Bằng việc

xác định các nhà nhập khẩu trọng yếu đó và sử dụng quy trình đánh giá mức độ tuân

thủ, có thể đảm bảo cho cơ quan hải quan rằng những người tham gia chính đó sẽ tuân

thủ. Lợi ích khác của việc đánh giá mức độ tuân thủ cho cả Hải quan và Doanh nghiệp

là hàng hóa và tờ khai, sẽ không phải kiểm tra thực tế toàn bộ như trong quy trình làm

thủ tục hải quan truyền thống trước đây nữa.

18

1.7. Quản lý nhà nước về kiểm toán hải quan

Trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện

nhiều biện pháp cải cách và hiện đại hóa công tác quản lý hành chính trong khu vực

công, thể hiện đúng cam kết trong quá trình đàm phán và gia nhập tổ chức thương mại

thế giới –WTO năm 2007. Hải quan là khu vực quản lý nhà nước đã được Việt Nam

cam kết nhiều nhất khi gia nhập WTO với định hướng tạo thuận lợi cho thương mại và

đảm bảo tuân thủ pháp luật. Với hai mục tiêu “tạo thuận lợi cho thương mại” và “kiểm

soát” thì phương thức quản lý hải quan truyền thống sẽ không thực hiện được đồng

thời hai mục tiêu của ngành Hải quan, do vậy phương pháp truyền thống được thay thế

dần bằng phương thức quản lý rủi ro hiện đại, chuyển đổi từ “tiền kiểm” sang “hậu

kiểm”- kiểm toán sau thông quan

Việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan nói chung và kiểm toán hải

quan nói riêng được thể hiện trong việc xây dựng một khung pháp lý minh bạch và dự

đoán được là thực sự cần thiết trong tiến trình hội nhập nền kinh tế Quốc tế của Việt

Nam.

Một nền tảng quan trọng trong hệ thống cơ sở pháp lý của Nhà nước về kiểm

toán hải quan được dựa trên cở sở pháp lý quốc tế của WTO và WCO

1.7.1. Cơ sở pháp lý quốc tế của hoạt động kiểm toán hải quan

(1) Công ước Kyoto sửa đổi 1999

Tiền thân là công ước quốc tế quy định về đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục

Hải quan ra đời năm 1973 và có hiệu lực 1974, vào tháng 6 năm 1999- WCO đã quyết

định sửa đổi Công ước Kyoto năm 1973 thành Công ước Kyoto sửa đổi bao gồm: Nghị

định thư sửa đổi, nội dung Công ước, phụ lục tổng quát, phụ lục chuyên đề và hướng

dẫn thực hành. Công ước Kyoto sửa đổi đã được cộng đồng Hải quan quốc tế (kể cả

Việt Nam) xem như một công cụ được thiết kế nhằm chuẩn hóa và hài hòa hóa các

chính sách, thủ tục Hải quan của mọi thành viên WCO. Một trong những mục tiêu

quan trọng của Công ước là “hỗ trợ thương mại quốc tế”, nhưng vẫn duy trì kiểm soát

Hải quan đối với tất cả hàng hóa ra vào lãnh thổ Hải quan. Kiểm toán hải quan là một

trong những kỹ thuật kiểm soát Hải quan hiện đại được định nghĩa tại Chương 2-Phụ

lục tổng quát- “kiểm tra trên cơ sở kiểm toán là các biện pháp do cơ quan Hải quan

19

tiến hành để kiểm tra sự chuẩn xác và trung thực của các tờ khai thông qua việc kiểm

tra các sổ sách chứng từ, hệ thống kinh doanh hay các số liệu thương mại có liên quan

do các bên có liên quan đang quản lý” và quy định hoạt động cụ thể tại Mục 7-

Chương 6- Phụ lục tổng quát -Chuẩn mực 6.6 - với nội dung kiểm tra chọn lọc những

“người” có liên quan đến quá trình vận tải hàng hóa quốc tế, từ đó nó phác họa bức

tranh toàn cảnh về các giao dịch của doanh nghiệp có liên quan đến Hải quan thông

qua những ghi chép trong sổ sách kế toán của họ.

Bên cạnh đó, sự chuyển đổi từ phương thức kiểm tra 100% mọi hàng hóa ra vào

lãnh thổ Hải quan, sang phương thức kiểm tra chọn lọc với sự trợ giúp của hệ thống

quản lý rủi ro hiện đại, cho phép cơ quan Hải quan phân bổ nguồn lực một cách hợp

lý-tối ưu trong suốt quá trình kiểm soát Hải quan. Về phía doanh nghiệp, hệ thống

quản lý rủi ro sẽ góp phần làm giảm chi phí thông quan cho những doanh nghiệp tuân

thủ tốt luật pháp thông qua chế độ ưu tiên với sự can thiệp tối thiểu của Hải quan trong

quá trình Trước – Trong – Sau thông quan hàng hóa.

(2) Hiệp định trị giá GATT 1994

Theo yêu cầu phát triển của thương mại quốc tế và do kết quả trực tiếp của vòng đàm

phán Uruguay ( Uruguay Round 1986 -1994 ) có 123 nước tham gia, ngày 15 tháng 4

năm 1994 tại Marrakest (Maroc) các nước đã tham gia ký kết hiệp định trị giá GATT

1994, Điều 17 của Hiệp định này vẫn giữ nguyên văn như điều 17 của Hiệp định trị giá

GATT 1979. Ngoài ra mục 6 phụ lục III của Hiệp định trị giá GATT 1994 có tựa đề

“về quyền bảo lưu” cũng ghi nhận :

“ Điều 17 của Hiệp định thừa nhận rằng trong khi thực hiện Hiệp định, Hải quan có

quyền kiểm tra về tính trung thực và độ chính xác của mọi khai báo cáo, chứng từ hoặc

tờ khai hải quan mà chủ hàng đã xuất trình cho Hải quan để xác định trị giá hải quan.

Điều này được hiểu là công việc kiểm tra đó nhằm thẩm định xem các yếu tố trị giá đã

khai báo hoặc trình bày với hải quan có liên quan tới việc xác định tính đầy đủ hoàn

chỉnh và độ chính xác của trị giá hải quan. Còn tuỳ thuộc vào thủ tục và Luật pháp của

mỗi nước nhưng nói chung các nước thành viên có quyền đòi hỏi sự cộng tác toàn diện

của người nhập khẩu trong các cuộc kiểm tra này”

20

(3) Văn kiện của tổ chức Hải quan thế giới ( WCO)

Theo yêu cầu của các Bộ trưởng phụ trách về hải quan của các nước thành viên. Uỷ

ban về xác định trị giá hải quan thuộc tổ chức hải quan thế giới WCO đã phát hành

thành văn kiện sau:

“ khi tờ khai hải quan đã được xuất trình và khi Hải quan có lý do để nghi ngờ tính

trung thực hoặc độ chính xác của các thông tin chi tiết hoặc các chứng từ mà người

nhập khẩu đã xuất trình để chứng minh cho tờ kahi hải quan; hải quan có thể yêu cầu

người nhập khẩu giải thíchh thêm, kể cả việc cung cấp thêm các chứng từ hoặc các

bằng chứng khác, các chứng từ này nhằm chứng minh cho tổng số tiền thực tế đã

thanh toán hay sẽ phải thanh toán của trị giá đã khai báo và các khoản chi phí được

điều chỉnh phù hợp với các qui định của Điều 8. Nếu sau khi nhận được các thông tin

hay người nhập khẩu không trả lời hải quan vẫn có lý do chính đáng để nghi ngờ tính

trung thực hay độ chính xác của trị giá đã khai báo thì có thể vận dụng điều 11 và có

thể nghĩ rằng trị giá hải quan của hàng nhập đó không thể xác định được theo các qui

định của Điều 1. Trước khi đưa ra quyết định cuối cùng hải quan sẽ thông báo cho

người nhập khẩu bằng văn bản ( nếu cần )những số liệu cơ bản về việc nghi ngờ tính

trung thực và độ chính xác của các thông tin chi tiết hoặc các chứng từ đã xuất trình

và người nhập khẩu phải xác định thời gian hợp lý để trả lời. Khi quyết định cuối cùng

đã được công bố thì hải quan sẽ thông báo cho người nhập khẩu bằng văn bản nội

dung của quyết định cũng như các dẫn liệu cơ bản của quyết định đó”

Như vậy Công ước Kyoto sửa đổi 1999, Điều 17 Hiệp định trị giá GATT 1994 và các

văn kiện của hải quan thế giới WCO và các phụ lục đính kèm được coi là cơ sở pháp lý

quốc tế cho hoạt động kiểm toán sau thông quan. Điều đó cắt nghĩa tại sao kiểm toán

hải quan của các nước có thể thực hiện quyền kiểm tra kiểm soát của mình ở các Doanh

nghiệp có vố đầu tư nước ngoài mà không gặp khó khăn gì.

1.7.2. Cơ sở pháp lý của Việt Nam

Một trong những điều kiện bắt buộc của các quốc gia là thành viên WTO là

phải thực hiện hiệp định trị giá GATT. Trên thực tế không một quốc gia nào thực hiện

hiệp định trị giá GATT mà lại không duy trì và phát triển hệ thống kiểm toán sau thông

quan. Việt Nam đã là quan sát viên của tổ chức thương mại thế giới WTO từ năm 1993

21

và đã chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO vào 11/01/2007

vì vậy phải xây dựng một môi trường pháp lý để duy trì và phát triển nghiệp vụ kiểm

toán sau thông quan cho phù hợp với cam kết là một yêu cầu tất yếu. Những văn bản

dưới đây là nền móng tạo dựng môi trường pháp lý cho hoạt động kiểm toán hải quan

Việt Nam.

(1) Nghị định 16 CP

Ngày 20/03/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định 16/CP “Qui định việc xử phạt

vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan”. Điều 3 NĐ 16/CP

qui định như sau: “ Để đảm bảo việc xử phạt có chứng lý công minh, các cơ quan nhà

nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân có trách nhiệm cung cấp các tài liệu

có liên quan đến hàng hóa, đồ vật xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất

cảnh, nhập cảnh vi phạm hành chính về hải quan khi cơ quan hải quan yêu cầu”

Mặc dù Nghị định 16/CP đến nay đã được thay thế nhưng có thể nói đây là văn

bản pháp lý đầu tiên của Việt Nam cho phép hải quan yêu cầu người khai hải quan

xuất trình các chứng từ tài liệu có liên quan đến hàng hóa XNK.

(2) Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 1998

Ngày 20/05/1998 tại kỳ họp Quốc Hội khóa 10 đã thông qua Luật số

04/1998/QH10- Luật sử đổi bổ sung một số điều của luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu.

Khoản 5 Mục 5 Điều 1 của Luật này qui định như sau: “ Nếu phát hiện và kết luận có

sự gian lận trốn thuế, cơ quan thuế có trách nhiệm truy thu tiền thuế, tiền phạt trong

thời gian 5 năm trở về trước, kể từ ngày kiểm tra phát hiện có sự gian lận trốn thuế,

trường hợp đối tượng nhầm lẫn trong kê khai, cơ quan thuế có trách nhiệm truy thu

hoặc hoàn trả tiền thuế đó trong thời hạn một năm trở về trước, kể từ ngày kiểm tra

phát hiện nhầm lẫn đó”

Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999. Qui định trên đây cũng cho thấy

để phát hiện và kết luận có sự gian lận trồn thuế thì phải kiểm tra. Vì vậy qui định này

là cơ sở pháplý đặc biệt quan trọng cho nghiệp vụ kiểm toán hảiquan của Hảiquan Việt

Nam.

(3) Luật Hải quan năm 2001

Tại Điều 32 Luật Hải quan của Việt Nam được Quốc hội Nước CHXHCNVN

22

thông qua: “ Trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật Hải quan đối

với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan, cơ quan Hải quan được áp

dụng biện pháp kiểm tra sau thông quan. Luật cũng qui định các cơ quan tổ chức, cá

nhân có liên quan phải tạo điều kiện cung cấp chứng từ kế toán, các thông tin, tài liệu

cần thiết phục vụ cho việc kiểm tra của Hải quan.

(4) Luật Hải quan sửa đổi số 42/2005/Q H 11 ngày 14 tháng 6 năm 2005

Điều 32 được sửa đổi bổ sung như sau :

Kiểm tra sau thông quan được thực hiện trong các trường hợp sau đây:

“ Có dấu hiệu gian lận thuế, gian lận thương mại, vi phạm qui định về quản lý

xuất khẩu, nhập khẩu”

“Đối với các trường hợp không thuộc quy định trên thì căn cứ vào kết quả phân

tích thông tin từ cơ sở dữ liệu, từ trinh sát hải quan, từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân,

Hải quan nước ngoài để quyết định kiểm tra sau thông quan”

Như vậy việc kiểm tra sau thông quan được mở rộng phạm vi quyền kiểm tra để

ngày càng tăng cường vai trò của kiểm tra sau thông quan trong hoạt động của hải

quan.

(5) Nghị định 154/2005 NĐ-CP ngày 15/12/2005

Ngày 15/12/2005 Chính phủ đã có nghị định 154/2005 NĐ-CP qui định chi tiết

vể kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu.

(6) Thông tư số 79/2009/TT-BTC ngày 20/4/2009 (thay thế thông tư 114/2005/TT-BTC

ngày 15/12/2005 hướng dẫn chi tiết Nghị định số 154)

(7)Quyết định số 1383/QĐ-TCHQ ngày 14/7/2009 hướng dẫn quy trình nghiệp vụ KTSTQ

1.7.3. Qui trình kiểm toán sau thông quan

Trên cơ sở hệ thống văn bản pháp lý qui định về KTSTQ. Qui trình kiểm toán

hải quan được quy định khi tiến hành hoạt động KTSTQ thành quy trình nghiệp vụ với

2 giai đoạn

Giai đoạn 1 : Kiểm tra tại trụ sở cơ quan Hải quan.

Trước khi tiến hành kiểm tra hồ sơ, thực tế hàng hoá có liên quan tại doanh

nghiệp, hoạt động kiểm toán hải quan phải được tiến hành tại trụ sở cơ quan Hải quan,

23

giai đoạn này bao gồm 7 bước cơ bản sau:

Bước 1:Thu thập thông tin

Thông tin sẽ được nhân viên Hải quan bộ phận kiểm tra sau thu thập từ nhiều

nguồn khác nhau như: khâu phúc tập hồ sơ của các cửa khẩu, kết quả của các cuộc

KTSTQ trước đó, danh bạ quản lý doanh nghiệp xuất nhập khẩu, báo chí, Internet

hoặc từ các cơ quan quản lý nhà nước khác. Toàn bộ thông tin sẽ được tập hợp thành

dữ liệu riêng phục vụ cho KTSTQ của cả đơn vị.

Bước 2: Phân loại thông tin từ cơ sở dữ liệu.

Từ những dữ liệu thu thập ở bước 1, thông tin sẽ được chia thành 2 loại là có

dấu hiệu vi phạm và loại không có dấu hiệu vi phạm. Căn cứ phân loại phụ thuộc các

lĩnh vực như: doanh nghiệp trọng điểm , mặt hàng trọng điểm, trị giá tính thuế lớn,

thuế suất cao hoặc những phạm vi được cho là có nguy cơ xảy ra sai sót và do từng

nhân viên chuyên trách đảm nhận công việc phân loại.

Bước 3: Phân tích thông tin đã lựa chọn.

Từ kết quả phân loại bước 2, kiểm toán viên sẽ tiếp tục phân tích sâu những

thông tin phản ánh “dấu hiệu vi phạm”, bằng những phương pháp so sánh, đối chiếu và

các kỹ thuật phân tích khác. Họ sẽ tiến hành tìm kiếm những chứng cứ để làm cơ sở

cho những dấu hiệu vi phạm đã xác định và kết quả sẽ được báo cáo lãnh đạo bộ phận.

Bước 4:Lựa chọn hồ sơ, đối tượng kiểm tra.

Căn cứ trên kết quả nhận định tại bước 3, lãnh đạo bộ phận kiểm tra sau sẽ

quyết định việc lựa chọn hồ sơ để kiểm toán viên kiểm tra. Đây là bước rất quan trọng

và bước đầu tiên kiểm tra hồ sơ hải quan. Số lượng hồ sơ hải quan phải kiểm tra là bao

nhiêu và lựa chọn ưu tiên kiểm tra sẽ phụ thuộc vào từng địa phương và tính chất

nghiêm trọng của các dấu hiệu phát hiện.

Bước 5: Kiểm tra hồ sơ hải quan.

Bước này sẽ do những công chức được lãnh đạo bộ phận phân công và tiến hành

theo từng trường hợp cụ thể của “dấu hiệu vi phạm” hoặc theo kế hoạch đã định.

Bước 6: Kết luận kiểm tra.

Đối với những hồ sơ đã đầy đủ, rõ ràng và chưa phát hiện có dấu hiệu sai phạm

thì kiểm tra viên sẽ cập nhật vào hệ thống dữ liệu và chuyển trả hồ sơ lưu trữ hoặc sẽ

24

tiến hành kiểm tra theo kế hoạch tại trụ sở doanh nghiệp.

Đối với những hồ sơ xác định có vi phạm thì lãnh đạo bộ phận KTSTQ sẽ yêu

cầu các đối tượng có liên quan như: Hải quan làm thủ tục thông quan, doanh nghiệp

phải giải trình làm rõ.

Bước 7: Giải trình và xác minh.

Nếu những giải trình của các đối tượng có liên quan (Hải quan làm thủ tục

thông quan, doanh nghiệp) chấp nhận sai phạm trong hồ sơ và kịp thời chấn chỉnh

cũng như khắc phục sai sót (nộp thuế bổ sung, nộp phạt vi phạm), hồ sơ sẽ được cập

nhật thông tin vào hệ thống dữ liệu và chuyển về lưu trữ.

Ngược lại, các đối tượng không giải trình, hoặc nội dung giải trình không thuyết

phục thì lãnh đạo KTSTQ sẽ báo cáo lãnh đạo cục quyết định xác minh tại những đơn

vị có liên quan khác như: Ngân hàng, cơ quan Thuế nội địa, Hãng vận tải, Công ty bảo

hiểm… làm cơ sở cho quyết định tiến hành KTSTQ tại doanh nghiệp.

Giai đoạn 2: Kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp.

Sau khi kết thúc giai đoạn 1, cơ quan hải quan sẽ xác định trường hợp cần tiến

hành kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp. Đối tượng kiểm tra là những hồ sơ hải quan, các

loại sổ sách kế toán và các chứng từ có liên quan được lưu giữ tại doanh nghiệp, hoạt

động này sẽ được tiến hành trong 2 trường hợp:

(1) Kiểm tra theo kế hoạch được tiến hành nhằm đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật

hải quan của Doanh nghiệp, nên phạm vi kiểm tra rộng và dàn trải với thời gian quy định

thực hiện tối đa là 15 ngày làm việc. Kế hoạch kiểm tra sau thông quan trong trường hợp

này sẽ được xây dựng dựa trên“ kết quả phân tích thông tin từ cơ sở dữ liệu, từ trinh sát

Hải quan, từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân, Hải quan nước ngoài để quyết định kiểm tra

sau thông quan.”[Điều 32-Luật Hải quan sửa đổi năm 2005]

(2) Kiểm tra theo “dấu hiệu vi phạm”, thời gian thực hiện tối đa cuộc kiểm tra là

5 ngày làm việc, đây là giai đoạn tiến hành kiểm tra đi vào chiều sâu với phạm vi đã

xác định là những vấn đề phát hiện nghi vấn chưa được làm rõ qua giải trình của doanh

nghiệp hoặc doanh nghiệp không giải trình.

25

Giai đoạn này bao gồm 5 bước phải được tiến hành theo trình tự như sau:

Bước 3 Tiến hành kiểm tra

Bước 1 Lập kế hoạch kiểm tra

Bước 2 Ban hành quyết định kiểm tra

Bước 4 Lập Bản kết luận kiểm tra

Bước 5 Tổ chức thực hiện kết luận kiểm tra

(Nguồn: www.customs.gov.vn/ThuTucHaiQuan/Print.aspx?ID=112–ngày 06/01/2010)]

Nhìn chung, mô hình kiểm tra sau thông quan qua 2 giai đoạn hiện nay, gần như

là công việc kiểm tra giấy tờ theo phương thức truyền thống tại bàn làm việc của cán bộ

Hải quan đối với các khoản thuế phải nộp của doanh nghiệp, tìm ra các lỗi vi phạm trong

bộ hồ sơ hải quan, từ đó truy thu các khoản thuế còn thiếu và phạt vi phạm .

1.8. Kinh nghiệm kiểm toán sau thông quan của Hải quan một số nước trên thế giới

1.8.1. Indonesia

Là nước điều phối viên của ASEAN về chương trình KTSTQ, kinh nghiệm của

Hải quan Indonesia cũng rất cần được xem xét trong điều kiện của đất nước ta hiện nay

KTSTQ trị giá GATT

Việc chuyển từ xác định trị giá hải quan từ phương pháp Brucxell sang nguyên

tắc của Hiệp định GATT/WTO đã khiến cho trị giá hải quan và tổng số thuế trong thời

gian đầu giảm xuống so với trước, nhưng sau một thời gian Hải quan Indonesia áp

dụng kiểm toán và KTSTQ thì giá khai báo của doanh nghiệp cũng như số thu thuế

tăng dần lên.

Từ thực tế của Hải quan Indonesia, có thể thấy rằng việc xác định trị giá hải

quan chỉ thực sự có hiệu quả khi áp dụng KTSTQ. Nếu không đồng ý với trị giá giao

dịch mà nhà nhập khẩu khai báo thì cơ quan Hải quan có thẩm quyền kiểm tra sổ sách

kế toán của doanh nghiệp. Đây là điều rất quan trọng để cơ quan Hải quan có thể quản

lý, chống gian lận thương mại khi thực hiện Hiệp định trị giá GATT. Tại Indonesia,

trong năm 2003, thông qua công tác KTSTQ, Hải quan đã phát hiện khoảng

20.000/1.000.000 giao dịch có khai báo sai, thấp về trị giá. Ở cấp Trung ương Indonesia

26

có một đơn vị Hải quan về KTSTQ, 13 Cục Hải quan vùng đều có đơn vị hải quan làm

nhiệm vụ KTSTQ. Hải quan Indonesia có khoảng 1.000 kiểm toán viên được phân bổ

trên toàn quốc (tổng số công chức hải quan là 11.000 người).

