intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Ảnh hưởng của vốn xã hội tới thu nhập hộ gia đình nông thôn Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:81

39
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận văn nhằm nghiên cứu ảnh hưởng của các thành phần thuộc vốn xã hội lên thu nhập hộ gia đình nông thôn Việt Nam. Đề xuất một số chính sách có liên quan đến vốn xã hội phù hợp giúp các gia đình nông thôn để nâng cao thu nhập. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Ảnh hưởng của vốn xã hội tới thu nhập hộ gia đình nông thôn Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ĐOÀN THỊ THÙY LINH ẢNH HƯỞNG CỦA VỐN XÃ HỘI TỚI THU NHẬP HỘ GIA ĐÌNH NÔNG THÔN VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2017
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ĐOÀN THỊ THÙY LINH ẢNH HƯỞNG CỦA VỐN XÃ HỘI TỚI THU NHẬP HỘ GIA ĐÌNH NÔNG THÔN VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế phát triển Mã số: 60310105 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRƯƠNG ĐĂNG THỤY Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện, các số liệu và thông tin sử dụng trong luận văn này là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tp.HCM, ngày tháng năm 2017 Tác giả Đoàn Thị Thùy Linh
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG DANH MỤC HÌNH TÓM TẮT CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ......................................................................................1 1.1. Đặt vấn đề .....................................................................................................1 1.2. Mục tiêu nghiên cứu ....................................................................................2 1.3. Câu hỏi nghiên cứu ......................................................................................2 1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................3 1.5. Kết cấu luận văn ...........................................................................................3 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VỐN XÃ HỘI VÀ THU NHẬP HỘ GIA ĐÌNH ....................................................4 2.1. Cơ sở lý thuyết ..............................................................................................4 2.1.1. Một vài lý thuyết liên quan tới thu nhập hộ gia đình ..........................4 2.1.2. Lý thuyết về vốn xã hội.......................................................................8 2.1.3. Cách đo lường về vốn xã hội ............................................................13 2.2. Lược khảo nghiên cứu thực nghiệm có liên quan ...................................15 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................22 3.1. Khung phân tích .........................................................................................22 3.2. Đo lường các biến trong mô hình .............................................................27 3.2.1. Biến độc lập.......................................................................................27 3.2.2. Biến kiểm soát ...................................................................................28 3.3. Mô hình nghiên cứu ...................................................................................31 CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..............................................................33 4.1. Phân tích thống kê mô tả ...........................................................................33 4.1.1. Đặc điểm nhân khẩu học của các hộ gia đình ...................................33 4.1.2. Thành phần thu nhập của hộ gia đình ...............................................34 4.1.3. Đặc điểm về vốn xã hội.....................................................................38 4.2. Phân tích ảnh hưởng của vốn xã hội tới thu nhập của hộ gia đình nông thôn Việt Nam .....................................................................................................44