Sử dụng sách hướng dẫn về trị giá và KTSTQ

Hải quan Indonesia có vai trò điều phối trong lãnh vực KTSTQ và xác định trị

giá hải quan. Hải quan Indonesia đã hoàn thành sách hướng dẫn về KTSTQ. Trong đó

có rất nhiều nội dung đã được Hải quan các nước ASEAN áp dụng trên thực tế. Đối

với việc xác định trị giá hải quan, Hải quan Indonesia cũng đã hoàn thành sách hướng

dẫn về xác định trị giá hải quan của Hải quan ASEAN và cũng được các nước sử dụng.

Đây là những tiến bộ đáng kể trong quá trình hợp tác của Hải quan khu vực thời gian

qua.

Xây dựng cơ sở dữ liệu giá phục vụ KTSTQ

Cơ sở dữ liệu về trị giá hải quan tập trung tại TCHQ Indonesia (cấp Trung ương).

Tại TCHQ có Cục Kỹ thuật Hải quan, trong đó có Phân cục trị giá hải quan. Tại Phân cục

trị giá hải quan có 01 phòng được tin học hóa chịu trách nhiệm thu thập thông tin về trị giá

hải quan để phát hiện những bất hợp lý, những gian lận về thuế nhập khẩu qua giá của đối

tượng nhập khẩu.

Thông tin được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, chẳng hạn từ 4 tùy viên Hải

quan Indonesia ở nước ngoài tại Nhật Bản, Bỉ, Singapore, Hồng Kông; thông tin được thu

thập từ Internet; từ kiểm tra giá của hàng hóa trên thị trường quốc tế; từ trị giá giao dịch ở

cửa khẩu cũng được truyền về TCHQ,…. Sau đó, thông tin được tiến hành xử lý để đưa vào

cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác KTSTQ của cơ quan hải quan.

1.8.2. Úc

Hiện nay, Hải quan Úc áp dụng hai loại hình KTSTQ, đó là kiểm tra trọng điểm

và kiểm tra hoạt động giao dịch. Cơ quan Hải quan có quyền kiểm tra tất cả các hoạt

động của khách hàng liên quan tới hoạt động hải quan. Trong đó bao gồm: hoạt động

kinh doanh xuất nhập khẩu, khấu trừ thuế quan, kho ngoại quan, cấp giấy phép xuất

nhập khẩu và thuế.

Quy trình kiểm tra sau thông quan

Những hồ sơ, tài liệu chính mà Hải quan quan tâm trong quá trình KTSTQ là

27

những tài liệu liên quan tới hoạt động thương mại (bao gồm cả tài liệu điện tử) như:

đơn đặt hàng, giấy chứng nhận, hóa đơn vận chuyển, vận đơn hàng không, giấy phép,

bản hợp đồng, danh mục kê khai hàng hóa, giấy chứng nhận phương thức thanh toán.

Đối với một số trường hợp, Hải quan có thể kiểm tra cả những hệ thống và quy trình

hoạt động của doanh nghiệp.

Xử lý vi phạm

Trong trường hợp nếu nhóm kiểm tra sau thông quan phát hiện dấu hiệu không

minh bạch trong hồ sơ của doanh nghiệp, Hải quan sẽ có cuộc tiếp xúc với doanh

nghiệp vi phạm để thảo luận về những sai phạm đặc biệt. Trong phạm vi pháp luật cho

phép, những sai phạm có thể được chỉnh lý nếu doanh nghiệp đồng ý nộp khoản thuế

cho số hàng vi phạm. Đối với một số trường hợp vi phạm nghiêm trọng thì áp dụng

những hình phạt thích đáng, bao gồm cả truy tố trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp

doanh nghiệp không đồng ý với kết quả của nhóm KTSTQ, doanh nghiệp có thể gửi

đơn khiếu nại lên cơ quan Hải quan yêu cầu xem xét lại. Thực tế doanh nghiệp có

quyền tranh luận về kết quả KTSTQ.

1.8.3. Nhật bản

KTSTQ của Hải quan Nhật Bản dựa trên quy định quyền của nhân viên hải quan

được hỏi về sổ sách và các tài liệu liên quan đến doanh nghiệp đã được lưu lại và bảo mật,

được tiến hành theo những luật đã ban hành không chỉ riêng Luật Hải quan.

- Quyền được KTSTQ: Khi nhận thấy tính cần thiết phải tiến hành một vụ việc

KTSTQ, nhân viên hải quan có quyền được chất vấn người nhập khẩu trong phạm vi

Luật cho phép, phúc tập các sổ sách và tài liệu liên quan tới hàng hóa nhập khẩu hoặc

kiểm tra hàng hóa (Điều 105 Luật Hải quan Nhật Bản).

- Truy thu thuế: Công việc KTSTQ của nhân viên hải quan được quy định tại

Luật Thuế tiêu thụ nội địa và thuế quan, có hiệu lực từ tháng 10/1997 nhằm duy trì sự

công bằng trong việc tính thuế xuất nhập khẩu của Hải quan và các loại thuế khác đối

với người phải nộp thuế đồng thời khuyến khích việc doanh nghiệp trung thực tự giác

tính thuế đúng.

- Phương pháp KTSTQ: KTSTQ giới hạn trong một vài trường hợp mà số thuế

28

chênh lệch bị phát hiện vượt trội chứ không làm tất cả. Nhân viên hải quan chỉ yêu cầu

những tài liệu cần thiết, khuyến khích người nhập khẩu đưa ra bản khai chính xác để

giảm bớt mức thuế bắt buộc của họ.

Quy trình KTSTQ của Nhật bản, với ngành Hải quan phát triển hiện đại đứng

hàng thứ 11/150 [theo “The Logistics Performance Index and Its Indicator – 2007”],

cho thấy quy trình KTSTQ tại Nhật cũng gồm các bước chính như sau :

+ Thu thập thông tin từ hồ sơ quản lý doanh nghiệp theo các tiêu chí rủi ro

xác định.

+Phân tích thông tin .

+Lựa chọn doanh nghiệp kiểm tra.

+Phân tích thông tin của nhóm doanh nghiệp này.

+Thực hiện khảo sát trước khi tiến hành kiểm tra.

+Hoạch định chiến lược kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp.

+Tiến hành kiểm tra tại doanh nghiệp .

+Xử lý kết quả sau cuộc kiểm tra tại doanh nghiệp, thông tin phải được phản

Thu thập thông tin

Cập nhật lại thông tin

hồi vào hệ thống.

HHồồ ssơơ rrủủii roro Risk Profiling) ((Risk Profiling)

Phân tích thông tin/cơ sở dữ liệu

PCAPCA

ThThựựcc hihiệệnn kikiểểmm totoáánn

ChChọọnn llựựaa Selection) ((Selection)

Khảo sát trước kiểm toán

Làm kế hoạch

(Pre-Audit Survey)

Phân tích thông tin/cơ sở dữ liệu

Sơ đồ :Quy trình kiểm toán Hải quan (KTSTQ) của Hải quan Nhật (Nguồn: Tài liệu giảng dạy KTSTQ (PCA) của Hải quan Nhật bản tháng 07- 2006).

29

Sơ đồ :Quy trình kiểm toán Hải quan của Hải quan Nhật (Nguồn: Tài liệu giảng dạy KTSTQ (PCA) của Hải quan Nhật bản tháng 07- 2006).

1.9 . Những kinh nghiệm rút ra cho hoạt động kiểm toán sau thông quan của Hải

quan Việt Nam.

So với các nước thì hoạt động kiểm toán sau thông quan của Việt Nam còn mới

mẻ và hiệu quả hoạt động chưa cao, tuy nhiên khi đối chiếu với một số nước trong khu

vực và trên thế giới có thể rút ra một số nhận xét như sau:

- Về đối tượng, phạm vi kiểm tra đây là những nội dung được qui định rõ trong

Luật hải quan, Nghị Định 154/ /2005 NĐ-CP ngày 15/12/2005 về kiểm tra sau thông

quan về cơ bản cũng tương tự như các nước

- Về qui trình kiểm toán sau thông quan: Cũng như một số nước trong khu vực, ở

Việt Nam chúng ta qui trình tiến hành KTSTQ cũng bắt đầu từ việc thu thập thông tin

đối với hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp từ nhiều nguồn thông tin khác

nhau. Trên cơ sở đó phân tích, tổng hợp đánh giá lựa chọn những doanh nghiệp có dấu

hiệu vi phạm tiến hành kiểm tra tại trụ sở cơ quan hải quan trên tinh thần chỉ ra những

sai phạm, nếu Doanh nghiệp chấp nhận thì đưa ra kết luận truy thu thuế và phạt vi

phạm theo văn bản qui định. Trong trường hợp Doanh nghiệp giải trình chưa thuyết

phục thì việc KTSTQ sẽ tiếp tục được tiến hành tại trụ sở Doanh nghiệp và Hải quan

có quyền kiểm tra tất cả hồ sơ, chứng từ, sổ sách kế toán liên quan tới lô hàng XNK

- Về kỹ thuật quản lý rủi ro: chúng ta cần xây dựng các nội dung sau:

+ Hệ thống các tiêu chí tuân thủ pháp luật và hệ thống đánh giá mức độ tuân thủ

pháp luật .

+ Kỹ thuật khoa học phân loại rủi ro và xác định rủi ro

+ Áp dụng có hệ thống kỹ thuật rủi ro ở tầm chiến lược cho đến tầm chiến thuật

+ Quản lý rủi ro trong lĩnh vực KTSTQ gồm việc đánh giá rủi ro liên quan đến

hàng hóa XNK, các doanh nghiệp, và tập trung nhân viên kiểm toán hải quan vào các

lĩnh vực, chuyên đề có độ rủi ro cao

Cần thiết phải xây dựng hệ thống quản lý rủi ro phục vụ riêng cho bộ phận

KTSTQ, bởi đây là nguồn cung cấp thông tin từ đối tượng kiểm tra cần thiết cho hoạt

động KTSTQ.

- Về công nghệ thông tin : phải đưa công nghệ thông tin vào sử dụng có hiệu

30

quả trong việc thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau phục vụ KTSTQ

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong chương 1, luận văn đã làm rõ cơ sở lý luận của kiểm toán hải quan. Luận

văn đã đưa ra được mục đích, vai trò và quản lý nhà nước trong lĩnh vực kiểm toán

sau thông quan trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và cơ sở pháp lý Quốc tế , cơ

sở pháp lý của Việt Nam, cho việc hoạt động kiểm toán sau thông quan.

Chương 1 cũng đề cập tới những kinh nghiệm của các nước đã áp dụng nghiệp

vụ KTSTQ có hiệu quả trong hoạt động để thấy tầm quan trọng của nghiệp vụ này

trong bảo vệ chính sách thưong mại của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi phát triển

thương mại, đầu tư, đảm bảo lợi ích người tiêu dùng, an ninh quốc gia, môi trường…

và một điều quan trọng là đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, từ đó rút ra

những bài học kinh nghiệm cho hoạt động kiểm toán sau thông quan của Việt Nam.

Qua đó nhận thấy kiểm toán sau thông quan là thực sự cần thiết và không thể thiếu trong

tiến trình cải cách và hiện đại hóa ngành Hải quan phù hợp với yêu cầu thực tế của sự phát

triển chung trong nền kinh tế thế giới, trong giai đoạn toàn cầu hóa.

Dựa trên những nghiên cứu ở chương 1 tác giả sẽ phân tích, đánh giá thực trạng

hoạt động XNK và thực trạng hoạt động của KTSTQ Việt Nam trong thời gian trước

và sau khi Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO ở

31

chương 2.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA KIỂM TOÁN HẢI QUAN VIỆT

NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.

2.1 Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Năm 2007 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, nhưng tiến

trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã thực sự trải qua gần 20 năm. Từ đầu thập

niên 1990, đất nước bắt đầu mở cửa nền kinh tế, đẩy mạnh với thông thương bên ngoài

và tiếp nhận luồng vốn FDI.

Năm 1995 Việt Nam trở thành thành viên ASEAN đánh dấu bước đi quan trọng

đầu tiên trong nhập kinh tế quốc tế. Từ năm 1996 nước ta bắt đầu thực hiện hiệp định

ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT nhằm thiết lập khu vực thương mại tự do

trong khối ASEAN (AFTA) với lịch trình cắt giảm thuế quan mà mốc cuối cùng của

hiệp định là năm 2006 khi toàn bộ các mặt hàng, trừ mặt hàng trong danh mục nông

sản nhạy cảm và Danh mục loại trừ hoàn toàn phải đưa về mức thuế suất 0 - 5%.

Năm 2000 Việt nam ký kết và thực hiện hiệp định Thương mại song phương Việt

Nam – Hoa kỳ với những nội dung và phạm vi cam kết sát với chuẩn mực WTO.

Năm 2002 nước ta ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN-

Trung Quốc trong vòng 10 năm. Lĩnh vực tự do hóa bao gồm thương mại hàng hóa,

thương mại dịch vụ đầu tư cũng như các hợp tác khác về Tài chính, Ngân hàng, Công

nghiệp …

Nước ta cũng tham gia vào khu vực thương mại tự do ASEAN- Hàn Quốc

(AKFTA) được ký lại lần thứ 3 vào tháng 8/2006 với cam kết lộ trình cắt giảm thuế

quan bắt đầu từ năm 2007. Theo cam kết trong Hiệp định thương mại hàng hóa, Việt

Nam phải cắt giảm thuế theo lộ trình với đích cuối cùng là xoá bỏ thuế nhập khẩu của

ít nhất 90% mặt hàng trong danh mục thông thường vào 1/1/2015.

Đầu năm 2007 nước ta trở thành thành viên chính thức của WTO. Các cam kết

WTO của Việt Nam, tương tự như cam kết của các nước mới gia nhập khác, nhằm xoá

bỏ việc phân biệt đối xử giữa hàng nội địa và nhập khẩu hoặc giữa đầu tư trong và

ngoài nước, minh bạch hóa các chính sách. Các lĩnh vực quan trọng nhất mà Việt Nam

32

có cam kết gồm mở cửa thị trường thông qua cắt giảm các hàng rào thuế quan, chính

sách giá cả minh bạch, không phân biệt đối xử và phù hợp với với các qui định của

WTO… Tuân thủ hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan của WTO ngay từ

khi gia nhập; tuân thủ về hiệp định kiểm tra trước khi giao hàng cũng như các hiệp

định có liên quan của WTO; duy trì hệ thống thủ tục hải quan thống nhất, minh bạch,

đơn giản, và phù hợp với chuẩn mực quốc tế … cam kết mở thị trường dịch vụ tài

chính, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ kế toán, dịch vụ thuế.

Có thể thấy WTO không phải là điểm bắt đầu và kết thúc quá trình hội nhập và

đổi mới của nước ta. Các hiệp định tự do thương mại khu vực và song phương có mức

độ mở cửa cao hơn cam kết trong WTO. Những khác biệt trong cam kết giữa các hiệp

định thương mại có thể tạo ra hiệu ứng thương mại và đầu tư khác nhau. Chính vì vậy

tác động của các hiệp định đó đến nền kinh tế Việt Nam sâu sắc hơn là trong khuôn

khổ của khu vực tự do thương mại thuần túy. Điều rõ ràng là tiến trình hội nhập kinh tế

quốc tế, tự do hóa thương mại, đầu tư và chuyển sang thể chế kinh tế thị trường đang

diễn ra ngày càng sâu rộng và không thể đảo ngược. Nền kinh tế Việt Nam đang ngày

càng hội nhập sâu rộng hơn vào kinh tế thế giới.

Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn càng đẩy mạnh thương mại phát triển đặc biệt

là thương mại quốc tế, việc mua bán giao lưu hàng hóa giũa các nước và Việt Nam

ngày càng tăng nhanh về tốc độ và khối lượng, trị giá. Từ nhu cầu gia tăng phát triển

ngoại thương đòi hỏi việc quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu ngày

càng phải đổi mới để phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế hội nhập tạo điều

kiện cho thương mại phát triển.

2.1.1 Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian từ

2005-2009

XNK là một ngành kinh tế quan trọng, đảm nhận chức năng lưu thông hàng

hóa, dịch vụ giữa trong nước và ngoài nước góp phần đắc lực vào tiến trình phát triển

đất nước. Nhờ XNK thế lực và nguồn lực của từng nước được khai thác mạch mẽ và

mang lại hiệu quả cao trong sự phát triển kinh tế của toàn xã hội. Vì vậy bất cứ một

quốc gia nào cũng quan tâm tới hoạt động XNK để phát triển kinh tế, đặc biệt là trong

33

thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.

Ở Việt Nam, hoạt động XNK thực sự phát triển mạnh mẽ từ khi gia nhập tổ

chức kinh tế thế giới WTO năm 2007. Hoạt động XNK đã mang lại một phần trong

nguồn thu cho ngân sách Nhà nước qua việc thu thuế XNK. Nhưng cũng từ hoạt động

XNK trong thời kỳ mở cửa này, đã phát sinh những mặt trái của nó khi việc quản lý

chưa chặt chẽ đó là: gian lận thương mại, buôn lậu trái phép, làm ảnh hưởng tới việc

phát triển sản xuất, kinh doanh, môi trường, chính trị trong nước và thất thu thuế của

Nhà nước.

2.1.1.1 Kết quả hoạt động XNK từ 2005 đến 2009

Từ năm 2005 đến 2009 trước và sau khi Việt Nam là thành viên chính thức của

tổ chức thương mại thế giới WTO, hoạt động XNK đã đạt được những kết quả sau:

(1) Số lượng doanh nghiệp tham gia XNK

Bảng 1: Số lượng doanh nghiệp xuất nhập khẩu

26.645

30.988

36.600

39.799

Năm 2006 2007 2008 2009

Số lượng Doanh nghiệp XNK

(Nguồn : Tổng cục Hải quan – Báo cáo tổng kết từ năm 2005- 2009)

Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam chính thức là thành viên của WTO dẫn

đến việc chính sách điều hành của Chính phủ, các Bộ ngành và Bộ Tài chính có sự

thay đổi đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động XNK làm số lượng doanh nghiệp XNK

tăng lên 16,3% so với năm 2006, Năm 2009 tăng 49% so với năm 2006.

Số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động XNK tăng thêm, dẫn tới số lượt tờ

khai XNK, kim nghạch XNK gia tăng mạnh mẽ đòi hỏi ngành Hải quan trong hoạt

động quản lý Nhà nước đối với hoạt động XNK phải đáp ứng được yêu cầu phát triển

chung của nền kinh tế và các cam kết gia nhậpWTO.

34

(2) Số lượng tờ khai làm thủ tục XNK

Bảng 2: Số lượng tờ khai xuất nhập khẩu qua các năm

Đơn vị tính : (nghìn tờ)

1.848 946 902

2.990 1570 1420

3.289 1775 1514

Năm 2005 2006 2007 2008 2009

Số lượng tờ khai Lượng tờ khai nhập Lượng tờ khai xuất Tỷ lệ kiểm tra thực tế/ tổng số tờ khai

1.762 853 909 59,8%

24%

2.284 1181 1103 22%

23%

17%

(Nguồn : Tổng cục Hải quan – Báo cáo tổng kết từ năm 2005- 2009)

Với số liệu trên cho thấy số lượng tờ khai nhập khẩu tăng dần qua các năm đặc

biệt năm 2007 năm đầu tiên gia nhập WTO tăng 23,6% so với năm 2006. Năm 2009

tăng 44% so với năm 2006. Như vậy cho thấy, khối lượng hàng hóa XNK luân chuyển

qua cửa khẩu ngày càng gia tăng mạnh mẽ, đòi hỏi qui trình nghiệp vụ thông quan

hàng hóa XNK phải thực sự thông thoáng để tạo thuận lợi cho thương mại phát triển,

đồng thời vẫn đảm bảo được về mặt quản lý Nhà nước của Hải quan.

Năm 2007 là năm đầu tiên gia nhập WTO, thủ tục hải quan đối với hàng hóa

XNK là một phần chủ yếu trong quản lý hoạt động XNK của Nhà nước trong thời kỳ

hội nhập. để hoàn thành nhiệm vụ Nhà nước và Bộ tài chính đã giao, ngành Hải quan

đã đặt ra mục tiêu năm 2007 là “Hoàn thiện các chính sách của Hải quan cho phù hợp

với các qui định của WTO. Tập trung và đẩy nhanh tốc độ hiện đại hóa ngành Hải

quan … Tạo thuận lợi hơn nữa cho đầu tư, thương mại”[trích báo cáo tổng kết ngành

Hải quan năm 2007]

Theo cam kết, đến năm 2010 tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa trên số lượng tờ

khai Hải quan là 10%, như vậy 90% lượng hàng hóa XNK, sẽ không phải kiểm tra

thực tế tại khâu thông quan. Điều này thực sự phù hợp và có lợi cho các Doanh nghiệp

tự giác tuân thủ tốt pháp luật, nhưng đối với các Doanh nghiệp không tuân thủ pháp

luật sẽ lợi dụng điều kiện này để gian lận thương mại, buôn lậu. Khắc phục tình trạng

trên thì ngành Hải quan phải tăng cường khâu “hậu kiểm” đó là kiểm toán sau thông

quan tìm ra những hành vi gian lận không tuân thủ pháp luật trong hoạt động XNK của

35

các Doanh nghiệp

(3) Kim ngạch XNK

Bảng 3: Kim ngạch xuất nhập khẩu từ 2005 đến 2009

Đơn vị tính : tỷ USD

Năm

2005

2006

2007

2008

2009

Tổng kim ngạch XNK hàng năm

62,70

69,74

86,83

133,96

125,00

32,87 36,87

58,54 75,42

Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch nhập khẩu Trung bình tăng hàng năm

29,15 33,55 9%

11%

38,85 47,98 25%

54%

56,50 68,50 -7%

(Nguồn : Tổng cục Hải quan – Báo cáo tổng kết từ năm 2005- 2009)

Khi Việt Nam chưa là thành viên WTO kim ngạch XNK năm 2006 đạt 69.74 tỷ

USD tăng so với 2005 là 11%. Năm 2007 khi Việt nam chính thức là thành viên của

WTO kim nghạch XNK tăng 25%. Đặc biệt năm 2008 một năm sau khi gia nhập WTO

kim ngạch xuất khẩu tăng đột biến là 54% so với năm 2007. Năm 2009 tổng kim

ngạch XNK giảm do tác động mạnh của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng tính

bình quân từ năm 2005 đến năm 2009 tổng kim ngạch XNK tăng 18,4 %

2.1.1.2- Gian lận thương mại trong hoạt động xuất nhập khẩu

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, hiện nay ở nước ta có khoảng 40.000

doanh nghiệp (tính đến hết năm 2009) đang hoạt động ở lĩnh vực xuất nhập khẩu. Việc

đông đảo các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động đa chức năng vừa

có sản xuất, kinh doanh - dịch vụ vừa có xuất nhập khẩu đã góp phần quyết định đưa

sản phẩm hàng hóa của Việt Nam tham gia sâu rộng vào thị trường thế giới; góp phần

đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển, hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.

Với mục đích hoạt động của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, nên trong

quá trình sản xuất, kinh doanh tất cả các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh khốc

liệt trong “ một sân chơi chung”. Để đạt được mục đích của mình, trên tổng thể thì hầu

hết các doanh nghiệp hoạt động trên nguyên tắc tôn trọng pháp luật, làm những gì mà

luật pháp không cấm.

Tuy nhiên, bên cạnh một số Doanh nghiệp hoạt động chấp hành tốt pháp luật

36

cũng còn có một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp cố tình vi phạm pháp luật khi

hoạt động XNK nhằm mục đích thu lợi bất chính từ việc trốn thuế. Trong hoạt động

XNK có nhiều hình thức gian lận thương mại như :

Gian lận thương mại về nhập khẩu

- Gian lận về mức thuế suất khi áp mã hàng hóa, để hưởng thuế suất thấp bằng

hình thức như: cố ý khai sai bản chất hàng hóa, tên gọi hàng hóa, kết qủa giám định sai

- Gian lận về khai báo trị giá tính thuế để gian lận thuế XNK: Doanh nghiệp

khai báo trị giá tính thuế thấp hơn trị giá thực tế thanh toán nhằm mục đích khai thấp

số thuế phải nộp vào ngân sách nhà nước. Đây là cách thức rất phổ biến trong hoạt

động nhập khẩu hàng hoá khi áp dụng hiệp định trị giá GATT/WTO xác định trị giá

tính thuế, Ngành hải quan đã phát hiện được ở nhiều doanh nghiệp vi phạm thông qua

việc kiểm tra, tham vấn giá.

- Gian lận về xuất xứ hàng hóa để hưởng chênh lệch về mức thuế suất thấp. Tùy

theo các cam kết của các Hiệp định đã được ký kết, cùng một loại hàng hóa, sản phẩm

từ các quốc gia hoặc nhóm quốc gia khi nhập khẩu vào Việt Nam sẽ phải chịu các mức

thuế suất khác nhau khi tính thuế nhập khẩu. Một số doanh nghiệp đã lợi dụng điều

này để giả mạo giấy chứng nhận xuất xứ, khai báo sai lệch để hưởng thuế suất ưu đãi

đặc biệt. Chẳng hạn cùng một linh kiện máy tính của nhà sản xuất IBM nếu có xuất xứ

từ Mỹ sẽ có mức thuế suất khác với linh kiện của hãng IBM có xuất xứ từ khối các

nước ASEAN.

- Gian lận về định mức. Đây là dạng vi phạm phổ biến của các doanh nghiệp có

chức năng nhập nguyên liệu về để gia công hay sản xuất hàng để xuất khẩu cho các đối

tác nước ngoài, nguyên liệu nhập khẩu được miễn thuế, không thu thuế. Đối với dạng

gian lận này, doanh nghiệp lập định mức cấu thành sản phẩm cao hơn định mức thực tế

tiêu hao. Phần chênh lệch về nguyên vật liệu được tiêu thụ ở thị trường nội địa, nhằm

chiếm đoạt thuế nhập khẩu.

- Gian lận về ưu đãi đầu tư,đối với các dự án. Lợi dụng chính sách về ưu đãi về

thuế đối với các dự án ưu đãi đầu tư để hưởng thuế suất

Gian lận thương mại về xuất khẩu

- Gian lận khai tăng trị giá thực tế hàng xuất khẩu, để chuyển tiền chênh lệch

37

bất hợp lý từ nước ngoài về Việt Nam. Do chính sách của Nhà nước khuyến khích xuất

khẩu hàng hóa, mức thuế suất đối với hàng xuất khẩu thông thường bằng 0%, Doanh

nghiệp đã lợi dụng chính sách này phục vụ mục đích trên.

- Thủ đoạn chiếm đoạt thuế GTGT: Để tạo động lực cho sản xuất trong nước

phát triển, nhà nước luôn có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt

động hướng về xuất khẩu, nhất là đối với các sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp.

Nhằm góp phần khai thác tiềm năng nội lực mở rộng ngành nghề, giải quyết lao động

dư thừa ở lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ

cấu kinh tế. Trong đó có biện pháp hoàn thuế GTGT cho các doanh nghiệp xuất khẩu

sử dụng sản phẩm trong nước. Lợi dụng chính sách này, nhiều doanh nghiệp đã gian

lận bằng cách mua hóa đơn, lập chứng từ xuất hàng khống để chiếm đoạt tiền hoàn

thuế GTGT của nhà nước.

- Hình thức trung gian, tức là doanh nghiệp trong nước thông qua một nước mà

Việt Nam cam kết ưu đãi về thuế suất để đưa hàng sang một nước thứ ba tiêu thụ. Lợi

nhuận mà doanh nghiệp có được khi dùng cách thức này là tăng sức mạnh trước các

đối thủ cạnh tranh. Biện pháp này của doanh nghiệp không sớm thì muộn cũng sẽ bị

đối tác phát hiện. Họ sẽ có những biện pháp chống trả, trừng phạt. Hậu quả là làm cho

uy tín sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam bị ảnh hưởng trên thương trường quốc tế.

- Vi phạm về sở hữu trí tuệ, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hóa. Kiểu

vi phạm này là: Khoản lợi nhuận chênh lệch doanh nghiệp có được do gắn nhãn mác

của các nhà sản xuất, các hãng có uy tín lớn của nước ngoài vào sản phẩm của mình để

đánh lừa người tiêu dùng. Bằng chứng là một số doanh nghiệp Việt Nam bị các hãng

như Honda, Nike, Hynos,… kiện vừa qua là chứng minh cho sự vi phạm này.

2.1.2. Quản lý nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu

Hoạt động xuất nhập khẩu là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc gia, vì

vậy quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK là một trong những nhiệm vụ cấp thiết

của Nhà nước, nhất là trong giai đoạn hội nhập mạnh mẽ. Đối với Việt Nam nội dung

quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK được thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật

trong đó nêu rõ “ Nhà nước thống nhất quản lý ngoại thương, có chính sách mở rộng

giao lưu hàng hóa với nước ngoài trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng,

38

cùng có lợi theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, khuyền khích các thành phần

kinh tế sản xuất hàng hóa xuất khẩu và tham gia xuất khẩu theo qui định của pháp

luật; có chính sách ưu đãi để đẩy mạnh xuất khẩu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước,

ưu tiên nhập khẩu vật tư thiết bị, công nghệ cao kỹ thuật hiện đại để phát triển sản

xuất” [Luật thương mại 10/05/1997. Điều 16]

2.1.2.1. Một số nội dung cơ bản quản lý XNK giai đoạn 2005 đến 2010

- Chúng ta đã thay đổi cơ bản cơ chề điều hành XNK. Chính sách và qui định XNK

được công bố cho cả một thời kỳ dài 5 năm thay cho hàng năm trước đây. Trước đây

việc xây dựng chính sách được theo từng năm dẫn tới khó khăn cho các cơ quan quản

lý XNK và các doanh nghiệp XNK điển hình là tình trạng bị động trong kinh doanh và

xử lý vụ việc tồn đọng trong quản lý.

- Quyền kinh doanh XNK của tất cả các doanh nghiệp tiếp tục được mở rộng tất cả các

doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo qui định của pháp luật được

phép XNK tất cả các loại hàng hóa trừ các mặt hàng Nhà nước cấm xuất, nhập khẩu;

cấm kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện. Danh mục hàng hóa XNK theo hạn

nghạch và giấy phép của Bộ thương mại từng bước cũng được giảm dần và hầu hết các

biện pháp quản lý số lượng hàng hóa nhập khẩu đều có lộ trình loại bỏ.

- Giảm thiểu qui định về đầu mối kinh doanh XNK. Đối với những mặt hàng kinh

doanh phải có đầu mối như Gạo, phân bón, rượu, than, xăng dầu …. Trong đó đã thực

hiện cơ chế bãi bỏ giao hạn nghạch xuất khẩu gạo, nhập khẩu phân bón và việc qui

định đầu mối kinh doanh XNK đối với hai mặt hàng này thuộc loại phải quản lý bằng

hạn nghạch một thời gian dài

- Xây dựng lộ trình giảm thiểu các biện pháp hạn chế định lượng XNK theo hướng

giảm dần các công cụ phi thuế quan thuộc nhóm đang áp dụng và tăng dần các công cụ

bảo hộ mới theo thông lệ quốc tế như hạn ngạhch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế theo

mùa vụ, chống bán phá giá… những đổi mới này đã tích cực thúc đẩy hoạt động XNK

phát triển từ năm 2005 đến năm 2009 kim ngạch XNK tăng bình quân 18,4 %

- Tiếp tục cải cách hệ thống chính sách thuế XNK theo hướng hiện đại và phù hợp với

cam kết quốc tế và khu vực. Bãi bỏ bảng giá tối thiểu, áp dụng giá tính thuế theo trị giá

39

giao dịch thực tế trên qui định hiệp định trị giá GATT/WTO. Cắt giảm thuế quan và thuế

xuất khẩu đối với hàng hóa được qui định tại các văn bản ban hành theo lộ trình cam kết

gia nhập WTO [QĐ 106/2007/QĐ-BTC ngày 26/12/2008]

- Tiếp tục ban hành những chính sách quản lý ngoại hối phù hợp với diễn biến của thị

trường ngoại tệ và thực tiễn hoạt động XNK nhằm đáp ứng yêu cầu vận hành của nền

kinh tế bằng một loạt các biện pháp tích cực của Nhà nước như: giảm qui định tỷ lệ kết

hối, đơn giản hóa thủ tục cấp phép vận chuyển, mở tài khoản giao dịch ngoại tệ…

2.1.2.2. Tổng quát thực trạng quản lý Nhà nước đối với hoạt động XNK

- Về quá trình đổi mới chính sách quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK

Cùng với đổi mới kinh tế và thực hiện cam kết hội nhập, quản lý nhà nước vế

hoạt động XNK từng bước được chuyển đổi cả về tư duy, nội dung và phương pháp

quản lý tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho lưu thông hàng hóa XNK và hoạt động

của thương nhân trong nước và quốc tế.

+ Quá trình đổi mới công tác quản lý đối với hoạt động XNK nhằm tập trung

vào các mục tiêu : định hướng các hoạt động XNK phục vụ nền kinh tế đang chuyển

đổi và nhanh chóng tiếp cận với thương mại Quốc tế. Quá trình này được thực hiện

theo từng giai đoạn gắn liền với trình độ năng lực của nền kinh tế đất nước và theo

hướng loại bỏ những cấm đoán, hạn chế XNK và giảm dần sự can thiệp bằng các biện

pháp hành chính và các công cụ đã lỗi thời.

+ Cùng với sử dụng các chính sách công cụ có tính chất vĩ mô để điều chỉnh hoạt

động XNK như chính sách mặt hàng, chính sách thuế, chính sách tài chính ngân hàng,

hệ thống pháp luật Nhà nước đã từng bước nới lỏng các điều kiện kinh doanh XNK,

đồng thời tăng cường cải cách hành chính, giảm thiểu chi phí kinh doanh, minh bạch hóa

và đơn giản hóa qui trình thủ tục về hải quan và hành chính công.

+ Để quản lý các hoạt động XNK đi đúng hướng và hiệu quả, cùng với ban

hành các bộ luật cơ bản như Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư nước

ngoài, Luật thuế XNK … Nhà nước còn ban hành hàng loạt các văn bản dưới Luật về

quản lý XNK và đổi mới cơ chế quản lý hoạt động XNK.

+ Chính phủ đã ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương

tham gia các tổ chức kinh tế và thương mại khu vực và Quốc tế để phục vụ cho chính

40

sách ngoại thương và mở đường cho hoạt động XNK vươn ra thế gới. Việc trở thành

thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO là công cụ điều hành hoạt

động thương mại và XNK của nước ta, đồng thời là cơ sở để chúng ta xây dựng sách

lược, chiến lược kinh tế đẩy nhanh tiến trình hội nhập.

Quá trình đổi mới công tác quản lý hoạt động XNK đã tác động tích cực đến hoạt

động XNK tạo môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh XNK vận hành theo cơ chế

thị trường, góp phần khơi dậy tiềm năng sáng tạo, và tính chủ động của các đơn vị kinh

doanh thuộc mọi thành phần kinh tế để phát triển xuất khẩu. Đặc biệt công tác quản lý

XNK đã khắc phục được tình trạng phân biệt đối xử, tạo dựng được thế và lực của nước

ta trong thương mại Quốc tế, khai thông thị mới, mở rộng quan hệ buôn bán trao đổi, tạo

ra nhiều thuận lợi cho XNK hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam

- Về mô hình quản lý các chủ thể XNK

Cùng với những bước tiến của tiến trình cải cách thương mại, hệ thống chủ thể

hoạt động trong lĩnh vực XNK cũng được hình thành phát triển ngày càng gia tăng ,

thuộc năm nhóm sau đây:

+ Nhóm thứ nhất: Các doanh nghiệp XNK cấp trung ương chủ yếu Doanh

nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp quốc doanh, trực thuộc chính phủ hoặc thuộc các Bộ,

Ngành.

+ Nhóm thứ hai: Các doanh nghiệp XNK địa phương gồm các doanh nghiệp

Nhà nước cấp Tỉnh, Thành phố, Quận, Huyện.

+ Nhóm thứ ba: Các doanh nghiệp XNK thuộc lĩnh vực FDI

+ Nhóm thứ tư: Các doanh nghiệp XNK ngoài quốc doanh, các tổ chức, cá

nhân, các tổ chức, cá nhân và các thành phần khác có hàng hóa dịch vụ XNK

+ Nhóm thứ năm: Các doanh nghiệp XNK thuộc các khu chế xuất và công

nghiệp, khu kinh tế mở, khu thương mại tự do, khu kinh tế cửa khẩu…

- Về cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK

Cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước đối với hoạt độnmg XNK của nước ta trong

những năm qua tương đối ổn định bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp từ Trung

ương đến địa phương. Cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK được

thiết lập theo ba cấp:

41

+ Chính phủ

+ Các Bộ ngành và Uy ban nhân dân Tỉnh, Thành phố

+ Các Cục, Sở liên quan và Ủy ban nhân dân Quận, Huyện

- Về hệ thống các công cụ chính sách quản lý XNK áp dụng trong thời gian qua

Cũng giống như các nước trên thế giới, nước ta đều thiết lập hầu hết các công

cụ chính sách cần thiết để điều chỉnh các hoạt động XNK. Đồng thời tuỳ theo mục tiêu

phát triển kinh tế trong từng giai đoạn để thực thi các công cụ và giải pháp đã được

thiết lập cho thích hợp vừa phải phát triển thương mại nhưng đảm bảo việc bảo hộ nền

sản xuất trong nước.

2.1.3. Thực trạng kiểm toán hải quan

2.1.3.1. Về con người

Số lượng cán bộ: Lực lượng KTSTQ đã tăng dần về số lượng từ năm 2005 với

210 công chức, chiếm tỷ lệ 2,7 % biên chế toàn ngành, đến năm 2009 đã tăng lên 480

công chức , chiếm tỷ lệ khoảng 4.9 % biên chế toàn ngành, so với yêu cầu trong tình

hình chuyển hoạt động hải quan từ “ tiền kiểm” sang “ hậu kiểm “ thì chưa thể đáp

ứng được, so sánh với tỷ lệ các nước trong Khu vực và trên thế giới thì rất thấp (chiếm

từ 10-25%).

Bảng 4: Số lượng nhân viên kiểm tra sau thông quan trong toàn ngành Hải quan

Đơn vị tính : người

Năm

2005

2006

2007

2008

2009

Tổng biên chế ngành HQ

7913

8297

8717

9606

9731

Lực lượng kiểm toán hải quan

210

400

430

460

480

Tỷ lệ % trong toàn ngành HQ

2.7%

4.8%

4.9%

4.8%

4.9%

(Nguồn : Tổng cục Hải quan – Báo cáo tổng kết từ năm 2005- 2009)

Như vậy, với tỷ lệ số lượng cán bộ kiểm toán hải quan trên thì việc gia tăng về

42

kim ngạch xuất khẩu, số lượng tờ khai xuất, nhập khẩu, lượng hàng hoá xuất nhập qua

các năm thì với lực lượng kiểm toán hải quan thực tế sẽ không đủ nhân lực để thực

hiện khối lượng công việc phát sinh thực tế

Chất lượng cán bộ: Trình độ chuyên môn có gần 94% tốt nghiệp đại học và trên

đại học ; còn lại là cao đẳng và trung học. Trình độ ngoại ngữ tiếng Anh có 17% tốt

nghiệp đại học, có gần 65% trình độ B và C, có 12,7 % trình độ A và 5,3% tốt nghiệp

ngoại ngữ khác. Về trình độ tin học có 3% trình độ kỹ thuật viên, 100 % trình độ tin

học văn phòng và 2% trình độ B. Có 60% được đào tạo phổ cập đến nghiệp vụ kế toán,

chứng từ thương mại, Thanh toán quốc tế. Một số được đào tạo về kỹ năng kiểm toán ,

điều tra, giám định tài liệu, xử lý vi phạm hành chính

Mặc dù trình độ cán bộ đã được tiêu chuẩn hóa theo quy định của TCHQ theo

công văn 2722/TCHQ-TCCB ngày 12/6/2003, nhưng xét về mặt bằng chung tại thời

điểm hiện nay không đủ cán bộ có trình độ làm công tác KTSTQ, chưa có chuyên gia

kiểm toán sau thôngquan, đặc biệt về chuyên môn kế toán, kiểm toán doanh nghiệp. So

sánh với chuẩn mực cán bộ theo tiêu chuẩn Asean thì chưa đáp ứng được.

Cán bộ KTSTQ thường chỉ được đào tạo chuyên sâu một lãnh vực nhất định

như Tài chính kế toán, Ngoại thương, Luật,… trong khi đó công tác KTSTQ đòi hỏi

kiến thức tổng hợp. Vì vậy cán bộ hiện nay thiếu chuyên nghiệp, thiếu chuyên sâu,

chất lượng còn yếu so với yêu cầu thực tế, thiếu 06 kỹ năng cơ bản của cán bộ làm

KTSTQ . Đó là các kỹ năng: kỹ năng nắm biết luật pháp, thủ tục trong thương mại

quốc tế; kỹ năng KTSTQ ; kỹ năng kế toán; Có thực tế kinh doanh trong nước và quốc

tế kể cả hệ thống ngân hàng; Có kiến thức công nghệ thông tin bao gồm cả quá trình

xử lý thông tin điện tử, thương mại điện tử; Có kiến thức ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng

Anh) đủ để hiểu nội dung hồ sơ, chứng từ.

Về nhận thức: Cán bộ công chức kiểm toán sau thông quan trong những năm

đầu còn coi nhẹ công việc này, chưa thấy được vai trò của công việc “hậu kiểm”, tâm

lý ngại va chạm với đồng nghiệp tại khâu thông quan khi thực hiện công việc kiểm tra

Cán bộ kiểm tra sau thông quan còn có tâm lý ngại va chạm về quan hệ giữa hai khâu

43

thông quan và sau thông quan

Đến nay tình trạng này đã dần được khắc phục. Các cấp Lãnh đạo đã quan hơn

tới lĩnh vực này, cán bộ công chức ngày càng nhận thức rõ được tầm quan trọng của

nghiệp vụ kiểm toán sau thông quan.

2.1.3.2. Về đào tạo

Ngành Hải quan đã chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo lại cho công chức làm

công tác KTSTQ . Đã phối hợp với các đơn vị trong và ngoài ngành Tài chính, trong

và ngoài nước tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ KTSTQ , trị giá tính thuế theo

GATT, bồi dưỡng kiến thức về nghiệp vụ ngoại thương, thanh toán quốc tế…

Hiện nay toàn ngành đã đào tạo 11 chuyên gia chuyên sâu về nghiệp vụ

KTSTQ do Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA- Japan International Cooperation

Agency) nhằm đào tạo xây dựng đội ngũ giảng viên chủ chốt phục vụ tiến trình hiện

đại hóa thủ tục hải quan Việt Nam.

Hệ thống đào tạo công chức Hải quan Việt Nam có thể chia thành 2 giai đoạn từ

những năm trước 2005 và giai đoạn từ năm 2006 trở lại đây.

Giai đoạn từ năm 2005 trở về trước, nhiệm vụ đào tạo công chức Hải quan do

Trường Cao đẳng Hải quan phụ trách (24 giáo viên và 37 cán bộ hành chánh- số liệu từ

báo cáo của Dự án hỗ trợ kỹ thuật chuẩn bị cho dự án hiện đại hóa Hải quan Việt

Nam– 2005)[Trích báo cáo dự án hỗ trợ kỹ thuật chuẩn bị cho dự án hiện đại hóa Hải

quan VN -2005], là đơn vị đào tạo duy nhất của ngành Hải quan thành lập từ năm 1995

với các nhiệm vụ chính:

- Đào tạo bậc cử nhân cao đẳng Hải quan thời hạn 3 năm.

- Đào tạo nghiệp vụ Hải quan tổng hợp, tập trung ngắn hạn 3 tháng .

- Đào tạo các chuyên đề Hải quan ngắn hạn từ 3 ngày trở lên.

Kể từ năm 2006 đến nay, Trung tâm đào tạo nghiệp vụ Hải quan thuộc TCHQ đã

đảm nhận nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng công chức toàn ngành với sự hỗ trợ đắc lực của đội

ngũ hơn 50 giảng viên kiêm chức. Đã mở và đào tạo được nhiều lớp nghiệp vụ chuyên sâu

như: nghiệp vụ kiểm toán, kỹ năng tranh tụng trước toà, kỹ năng kiểm tra hồ sơ, chứng từ;

44

thu thập thông tin; lập hồ sơ hành chính và xử lý các vụ việc hành chính …

Bảng 5: .Kết quả đào tạo nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan qua các năm

Năm

2007

Tỷ lệ

2008

Tỷ lệ

2009

Tỷ lệ

Nghiệp vụ Tổng hợp

369

306

489

Nghiệp vụ thông quan

1423

2582

1792

(ĐVT: Lượt người )

Nghiệp vụ KTSTQ

1081

9,4% 1209

12% 415

3,5%

Nghiệp vụ Kiểm soát CBL và xử lý

558

1095

2449

8.071

4885

6594

Các loại hình khác (ngoại ngữ, tin học, quản lý nhà nước, …tập huấn ngoài nước)

Toàn ngành đào tạo và bồi dưỡng

11.502

10.077

11.739

(Nguồn : Tổng cục Hải quan - công văn số 7951/TCHQ ngày 29/12/2009)

Hệ thống tài liệu hỗ trợ cho công tác đào tạo nghiệp vụ Hải quan nói chung

cũng như nghiệp vụ Kiểm tra sau nói riêng, được đội ngũ giảng viên kiêm chức đảm

nhiệm biên soạn dựa trên hai nội dung chính: các quy định hiện hành của Luật hải

quan và những khái niệm chuẩn trong quy trình hiện đại hóa Hải quan của Tổ chức Hải

quan Thế giới (WCO).