  5. 4.2.1. Kết quả hồi quy mô hình ...................................................................46 CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN, HẠN CHẾ VÀ ĐỀ XUẤT ........................................55 5.1. Kết luận .......................................................................................................55 5.2. Hàm ý chính sách .......................................................................................56 5.3. Hạn chế của luận văn và hướng nghiên cứu tiếp theo ............................60 5.3.1. Hạn chế của luận văn ........................................................................60 5.3.2. Đề xuất hướng nghiên cứu ................................................................61 DANH MỤC THAM KHẢO Phụ lục
  6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT VARHS: Điều tra tiếp cận nguồn lực hộ gia đình Việt Nam SXNLNN: Sản xuất nông lâm, ngư nghiệp OLS: Phương pháp bình phương nhỏ nhất DBSH: Đồng bằng Sông Hồng TDMNPB: Trung du miền núi Phía Bắc BTB: Bắc Trung Bộ DHMT: Duyên hải miền Trung DBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long TN: Tây Nguyên WB: World Bank
  7. DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Phân loại hoạt động theo chức năng và yếu tố Bảng 2.2: So sánh vốn xã hội với các loại vốn khác Bảng 2.3: Tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan Bảng 3.1: Tóm tắt và mô tả các biến theo các nghiên cứu trước Bảng 4.1: Đặc điểm nhân khẩu học của các hộ gia đình Bảng 4.2: Số tổ chức tham của các hộ gia đình theo thu nhập trung bình Bảng 4.3: Mô tả số tổ chức tham gia của 6 vùng miền theo thu nhập Bảng 4.4: Đặc điểm về đóng góp tiền mặt của từng khu vực Bảng 4.5: Đặc điểm mật độ tham gia vào tổ chức của hộ gia đình Bảng 4.6: Bảng dấu kỳ vọng các hệ số của biến độc lập trong mô hình Bảng 4.7: Kết quả ước lượng các mô hình hồi quy DANH MỤC HÌNH Hình 3.1: Khung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình nông thôn Hình 4.1: Biểu đồ cơ cấu nguồn thu nhập của các hộ gia đình Hình 4.2: Biểu đồ mô tả tỷ trọng cơ cấu thu nhập theo từng khu vực Hình 4.3: Thu nhập trung bình theo tính đồng nhất trong tổ chức Hình 4.4 Thu nhập trung bình theo tính đồng nhất trong từng khu vực
  8. TÓM TẮT Luận văn sử dụng bộ dữ liệu tiếp cận nguồn lực hộ gia đình (VARHS) năm 2014 để nghiên cứu mối quan hệ giữa vốn xã hội và thu nhập trung bình của các hộ gia đình nông thôn Việt Nam. Bài viết sử dụng ba mô hình: mô hình hồi quy OLS với biến vốn xã hội đơn giản, mô hình hồi quy OLS đầy đủ với biến vốn xã hội gồm bốn thành phần chính và mô hình hồi quy với biến công cụ là biến niềm tin giữa con người, các hộ gia đình với nhau. Biến phụ thuộc trong nghiên cứu là thu nhập trung bình của hộ gia đình, biến độc lập là các nhóm biến về vốn xã hội như: tổng số tổ chức mà hộ có thành viên tham gia, tính đồng nhất của một trong ba tổ chức quan trọng nhất đối với hộ, mật độ tham gia vào tổ chức mà hộ có thành viên tham gia lâu nhất, đóng góp tiền mặt vào tổ chức; các nhóm biến về đặc điểm hộ gia đình như: quy mô hộ gia đình, tuổi của chủ hộ, trình độ học vấn của chủ hộ, nghề nghiệp chính của chủ hộ, số năm đi học trung bình của lực lượng lao động trong hộ, tổng diện tích đất của hộ gia đình và nhóm biến về các khu vực trong bộ dữ liệu. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng vốn xã hội là biến bị nội sinh và có ảnh hưởng tới thu nhập trung bình của hộ. Các thành phần của vốn xã hội như số tổ chức hộ tham gia, mật độ tham gia thường xuyên, tính đồng nhất về nghề nghiệp trong tổ chức quan trọng đối với hộ và số tiền đóng góp vào tổ chức đều có tác động đến thu nhập hộ gia đình. Nghiên cứu còn cho thấy rằng đặc điểm vốn con người và vật thể của hộ gia đình còn có vai trò quyết định đến thu nhập của hộ. Cụ thể, số năm đi học trung bình của lực lượng lao động, tổng diện tích đất của hộ có tác động tích cực đến thu nhập trung bình của hộ gia đình. Bên cạnh đó, nếu chủ hộ có nghề nghiệp chính là sản xuất nông nghiệp thì thu nhập của hộ thấp hơn thu nhập của hộ có chủ hộ làm phi nông nghiệp, quy mô của hộ gia đình có tác động tiêu cực đến thu nhập trung bình của hộ. Ngoài ra, những hộ nằm ở những khu vực khác nhau cũng có mức thu nhập trung bình của hộ khác nhau. So với Đồng bằng sông Cửu Long thì tất cả các vùng đều có thu nhập thấp hơn.