Về hệ thống tài liệu phục vụ đào tạo nghiệp vụ KTSTQ và các nghiệp vụ hỗ trợ

như: kế toán, điều tra cơ bản, tố tụng, thẩm định tài liệu… cơ bản được đội ngũ giảng

viên cùng các chuyên gia trong và ngoài ngành Hải quan xây dựng dựa trên những quy

định hiện hành của hệ thống Luật Việt Nam, những công ước Quốc tế Việt Nam công

nhận, nên về mặt lý thuyết giúp học viên nắm vững về quy trình nghiệp vụ kiểm tra

sau.

Tuy vậy, mặc dù đã xây dựng kế hoạch đào tạo tổng thể, chuyên sâu cho toàn

hệ thống nhưng tổ chức triển khai thực hiện chưa có hiệu quả. Nội dung đào tạo chưa

45

thật cụ thể, chưa thật phù hợp với đối tượng, thời gian. Nên kết quả chưa cao.

2.1.3.3. Kết quả đạt được hoạt động kiểm toán sau thông quan

2.1.3.3.1- Kết quả tổng hợp

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC NĂM 2005

Thu ngân sách toàn ngành Hải quan : 49.978 tỷ đồng

Tổng số vụ kiểm tra sau thông quan : 375 vụ

Trong đó :

+ Kiểm tra tại trụ sở Hải quan : 364 vụ

+ Kiểm tra tại doanh nghiệp : 11 vụ

Tổng số tiền thuế phải truy thu : 9,5 tỷ đồng

Tổng số tiền đã truy thu : 8,5 tỷ đồng

Tỷ lệ thu ngân sách kiểm tra sau trên tổng thu ngân sách chiếm : 0.017%

(Nguồn : Tổng cục hải quan- Báo cáo tổng kết năm 2005)

Đây là năm thứ 3 kể từ khi hoạt động ( năm 2003) việc nhận thức về vai trò của

khâu “hậu kiểm” chưa thực sự nâng cao. Do vậy kết quả thu thuế từ khâu kiểm tra sau

này chưa cao, nhưng bước đầu đã khẳng định được vai trò “hậu kiểm” trong hoạt động

kiểm soát của ngành Hải quan.

Công tác kiểm tra sau thông quan đã tập trung vào các trường hợp gian lận về

trị giá hải quan, về các loại hình sản xuất- xuất khẩu, gia công, đầu tư. Kiểm tra sau

thông quan đối với một số mặt hàng nhập khẩu trọng điểm có thuế suất cao, trị giá lớn

như : ôtô, xăng dầu, linh kiện lắp ráp theo tỷ lệ nội địa hóa.

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC NĂM 2006

Thu ngân sách toàn ngành Hải quan : 54.500 tỷ đồng

Tổng số vụ kiểm tra sau thông quan : 513 vụ

Trong đó :

+ Kiểm tra tại trụ sở Hải quan : 484 vụ

+ Kiểm tra tại doanh nghiệp : 29 vụ

46

Tổng số tiền thuế phải truy thu : 79 tỷ đồng

Tổng số tiền đã truy thu : 57 tỷ đồng

Tỷ lệ thu ngân sách kiểm tra sau trên tổng thu ngân sách chiếm : 0,1%

(Nguồn : Tổng cục hải quan- Báo cáo tổng kết năm 2006)

Năm 2006 là năm chuẩn bị các điều kiện cơ bản cho hoạt động kiểm tra sau

thông quan lâu dài theo hướng chính qui chuyên nghiệp và thực hiện việc kiểm tra theo

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan, được cụ thể hóa trong chỉ thị

800/CT-TCHQ ngày 01/03/2006 về tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan đối

với hàng hóa XNK của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan. Đã mở rộng phạm vi

quyền kiểm tra các doanh nghiệp XNK. Do vậy so với 2005 số vụ kiểm tra tăng lên và

thu ngân sách từ kiểm tra sau cũng tăng lên rõ rệt.

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC NĂM 2007

Thu ngân sách toàn ngành Hải quan: 72.602 tỷ đồng

Tổng số vụ kiểm tra sau thông quan: 628 vụ

Trong đó :

+ Kiểm tra tại trụ sở Hải quan: 591 vụ

+ Kiểm tra tại doanh nghiệp: 37 vụ

Tổng số tiền thuế phải truy thu: 180 tỷ đồng

Tổng số tiền đã truy thu: 90,9 tỷ đồng

Tỷ lệ thu ngân sách kiểm tra sau trên tổng thu ngân sách chiếm : 0,12%

(Nguồn : Tổng cục hải quan- Báo cáo tổng kết năm 2007)

Năm 2007 là năm đầu tiên gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO của Việt

Nam, trong lĩnh vực Hải quan phải thực hiện cam kết nhiều đổi mới về qui trình thủ

tục trong kế hoạch hiện đại hóa ngành Hải quan. Số lượng doanh nghiệp tham gia

XNK gia tăng một cách đáng kể, kéo theo lượng hàng hóa XNK gia tăng. Dẫn tới vấn

đề “hậu kiểm ”càng phải thể hiện vai trò của mình để thực hiện mục tiêu tạo thuận lợi

cho thương mại phát triển nhưng vẫn đảm bảo được nguồn thu cho ngân sách.

Năm 2007, lực lượng kiểm tra sau thông quan tập trung vào thực hiện 03 nhóm

47

nhiệm vụ :

- Kiểm tra sau thông quan đánh giá sự tuân thủ của doanh nghiệp trong khai báo

Qua hoạt động kiểm tra, đã đánh giá được sự tuân thủ pháp luật của phần lớn

các doanh nghiệp nhập khẩu các mặt hàng lỏng, hàng rời (truy thu 66,5 tỷ đồng ), vải

vụn, nguyên liệu được miễn thuế 5 năm theo pháp luật về đầu tư (đã truy thu 3,3 tỷ

đồng), ôtô nhập khẩu tạo tài sản cố định của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong

lĩnh vực vận tải hành khách công cộng bằng đường bộ (dự kiến truy thu khoảng vài

chục tỷ đồng ), vỏ bao thuốc lá…

- Tập trung xác định và kiểm tra đối với những doanh nghiệp, loại hình, mặt hàng

trọng tâm, trọng điểm như : Loại hình doanh nghiệp gia công, sản xuất xuất khẩu.

Mặt hàng trọng điểm như : ôtô, sắt thép, mỹ phẩm …

Cụ thể qua kiểm tra đã phát hiện được những vi phạm nghiêm trọng, có vụ truy

thu hàng chục tỷ đồng (vụ Baseaserco Vũng Tàu, ôtô chở khách, thép lá cán nguội, vật

tư thiết bị điện của ban quản lý điện miền Trung, miền Nam…).

Đã phát hiện và kiến nghị Thủ tướng chấn chỉnh những yếu kém trong quản lý

Nhà nước, như yếu kém trong quản lý lĩnh vực đầu tư (thẩm định dự án, kiểm tra sau

cấp phép, vai trò điều phối quản lý, kiểm tra của cơ quan cấp phép đầu tư, Ủy ban nhân

dân tỉnh, thành phố).

Qua kiểm tra đã tìm thấy những yếu kém quan trọng trong quản lý của cơ quan

Hải quan như:

* Yếu kém trong kiểm tra xuất xứ hàng hóa:

+ Không nắm vững yêu cầu quản lý, như cho rằng kiểm tra xuất xứ chỉ là kiểm

tra giấy C/O, hình thức không sai thì coi như xuất xứ đúng, không biết rằng yêu cầu

chính của kiểm tra xuất xứ là xem hàng hóa có đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ không.

Thiếu các kiến thức liên quan đến xuất xứ hàng hóa (như mã số, mã vạch) nên ngay cả

khi trên nhãn hiệu, bao bì sản phẩm thể hiện xuất xứ của một nước, nhưng C/O lại xác

định xuất xứ của một nước khác mà cán bộ Hải quan cũng không phát hiện ra. Không

hiểu biết về mặt hàng, công nghệ sản xuất chúng nên không phát hiện được các nghi

vấn về vấn đề xuất xứ. Ví dụ: Hàm lượng trị giá của thép lá cán nguội chủ yếu được

48

hình thành từ nguyên liệu và ở công đoạn cán nóng, nếu một quốc gia chỉ thực hiện

công đoạn cán nguội thì không thể đảm bảo tiêu chuấn xuất xứ. Hoặc để sản xuất ra

sản phẩm sữa bột hộp phải qua các công đoạn chính là sấy ướt, sấy khô, pha trộn, đóng

gói, trong đó nguyên liệu và công đoạn sấy khô chiếm phần giá trị gia tăng chủ yếu

của sản phẩm. Nếu nguyên liệu không phải của nước hay khu vực xuất xứ, công đoạn

sản xuất lại chỉ gồm pha trộn, đóng gói thì phải nghĩ ngay đến tiêu chuẩn xuất xứ có

đáp ứng không.

* Yếu kém trong nắm vững chính sách, pháp luật:

+ Khi áp dụng trị giá GATT thì một số nơi không quan tâm đến việc giá đã bao

gồm đủ các thành phần của trị giá (C, I, F) chưa. Chính vì thế mà có nơi đã tính thuế

theo giá CNF theo điều kiện giao hàng trong hợp đồng, không cộng I.

+ Hàng nhập khẩu theo điều kiện giao hàng FOB, người nhập khẩu tự thuê tàu

và mua bảo hiểm, có hợp đồng, có chứng từ I, F, nhưng Hải quan không căn cứ vào

chứng từ I, F để xác định trị giá tính thuế, mà lại tính I, F theo công thức (thấp hơn

chứng từ).

+ Không nắm vững các khái niệm trong các văn bản pháp luật nên lúng túng.

Ví dụ, trong lĩnh vực ưu đãi đầu tư, các khái niệm “linh kiện”, “nguyên liệu”, “vật tư”

là khác nhau, nhưng cán bộ Hải quan không phân biệt được nên áp dụng miễn thuế sai.

* Yếu kém trong quản lý đối với hàng gia công:

Hiện nay, lượng nhân lực bố trí cho quản lý hàng gia công là khá lớn, nhưng

hiệu quả quản lý rất thấp, hầu như doanh nghiệp khai thế nào thì hải quan chấp nhận y

như thế, không phát hiện sai sót, gian lận gì. Có tình trạng đó là do:

+ Nhận thức không đúng: hiện tượng khá phổ biến là phần lớn công chức quản

lý hàng gia công nhận thức rằng, pháp luật đã quy định doanh nghiệp chịu trách nhiệm

về định mức, tỷ lệ hao hụt, tỷ lệ tiêu hao thì hải quan không cần kiểm tra. Đó là một sai

lầm nghiêm trọng. Pháp luật chỉ quy định doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm, chứ

không hạn chế việc cơ quan hải quan kiểm tra, mà trái lại, với trách nhiệm một cơ

quan quản lý, cơ quan hải quan phải kiểm tra. Tất nhiên là phải có biện pháp kiểm tra

49

phù hợp để không gây phiền hà, khó khăn, làm tăng chi phí cho doanh nghiệp.

+ Từ nhận thức không đúng dẫn đến biện pháp quản lý không đúng, không hiệu

quả: tập trung hầu hết nguồn lực vào các khâu quản lý chỉ mang tính hình thức (đăng

ký hợp đồng, đăng ký hồ sơ hải quan, thanh khoản), mà không tập trung nguồn lực cho

yêu cầu mấu chốt của quản lý hàng gia công là quản lý lượng nguyên liệu nhập khẩu,

các định mức và lượng sản phẩm xuất khẩu.

- Xây dựng lực lượng kiểm tra sau chuyên nghiệp có chuyên môn cao về nghiệp vụ

Nhận thức về kiểm tra sau trong ngành đã có những chuyển biến quan trọng .

Toàn lực lượng hoạt động kiểm tra sau thông quan đã dần biết cách làm bài bản ở một

số đơn vị như mạnh dạn tiếp cận những vấn đề khó gai góc như vấn đề xuất xứ hàng

hóa , phát hiện bất cập của chính sách và tổ chức thực hiện chính sách.

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC NĂM 2008

Thu ngân sách toàn ngành Hải quan: 117. 349 tỷ đồng

Tổng số vụ kiểm tra sau thông quan: 723 vụ

Trong đó :

+ Kiểm tra tại trụ sở Hải quan: 682 vụ

+ Kiểm tra tại doanh nghiệp: 41 vụ

Tổng số tiền thuế phải truy thu: 204,9 tỷ đồng

Tổng số tiền đã truy thu: 173,2 tỷ đồng

Tỷ lệ thu ngân sách từ kiểm tra sau trên tổng thu ngân sách chiếm : 0,15%

(Nguồn : Tổng cục hải quan- Báo cáo tổng kết năm 2008)

Năm 2008, đã xây dựng được qui trình kiểm tra sau thông quan và tổ chức

hướng dẫn thực hiện trong toàn Ngành. Nội dung kiểm tra tập trung vào các vấn đề

nổi cộm như: kiểm tra về giá, các vấn đề ưu đãi về thuế, các trường hợp miễn hoàn

thuế, không thu thuế, xuất xứ hàng hóa.

Trong quá trình thực hiện còn nhiều nhận thức khác nhau về Luật nhất là khi

xem xét xử lý các vụ việc cụ thể. Chất lượng công tác phúc tập hồ sơ tại một số Cục

Hải quan địa phương còn yếu, chủ yếu là hình thức sắp xếp lại hồ sơ, nguồn thông tin

50

thu được từ công tác phúc tập chưa hỗ trợ được nhiều cho công tác kiểm tra sau.

Đối với các vụ kiểm tra có số truy thu lớn , đòi hỏi phải có sự phối hợp trao đổi

ý kiến giữa các đơn vị trong và ngoài Ngành lên mất nhiều thời gian. Cơ sở dữ liệu

thông tin còn nhiều hạn chế khó khăn cho việc phục vụ công tác kiểm tra sau thông

quan.

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC NĂM 2009

Thu ngân sách toàn ngành Hải quan: 122.293 tỷ đồng

Tổng số vụ kiểm tra sau thông quan: 783 vụ

Trong đó :

+ Kiểm tra tại trụ sở Hải quan: 746 vụ

+ Kiểm tra tại doanh nghiệp: 37 vụ

Tổng số tiền thuế phải truy thu: 309 tỷ đồng

Tổng số tiền đã truy thu: 243 tỷ đồng

Tỷ lệ thu ngân sách từ kiểm tra sau trên tổng thu ngân sách chiếm : 0,2%

(Nguồn : Tổng cục hải quan- Báo cáo tổng kết năm 2009)

Trong năm 2009, Cục kiểm tra thông quan đã phát hiện kiểm tra và chỉ đạo lực

lượng kiểm tra được nhiều vấn đề, vụ việc rất mới, mang tính thời sự, rủi ro cao và gây

thất thu thuế lớn cho ngân sách Nhà nước như: phí bản quyền, phí kỳ vụ, các khoản

phải cộng vào trị giá hải quan (bao gồm cơ cấu trị giá mặt hàng than xuất khẩu); Thuế

tiêu thụ đặc biệt đối với xe ôtô chở tiền nhập khẩu, xe ôtô chở người khai là xe tải Van

để hưởng thuế suất thấp. Vấn đề miễn thuế nhập khẩu của các dự án đầu tư… Kết quả

kiểm tra đã truy thu cho ngân sách khoản tiền lớn góp phần tích cực cùng toàn ngành

hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thu ngân sách năm 2009.

Một số chuyên đề đạt hiệu quả rất cao như :

+ Chuyên đề phí bản quyền và các khoản phải cộng vào trị giá hảiquan đã truy

thu 73,54 tỷ đồng do Cục KTSTQ, Cục hải quan Quảng Ninh.

+ Chuyên đề kiểm tra xe chở người 5 chỗ khai là xe VAN, số tiền quyết định

truy thu 33,9 tỷ đồng, đã thu 7,5 tỷ đồng ( do Cục KTSTQ)

+ Chuyên đề kiểm tra thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe ôtô chở tiền nhập khẩu:

51

quyết định ấn định thuế đối với 11 doanh nghiệp số tiền 17 tỷ đồng (đã thu được 5,32

tỷ đồng). Giao địa phương quyết định truy thu với các doanh nghiệp khác khoảng 110

tỷ đồng.

+ Chuyên đề kiểm tra miễn thếu nhập khẩu của các dự án ưu đãi đầu tư sân Golf

- bất động sản- Nhà hàng, vui chơi có thưởng. Cục KTSTQ đã kiểm tra mẫu truy thu

đối với 02 doanh nghiệp hơn 3,7 tỷ đồng, phát hiện nhiều vấn đề trong quản lý nhà

nước đối với loại hình này.

+ Chuyên đề KTSTQ mặt hàng thép Bo. Chỉ đạo Cục Hải quan Hà Nội KTSTQ

tại trụ sở 01 Doanh nghiệp. Dựa trên kết quả kiểm tra, tham mưu cho Tổng Cục ban

hành công văn hướng dẫn chung trong toàn ngành, làm căn cứ để lực lượng KTSTQ

triển khai chỉ đạo truy thu thuế đối với các lô hàng tương tự đã nhập khẩu (dự kiến số

tiền truy thu trên 70 tỷ đồng).

+ Đang tiến hành các biện pháp cưỡng chế hành chính theo qui định của Pháp

luật đối với 01 Doanh nghiệp liên doanh vận tải hành khách để truy thu số tiền 25,01 tỷ

đồng; 01 doanhnghiệp nhập khẩu mặt hàng thẻ nhớ điện thoại di động, máy ảnh số tiền

14,4 tỷ đồng.

2.1.3.3.2. Đánh giá một số vụ việc KTSTQ cụ thể

(1) Trên lãnh vực nhập nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu:

Vụ thứ nhất: Vụ KTSTQ tại Công ty T - Bình Dương

- Dấu hiệu vi phạm

+ Nguyên phụ liệu không tái xuất còn tồn từ năm 2005 trở về trước tại kho bảo

thuế của Công ty T theo thông báo thuế số 929/TB-KCNST ngày 21/11/2006 số tiền

thuế là 138.940.000.000 đồng. Sau đó theo số liệu quyết toán nguyên phụ liệu tồn kho

bảo thuế đến ngày 31/12/2006 của Chi cục hải quan Sóng thần thì nguyên phụ liệu

nhập khẩu trước ngày 31/12/2005 chỉ còn tồn gọng nhựa gắn nhãn, số lượng 5.899.175

cái và ngày 09/03/2007 Công ty đã thực hiện tiêu hủy nguyên phụ liệu trên

+ Phế liệu : Công ty có xuất bán phế liệu nhưng không khai báo với cơ quan hải

quan.

+ Hồ sơ thanh khoản: Kiểm tra hồ sơ thanh khoản năm 2006 của Công ty phát

hiện một số sai sót nhập liệu.

52

+ Định mức: Nghi ngờ Công ty khai báo định mức cao, định mức bất hợp lý

- Chuẩn bị trước khi tiến hành KTSTQ

+ Kiểm tra hồ sơ thanh khoản: yêu cầu Chi cục hải quan S.T cung cấp hồ sơ

thanh khoản. Kiểm tra hồ sơ thanh khoản năm 2006, 2007 đối chiếu số liệu thanh

khoản với tờ khai XNK.

+ Lựa chọn định mức để kiểm tra

+ Lập kế hoạch kiểm tra

+ Yêu cầu Công ty cung cấp hồ sơ

+ Dự kiến một số nội dung sẽ tiến hành kiểm tra

- Thành lập đoàn kiểm tra

- Nội dung các công việc kiểm tra

+ Kiểm tra giấy phép kinh doanh, giấy phép thành lập kho bảo thuế, kiểm tra tư

cách pháp nhân của người đại diện theo pháp luật.

+ Kiểm tra hợp đồng chuyển giao công nghệ và các hoạt động liên quan.

+ Kiểm tra hồ sơ hải quan của các lô hàng XNK. Kiểm tra hồ sơ thanh khoản

kho bảo thuế.

+ Kiểm tra chứng từ kế toán, sổ sách kế toán, báo cáo tài chính.

+ Kiểm tra chứng từ kho, chuơng trình quản lý theo dõi xuất nhập kho, báo cáo

tồn kho.

+ Kiểm tra thực tế hàng tồn kho với báo cáo tồn kho.

- Cách thức kiểm tra

+ Tiếp nhận sự trình bày của Công ty

+ Đưa ra nhận định hướng kiểm tra

+ yêu cầu cung cấp báo cáo

+ Phân tích những vần đề và kiểm tra thực tế

+ Ghi nhận những lỗi sai phạm của Công ty

+ Yêu cầu Công ty giải trình những lỗi sai phạm

- Quá trình kiểm tra phát hiện như sau:

Nghiên cứu hồ sơ thanh khoản Hải quan nhận thấy Công ty kê khai không có

lượng nguyên phụ liệu tồn kho quá thời hạn 365 ngày kề từ ngày đăng ký với hải quan

53

đến ngày thanh khoản phải chịu thuế.

Nguyên phụ liệu tồn từ năm 2005 trở về trước tại kho bảo thuế không tái xuất,

hải quan đã ra thông báo thuế số tiền là 138.940.000.000 đồng, nhưng sau đó công ty

đã thanh khoản chỉ còn tồn 5.899.175 cái gọng nhựa gắn nhãn và Công ty đã xin tiêu

huỷ.

Hồ sơ thanh khoản năm 2007 Công ty đã sử dụng hết nguyên phụ liệu năm

2006 trở về trước chỉ còn tồn năm 2007. Qua kiểm tra thực tế Hải quan phát hiện một

lượng lớn nguyên phụ liệu nhập khẩu có nguồn gốc năm 2006.

Kiểm tra hồ sơ thanh khoản phát hiện một số lỗi cập nhật dữ liệu không chính

xác.

Kiểm tra định mức Công ty khai báo với Hải quan với định mức trên chương

trình TIV ( định mức do công ty mẹ ở nước ngoài cung cấp) và lệnh sản xuất thực tế

của Công ty phát hiện kiểm tra 142 định mức, đã phát hiện 49 định mức Công ty khai

báo cao hơn so với thực tế sản xuất và tính ra số thuế truy thu là khá cao.