  9. 1 CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 1.1. Đặt vấn đề Từ lâu nông thôn đã được xem là một bộ phận cốt lõi và đóng một vai trò cực kỳ lớn, không chỉ về tỷ lệ dân cư sinh sống mà cả những đóng góp về mặt kinh tế, xã hội ở nước ta hiện nay. Theo thông cáo báo chí về tình hình kinh tế - xã hội của tổng cục thống kê, tính đến năm 2016, dân số nông thôn 60.64 triệu người, chiếm 65.4% dân số và đóng góp hơn 20% GDP Quốc Gia. Con số này một phần minh chứng cho tầm quan trọng trong việc phát triển nông thôn để ổn định kinh tế, xã hội, trực tiếp nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho dân cư. Một trong những cách thức để nâng cao đời sống vật chất cho người dân đó chính là nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình. Trong thời gian qua, Việt Nam đã thực hiện hàng loạt các giải pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các hộ gia đình ở khu vực nông thôn có thể tiếp xúc với nhiều cơ hội phát triển kinh tế, tăng thu nhập gia đình như: đầu tư vốn, hướng dẫn tăng cường áp dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp, khuyến khích phát huy vai trò của vốn xã hội. Bên cạnh đạt được những kết quả đáng khích lệ, từng bước đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của khu vực nông thôn, song vẫn còn nhiều vấn đề nan giải. Một trong những bất cập đó chính là chưa thực sự nhận thấy tầm quan trọng của các nguồn lực trong quá trình nâng cao thu nhập và đời sống cho cư dân vùng nông thôn. Xác định vốn xã hội như là một “nguyên liệu mới” để nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình. Đến nay, mối quan hệ của vốn xã hội và thu nhập của các hộ gia đình đã được đề cập trong rất nhiều các nghiên cứu của các tác giả khác nhau trên thế giới như Narayan & Pritchett (1999), Lu Sun và cộng sự (2014), và Yusuf (2008). Với vốn xã hội lớn hơn, các hộ gia đình thu nhập chủ yếu từ hoạt động nông nghiệp có sử dụng phân bón, hóa chất nông nghiệp trong đầu vào hoặc chất lượng giống được cải thiện hơn do đó thu nhập của họ sẽ cao hơn (Narayan & Pritchett, 1999). Vốn xã hội cũng có thể mang đến cho người nông dân nhiều bài học, nhiều cơ hội thăng tiến, làm việc và giúp họ cải thiện được khả năng tự nâng cao thu nhập (Lu Sun và cộng sự,
  10. 2 2014). Vốn xã hội đã ảnh hưởng tích cực đến phúc lợi hộ gia đình, là một yếu tố cải thiện mức sống của thành viên hộ gia đình. Cụ thể là tăng một đơn vị vốn xã hội sẽ dẫn đến tăng 0,15 phần trăm trong chi tiêu hộ gia đình bình quân trên đầu người (Yusuf, 2008). Tại Việt Nam, đã có một vài nghiên cứu khảo sát về tầm quan trọng của vốn xã hội song các nghiên cứu về vốn xã hội trong nông nghiệp, nông thôn vẫn còn rất ít. Nguyễn Tuấn Anh (2007, 2010) nghiên cứu về vai trò của vốn xã hội trong khu vực nông thôn Bắc Trung Bộ. Tuy nhiên, những nghiên cứu này chỉ mới tập trung tìm hiểu vốn xã hội trong quan hệ họ hàng và phạm vi nghiên cứu cũng chỉ giới hạn ở một làng Bắc Trung Bộ cụ thể. Nhận thấy cần phải nghiên cứu vốn xã hội trên phạm vi rộng hơn nữa, tác giả chọn đề tài “Ảnh hưởng của vốn xã hội tới thu nhập hộ gia đình nông thôn Việt Nam” nhằm hiểu biết cụ thể hơn về tác dụng của vốn xã hội ở khu vực nông thôn Việt Nam. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu  Mục tiêu tổng quát: Nghiên cứu mối quan hệ giữa vốn xã hội và thu nhập hộ gia đình nông thôn Việt Nam.  Mục tiêu cụ thể: - Nghiên cứu ảnh hưởng của các thành phần thuộc vốn xã hội lên thu nhập hộ gia đình nông thôn Việt Nam. - Đề xuất một số chính sách có liên quan đến vốn xã hội phù hợp giúp các gia đình nông thôn để nâng cao thu nhập. 1.3. Câu hỏi nghiên cứu Vốn xã hội có ảnh hưởng như thế nào tới thu nhập hộ gia đình nông thôn Việt Nam?