Kho nguyên phụ liệu quản lý rất chặt chẽ tách bạch giữa nguyên phụ liệu loại

hình kho bao thuế với loại hình kinh doanh (nguyên phụ liệu loại hình kho bảo thuế

dán tem kiểm soát màu xanh, nguyên phụ liệu loại hình kinh doanh dán tem kiểm soát

màu đỏ). Tuy nhiên đến khâu sản xuất không tách bạch theo hai loại hình. Công ty

không khái báo theo mã nguyên phụ liệu của chương trình (TIV) và (VIE): 43.000 mã

nguyên phụ liệu, mà khai báo hải quan gộp lại chỉ còn 50 mã nguyên phụ liệu, điều

này gây khó khăn cho công tác quản lý hải quan.

Hải quan phát hiện qua kiểm tra thấy Công ty tự ý thay đổi mã sản phẩm đối với

sản phẩm không đạt chất lượng (nghĩa là cùng một mã sảnn phẩm nhưng khi khai báo

với hải quan khai thành nhiều mã sản phẩm khác nhau). Tự ý tiêu huỷ cho, tặng….

Sổ sách chứng từ kế toán, báo cáo tài chính: Công ty không in sổ sách chi tiết

theo qui định. Công ty không mở sổ chi tiết để phản ánh số lượng của từng nguyên vật

liệu, vật tư khi nhập kho. Kế toán không theo dõi chi tiết nguyên phụ liệu của kho bảo

thuế, cuối kỳ kế toán dựa vào số liệu báo cáo từ kho bảo thuế để lập báo cáo tài chính.

Có sự chênh lệch số liệu về trị giá giữa kho nguyên phụ liệu và sồ kế toán ( 8 tỷ VNĐ),

54

tại cùng một thời điểm số liệu cuối kỳ này không được phản ánh đúng đầu kỳ sau.

Hàng tồn kho, khi tiến hành khảo sát và kiểm tra thực tế kho, hải quan phát hiện

kho còn tồn nguyên phụ liệu có nguồn gốc nhập khẩu năm 2006, trong khi đó Công ty

khai báo (thanh khoản năm 2007) là sử dụng hết nguyên phụ liệu năm 2006 trở về

trước chỉ còn tồn nguyên phụ liệu năm 2007 năm 2008. Công ty thừa nhận vấn đề này

là do nguyên phụ liệu dư do nhà cung cấp nguyên phụ liệu cung cấp dư so với chứng

từ.

- Những vi phạm của Công ty qua KTSTQ phát hiện :

+ Khai tăng so với dịnh mức tiêu hao mà không khai bổ sung trước thời điểm cơ

quan hải quan kiểm tra.

+ Tự ý thay đổi mục đích sử dụng hàng hóa (thành phẩm, phế liệu) được miễn

thuế mà không khai thuế.

+ Khai sai về số lượng đối với hàng hóa nhập khẩu dẫn đến thiếu số tiền thuế

phải nộp

+ Lập và khai không đúng các nội dung trong hồ sơ thanh khoản dẫn đến tăng

số tiền thuế được miễn.

- Kết quả từ công tác KTSTQ

+ Truy thu thuế : 30.783.534.000 đồng

+ Phạt vi phạm hành chính trong lĩng vực thuế 5.176.659.000 đ

- Kết quả khai báo bổ sung

+ Truy thu thuế : 3.188.148.000 đồng

+ Phạt chậm nộp số tiền thuế : 317.515.000 đồng

+ Phạt vi phạm hành chính về hải quan : 1.000.000 đồng

+ Khai báo bổ sung nguyên phụ liệu dư, trị giá: 22.177.991.000 đồng

Vụ thứ hai : Công ty D.Y chuyên hoạt động nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng

xuất khẩu (mặt hàng ảnh, album). Qua thông tin thu được biết công ty bán sản phẩm

vào nội địa mà không khai báo với cơ quan Hải quan, cơ quan Hải quan tiến hành điều

tra, phân tích hồ sơ, chứng từ liên quan đến hoạt động XNK của công ty. Kết quả được

55

xác định như sau:

Đối với loại hình kinh doanh: nhập nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu thì

tất cả sản phẩm đều phải xuất khẩu trong thời gian ân hạn thuế và nhà nước không thu

thuế nhập khẩu nguyên liệu, công ty sẽ tiến hành thanh khoản với cơ quan hải quan

phần nguyên liệu nhập khẩu với thành phẩm xuất khẩu căn cứ trên định mức sản xuất

01 đơn vị sản phẩm và hao hụt cho phép trong quá trình sản xuất. Phần nguyên liệu

thừa không xuất khẩu, tiêu thụ nội địa phải khai báo với cơ quan Hải quan và phải nộp

thuế theo quy định hiện hành.

Tuy vậy cho đến thời điểm cơ quan Hải quan kiểm tra phát hiện, công ty hoàn

toàn không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan Hải quan việc đã

sử dụng nguyên liệu nhập khẩu sản xuất hàng xuất khẩu để sản xuất ra sản phẩm tiêu

thụ vào thị trường nội địa. Khi bị phát hiện công ty biện minh rằng đã sử dụng định

mức hao hụt của Nhà nước cho phép để bán những sản phẩm là thứ phẩm. Tuy nhiên

lý lẽ trên không được chấp nhận vì cơ quan Hải quan đã chứng minh trên các hóa đơn

bán hàng và xác minh đối tác mua thực tế và một thực tế là công ty đã tiêu thụ một số

lượng lớn sản phẩm vào nội địa, không kê khai truy nộp thuế nhập khẩu nguyên phụ

liệu dẫn đến tình trạng công ty không có đủ sản phẩm xuất khẩu để thanh lý cho các tờ

khai nhập khẩu nguyên phụ liệu, dẫn đến tình trạng nợ đọng thuế kéo dài.

Kết quả KTSTQ xác định, công ty vi phạm quy chế quản lý Hải quan đối với

nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu. Cơ quan Hải quan xác định số thuế

NK tương ứng với số nguyên phụ liệu nhập khẩu công ty dùng sản xuất sản phẩm tiêu

thụ nội địa là 3,183 tỷ đồng. Cơ quan Hải quan tiến hành xử phạt và truy thu đủ tiền

thuế nộp ngân sách Nhà nước.

(2). Trên lĩnh vực hàng nhập kinh doanh :

* Hành vi vi phạm trong việc khai báo trị giá tính thuế:

- Công ty TNHH Thương mại T. H đăng ký nhập khẩu các mặt hàng: sữa các

loại, thức uống bổ dưỡng Socola uống liền, kẹo trái cây từ công ty N. Thai Lan

Kết quả kiểm tra sau thông quan: Từ thu thập thông tin nghi vấn trong việc

nhập khẩu ủy thác thành phẩm thương hiệu N để phân phối trên thị trường nội địa của

56

công ty TNHH T. H cho công ty TNHH N Việt Nam là không đúng nội dung giấy

phép đầu tư, vi phạm luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Cơ quan Hải quan đã tiến

hành kiểm tra toàn bộ hồ sơ nhập khẩu; làm việc với công ty; yêu cầu công ty cung cấp

hồ sơ, chứng từ kế toán để thu thập tài liệu chứng minh hành vi vi phạm pháp luật về

thuế của công ty.

Qua khai thác thông tin, cơ quan Hải quan đã nhận định Công ty TNHH

Thương mại T. H là đại lý độc quyền của Công ty N. Thái Lan tại Việt Nam, có khả

năng sai phạm trong việc khai báo trị giá tính thuế đối với các lô hàng nhập khẩu vừa

qua. Điều tra mở rộng toàn bộ tờ khai nhập khẩu của công ty, nhận thấy: Công ty

không xuất trình hợp đồng đại lý mua bán và không khai báo tính thuế theo giá được

quy định đối với hàng hóa mua bán theo hợp đồng đại lý mà khai báo theo giá trên hóa

đơn nhập khẩu. Cơ quan Hải quan ra quyết định KTSTQ đối với công ty. Kết quả

KTSTQ xác định công ty kê khai, xác định không đúng các căn cứ tính thuế. Cụ thể:

Doanh nghiệp phải cung cấp 02 hợp đồng đại lý ký kết giữa công ty TNHH

Thương mại T. H và Công ty N. Thái Lan để chứng minh mối quan hệ giữa hai bên.

Ngoài ra, bằng biện pháp phân tích giá bán hàng nhập khẩu trên cơ sở thông tin thu

thập, đơn vị KTSTQ đã củng cố thêm chứng cứ, khẳng định việc thực hiện hợp đồng

đại lý là có thật trên thực tế, thể hiện qua bảng giá mua và bảng giá bán, trong đó có

các khoản hoa hồng đại lý được quy định cho người nhập khẩu, người phân phối,

người bán lẻ trong cơ cấu giá bán hàng hóa. Ngoài ra, đơn vị KTSTQ còn phát hiện

thêm các khoản chi phí quản lý, quảng cáo và tiếp thị mà Công ty thanh toán cho đại

diện Công ty N. Thái Lan chỉ định theo Hợp đồng hợp tác tiếp thị và phân phối sản

phẩm N nhằm thực hiện 02 hợp đồng đại lý đã ký.

Với những bằng chứng và số liệu được phát hiện, công ty TNHH Thương mại

T.H thừa nhận toàn bộ sai phạm về khai báo không đúng giá tính thuế do thực hiện

hợp đồng đại lý. Cơ quan Hải quan đã tiến hành truy thu số tiền thuế là 8,068 tỷ đồng

vào ngân sách Nhà nước. Đồng thời cơ quan Hải quan chuyển hồ sơ cơ quan Công an

để khởi tố hình sự về tội trốn thuế.

* Khai báo trị giá thấp để trốn thuế nhập khẩu:

- Cơ quan Hải quan tiến hành KTSTQ đối với doanh nghiệp tư nhân T.N. Qua

57

đối chiếu 68 bộ hồ sơ lưu tại cơ quan Hải quan với những chứng từ, sổ sách kế toán

lưu tại trụ sở doanh nghiệp, cơ quan Hải quan đã phát hiện 43/68 tờ khai khai báo

không đúng trị giá tính thuế. Cơ quan Hải quan đã tiến hành truy thu thuế nộp ngân

sách nhà nước 947 triệu đồng.

- Công ty TNHH và giao nhận H.V nhập khẩu lô hàng 02 xe ôtô: 01 xe ôtô hiệu

Toyota Lexus LS 430 do Nhật sản xuất, giá khai báo 20.000 USD/xe; 01 xe ôtô hiệu

BMW 745 Li 4.398 cc do Đức sản xuất, giá khai báo 22.000 USD/xe.

Qua công tác tham vấn, tham khảo thông tin giá chào bán trên Internet, có trừ

chi phí đàm phán, cơ quan Hải quan bác bỏ trị giá giao dịch đối với 02 xe ôtô trên và

điều chỉnh giá tính thuế theo phương pháp 6- giá tính thuế theo phương pháp suy luận.

Cụ thể, 01 xe ôtô hiệu Toyota Lexus LS 430 do Nhật sản xuất, giá điều chỉnh theo

phương pháp suy luận là 40.948 USD/xe; 01 xe ôtô hiệu BMW 745 Li 4.398 cc do

Đức sản xuất, giá điều chỉnh theo phương pháp suy luận là 54.204 USD/xe.

(3) Một số lĩnh vực khác:

Một số doanh nghiệp lợi dụng một số cơ quan chức năng của nhà nước quản lý

sơ hở, như cơ quan giám định để làm sai lệch bản chất, tính chất công dụng hàng hóa

nhằm áp mã số hàng hóa có thuế suất thấp. Cụ thể công ty Z.M nhập khẩu mặt hàng

thép tấm, công ty khai và kết quả giám định cũng đều khẳng định dùng phương pháp

mạ điện phân có thuế suất nhập khẩu bằng 10%. Qua công tác KTSTQ, cơ quan Hải

quan xác minh, điều tra loại thép này có phương pháp mạ là nhúng nóng, có thuế suất

nhập khẩu là 30%. Như vậy công ty đã lợi dụng sơ hở của cơ quan giám định nhằm

khai báo trốn thuế nhà nước tới 20% cho mặt hàng nhập khẩu của mình.

Các số liệu trên cho thấy sai phạm trong lĩnh vực XNK liên quan đến hoạt động

hải quan vẫn đang còn nhiều vấn đề phức tạp cần được quan tâm, đặc biệt trong bối

cảnh gian lận thương mại, trốn thuế như hiện nay thì áp lực đối với công tác KTSTQ là

rất lớn.

* Qua một số vụ vi phạm cụ thể mà công tác KTSTQ đã phát hiện và xử lý, có

thể khẳng định một số dự báo các lãnh vực mà doanh nghiệp cố ý sai phạm nhằm trốn

thuế nhà nước như sau:

Thứ nhất: Trị giá tính thuế hàng hóa, hiện nay việc gian lận thương mại qua giá

58

tính thuế ngày càng đa dạng và tinh vi hơn. Doanh nghiệp khai báo thấp giá nhập khẩu

để trốn thuế, khai cao hàng xuất khẩu để hoàn thuế đầu vào: vấn đề này vẫn là phổ

biến. Vì vậy kiểm tra trị giá hải quan đối với hàng hoá XNK là một mục kiểm toán

quan trọng nhất trong hoạt động KTSTQ.

Thứ h ai : Mã số thuế nhập khẩu: Việc phân loại hàng hóa là một trong những

thủ tục thương mại quan trọng nhất do Hải quan quản lý. Đây là một lĩnh vực kỹ thuật

cao đòi hỏi có những chuyên gia được đào tạo bài bản và có nhiều năm kinh nghiệm.

Biểu thuế hiện nay được xây dựng dựa trên cơ sở phân loại hàng hóa theo Danh mục

HS, tuy nhiên do trình độ công nghệ phát triển ngày càng cao, cho nên thường xuyên

có những hàng hóa mới xuất hiện trên thị trường, vì vậy còn xảy ra tình trạng một mặt

hàng có thể phân loại áp mã tính thuế vào nhiều mức khác nhau, gây nên sự tranh chấp

giữa cơ quan quản lý và đối tượng nhập khẩu. Mặt khác, trong biểu thuế còn có quá

nhiều bậc, với mức thuế suất khác nhau rất nhiều.

Chính từ cấu trúc phức tạp của biểu thuế, nên gây khó khăn cho cả người quản

lý và người thực hiện, thậm chí còn tạo những kẽ hở để người nhập khẩu ẩn lậu thuế.

Thứ ba: Khai gian định mức sử dụng nguyên phụ liệu đối với loại hình gia

công, sản xuất xuất khẩu: việc này có thể là vấn đề lớn mà doanh nghiệp lợi dụng

chính sách ưu đãi của nhà nước để gian lận.

Doanh nghiệp gian lận loại hình này bằng nhiều cách như: khai định mức cao

hơn thực tế sản xuất để dôi dư nguyên phụ liệu, nhằm tiêu thụ nguyên phụ liệu hay

thành phẩm vào thị trường nội địa mà không khai báo, nộp thuế cho nhà nước. Hoặc

doanh nghiệp lợi dụng sự thông thóang, tạo điều kiện thuận lợi miễn kiểm tra hàng hóa

thực tế để xuất khống nhằm dôi dư nguyên phụ liệu hoặc thành phẩm tiêu thụ nội địa,

gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp làm ăn chân

chính, tạo môi trường cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động kinh tế nói chung.

Thứ tư: Gian lận, giả mạo hàng hóa có xuất xứ từ các nước ASEAN (C/O Form

D) để được hưởng thuế suất ưu đãi, đây là hiện tượng mới, có thể lan rộng nếu ngành

Hải quan không có biện pháp quản lý hữu hiệu.

Thứ n ăm , Lợi dụng cơ chế ưu đãi miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế với doanh nghiệp

59

đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để gian lận, trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế.

Để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhà nước đưa ra các chính sách ưu đãi,

miễn thuế cho các dự án đầu tư. Ví dụ, nhà nước cho phép miễn thuế nhập khẩu đối

với máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải dùng trong dây chuyền công nghệ, khi thay

đổi mục đích sử dụng phải khai báo với cơ quan quản lý và nộp đủ thuế. Tuy nhiên,

thực tế nhiều năm qua có nhiều doanh nghiệp lợi dụng chính sách ưu đãi của nhà nước

thực hiện hoạt động không minh bạch gây nhiều khó khăn, tiêu tốn nhiều thời gian

kiểm tra, quản lý của nhà nước.

2.1.3.4. Công tác phối hợp thực hiện

* Phối hợp trong ngành

Tại cơ quan Tổng cục, việc phối hợp công tác giữa Cục KTSTQ và các đơn vị

Vụ, Cục chưa được chặt chẽ trong lĩnh vực chỉ đạo nghiệp vụ, cung cấp và trao đổi

thông tin.

Trong những năm 2005, 2006, 2007 Tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố và các

Chi cục: chức năng các đơn vị còn chồng chéo nhau giữa các đơn vị như giá, thuế,

kiểm soát, và KTSTQ, dẫn đến tình trạng các đơn vị không làm hết chức năng của

mình, không phát huy hết nguồn lực, giảm hiệu quả quản lý.

Việc phối hợp giữa các Cục Hải quan tỉnh, thành phố và Tổng cục chưa thật sự

tốt. Nhiều vụ việc liên quan đến nhiều đơn vị nhưng Cục KTSTQ không nắm cụ thể

được chi tiết tình hình dẫn đến vụ việc điều tra chậm, lâu kết thúc hồ sơ.

* Phối hợp ngoài ngành

Mặc dù Bộ Tài chính đã có Quyết định số 1081/QĐ-BTC ngày 06/4/2004 ban

hành quy chế về việc phối hợp công tác giữa hệ thống Thuế, Hải quan, Kho bạc Nhà

nước, đồng thời ba ngành đã có văn bản số 1537/TCT-TCHQ-KBNN ngày 25/4/2004

hướng dẫn Quyết định trên, tuy nhiên việc triển khai thực hiện ở cấp Trung ương cũng

như địa phương chưa thật sự đạt hiệu quả.

Thông tư liên tịch số 01/2006/TTLT-BTC-NHNN ngày 04/01/2006 giữa Bộ Tài

chính và Ngân hàng Nhà nước đã tạo cơ sở pháp lý cần thiết trong việc trao đổi thông

tin với hệ thống ngân hàng phục vụ công tác KTSTQ. Trước đó, việc trao đổi và được

cung cấp thông tin liên quan đến thanh toán quốc tế qua hệ thống ngân hàng của lực

60

lượng KTSTQ gặp rất nhiều khó khăn.

Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể mối quan hệ giữa cơ quan hải quan

và các cơ quan có liên quan khác như vận tải, bảo hiểm, quản lý thị trường, công an,…

trong trao đổi, cung cấp thông tin. Vì vậy, việc được cung cấp, trao đổi thông tin từ các

Ngành khác phục vụ công tác KTSTQ còn nhiều hạn chế.

Ngành Hải quan chưa chú trọng nhiều tới công tác hợp tác quốc tế với các

nước trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù đã tham gia biên soạn Sổ tay KTSTQ

ASEAN, nhưng nhìn chung công tác phối hợp quốc tế chưa có hiệu quả, chưa biết tận

dụng những lợi thế của những quốc gia đi trước, đặc biệt trong tham khảo kinh nghiệm

đối với công tác rất mới này.

2.1.3.5. Thực trạng về hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu phục vụ công tác kiểm toán sau

thông quan

Thông tin phục vụ cho công tác KTSTQ rất hạn chế cụ thể:

Đối với hoạt động KTSTQ, mặc dù cơ sở pháp lý cho việc cập nhật, khai thác,

sử dụng và quản lý thông tin đã được quy định tại các văn bản pháp quy về công tác

KTSTQ nhưng trong vấn đề này còn rất nhiều hạn chế và bất cập. Có thể đánh giá hệ

thống KTSTQ hiện nay không có đủ thông tin để chủ động thực hiện nhiệm vụ.

* Tại cấp Tổng cục

- Cục KTSTQ đã phối hợp Cục Công nghệ thông tin xây dựng Danh bạ doanh

nghiệp hoạt động XNK trên phạm vi toàn quốc từ năm 2004. và cuối năm 2008 đã

hoàn thành đưa vào hệ thống quản lý rủi ro. Tuy nhiên, thông tin trên danh bạ chưa

đạt yêu cầu quản lý. Nên việc sử dụng chưa đạt hiệu quả.

- Thực tế KTSTQ quan đến nay chưa có một hệ thống phần mềm quản lý rủi ro

cung cấp thông tin phục vụ cho công tác KTSTQ. Hệ thống phần mềm cung cấp trao

đổi dữ liệu thông tin với các ngành như Kho bạc, Tổng cục Thuế,… chưa được triển

khai. Thông tin cung cấp cho việc KTSTQ hiện nay chủ yếu lấy từ bộ phận thông quan

như thông tin từ phúc tập hồ sơ, bộ phận giá tính thuế và các thông tin từ những cuộc

kiểm tra trước.

* Tại Cục Hải quan địa phương

Ngoài những bất cập như chưa có phần mềm riêng cho toàn hệ thống KTSTQ

61

như đã đề cập ở trên, việc khai thác và sử dụng các thông tin từ chương trình sẵn có

trong Ngành còn hạn chế. Cụ thể, có địa phương có tương đối đủ các chương trình

(trong phạm vi của Cục), có nơi chưa có đủ, có nơi có chương trình nhưng chưa có dữ

liệu, có nơi được cấp quyền sử dụng khai thác, có nơi bị hạn chế, có nơi bị hạn chế

hoàn toàn.

Bộ phận phúc tập hồ sơ của khâu thông quan chưa thực sự hiệu quả, mang nặng

tính hình thức, nên thông tin cung cấp cho bộ phận sau thông quan chưa nhiều và

không hiệu quả

Nhìn chung, cơ sở hạ tầng và trang thiết bị của các đơn vị còn rất yếu, thiếu

máy móc, máy cũ. Hệ thống đường truyền nhiều nơi không đảm bảo.

2.2. Những hạn chế của KTSTQ

2.2.1- Hạn chế về con người

- Chưa được sự quan tâm của Lãnh đạo các cấp trong ngành Hải quan, nhận

thức vai trò của KTSTQ trong cấp Lãnh đạo còn coi nhẹ, dẫn tới cán bộ, nhân viên

KTSTQ tâm lý không yên tâm với công việc chuyên môn.

- Số lượng nhân viên KTSTQ đến năm 2009 đạt 480 người chiếm tỷ lệ 4,9% trong

toàn ngành Hải quan, con số này còn quá ít so với tiêu chuẩn qui định, so sánh với tỷ lệ

các nước trong khu vực và trên thế giới thì rất thấp(các nước đạt từ 10-25%)

- Thực trạng của hoạt động XNK trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế theo thống

kê:

Bảng 6: Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu

Nội dung

2005

2006

2007

2008

2009

62,7

69,74

86,83

133,96

125

Tổng kim ngạch XNK hàng năm( tỷ USD) Số lượng tờ khai XNK (nghìn tờ)

1.762

1.848

2.284

2.990

3.289

59,8% 24%

22%

23%

17%

Tỷ lệ kiểm tra thực tế /tổng tờ khai (%)

(Nguồn : Tổng cục Hải quan – Báo cáo tổng kết từ năm 2005- 2009-)

Để đáp ứng được vai trò “hậu kiểm” trong qui trình hoạt động kiểm soát của

Ngành hải quan đối với hoạt động XNK khi mà tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa tại

khâu thông quan ngày càng giảm, theo cam kết khi hội nhập đến năm 2010 tỷ lệ kiểm

62

tra thực tế hàng hóa tại khâu thông quan chỉ cho phép kiểm tra là 10% hàng hoá thực tế

thông quan. Như vậy theo sự phát triển thực tế số lượng kimh ngạch XNK, số lượng

hàng hóa XNK ngày càng gia tăng, thì với số lượng nhân viên KTSTQ thực tế quá ít

ỏi dẫn tới sẽ không đáp ứng được nhu cầu thực tế của hoạt động của kiểm tra sau.

- Chất lượng cán bộ KTSTQ về thực tế chưa đáp ứng được hết yêu cầu của

nghiệp vụ KTSTQ . Cán bộ KTSTQ thường chỉ được đào tạo chuyên sâu một lĩnh vực

nhất định như Tài chính kế toán, Ngoại thương, Luật,…Trong khi đó nghiệp vụ

KTSTQ đòi hỏi kiến thức tổng hợp như: kiến thức về Ngoại thương, Kế toán- kiểm

toán, Ngoại ngữ, tin học, Nghiệp vụ hải quan, Luật, điều tra, …. Đây là một trong

những hạn chế lớn khi thực hiện nghiệp vụ KTSTQ .

2.2.2. Hạn chế về pháp lý

- Theo quy định hiện hành “trong trường hợp cần thiết và còn điều kiện thì

kiểm tra thực tế hàng hóa.”[đoạn 4-Điều 32-Luật Hải quan sửa đổi 2005] cho thấy

việc kiểm tra thực tế hàng hóa tại doanh nghiệp trong các cuộc KTSTQ là yếu tố phụ

và chưa cho phép các kiểm toán viên Hải quan kiểm tra các quy trình có sử dụng hàng

hóa nhập khẩu, đây chính là một hạn chế cho hiệu quả hoạt động KTSTQ.

Trong tương lai khi Hải quan triển khai hoàn thiện mô hình doanh nghiệp ưu

tiên (AEO) trong khâu thông quan hàng hóa “tiền kiểm”- và doanh nghiệp tự nguyện

yêu cầu KTSTQ đối với họ để củng cố uy tín kinh doanh, cũng như hưởng lợi thế ưu

tiên trong thông quan thì Luật Hải quan hiện hành chưa quy định về trường hợp này.

- Trong giai đoạn này một số địa phương vẫn còn hiểu sai về KTSTQ như giai

đoạn đầu: “e ngại KTSTQ ảnh hưởng đến đơn vị (ở Cục Hải quan); chưa quan tâm

đến kiểm tra hồ sơ sau khi đã thông quan (ở Chi cục Hải quan)….điều kiện phương

tiện làm việc thiếu thốn, không được ủng hộ (ở các Chi cục KTSTQ)” [Nguồn: TCHQ-

Báo cáo tổng kết 2007], đây có lẽ là một trong những nguyên nhân chính làm cho kết

quả hoạt động KTSTQ chưa cao mặc dù cơ sở Luật tương đối hoàn thiện, và vẫn còn

tồn tại đến hiện nay.

- Trong Luật quy định về trách nhiệm của nhân viên hải quan khi gây thiệt hại

cho doanh nghiệp, nhưng lại không có quy định bảo vệ họ trước pháp luật trong quá

63

trình tác nghiệp sử dụng phương pháp quản lý rủi ro. Trong hoạt động KTSTQ, luôn

tồn tại những rủi ro tiềm tàng khó phát hiện và Luật hải quan cũng chưa quy định bảo

vệ người kiểm toán viên khi xảy ra rủi ro kết quả ngược lại với kết luận kiểm toán tuân

thủ tốt của doanh nghiệp điều này gây tâm lý lo ngại cho nhân viên Hải quan.

- Bên cạnh, quy định khuyến khích doanh nghiệp tự kiểm tra và tự khắc phục

hậu quả nếu có sai sót, tại Khoản 4 Điều 66 Nghị định 154/2005/NĐ-CP, thì các quy

định về các mức phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan trong các giai đoạn

vừa qua là quá thấp, không có tính răng đe ngăn ngừa -vi phạm từ phía doanh nghiệp.

Khắc phục yếu điểm này, Chính phủ đã tiến hành tăng các mức phạt VPHC trong lĩnh

vực Hải quan tại Nghị định số 18/2009/NĐ-CP, ví dụ như đối với vi phạm về khai Hải

quan và khai thuế thì mức phạt tăng tối đa 20 triệu đồng, gấp đôi mức quy định trước

đây.

Tóm lại, Luật Hải quan sửa đổi 2005 cùng các quy định hướng dẫn dưới luật

trong giai đoạn từ 2006 đến nay đã tạo điều kiện mở rộng quyền hạn của hoạt động

KTSTQ như : tiến hành KTSTQ theo kế hoạch với thời hạn tối đa là 15 ngày làm việc,

nhằm thẩm định tính chính xác trong hồ sơ khai báo Hải quan của doanh nghiệp, đã

phần nào hỗ trợ cho khâu “tiền kiểm” bổ sung nguồn thu, góp phần tạo công bằng,

bình đẳng. Tương lai Luật Hải quan sẽ sửa đổi hoàn thiện hơn nữa để tạo thuận lợi

nhất cho số đông những Doanh nghiệp tuân thủ luật Hải quan, tạo môi trường hành

chính thuận lợi và tin cậy cho cộng đồng doanh nghiệp, nhằm củng cố và tạo dựng

niềm tin về hình ảnh Hải quan hiện đại trong cộng đồng .

2.2.3 Hạn chế về qui trình hoạt động kiểm toán sau thông quan

Quy trình KTSTQ đang vận hành hiện nay vẫn còn một số yếu điểm gây cản trở

lớn làm giảm hiệu quả hoạt động của lực lượng KTSTQ:

-Về mặt kỹ thuật: thiếu vắng sự hỗ trợ của hệ thống quản lý rủi ro hiện đại trong

khâu phân tích thông tin để xác định đối tượng tiến hành kiểm tra.

-Về mặt thông tin doanh nghiệp: hiện chưa đầy đủ hay nói cách khác là thiếu

hẳn những thông tin về lịch sử kinh doanh của doanh nghiệp như: thông tin nộp thuế,

ngành hàng chuyên doanh, chủ thật sự của doanh nghiệp là ai và các thông tin quan

64

trọng khác.

-Về mặt kết hợp với các bộ phận Hải quan khác, cũng như các cơ quan hành

chính bên ngoài trong việc chia sẻ thông tin có liên quan đến hoạt động doanh nghiệp

vẫn còn rất hạn chế (mất nhiều thời gian), và hiện chưa có một trung tâm dữ liệu tổng

hợp về doanh nghiệp để có thể chia sẻ thông tin giữa các cơ quan chính phủ khi cần

thiết.

Thực trạng, trong giai đoạn 1-thực hiện tại trụ sở cơ quan Hải quan, toàn bộ

công việc được cán bộ kiểm toán hải quan thực hiện thủ công dựa trên phân quyền

tiếp cận cơ sở dữ liệu thông tin sơ cấp, bao gồm: thông tin về tờ khai Hải quan, dữ liệu

trị giá Hải quan và hệ thống quản lý rủi ro khâu thông quan.

Vì vậy, khâu xử lý thông tin sơ cấp để tiến hành các bước phân tích tiếp theo là

nơi phải mất nhiều thời gian nhất, có khi mất hàng tuần mới chọn lọc được đối tượng

cần kiểm tra.

Ngoài ra, theo quy định của Công tước Kyoto thì hoạt động kiểm tra của Hải

quan diễn ra sau khi thông quan hàng hóa phải được thực hiện trên cơ sở kiểm toán

với nền tảng tiến hành dựa vào rủi ro được hệ thống xác định. Hoạt động KTSTQ hiệu

quả là phần lớn dựa vào thông tin từ hệ thống quản lý rủi ro và kết quả kiểm tra sau

phải được cập nhật vào hệ thống. Do vậy, công việc của nhân viên kiểm tra sau tại trụ

sở Hải quan sẽ trở nên nhẹ nhàng và nhanh chóng hơn với sự trợ giúp của chương trình

quản lý rủi ro và xử lý thông tin.

Tại Việt Nam, việc áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro hiện đại đã được cụ thể hóa

thành nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch hiện đại hóa Hải quan từ đầu năm 2004. Tuy

nhiên, kỹ thuật quản lý rủi ro vẫn chưa được xác định đúng tầm quan trọng cũng như lợi

ích khi tiến hành thực hiện, dẫn đến việc chậm trễ trong thực hành.

2.2.4. Hạn chế về đào tạo

Hệ thống đào tạo chưa có những giảng viên, chuyên gia trong lĩnh vực kiểm

toán sau thông quan, vì thực tế ở Việt Nam hoạt động kiểm toán hải quan còn mới và

chưa thực sự mạnh.

Hệ thống đào tạo nghiệp vụ kiểm tra sau hiện nay chỉ tập trung về lý thuyết–

phương pháp giảng dạy truyền thống thuần về lý thuyết là chính và thiếu hệ thống bài

65

tập thực hành kỹ năng KTSTQ. Trong khi đó hoạt động kiểm tra sau là một hoạt động

“hậu kiểm” cần nhiều kỹ năng thực hành lẫn kiến thức tổng hợp nhiều lĩnh vực như: kế

toán, tài chính, thanh toán quốc tế, phân tích hoạt động doanh nghiệp, kiến thức luật

thương mại, luật kinh tế và các nền tảng hành chính khác.

Chưa có nhiều lớp đào tạo chuyên sâu về các chuyên đề như Kiểm toán, Ngoại

thương, Luật, … cho cán bộ KTSTQ để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. Hệ thống tài

liệu, sách tham khảo theo chuyên đề chưa thực sự có nhiều.

Hội nghị chuyên đề về công tác KTSTQ tổ chức còn ít, nên chưa phát huy được

tính học hỏi và phổ biến kinh nghiệm giữa các đơn vị KTSTQ trong nước cũng như

trong khu vực và trên thế giới.

2.2.5. Hạn chế về hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu

Trong nghiệp vụ KTSTQ thông tin từ các doanh nghiệp hoạt động XNK là thực

sự cần thiết cho một cuộc KTSTQ. Thực tế, thông tin mà bộ phận KTSTQ có được

hiện nay chủ yếu từ khâu thông quan như bộ phận giá, phúc tập hồ sơ, nguồn thông tin

này chưa thực sự đầy đủ về hoạt động XNK của một doanh nghiệp vì chỉ trên cơ sở

phân tích hồ sơ XNK, chưa có đầy đủ một bức tranh hoàn hảo về kinh doanh của

doanh nghiệp

Chưa có một phần mềm quản lý rủi ro riêng phục vụ cho bộ phận kiểm tra sau

thông quan, nên việc lựa chọn thông tin gặp rất nhiều khó khăn vì còn mang tín chất

thủ động và phụ thuộc nhiều vào chủ quan của cán bộ kiểm toán hải quan

Sự phối hợp thông tin giữa Hải quan và các cơ quan chức năng khác như : Ngân

hàng, Thuế nội địa, Các hãng vận tải, giao nhận hàng hóa , Công an… chưa có sự nối

mạng trong cùng hệ thống, để quản lý các Doanh nghiệp. Ví dụ như: Hải quan muốn

xác minh một doanh nghiệp có bao nhiêu tài khoản ở các ngân hàng khi hoạt động

kinh doanh, thì phải gửi công văn đi bao nhiêu ngân hàng ? để có thông tin xác minh

phải mất nhiều thời gian chờ đợi trả lời.. vv

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế KTSTQ

2.3.1. Nguyên nhân chủ quan

- Nhận thức của một số Lãnh đạo các cấp trong ngành Hải quan về vị trí, vai

trò, tầm quan trọng của KTSTQ chưa đúng và đầy đủ dẫn đến công tác tổ chức, chỉ

66

đạo thực hiện chưa đúng, chưa sát sao, ngại đụng chạm, thậm chí không ủng hộ công

tác này. Cũng chính vì nhận thức chưa đúng nên tư tưởng của cán bộ, công chức làm

công tác KTSTQ chưa thật sự yên tâm, chưa cống hiến đúng khả năng của mình cho

công việc. Nguyên nhân này đã ảnh hưởng trực tiếp và toàn diện đến hiệu quả công tác

KTSTQ trong toàn ngành Hải quan.

- Tổ chức bộ máy và con người đang làm công tác KTSTQ hiện nay không thể

đáp ứng được yêu cầu quản lý theo Luật hải quan và Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập

khẩu do thiếu về số lượng, yếu về chất lượng đặc biệt là yếu kỹ năng KTSTQ, trong khi

đây là lĩnh vực mới, khó, chưa có kinh nghiệm trong hoạt động và quản lý.

- Thiếu cơ chế phối hợp, hiệu quả giữa các đơn vị trong cơ quan Tổng cục trong

triển khai thực hiện công tác KTSTQ. Tại các Cục hải quan địa phương, nhiệm vụ giữa

các phòng tham mưu còn chồng chéo, không tận dụng được kết quả của nhau.

- Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của TCHQ còn thiếu, chưa đồng bộ và chưa

kết nối với các đơn vị Bộ Tài chính và các Bộ ngành liên quan. Hệ thống thông tin

phục vụ công tác KTSTQ chưa hoàn thiện, việc truy cập các hệ thống cơ sở dữ liệu

hiện có khó khăn về cơ chế, nên hạn chế nhiều đối với công tác KTSTQ của toàn

ngành.

2.3.2 Nguyên nhân khách quan

- Về nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp XNK và của các Bộ ngành liên

quan về bản chất, vai trò, tầm quan trọng của KTSTQ chưa đúng, chưa đủ nên chưa

hợp tác, ủng hộ và phối hợp với ngành Hải quan.

- Ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp chưa cao, còn nhiều doanh nghiệp

chạy theo mục đích lợi nhuận nên đã cố tình làm sai pháp luật. Bên cạnh đó thì chế tài

xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật chưa đủ mạnh và nghiêm túc thực hiện

- Cơ chế quản lý chưa theo kịp sự thay đổi của chính sách tạo thuận lợi cho hoạt

động XNK, do đó một số doanh nghiệp lợi dụng để gian lận, trốn thuế như: Thủ tục

thành lập doanh nghiệp đơn giản nên số lượng doanh nghiệp tăng mạnh trong khi công

tác kiểm soát, phối hợp còn bị buông lỏng, đây là nguyên nhân để doanh nghiệp lợi

dụng quy định về thời gian ân hạn thuế khi nhập khẩu hàng hóa, doanh nghiệp nợ thuế,

67

sau đó phá sản, giải thể, bỏ trốn…

- Việc cung cấp, trao đổi thông tin phục vụ công tác KTSTQ giữa các Bộ,

ngành có liên quan vẫn chưa thật sự chủ động, chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết,

chưa được Luật hóa sự cần thiết và trách nhiệm phối hợp của các Bộ, Ngành và UBND

có liên quan để hỗ trợ cho công tác KTSTQ.

- Thủ đoạn gian lận thương mại diễn ra phổ biến dưới nhiều hình thức, mức độ

ngày càng tinh vi, phức tạp và có xu hướng ngày càng gia tăng trong điều kiện cơ sở

hạ tầng hỗ trợ thông tin kiểm tra còn nhiều hạn chế.

+ Gian lận xảy ra khi áp dụng trị giá GATT đối với những mặt hàng nhạy cảm,

thuế suất cao, trị giá lớn.

+ Doanh nghiệp dùng hai hệ thống sổ kế toán để đối phó với đoàn kiểm tra hoặc

không hợp tác, chống đối quyết định KTSTQ.

+ Lợi dụng một số loại hình ưu đãi thuế của nhà nước để gian lận, trốn thuế như

đối với loại hình gia công, nhập nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu, đầu tư nước

ngoài,…

+ Lợi dụng dịch vụ thanh toán nhanh, tiện lợi và khó quản lý để chuyển ngân

lậu và gian lận về trị giá thanh toán cho lô hàng nhập khẩu.

Tóm lại, ở trên tác giả đã đưa ra đánh giá về thực trạng của công tác KTSTQ.

Còn nhiều bất cập cần phải khắc phục, cải cách trong thời gian tới cả về cơ sở vật chất

kỹ thuật đến nhận thức của con người, mà điều quan trọng phải từ quyết tâm của lãnh

đạo các cấp thì công tác này mới thực sự được cải thiện, mang lại hiệu quả kinh tế.

2.4. Đánh giá về KTSTQ

Trong tiến trình cải cách hiện đại hóa ngành Hải quan Việt Nam, để phù hợp

với yêu cầu hội nhập kinh tế của đất nước, KTSTQ đã chính thức đi vào hoạt động từ

đầu năm 2003 theo các quyết định của BTC số 16 và số 37 về việc thành lập đơn vị

nghiệp vụ KTSTQ thuộc TCHQ (Cục kiểm tra sau thông quan) và các Cục hải quan

địa phương (cấp Chi cục kiểm tra sau thông quan). Một trong những chức năng chính

của KTSTQ được xác định là công cụ hữu hiệu chống gian lận thương mại, bảo vệ

nguồn thu và tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho mọi doanh nghiệp kinh doanh

68

xuất nhập khẩu.

Tuy là lực lượng mới thành lập, nhưng kết quả hoạt động KTSTQ thời gian qua

đã đạt được những kết quả sau:

* Về hệ thống văn bản pháp lý

Đã hình thành được hệ thống văn bản, tạo được hành lang cơ sở pháp lý cho

hoạt động kiểm tra sau thông quan, như: luật Hải quan số 29/2001/QH10, luật Hải

quan sửa đổi số 42/2005/QH11, Nghị định 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005, Thông

tư 79/2009TT-BTC ngày 20/04/2009. Quyết định 621/QĐ-TCHQ ngày 2903/2006 nay

được thay bằng quyết định 1383/QĐ-TCHQ ngày 14/07/2009 và nhiều các văn bản

pháp lý khác như Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Luật quản lý thuế số 78 ….

Các văn bản nêu trên đã đáp ứng được kịp thời khi triển khai thực hiện kiểm tra

sau thông quan và ngày càng hoàn thiện hơn đáp ứng được yêu cầu thực tế phát sinh.

* Về lực lượng làm công tác kiểm toán sau thông quan

- Từ khi mới thành lập năm 2003 có 173 người trên tổng số toàn ngành là 7.700

người chiếm 2,2%, đến năm 2009 toàn ngành có khoảng 480 người trên tổng số 9.731

người chiếm 4.9%, như vậy về lực lượng, đã ngày càng tăng lên đáp ứng được yêu cầu

của ngành nói chung. Tuy nhiên theo tiêu chuẩn của ASEAN thì tỷ lệ phải chiếm 10%

trong tổng số toàn ngành

- Cơ cấu, chất lượng nguồn nhân lực : là lực lượng mới hình thành trong hoạt

động của ngành Hải quan, lực lượng nhân viên phần lớn là chuyển từ các khâu nghiệp

vụ tính thuế, kiểm hóa nhiều năm, nên có nhiều kinh nghiệm trong công tác. Bên cạnh

đó là lực lượng trẻ mới vào ngành có trình độ chuyên môn về kế toán, kiểm toán, ngoại

thương, luật… tinh thần làm việc hăng hái yêu nghề, nhiệt huyết, năng động với công

việc.

Bên cạnh những ưu điểm đạt được còn bị hạn chế bởi trong ngành kiểm tra sau

thông quan chưa có những chuyên gia kiểm toán sau thông quan thực sự. Tỷ lệ học đại

học cao nhưng lại phần lớn ngành học lại trái với nghiệp vụ đang làm, một cán bộ làm

kiểm toán hải quan thường chỉ biết một chuyên ngành như kế toán, nhưng ngoại

thương lại ở trình độ thấp…

69

* Về công tác đào tạo

Đã mở được nhiều lớp học đào tạo nghiệp vụ kiểm toán sau thông quan cho

ngành do giảng viên kiêm chức trong Vụ, Cục thuộc nghành Hải quan giảng dạy và

nhiều giáo viên các trường Đại học trong nước và các chuyên gia kiểm toán.

Ngoài ra một số Hải quan địa phương có lưu lượng hàng hóa XNK lớn như Hải

quan TP. HCM, Hải quan Hà Nội, Đồng Nai, Hải Phòng, Bình Dương, Quảng Ninh đã

tổ chức nhiều lớp học về nghiệp vụ như: tin học tổng hợp, phân loại hàng hóa, kỹ năng

tranh tụng trước tòa, nghiệp vụ ngoại thương … cho cán bộ công chức kiểm tra sau.

Trong các năm qua có nhiều cán bộ kiểm tra sau được cử đi học tập khảo sát về

kiểm tra sau ở một số nước như : Nhật bản, Pháp, Trung Quốc...

* Về cơ cấu tổ chức

Hệ thống KTSTQ ở Việt Nam gồm 2 cấp từ Tổng cục Hải quan đến các Cục hải

quan địa phương.

- Cấp Tổng cục có: Cục KTSTQ với chức năng và quyền hạn theo Quyết định

số: 1015/QĐ-BTC ngày 11/5/2010 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ

cấu tổ chức của Cục Kiểm tra sau thông quan trực thuộc TCHQ. Theo đó, Cục Kiểm

tra sau thông quan là đơn vị trực thuộc Tổng cục Hải quan, có chức năng tham mưu,

giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các

đơn vị trong ngành hải quan thực hiện công tác kiểm tra sau thông quan; trực tiếp thực

hiện kiểm tra sau thông quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao và theo

quy định của pháp luật.