  11. 3 1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu dựa trên bộ dữ liệu từ cuộc điều tra tiếp cận nguồn lực hộ gia đình nông thông Việt Nam (VARHS) năm 2014 do sự kết hợp của các Viện và cơ quan nghiên cứu thực hiện. Cuộc điều tra năm 2014 thu thập được lượng lớn thông tin về kinh tế cũng như xã hội của 3648 hộ gia đình nông thôn ở 12 tỉnh bao gồm Hà Tây, Lào Cai, Phú Thọ, Lai Châu, Điện Biên, Nghệ An, Quảng Nam, Khánh Hòa, Đăk Lak, Đăk Nông, Lâm Đồng và Long An. Tuy nhiên, để phù hợp với nghiên cứu tác giả đã lọc và chỉ sử dụng dữ liệu của 2730 hộ gia đình trong bộ dữ liệu. Điều kiện lọc ở đây là tác gỉa chỉ lấy những hộ gia đình có chủ hộ là trên 18 tuổi để đúng với quy định làm chủ hộ của Việt Nam và kết quả mang tính chính xác hơn. Về đối tượng nghiên cứu: luận văn chỉ nghiên cứu về thu nhập của hộ gia đình nông thôn Việt Nam và vốn xã hội của hộ gia đình dựa trên nguồn dữ liệu “Điều tra hộ gia đình tiếp cận nguồn lực và đánh giá tác động chương trình hỗ trợ ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn” năm 2014. 1.5. Kết cấu luận văn Luận văn gồm 5 chương: Chương 1. Giới thiệu Chương 2. Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước liên quan đến vốn xã hội và thu nhập hộ gia đình Chương 3. Phương pháp nghiên cứu Chương 4. Kết quả nghiên cứu Chương 5. Kết luận và hàm ý chính sách
  12. 4 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VỐN XÃ HỘI VÀ THU NHẬP HỘ GIA ĐÌNH Chương hai trình bày một vài lý thuyết về thu nhập, vốn xã hội bao gồm khái niệm, cách đo lường vốn xã hội với các tiêu chuẩn khác nhau để làm cơ sở chọn lọc và áp dụng vào luận văn, cuối cùng là tổng quan các nghiên cứu của các tác giả trước có liên quan đến đề tài nghiên cứu tại nhiều quốc gia khác nhau. 2.1. Cơ sở lý thuyết 2.1.1. Một vài lý thuyết liên quan tới thu nhập hộ gia đình  Định nghĩa và phân loại thu nhập Khi nói đến thu nhập ta ngầm hiểu thu nhập là tất cả những gì mà một cá nhân nhận được hoặc kỳ vọng nhận được trong cuộc sống của họ. Thu nhập thấp hay cao sẽ ảnh hưởng tới phúc lợi cá nhân từ đó mà gây ra ảnh hưởng tới phúc lợi xã hội. Nghiên cứu về thu nhập chính là tìm hiểu những yếu tố khiến thu nhập thay đổi. Chính điều này sẽ làm tăng phúc lợi xã hội. Hicks (1975) đưa ra định nghĩa về thu nhập chính bao gồm các khoản tiền mà cá nhân nhận được hay kỳ vọng nhận được. Hội nghị các nhà thống kê lao động quốc tế lần thứ 16 thông qua một nghị quyết về thu nhập đã định nghĩa thu nhập của hộ gia đình là tổng thu nhập bằng tiền và hiện kim, có tính chất định kỳ hàng tháng hoặc hàng năm hoặc là thường xuyên của tất cả các thành viên trong hộ gia đình. Còn theo Ellis (2000) định nghĩa thu nhập là kết quả của các hoạt động tạo thu nhập, nó được đo lường bằng cả tiền mặt và các khoản đóng góp cộng lại. Trong đó tất cả những sản phẩm và dịch vụ được sản xuất ra từ các hoạt động được tính bằng giá thị trường của người sản xuất bất kể cả việc họ cũng là người sử dụng sản phẩm và dịch vụ đó. Vì vậy tất cả những sản phẩm thuộc sở hữu của nông trại được định giá bằng với giá khi mà họ bán. Cách tiếp cận thu nhập cũng khá thú vị, theo nhóm Canberra (một nhóm chuyên gia làm việc chuyên nghiệp trong lĩnh vực thống kê thu nhập hộ gia đình gồm có đại diện của các cơ quan thống kê quốc gia, các cơ quan chính phủ và các cơ quan nghiên cứu từ Châu Âu như Mỹ, Australia và một số tổ chức quốc tế khác) đã cho rằng tồn tại hai cách tiếp cận truyền thống của