- Cấp Cục: có Chi cục KTSTQ do Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương tổ chức thực hiện công tác KTSTQ trong phạm vi địa

bàn quản lý về KTSTQ tại các chi cục, cửa khẩu. Thực hiện việc giám sát phúc tập hồ

sơ và kiểm tra sau thông quan các doanh nghiệp trên địa bàn quản lý của Cục hải quan

Thành phố, Tỉnh.

* Về tình hình thực hiện

Từ khi thành lập năm 2003 cho đến nay kết quả hoạt động của KTSTQ đã đóng

góp một phần vào việc thực hiện nhiệm vụ chung của ngành Hải quan trong tiến trình

70

cải cách hiện đại hóa ngành Hải quan theo yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Sau 05

năm hoạt động, số truy thu thuế từ kiểm tra sau và tổng số vụ kiểm tra sau đối với

doanh nghiệp XNK như sau:

Bảng 7: Số liệu tổng hợp từ năm 2005-2009

Năm

2006

2007

2008

2009

200 5

Tổng cộng

3.022

Tổng số vụ kiểm tra sau thông quan

375

513

628

723

670

Tổng số tiền thuế đã truy thu (tỷ đồng)

8,5

57

90,9

173,2

243

572,6

26.64

Tổng số doanh nghiệp tham gia XNK

30.98 8

36.60 0

39.79 9

5

Tỷ lệ DN bị kiểm tra / tổng DN

1.9%

2%

2%

1.7%

( Nguồn : tổng hợp theo báo cáo tổng kết của ngành hải quan từ năm 2005- 2009)

Số tiền thuế truy thu từ nghiệp vụ kiểm tra sau ngày càng gia tăng, năm 2009

đạt 243 tỷ tăng 40% so với năm 2008. Năm 2008 đạt 173,2 tỷ tăng 90% so với năm

2007. Qua số liệu trên cho thấy hoạt động KTSTQ ngày càng hiệu quả hơn

Tuy nhiên, qua số liệu tổng hợp trên cho thấy số tiền thuế truy thu từ kiểm tra

sau thông quan chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng thu ngân sách từ hoạt động XNK.

Tỷ lệ doanh nghiệp kiểm tra sau chiếm bình quân khoảng 1,9 % trên tổng doanh

nghiệp XNK ,con số này là quá ít, thực tế cho thấy việc “hậu kiểm” chưa phát huy hết

71

được vai trò của mình trong hoạt động kiểm soát của Ngành hải quan.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2, luận văn đã đi sâu vào đánh giá thực trạng hoạt động XNK , quản lý

Nhà nước về hoạt động XNK trong thời kỳ hội nhập kinh tế Quốc tế, đặc biệt từ khi

Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Luận văn

cũng đề cập các hình thức gian lận trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Từ thực tế

hoạt động XNK này cho thấy việc cần thiết phải thay đổi phương pháp quản lý Hải

quan đối với hàng hóa XNK từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” để phù hợp xu hướng

phát triển kinh tế là tạo thuận lợi cho thương mại phát triển là thực sự cần thiết.

Luận văn thu thập, phân tích thông tin về thực trạng hoạt động của KTSTQ

Việt Nam từ năm 2005-2009 trên các lĩnh vực như: tổ chức, con người, kết quả hoạt

động, hệ thống thông tin …. Qua đó thấy được hoạt động KTSTQ đã thực sự hỗ trợ

cho khâu “tiền kiểm”, nhưng bên cạnh đó hoạt động KTSTQ còn tồn tại nhiều hạn chế

do các nguyên nhân chủ quan, khách quan.

Từ việc phân tích thực tế hoạt động KTSTQ đã cho thấy một số hạn chế của

KTSTQ, từ đó tác giả đưa ra một số giải pháp, để nâng cao vai trò của hoạt động

KTSTQ, góp phần vào tiến trình cải cách hiện đại hóa ngành Hải quan trong tiến trình

72

hội nhập kinh tế quốc tế.

CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA KIỂM

TOÁN HẢI QUAN TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ

3.1 Mục tiêu xây dựng các giải pháp

- Xuất phát từ yêu cầu cải cách hiện đại hóa và cải cách thủ tục hành chính

ngành hải quan, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ hội nhập

kinh tế Quốc tế. Thay đổi phương pháp quản lý truyền thống sang quản lý rủi ro,

chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, nhưng vẫn đảm bảo được chức năng quản lý

Nhà nước về mặt hải quan đối với hàng hóa XNK.

- Do yêu cầu hội nhập và phát triển thương mại Quốc tế, trong khi khả năng kiểm

soát của hải quan chỉ có giới hạn về nhân lực, nhận thức, trang thiết bị kỹ thuật.

- Yêu cầu thực hiện các điều ước, cam kết quốc tế của Việt Nam và Hải quan

Việt Nam khi tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO.

- Yêu cầu tiếp cận kỹ thuật nghiệp vụ tiên tiến về Hải quan.

- Bức xúc từ thực tiễn công tác KTSTQ trong ngành Hải quan.

3.2 Căn cứ xây dựng các giải pháp

- Về nhận thức chung của lãnh đạo các Cấp trong ngành hải quan còn coi nhẹ

công tác KTSTQ. Nếu nhận thức này không được thay đổi thì về lâu dài lực lượng

KTSTQ khó có thể thực hiện được những mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của ngành đề

ra.

- Hệ thống tổ chức: đã thành lập được Cục kiểm tra sau thông quan, Phòng

kiểm tra sau thông quan thuộc các chi Cục hải quan Thành phố, Tỉnh. Nhưng do mới

hoạt động nên chức năng, nhiệm vụ của KTSTQ còn bị hạn chế. Một số Phòng kiểm

tra sau thông quan của các Cục hải quan địa phương hoạt động còn chưa hiệu quả,

không phát huy được vai trò của mình.

- Cán bộ công chức làm kiểm tra sau thông quan được điều chuyển từ nhiều bộ

phận nghiệp vụ khác nhau về hoặc tuyển dụng mới vào ngành, phần lớn chưa được

đào tạo sâu về nghiệp vụ kiểm toán, điều tra, kế toán … Do đó trình độ năng lực chưa

73

đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

- Điều 32- Luật hải quan sửa đổi năm 2005 qui định “trong trường hợp cần

thiết và còn điều kiện thì kiểm tra thực tế hàng hóa” “ Thời hạn kiểm tra trực tiếp tại

đơn vị được kiểm tra của mỗi quyết định kiểm tra tối đa là 05 ngày làm việc” Những

qui định trên phần nào hạn chế công tác kiểm toán sau thông quan.

- Chưa có qui định pháp lý về trách nhiệm của các ngành như Ngân hàng, Thuế,

Các hãng vận tải, bảo hiểm, Các lực lượng chức năng trong việc phối hợp với cơ quan

Hải quan thực hiện KTSTQ.

- Hệ thống thông tin, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác KTSTQ còn

rất hạn chế chưa có hệ thống quản lý rủi ro phục vụ cho công tác KTSTQ mặc dù đã

được xây dựng từ năm 2004.

- Chất lượng công tác phúc tập hồ sơ ở khâu thông quan còn mang nặng tính

hình thức, ngại va chạm nên hạn chế việc tìm ra dấu hiệu vi phạm cung cấp thông tin

cho KTSTQ.

- Công việc KTSTQ tại doanh nghiệp còn rất ít, chủ yếu chỉ mới tiến hành kiểm

tra tại trụ sở của cơ quan hải quan.

3.3 Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của kiểm toán sau thông quan trong tiến

trình hội nhập kinh tế Quốc tế.

Công tác KTSTQ thực hiện thời gian qua chưa đáp ứng được yêu cầu thực sự

của Luật hải quan, vẫn còn nhiều doanh nghiệp lợi dụng gian lận thương mại, trốn thuế

như tác giả đã phân tích ở chương II. Phải khẳng định lại KTSTQ của Hải quan Việt

Nam là một công tác nghiệp vụ còn nhiều mới mẻ và còn gặp nhiều khó khăn, hiện

đang trong quá trình vừa triển khai, vừa làm, vừa nghiên cứu học hỏi để hoàn thiện. Do

vậy, trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề có tính

chất lý luận và thực tiễn về công tác KTSTQ; phân tích thực trạng tình hình KTSTQ

của Hải quan Việt Nam trong thời gian từ năm 2005 -2009, tác giả đề suất một số giải

pháp cơ bản cần được triển khai đồng bộ nhằm nâng cao vai trò KTSTQ trong hoạt

động của Ngành hải quan, với mong muốn hoạt động KTSTQ thực sự có hiệu quả

trong thời kỳ ngành Hải quan đang cải cách và hiện đại hóa nhằm hội nhập khu vực và

thế giới.

74

3.3.1 Giải pháp về con người

Hoàn thiện hệ thống tổ chức của lực lượng KTSTQ từ cấp Tổng cục tới Chi cục

Hải quan, Cửa khẩu. Cán bộ lãnh đạo, nhân viên KTSTQ phải đảm bảo có năng lực

thực sự thực hiện công tác KTSTQ ( đưa vào những người đạt tiêu chuẩn và kịp thời

đưa ra những người không đáp ứng được yêu cầu). Những cán bộ, nhân viên KTSTQ

đã có kinh nghiệm và nghiệp vụ không nên luân chuyển theo định kỳ của ngành qui

định, như vậy sẽ khó khăn trong việc đào tạo nghiệp vụ chuyên môn kiểm toán hải

quan.

Về số lượng cán bộ kiểm toán hải quan phải đạt tỷ lệ ít nhất là 10% toàn ngành.

Theo tiêu chuẩn của các nước trong khu vực và trên thế giới, thì tỷ lệ nhân viên kiểm

toán hải quan phải đạt từ (10% -25%) trong tổng số cán bộ công chức hải quan. Như

vậy bộ phận KTSTQ mới thực sự phát huy được vai trò “hậu kiểm”, tăng tỷ lệ kiểm tra

sau thông quan đối với các doanh nghiệp XNK , từ đó đảm bảo tính tuân thủ pháp luật

của các Doanh nghiệp và kịp thời phát hiện hành vi gian lận trốn thuế của những

doanh nghiệp vi phạm pháp luật.

Ở cấp Tổng cục :

- Cục kiểm tra sau thông quan cần được bố trí, sắp xếp đầy đủ số lượng Cán bộ

lãnh đạo cục, lãnh đạo phòng và nhân viên các phòng chức năng đi vào hoạt động.

- Lãnh đạo Cục, Phòng và nhân viên trong Cục kiểm tra sau thông quan tự hoàn

thiện mình, không ngừng học tập và thông qua hoạt động thực tiễn để nâng cao năng

lực công tác.

Tăng cường, quán triệt nhận thức của các cấp lãnh đạo trong lĩnh vực KTSTQ.

Đối với cán bộ lãnh đạo phải thực sự nhận thức được vai trò của công tác KTSTQ.

- Mọi hoạt động của Cục kiểm tra sau thông quan phải hướng về cơ sở, tăng

cường ciông tác kiểm tra , hướng dẫn hỗ trợ hoạt động của các địa phương.

Ở cấp Cục hải quan thành phố, tỉnh:

- Lãnh đạo Cục hải quan Tỉnh, Thành phố cần quan tâm hơn đối với công tác

kiểm toán hải quan, xác định đúng vị trí, vai trò của công tác kiểm toán sau thông quan

trong nghiệp vụ hải quan.

- Tất cả các địa phương cần triển khai tổ chức kiểm toán theo qui định, lựa

75

chọng những cán bộ có năng lực, kinh nghiệm công tác, phẩm chất đạo đức cho công

tác này. Tăng cường cán bộ công chức kiểm tra sau cho các Chi cục hải quan, đào tạo

nghiệp vụ theo hướng chuyên sâu theo từng lĩnh vực cho cán bộ kiểm tra sau như lĩnh

vực trị giá, xuất xứ, phân loại hàng hóa, gia công, sản xuất-xuất khẩu, đầu tư.

Ở cấp Chi cục Hải quan

Cấp Chi cục Hải quan không thực hiện quyết định kiểm tra sau thông quan

nhưng đây là nơi cung cấp nguồn thông tin rồi rào và đáng tin cậy ở khâu phúc tập hồ

sơ phục vụ cho công tác KTSTQ. Vì vậy phải tổ chức phúc tập 100% hồ sơ đã thông

quan. Nâng cao chất lượng công tác phúc tập hồ sơ nhằm phát hiện dấu hiệu vi phạm

pháp luật hải quan từ đây.

Như vậy để Ngành hải quan nâng cao được hiệu quả của công tác KTSTQ thì

việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống tổ chức của lực lượng kiểm toán sau thông quan,

nâng cao năng lực cán bộ kiểm toán hải quan là giải pháp hàng đầu và khi bố trí công

chức kiểm toán hải quan phải có đủ một sồ điều kiện như: Tốt nghiệp Đại học tài chính,

kế toán, ngoại thương, luật. Trong đó số cán bộ kiểm toán hải quan được đào tạo chuyên

ngành Kế toán - Kiểm toán ( chủ yếu là kế toán doanh nghiệp) chiếm khoảng 60%, đồng

thời phải có kiến thức về nghiệp vụ hải quan như: thủ tục hải quan, áp mã tính thuế, trị

giá tính thuế, xuất xứ hàng hóa. Được đào tạo thêm về các kỹ năng như điều tra, am hiểu

kiến thức về luật, ngoại ngữ, tin học. Đặc biệt, cán bộ kiểm toán hải quan phải có phẩm

chất chính trị, đạo đức tốt, bản lĩnh nghiệp vụ vững vàng, không vi phạm kỷ luật liên

quan đến tiêu cực tham nhũng.

3.3.2 Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật hiệu quả, chặt chẽ, thống nhất và

đồng bộ

- Hệ thống văn bản pháp lý như Luật hải quan, Luật thuế xuất nhập khẩu, Luật

quản lý thuế … tương đối đầy đủ để hoạt động KTSTQ được phát huy tốt, nhưng bên

cạnh đó cần phải có hệ thống pháp luật đồng bộ trong công tác xử lý vi phạm hành

chính để tạo điều kiện cho công tác kiểm toán sau thông quan. Các biện pháp cưỡng

chế hành chính theo trình tự đạt hiệu quả không cao dẫn tới nợ đọng thuế lớn. Do các

quy định tại Luật hải quan, Luật quản lý thuế và các văn bản dưới Luật chưa thống

nhất hoặc chưa rõ ràng; thẩm quyền của các cơ quan quản lý thuế chưa đủ mạnh; Nội

76

hàm của các quy phạm pháp luật còn chồng chéo…

Vì vậy, cần ban hành văn bản quy định chi tiết về KTSTQ có nghiên cứu thật

kỹ kinh nghiệm của Hải quan các nước trên thế giới, đối chiếu với thực tiễn ở Việt

Nam, tiến hành dự thảo, lấy ý kiến góp ý kiến trong và ngoài ngành để khi ban hành

văn bản có tính khả thi cao.

- Trong tương lại việc kiểm toán sau thông quan sẽ có nhiều cuộc kiểm tra tại

doanh nghiệp, cũng như theo kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới

ngành Hải quan Việt Nam cần thiết phải nhanh chóng xây dựng hệ thống “chuẩn mực

kiểm tra sau thông quan” với mục đích ngăn ngừa các trường hợp có thể dẫn đến tha

hóa đội ngũ kiểm toán viên Hải quan trong quá trình tác nghiệp tại trụ sở doanh

nghiệp.

3.3.3 Nhóm giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ, phục vụ cho hoạt động kiểm toán hải

quan

(1) Cần thiết hoàn thành và áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong khâu kiểm toán sau

thông quan

Mục tiêu chiến lược phát triển của ngành Hải quan đến năm 2010, Hải quan

Việt Nam phấn đấu trở thành Hải quan tiên tiến trong khu vực ASEAN, hiện đại theo

tiêu chuẩn Quốc tế.

Tầm nhìn 2020: Quản lý hải quan theo hướng tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu,

nhập khẩu, đầu tư và du lịch; thực hiện hải quan điện tử; cơ quan Hải quan hoạt động

có tính chuyên nghiệp, minh bạch và liêm chính.

Ngành Hải quan sẽ dần từng bước chuyển đổi phương pháp quản lý nghiệp vụ

thủ công, truyền thống, sang thực hiện kỹ thuật quản lý rủi ro theo phương pháp quản

lý hiện đại. KTSTQ là một trong những biện pháp được áp dụng trong công tác quản lý

hải quan hiện đại. Nó chỉ thực sự phát huy vai trò và hiệu quả khi ngành Hải quan đã

áp dụng đồng bộ nguyên tắc quản lý rủi ro trong tất cả các khâu của quy trình thủ tục

hải quan, từ khâu kiểm tra trước thông quan (Điều tra chống buôn lậu) đến khâu kiểm

tra trong thông quan (tiếp nhận khai báo, giám sát, kiểm hóa, tính thuế) và đến khâu

KTSTQ.

Hiện nay, Hải quan các nước trên thế giới khi áp dụng hệ thống quản lý rủi ro

77

trong khâu kiểm toán sau thông quan đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Việt

Nam đã có mối quan hệ thương mại với hàng trăm nước trên thế giới và khu vực, như

vậy tốc độ lưu chuyển hàng hóa qua các cửa khẩu là rất cao. Một yêu cầu cấp thiết

hiện nay là phải hỗ trợ cho quy trình KTSTQ mảng kỹ thuật quản lý rủi ro thiết kế trên

phần mềm, kết hợp với chương trình xử lý thông tin tự động tích hợp. Ưu điểm nổi bật

của hệ thống sẽ giúp nhanh chóng xác định một cách khoa học và linh hoạt các khu

vực rủi ro cao và trình tự kiểm tra doanh nghiệp sẽ được thiết lập cụ thể, hợp lý, tạo

thuận lợi cho việc lập kế hoạch KTSTQ trong những thời đoạn khác nhau.

(2) Về mặt thông tin doanh nghiệp

Trong quá trình thu thập, phân tích thông tin phục vụ cho công việc kiểm toán

sau thông quan, cần có một trung tâm dữ liệu tổng hợp về doanh nghiệp như: ngành

nghề kinh doanh chính, lịch sử hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình nộp

thuế, vi phạm của doanh nghiệp có hay không?…để cán bộ kiểm toán khai thác phân

tích phục vụ cho nghiệp vụ kiểm tra của mình.

(3) Về qui trình và chất lượng phúc tập hồ sơ

Để đánh giá được doanh nghiệp một cách sâu hơn, quản lý có trọng tâm, trọng

điểm trên cơ sở lý thuyết về quản lý rủi ro trong công tác hải quan thì phải quan tâm

tới hiệu quả của công tác phúc tập hồ sơ XNK trong khâu thông quan. Bởi vì phúc tập

hồ sơ là việc sẽ phát hiện ra sai sót từ cả hai phía Hải quan và Doanh nghiệp, từ đó sửa

chữa bổ sung hoàn thiện . Đồng thời phúc tập hồ sơ cũng là nơi cung cấp nguồn thông

tin quan trọng về hoạt động XNK của các doanh nghiệp cho hoạt động kiểm tra sau, là

nơi phát hiện những doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm pháp luật Hải quan. Như vậy

theo tôi cần phải :

+ Phúc tập phải có trọng điểm

Hiện nay, việc phúc tập theo báo cáo thì 100% tờ khai XNK được phúc tập,

nhưng chất lượng công tác phúc tập không cao, mang nặng hình thức, ngại va chạm

khi phát hiện sai sót, chạy theo số lượng tờ khai, số lượng cán bộ phúc tập hồ sơ còn ít

so với khối lượng công việc thực tế. Để khắc phục được thực tế này có một số biện

pháp cụ thể như:

* Đối với các tờ khai thuộc loại hình gia công, sản xuất - xuất khẩu, tạm nhập

78

tái xuất, tạm xuất – tái nhập, các Chi cục hải quan nên thực hiện việc phúc tập khi

làm công tác thanh khoản thuế, thanh khoản hợp đồng gia công. Nếu các doanh nghiệp

không thanh khoản tờ khai theo đúng thời hạn qui định thì cần kiểm tra và phúc tập

toàn bộ các tờ khai XNK của doanh nghiệp.

* Đối với các tờ khai thuộc loại hình ưu đãi đầu tư, hưởng ưu đãi thuế nhập

khẩu cần kiểm tra kỹ về giấy phép cấp ưu đãi, mặt hàng đầu tư làm rõ chế độ ưu đãi

theo văn bản hiện hành.

* Đối với nhhững mặt hàng, nhạy cảm thuế suất cao như ôtô, sắt thép, mỹ phẩm

…cần phải nắm bắt được giá tính thuế qua tham khảo giá nhập từ nhiều nguồn thông

tin khác nhau.

+ Trang bị kiến thức và thông tin cho cán bộ phúc tập.

Để công tác phúc tập hồ sơ có hiệu quả cao, cán bộ phúc tập phải nắm bắt được

các qui trình các khâu nghiệp vụ trước, trong khâu thông quan như: đăng ký tờ khai,

kiểm tra giá tính thuế, kiểm hóa áp mã hàng hóa. Cán bộ phúc tập không được tiếp xúc

trực tiếp với hàng hóa nên yêu cầu bộ phận kiểm hóa phải lưu trữ đầy đủ hồ sơ về các

bằng chứng mô tả đúng bản chất hàng hóa như: Catalogue, hồ sơ kỹ thuật, chứng thư

giám định... để lấy cơ sở so sánh với các lô hàng giống hệt hoặc tương tự trước đây từ

đó phát hiện sai sót.

Cán bộ phúc tập hồ sơ phải có kiến thức về tin học, ngoại ngữ thành thạo để đọc được

chứng từ thương mại, tra cứu dữ liệu trên hệ thống phần mềm quản lý rủi ro ở khâu thông

quan. Nắm bắt kịp thời các chế độ chính sách ban hành một cách thường xuyên.

3.3.4 Giải pháp về đào tạo

Con người là yếu tố quan trọng quyết định cho mọi sự thành công, do vậy

ngành Hải quan nói chung và bộ phận kiểm tra sau thông quan nói riêng, muốn thực

hiện được nhiệm vụ tăng cường kiểm toán sau thông quan thì phải thực sự chú ý tới

việc đào tạo trang bị kiến thức tổng hợp cho cán bộ kiểm toán hải quan một cách

chuyên nghiệp, bản lĩnh vững vàng, giàu kinh nghiệm để thực hiện công việc chuyên

môn. Do vậy cần thiết phải :

Thứ nhất : Chuẩn hóa chương trình đào tạo nghiệp vụ KTSTQ gắn liền với đội

ngũ cán bộ KTSTQ. Cần quy định chế độ học tập bắt buộc đối với cán bộ nghiệp vụ

79

KTSTQ về nghiệp vụ cơ bản và hàng năm bồi dưỡng cập nhật kiến thức. Thông qua tài

liệu KTSTQ, kinh nghiệm thực tiễn của các nước đã thực hiện tốt nghiệp vụ KTSTQ,

sổ tay nghiệp vụ KTSTQ ASEAN kết hợp với Luật hải quan, các văn bản quy phạm

pháp luật hướng dẫn nghiệp vụ KTSTQ và thực tiễn KTSTQ, ngành Hải quan phải xây

dựng bộ giáo trình chuẩn phục vụ công tác giảng dạy KTSTQ. Một chương trình đào

tạo khoa học, hợp lý phải đồng nghĩa với sự thống nhất trong toàn ngành. Tính thống

nhất trong quá trình đào tạo sẽ dẫn đến sự thống nhất về nhận thức, về phương pháp tư

duy và phong cách làm việc thực tế của nhân viên KTSTQ.