  13. 5 thu nhập, thứ nhất là cách tiếp cận vĩ mô, có nguồn gốc từ các tài khoản quốc gia, đặc biệt là các tiêu chuẩn được đưa ra trong hệ thống Tài khoản Quốc Gia (SNA). Còn khi tiếp cận theo hướng vi mô thì đây là các khoản thu nhập cá nhân hoặc thu nhập hộ gia đình, thường dùng trong các nghiên cứu về đói nghèo, phúc lợi và ảnh hưởng của nó đối với các nhóm kinh tế xã hội khác nhau. Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng định nghĩa thu nhập theo các nhà thống kê đưa ra ở hội nghị lao động quốc tế lần thứ 16, đó là thu nhập của hộ gia đình là tổng thu nhập bằng tiền và hiện kim, có tính chất định kỳ hàng tháng hoặc hàng năm hoặc là thường xuyên của tất cả các thành viên trong hộ gia đình. Ngoài ra còn rất nhiều cách phân loại thu nhập khác nhau nữa, dựa theo nguồn tạo ra thu nhập như nghiên cứu của Ellis (2000) hay Barrett và các cộng sự (2001) đều cho rằng thu nhập chia thành hai loại đó là thu nhập nông trại và phi nông trại. Nhưng hai nghiên cứu này có đôi chút khác nhau Ellis (2000) đưa ra ví dụ xác định thu nhập phi nông trại là thu nhập gồm lương, lao động, khác với thu nhập từ làm việc trên nông trại trong khi Barrett và các cộng sự (2001) lại cho rằng thu nhập phi nông trại là tất cả những hoạt động từ việc sở hữu tài sản của người nông dân. Schwarze (2004) thì có cách phân loại theo hướng của Ellis cụ thể ở bảng dưới: Bảng 2.1: Phân loại hoạt động theo chức năng và yếu tố Yếu tố Chức năng Nông nghiệp Phi nông nghiệp Trồng cây hàng năm Doanh nghiệp Trồng cây lâu năm Cho thuê Lao động cho chính mình Chăn nuôi Lâm – ngư nghiệp
  14. 6 Lao động nông nghiệp để Lao động phi nông nghiệp Lao động nhận tiền công lấy tiền công để lấy tiền công Nguồn: Schwarze (2004) Nhưng Schwarze khác Ellis ở chỗ là thu nhập phi nông nghiệp được tính bằng cách cộng tổng thu nhập từ doanh nghiệp và tiền cho thuê của tự chính người lao động. Kết hợp với dữ liệu của VARHS năm 2014, trong bài này tác giả nghiên cứu theo cách phân loại của Schwarze (2004).  Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình Trên thế giới và Việt Nam đã có khá nhiều tác giả nghiên cứu về mối quan hệ giữa các yếu tố nhân khẩu học, nguồn lực và thu nhập của hộ gia đình như Fadipe và cộng sự (2004), Lhing và cộng sự (2003), hay Aikaeli (2010) vv. Kết quả nghiên cứu của họ cho thấy rằng các yếu tố này thực sự có mối quan hệ chặt chẽ với việc tạo thu nhập, nâng cao phúc lợi của các hộ gia đình. Fadipe và cộng sự (2014) trong nghiên cứu đánh giá các yếu tố quyết định thu nhập giữa các hộ gia đình nông thôn ở Nigeria. Nghiên cứu sử dụng thống kê mô tả và hàm hồi quy đa biến để phân tích dữ liệu thu thập được từ 90 hộ gia đình ngẫu nhiên thông qua khảo sát bảng câu hỏi. Kết quả cho thấy rằng thu nhập từ trang trại là thu nhập quan trọng nhất cho các hộ gia đình, chiếm 57.9% trong tổng thu nhập. Ngoài quy mô hộ gia đình có tác động tiêu cực đến thu nhập thì trình độ học vấn của chủ hộ, quy mô trang trại và khả năng tiếp cận điện của hộ gia đình là các yếu tố chính quyết định tích cực đến thu nhập hộ gia đình trong khu vực nghiên cứu. Lhing và cộng sự (2013) nghiên cứu điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của 102 hộ gia đình là khách hàng và 60 hộ gia đình không phải là khách hàng của một công ty hợp tác tư nhân ở Myanmar. Cụ thể nghiên cứu sử dụng hàm hồi quy Logistic và hàm Cobb-douglas để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình và các đặc điểm nhân khẩu học, tài chính vi mô lên việc thành lập doanh
  15. 7 nghiệp mới của hộ. Kết quả thực nghiệm từ mô hình chỉ ra rằng có sáu biến độc lập như tuổi, giới tính, trình độ học vấn của chủ hộ, quy mô đất đai, số lượng cây trồng và việc thành lập doanh nghiệp mới có ảnh hưởng đáng kể đến thu nhập hộ gia đình. Và nghiên cứu cho thấy rằng bắt đầu việc thành lập doanh nghiệp mới là yếu tố quan trọng nhất để tăng thu nhập cho các các hộ gia đình. Aikaeli (2010) nghiên cứu điều tra ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế xã hội và yếu tố địa lý lên thu nhập của các hộ gia đình nông thôn và cộng đồng ở Tanzania. Nghiên cứu này tác giả sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính và bình phương nhỏ nhất để ước tính mối quan hệ giữa các yếu tố này. Kết quả chỉ ra rằng có bốn yếu tố tác động tích cực đến thu nhập của các hộ gia đình nông thôn: trình độ học vấn của chủ hộ, quy mô lực lượng lao động trong hộ, tổng diện tích đất của hộ và doanh nghiệp tự chủ phi nông nghiệp. Thêm vào đó, kết quả còn chỉ ra rằng nếu chủ hộ là nữ giới thì sẽ có thu nhập thấp hơn những hộ có chủ là nam giới. Ở cấp độ cộng đồng thôn, tiếp cận với phương tiện thông tin đại chúng sẽ có khả năng tiếp cận theo thông tin thị trường nhiều hơn, thuận lợi cho việc kinh doanh, sản xuất, từ đó tăng thu nhập. Đối với vấn đề về thời tiết, nếu một lượng mưa vừa đủ sẽ làm tăng thu nhập, ngược lại hạn hán và lũ lụt sẽ thất thu và làm giảm thu nhập. Ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lan Duyên (2014) xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở An Giang cho thấy: trình độ học vấn, diện tích đất, thời gian cư trú tại địa phương, khoảng cách từ nơi ở đến trung tâm, lượng vốn vay và số lượng lao động có ảnh hưởng đến thu nhập của các nông hộ ở An Giang. Hay trong nghiên cứu của Nguyễn Quốc Nghi và Bùi Văn Trịnh (2011) xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của người dân tộc thiểu số ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Áp dụng phân tích mô hình hồi quy tuyến tính, các nhân tố tác động đến thu nhập bình quân/ người của hộ dân tộc thiểu số ở Đồng bằng Sông Cửu Long là: trình độ học vấn của chủ hộ, số hoạt động tạo thu nhập của hộ, độ tuổi của lao động trong hộ và tiếp cận với các chính sách hỗ trợ và trình độ học vấn của lao động trong hộ có tác động dương đến thu nhập của hộ, chỉ có quy mô hộ có tác động ngược chiều với thu nhập,. Trong tất cả các yếu tố đó thì số hoạt động tạo ra thu nhập có tác