Thứ hai: Không ngừng nâng cao trình độ cán bộ kiểm toán hải quan

Tiếp tục mở các lớp đào tạo KTSTQ có chuyên gia nước ngoài hướng dẫn; cử

cán bộ đi học ở nước ngoài bằng nguồn tài trợ. Kết thúc mỗi khóa học, mỗi học viên

cần có nhận xét thật khách quan, minh bạch điểm mạnh và điểm yếu về nội dung,

phương pháp đào tạo nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của chuyên gia trong thời

gian tới.

- Cử một số cán bộ có trình độ đi thực tế học tập kinh nghiệm KTSTQ tại các

nước đã thực hiện tốt nghiệp vụ này. Tuy nhiên, cán bộ tham gia cần phải đúc kết bài

học ngay sau chuyến đi, báo cáo trước Lãnh đạo TCHQ và các tổ chức có liên quan để

rút ra bài học, kinh nghiệm và phương hướng áp dụng vào điều kiện thực tế của Hải

quan Việt Nam.

- Tiếp tục tập trung và mở rộng thêm đào tạo đội ngũ chuyên viên hàng đầu về

KTSTQ do JICA đào tạo nhằm tăng thêm đội ngũ vừa là chuyên gia có trình độ

chuyên môn cao vừa là giáo viên kiêm chức về KTSTQ, có khả năng sư phạm tốt.

- Thực tế việc kiểm tra chứng từ trong thương mại, kế toán, hải quan trong tình

hình thực tế công nghệ thông tin phát triển rất khó phát hiện chứng từ giả, nên phải mở

lớp đào tạo kỹ năng phát hiện chứng từ giả và trang thiết bị máy móc kỹ thuật hiện đại

phục vụ công việc này.

Thứ ba: hàng năm nên tổ chức nhiều hội nghị chuyên đề về kiểm tra sau thông

quan, để từ đó cán bộ kiểm toán hải quan có điều kiện trao đổi kinh nghiệm trong

chuyên môn, phát huy tối đa những ưu điểm và hạn chế những nhược điểm trong hoạt

80

động tác nghiệp của mình.

3.3.5 Giải pháp tăng cường mối quan hệ kết hợp giữa Hải quan với các Ngành

chức năng như: Ngân hàng, Thuế nội địa, Hãng vận chuyển, Cơ quan giám

định… bằng việc tạo lập kênh thông tin giữa các cơ quan

Hoạt động XNK và thanh toán quốc tế có mối quan hệ mật thiết, ràng buộc lẫn

nhau trong quá trình tồn tại và phát triển thương mại quốc tế. Việc thanh toán tiền

hàng XNK thông qua ngân hàng là thông tin thực sự cần thiết đối với cơ quan hải

quan, khi thẩm định về việc xác định trị giá tính thuế cho một lô hàng XNK. Bằng các

phương thức thanh toán như L/C ( Letter of credit – tín dụng chứng từ), T/T

( Telegraphic Transfer - chuyển tiền bằng điện, D/P (Document Against Payment - nhờ

thu trả ngay), D/A (Document Against Acceptance- nhờ thu trả chậm ) , thông qua các

chứng từ thanh toán ngân hàng là bằng chứng xác thực xác định tổng số tiền phải

thanh toán cho khách hàng của một lô hàng nhập khẩu.

Hải quan cần biết một doanh nghiệp có bao nhiêu tài khoản và ở những ngân

hàng nào? để kiểm soát thanh toán cho từng lô hàng của doanh nghiệp.

Sau khi thông quan hàng hóa, doanh nghiệp thực sự bán ra và khai báo thuế với

cơ quan thuế nội địa như thế nào? đã đầy đủ theo đúng số lượng, giá khai báo nhập

khẩu không?

Thông tin về số lượng hàng vận chuyển, trị giá bảo hiểm chính xác là bao nhiêu.

Kết quả giám định xác định đúng bản chất của hàng hóa.

Những thông tin trên được cung cấp một cách kịp thời, chính xác và nhanh

chóng sẽ là điều kiện cần thiết và có cơ sở pháp lý cao trong đấu tranh với doanh nhiệp

phục vụ cho kiểm toán sau thông quan.

Vì vậy phải có một cơ chế pháp lý, để phối kết hợp cung cấp thông tin giữa Hải

quan và các cơ quan chức năng trên khi có yêu cầu kiểm tra. Cần có trung tâm khai

thác dữ liệu tổng hợp sẽ phục vụ ngày càng tốt hơn cho công tác kiểm toán hải quan

hiện đại.

Có cơ chế phối hợp giữa Ngành hải quan và Ngành ngoại giao để xác minh, xác

nhận tài liệu, chứng từ ở nước sở tại có cơ quan Ngoại giao Việt Nam đóng trụ sở

(nghiên cứu chức danh Tùy viên Hải quan tại Đại sứ quán Việt Nam tại một số nước

81

có kim ngạch XNK lớn với Việt Nam)

3.3.6 Giải pháp tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho KTSTQ

Là lực lượng mới được thành lập trong ngành cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ

cho công tác còn chưa đầy đủ. Do vậy, ngành Hải quan phải tiến hành rà soát cơ sở hạ

tầng, trụ sở, trang thiết bị của các đơn vị trong ngành, trong đó có đơn vị KTSTQ để

xác định nhu cầu. Đây là yêu cầu cần được ưu tiên trong việc phát triển ngành. Phải bố

trí môi trường làm việc khang trang, thực sự là cơ quan công quyền của Nhà nước, có

đủ diện tích để bố trí nơi làm việc cho cán bộ, đủ diện tích để bố trí lắp đặt hệ thống

máy móc, phương tiện, trang thiết bị làm việc đầy đủ như máy tính xách tay, máy ảnh,

máy phát hiện chứng từ giả, máy ghi âm …. để lực lượng KTSTQ có đủ phương tiện

tác nghiệp tốt nhất.

3.3.7 Chế độ đãi ngộ đối với lực lượng làm công tác KTSTQ

Trong công tác KTSTQ có nhiều hoạt động nghiệp vụ mang tính chất điều tra

xác minh, thu thập thông tin tình báo, áp dụng đồng bộ các biện pháp kiểm toán, kế

toán, giám định, thu thập chứng cứ trong và ngoài nước, trưng dụng các chuyên gia,

các nhà khoa học giỏi trong KTSTQ nhưng lại không có nguồn quỹ chi phục vụ hoạt

động nghiệp vụ trong khi đó trên cùng một mặt trận chống buôn lậu, gian lận thương

mại và hàng giả (Kiểm toán Nhà nước được trích 2% số tiền do Kiểm toán Nhà nước

phát hiện và kiến nghị; Lực lượng chống buôn lậu thuộc ngành Hải quan cũng có quy

chế riêng về kinh phí chi cho hoạt động nghiệp vụ…).

Do vậy Bộ Tài chính nên cho phép lực lượng KTSTQ được trích khoảng 1%

trên tổng số tiền truy thu, ấn định thuế để có nguồn kinh phí phục vụ: mua tin; chi phí

hợp lý khác; trích thưởng để động viên, khuyến khích kịp thời đối với các tập thể, cá

nhân trực tiếp tham gia hoạt động KTSTQ…

3.3.8 Đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật Hải quan về kiểm toán sau thông quan

trong cộng đồng doanh nghiệp

Tuyên truyền tới cộng đồng doanh nghiệp hiểu rõ được vai trò và mục đích của

công tác kiểm toán sau thông quan, là tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại phát

triển, rút ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí thông quan hàng hóa XNK cho doanh

nghiệp. Tạo thuận lợi cho hoạt động XNK đối với những doanh nghiệp chấp hành tốt

82

pháp luật, ngăn chặn những hành vi gian lận, trốn thuế của các doanh nghiệp vi phạm

pháp luật, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp tiến tới sự phát

83

triển tích cực của nền kinh tế hội nhập quốc tế.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Chương 3, trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động KTSTQ ở chương 2, tác

giả đưa ra những mục tiêu và căn cứ để xây dựng những giải pháp chung và giải

pháp cụ thể của công tác KTSTQ từ đó để nâng cao vai trò của hoạt động KTSTQ

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Từ những mục tiêu, căn cứ và các giải pháp đã trình bày trong chương 3, tác giả

thấy Ngành hải quan cần :

- Đẩy mạnh công tác thu thập thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh XNK

của các doanh nghiệp trên địa bàn quản lý của từng đơn vị, để từ đó làm cơ sở tiền đề

cho các cuộc kiểm toán sau thông quan.

- Tập trung kiểm toán các doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật, trốn thuế

hoặc trì hoãn nghĩa vụ nộp thuế . Kiểm toán sau thông quan việc chấp hành nghĩa vụ

thuế đối với các loại hình kinh doanh như: sản xuất - xuất khẩu, gia công, đầu tư, mặt

hàng có thuế suất nhập khẩu cao, giá tính thuế nhạy cảm

- Tăng cường kiểm toán sau thông quan tại trụ sở của doanh nghiệp. Khi kiểm

tra tại doanh nghiệp sẽ làm sáng tỏ bức tranh toàn diện kinh doanh của đối tượng kiểm

toán

- Tăng cường số vụ kiểm toán sau thông quan trên tỷ lệ số doanh nghiệp tham

gia hoạt động XNK, để từ đó nâng cao tính tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp

khi tham gia hoạt động XNK và phát hiện ra các hành vi gian lận trốn thuế của các

84

doanh nghiệp.

KẾT KUẬN

Hoạt động KTSTQ ở Việt Nam còn mới mẻ, là khâu nghiệp vụ rất khó khăn và

phức tạp không những đối với Hải quan Việt Nam mà còn đối với Hải quan các nước

trong khu vực và trên thế giới. Để đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế,

trong chiến lược tầm nhìn hải quan năm 2020 là phải phát triển Hảiquan hiện đại,

chuyên nghiệp, hiệu quả vì vậy ngành Hải quan phải thay đổi phương thức quản lý

nhà nước đối với hoạt động XNK từ “tiền kiểm” sang ”hậu kiểm”, tiến tới việc kiểm

tra thực tế hàng hóa XNK ở khâu thông quan năm 2010 đạt 10% tỷ lệ thực tế hàng hóa,

nâng cao vai trò của hoạt động KTSTQ để hỗ trợ tạo điều kiện thương mại quốc tế

phát triển đáp ứng yêu cầu phát triển chung của nền kinh tế, nhưng vẫn giữ vững được

chức năng quản lý nhà nước của ngành Hải quan. KTSTQ là một công cụ đắc lực trong

đấu tranh chống vi phạm pháp luật về hải quan. KTSTQ là nhiệm vụ trọng tâm, trọng

điểm trước bối cảnh gian lận thương mại, trốn thuế ngày một gia tăng hiện nay.

Qua nghiên cứu, phân tích, đánh giá, tổng hợp, luận văn đã đề cập và làm rõ các

nội dung sau:

1. Luận văn đã hệ thống hóa những vấn đề có tính chất lý luận cơ bản của

nghiệp vụ KTSTQ như: Khái niệm, đối tượng, vai trò, mục đích, quản lý nhà nước đối

với KTSTQ.

2. Đánh giá thực trạng của hoạt động XNK và hoạt động KTSTQ trong thời kỳ

hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam.

3. Đề xuất một số giải pháp giải pháp để nâng cao vai trò hoạt động KTSTQ

trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.

Do nội dung nghiên cứu còn khá mới mẻ. Về phía tác giả khả năng, kinh

nghiệm và tư duy khoa học còn nhiều hạn chế, do đó kết quả nghiên cứu không thể

tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Tác giả luận văn mong nhận được sự quan

tâm góp ý của quý Thầy, Cô, các Nhà khoa học, các Nhà hoạch định chính sách cùng

bạn bè, đồng nghiệp để tác giả tiếp tục bổ sung nhằm hoàn thiện hơn luận văn của

85

mình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt:

1. Tổng cục hải quan, Nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan ( tài liệu tham khảo – lưu

hành nội bộ), tác giả Phạm Ngọc Hữu

2. Đại học kinh tế TP HCM, Kiểm toán, 2008, Nhà xuất bản lao động

3. TS. Đoàn Hồng Lê, Đổi mới quản lý nhà nước đối với XNK ở nước ta trong điều

kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Đà Nẵng .

4. Giáo trình chống gian lận thương mại. Tác giả Đoàn Hồng Lê

5. Luc De Wulf và José B.Sokol (2004), Sổ tay hiện đại hóa Hải quan, Ban Thương

mại của Ngân hàng thế giới, Washington, DC.Ngân hàng thế giới.

6. Quốc Hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2001), Luật Hải quan số

29/2001/QH10.

7. Quốc Hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Luật Hải quan số

42/2005/QH11.

8. Quốc Hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Luật thương mại ngày

10/05/1997.

9. Quốc Hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2006), Luật quản lý thuế số

78/2006/QH11.

10. Chính Phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Nghị định số 154/2005/NĐ-

CP ngày 15/12/2005.

11. Chính Phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2007), Nghị định số 40/2007/NĐ-

CP ngày 16/3/2007.

86

12. Bộ Tài Chính (2009), Thông tư số 79/2009/TT-BTC ngày 20/4/2009

13. Tổng Cục Hải quan (2009), Quyết định số 1383/2009/QĐ-TCHQ ngày 14/7/2009

14. Tổng cục Hải quan (2005-2009), Báo cáo tổng kết ngành Hải quan, Hà Nội.

15. Cục Kiểm tra sau thông quan (2005-2009), Báo cáo tổng kết , Hà nội

16. Báo cáo hội nghị chuyên đề kiểm toán sau thông quan 2005,2006,2007

17. Báo hải quan các số từ năm 2008 đến 2009

18. PGS.TS Mai Thị Hoàng Minh, Kiểm toán hải quan-công cụ chống gian lận thương

mại, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ

Tiếng Anh:

19. Customs and Tariff Bureau (1998), Japanese Laws concerning customs-1st edition,

Ministry of Finance, Tokyo.

20. The State Gazette of the Republic of Indonesia (1995), Indonesia Law on

Customs-No.10/1995, Jakarta.

21. United Nations (2006), Trade Facilitation Handbook, NewYork and Geneva.

22. WCO Asia/Pacific (2007), Workshop on Customs Enforcement against

Commercial Fraud 20-24 August 2007, Program 4: Post clearance Audit and Traders’

87

self-compliance, NACEN (India).

PHỤ LỤC 1

BẢNG THÔNG SỐ VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN GIAI ĐOẠN 2005-2009 (Nguồn : Tổng cục Hải quan – Báo cáo tổng kết từ năm 2005- 2009)

Năm 2005 2006 2007 2008 2009

Tổng số vụ KTSTQ

375

628

513

723

670

Số vụ tại trụ sở Hải quan

364

484

682

636

551

11

29

41

34

30

9,5 8,5 210(3)

591 37 180 90,9 430(2)

309 243 480

Trung bình 2005-2009 582

Số quyết định ban hành kiểm tra tại Doanh nghiệp Số tiền thuế phải truy thu Số tiền đã truy thu Lực lượng KTSTQ (người) Số lượng doanh nghiệp XNK Tỷ lệ số phải truy thu/Tổng thu

Số tiền truy thu/vụ Số tiền truy thu/Kiểm toán viên

0,02 % 0,03 45

204,9 79 173,2 57 460(1) 400 26.645(4) 30.988 36.600 39.799 33508 0,17% 0,17 0,14% 0,25 % 0,28 446

0,25 % 0,46 644

% 0,29 419

0,15 198

1,9%

2,0% 2,0% 1,7%

0,11%

0,12% 0,11% 0,09%

Tỷ lệ Doanh nghiệp bị kiểm tra/Lượng DN Tỷ lệ Doanh nghiệp bị kiểm tra tại trụ sở

1,79

1,28 2%

1,46 2%

1,57 2%

1,40 2%

97%

94%

94%

94%

95%

Số vụ KTSTQ/người/năm Tỷ lệ vụ KTSTQ /Tổng số doanh nghiệp Tỷ lệ vụ KTSTQ tại trụ sở Hải quan

Ghi chú :

(1) : Nguồn:“Dự án hiện đại hóa Hải quan Việt Nam – Can thiệp bằng ngoại lệ -2008“ (2) : Tính bình quân năm 2007 =(Số đầu năm 2007+ số cuối năm 2008)/2 = (400+460)/2 . (3) : Số liệu ước tính từ báo cáo tổng kết 2006-Tổng cục Hải quan. (4) : Tính toán từ báo cáo tổng kết 2007-Tổng cục Hải quan.

88

(Đơn vị tính : Tỷ đồng)

Năm 2005 2006 2007 2008 2009

Thu ngân sách Số lượng tờ khai (nghìn tờ) Lượng Tờ khai nhập Lượng tờ khai xuất Số lượng tờ khai đã phúc tập Tỷ lệ kiểm tra thực tế/tổng TK Số tiền thuế phải truy thu từ phúc tập Số tiền đã truy thu từ phúc tập

49.97 8 1.762 853 909 1.069 59,8% 25,788 86

54.50 0 1.848 946 902 1.848 24% 30 19

72.60 2 2.284 1.181 1.103 2.062 22% 43,9 37,3

117.3 49 2.990 1.570 1.420 3.295 23% 80,34 72,18

122.2 93 3.289 1.775 1.514 3.329 17% 109,46 99,14

Tổng biên chế ngành Hải quan (người)

7.913

8.297

8.717

9.606

9.731

Năm Tổng kim ngạch XNK hàng năm Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch nhập khẩu Trung bình tăng hàng năm 2005 62,7 29,15 33,55 9%

(ĐVT : Tỷ USD) 2009 125 56,5 68,5 -7%

2008 133,96 58,54 75,42 54% 2006 69,74 32,87 36,87 11% 2007 86,83 38,85 47,98 25%

Trung bình tăng từ 2005-2009

18,4 %

24%

22%

Tỷ lệ kiểm tra thực tế/tổng TK

59,8%

23%

17%

-Hàng xuất khẩu

19%

13%

-Hàng nhập khẩu

30%

31%

89

PHỤ LỤC 2

Tiến trình hình thành cơ sở pháp lý của hoạt động KTSTQ tại Việt Nam

từ năm 2002 đến năm 2009.

Năm

2002-2005

2006

1/7/2007->2008

14/7/2009

Luật quản lý thuế số 78

1

Luật Hải quan số 29/2001/QH10

Luật Hải quan số 42/2005/QH11

Điều 32

Điều 32

Điều 77, Điều 78

Nghị định 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007

2

Nghị định 102/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001

Nghị định 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005

Thông tư 114/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005

3

Thông tư 96/TT-BTC ngày 10/10/2003

Thông tư 79/2009/TT-BTC ngày 20/4/2009

Quyết định 621/QĐ-TCHQ ngày 29/3/2006

4

Quyết định1563/QĐ-TCHQ ngày 02/12/2003

Quyết định số 1383/QĐ-TCHQ ngày 14/7/2009

5

Nghị định 155/2005/NĐ-CP

Nghị định 40/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007, hiệu lực 05/2007

NĐ 60/2002/NĐ-CP ngày 06/6/2002, Hiệu lực 01/7/2002

Thông tư 40/2008/TT-BTC ngày 21/5/2008, hiệu lực 07/2008

TT 118/2003/TT-BTC ngày 08/12/2003, Hiệu lực 01/01/2004

Thông tư 113/2005/TT- BTC, ngày 15/12/2005, Hiệu lực 01/01/2006

Nghị định 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003, Hiệu lực 01/01/2004

Lĩnh vực

Nghị định 128/2008/NĐ- CP ngày 16/12/2008, Hiệu lực 01/01/2009

HC

Nghị định 138/2004/NĐ-CP ngày 17/6/2004, Hiệu lực – Trong lĩnh vực Hải quan

Lĩnh vực

Nghị định 18/2009/NĐ-CP ngày 18/2/2009, hiệu lực 01/5/2009

HQ

Nghị định 97/2007/NĐ- CP ngày 07/6/2007, Hiệu lực 01/7/2007

90

PHỤ LỤC 3

Thu thập thông tin

Phân loại

Phân tích

Chọn hồ sơ/đối tượng kiểm tra

Lưu hoặc kiểm tra theo kế hoạch

Kiểm tra hồ sơ HQ

Giải trình, xác minh, Lập kế hoạch kiểm tra

Lưu hồ sơ (giải trình chấp nhận; chấp nhận sai phạm;ấn định thuế)

Quyết định tiến hành kiểm tra tại doanh nghiệp

(Nguồn: www.customs.gov.vn/ThuTucHaiQuan/Print.aspx?ID=112 – ngày 06/01/2010)

91

Sơ đồ các bước tiến hành KTSTQ tại trụ sở cơ quan Hải quan

PHỤ LỤC 4

Các công trình nghiên cứu về Kiểm tra sau thông quan từ trước đến nay

Đề tài nghiên cứu cấp ngành (Hải quan)

Nội dung

TT Mã số 1 Tác giả Cục KTSTQ Nguyễn Viết Hồng

09-N2004 Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra sau thông quan đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của kế hoạch cải cách, phát triển hiện đại hóa Hải quan giai đoạn 2004-2006

2 08-N2005 Xây dựng và hoàn thiện mô hình kiểm tra sau thông quan của Hải quan Việt Nam

01-N2006 Nâng cao nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan 3 Cục KTSTQ Nguyễn Viết Hồng Cục KTSTQ Hoàng Việt Cường đối với hoạt động thanh toán quốc tế qua ngân hàng

02-N2006 Nâng cao hiệu quả kiểm tra sau thông quan 4 Cục KTSTQ Nguyễn Văn Bình đối với hàng hóa xuất nhập khẩu theo loại hình gia công

92

5 04-N2008 Xây dựng phần mềm thu thập và khai thác thông tin phục vụ kiểm tra sau thông quan Cục KTSTQ Tạ Thị Mão