  16. 8 động cùng chiều và mạnh nhất đến thu nhập bình quân/ người của hộ dân tộc thiểu số ở ĐBSCL. Và còn rất nhiều các nghiên cứu khác của các tác giả ở trên nhiều địa bàn, vùng miền khác nhau tại Việt Nam. Như vậy, thu nhập là một hàm đa biến phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, Y=f(x1, x2, x3….xn). Dạng hàm sản xuất được sử dụng phổ biến như trong nghiên cứu của Lhing và cộng sự (2013) để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập là hàm sản xuất Cobb- Douglas: Y= A.Xα11. X2α2……..Xnαn.eβiD + xiD1 + µiD2 Trong đó, Y là thu nhập, A là hằng số; Xi (i=1, 𝑛) là các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ như: vốn, lao động, đất đai, trình độ giáo dục...., e là các yếu tố khác ngoài Xi. Ngoài ra, dạng hàm bán logarit: LN(Y)= β0 + β1X1 + β2X2 + ....+ βnXn + €i (Mincer, 1974) hoặc dạng hàm tuyến tính đa biến như trong nghiên cứu của Aikaeli (2010) : Y= β0 + β1X1 + β2X2 + ....+ βnXn + €i cũng được sử dụng khá rộng rãi để ước lượng thu nhập và chi tiêu của cá nhân và hộ gia đình. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng hàm bán logarit để nghiên cứu mối quan hệ giữa vốn xã hội với thu nhập của các hộ gia đình. 2.1.2. Lý thuyết về vốn xã hội  Khái niệm về vốn xã hội Vốn xã hội từ lâu được xem như là một loại vốn tương tự như vốn kinh tế, vốn văn hóa, vốn con người. Lyda Judson Hanifan được coi là người đầu tiên đưa ra định nghĩa về vốn xã hội vào năm 1916. Ông dùng khái niệm vốn xã hội để chỉ tình thân hữu, sự thông cảm, cũng như việc qua lại giữa các cá nhân hay gia đình. Đến những năm 1980, khái niệm về vốn xã hội được nhắc đến một cách rộng rãi trong tác phẩm Các hình thức của vốn của Bourdieu (1986). Theo Bourdieu (1986) được trích trong Trần Hữu Quang (2006) vốn vã hội là một mạng lưới lâu bền bao gồm các mối liên hệ quen biết nhau và nhận ra nhau, những mối liên hệ này ít nhiều đã được thể chế
  17. 9 hóa. Khối lượng vốn xã hội của một cá nhân cụ thể nào đó phụ thuộc vào mức độ liên hệ rộng hay hẹp mà anh ta có thể huy động được trong thực tế, và tùy vào khối lượng vốn kinh tế, vốn văn hóa hay vốn biểu tượng của từng người mà anh ta có liên hệ. Cách xử lý khái niệm của ông là công cụ hết sức quan trọng, tập trung vào những điều mà cá nhân có được nhờ tham gia vào nhóm. Ông khẳng định rằng “những lợi ích có được khi là thành viên của một nhóm, là cơ sở cho sự tích tụ vốn có thể có để tạo ra khoản lợi đó”. Theo Bourdieu (1986) thì vốn xã hội được thể hiện ra ngoài bằng: niềm tin; sự tương hỗ và có đi có lại giữa con người với nhau; các quy tắc, hành vi, thể chế và cả sự kết hợp với nhau thành mạng lưới. Coleman (1988) thì lại cho rằng vốn xã hội bao gồm những đặc trưng trong đời sống xã hội như mạng lưới xã hội, các quy tắc và niềm tin trong xã hội là những cái giúp cho các thành viên có thể gắn kết và làm việc cùng nhau, hướng tới mục đích chung, cuối cùng đạt được kết quả tốt hơn. Ông cho rằng vốn xã hội có ba đặc tính. Đầu tiên, nó tùy thuộc vào mức độ niềm tin với nhau của con người trong xã hội, hay nó tùy thuộc vào nghĩa vụ mà mỗi người tự ý thức thực hiện và kỳ vọng của người này với người khác. Thứ hai, nó có giá trị vì chứa đựng những liên hệ xã hội mang đặc điểm của kênh truyền thống, cụ thể là qua tiếp xúc với những người xung quanh như bạn bè, đồng nghiệp, từ đó họ có thể thu thập nhiều thông tin hữu ích cho cuộc sống, thay thế một phần thông tin trong sách báo, truyền hình. Thứ ba, vốn xã hội càng lớn khi xã hội càng có nhiều quy tắc, chuẩn mực, đặc biệt là những quy tắc có kèm theo sự trừng phạt. Fukuyama là một tác giả có nhiều nghiên cứu về vốn xã hội. Ông có những định nghĩa khác nhau khi bàn về vốn xã hội và vai trò của nó đối với sự phát triển. Năm 2001, Fukuyama quan niệm “vốn xã hội là những chuẩn mực không chính thức có tác dụng thúc đẩy sự hợp tác giữa hai hay nhiều cá nhân”. Một năm sau, ông lại đưa ra một định nghĩa khác “vốn xã hội là các chuẩn mực, giá trị được chia sẻ để thúc đẩy sự hợp tác, điều này được chứng minh bằng các mối quan hệ xã hội thực sự”.
  18. 10 Ngân hàng thế giới (WB) trích trong Trần Hữu Quang (2006) cũng có định nghĩa về vốn xã hội, WB (1919) cho rằng “vốn xã hội là một khái niệm có liên quan tới chuẩn mực và những mạng lưới xã hội dẫn đến hành động tập thể. Ngày càng có nhiều sự kiện minh chứng rằng sự gắn kết xã hội – vốn xã hội – đóng vai trò trọng yếu đối với việc giảm nghèo và sự phát triển con người và kinh tế một cách bền vững”. Cohen và Prusak (2001) lại định nghĩa rằng vốn xã hội chủ yếu là sự hợp tác xây dựng giữa con người với nhau: Niềm tin, cách hiểu biết, sự tương hỗ lẫn nhau và cả sự chia sẻ những giá trị đạo đức, sự nối kết những thành viên trong các tổ chức trong cộng đồng lại với nhau sẽ làm cho hành động, kết quả có khả năng thực hiện cao hơn. Putnam (2000) thì cho rằng vốn xã hội là những phương tiện và những kĩ năng đào tạo có tác dụng làm tăng năng suất cá nhân. Vốn xã hội nói tới những khía cạnh đặc trưng của tổ chức xã hội như các mạng lưới xã hội, các quy tắc chuẩn mực và niềm tin trong xã hội. Như vậy, có nhiều định nghĩa, nhiều cách hiểu khác nhau về vốn xã hội, nhưng chung quy lại các tác giả đều có sự thống nhất chung về vốn xã hội. Thứ nhất, các tác giả đều thống nhất với nhau ở chỗ cho rằng vốn xã hội gắn liền với mạng lưới và quan hệ xã hội, chẳng hạn, vốn xã hội kết nối với mạng lưới xã hội tương đối bền vững (Bourdieu, 1986), vốn xã hội nằm trong xã hội (Coleman, 1988) hay mạng lưới xã hội là một thành tố của vốn xã hội (Putnam, 2000). Thứ hai, nhiều tác giả khi bàn về vốn xã hội họ đều dùng khái niệm nguồn lực để định nghĩa vốn xã hội. Nếu Bourdieu (1986) quan niệm vốn xã hội là nguồn lực dựa trên cơ sở mạng lưới quen biết, thì Lin (2001) định nghĩa vốn xã hội là nguồn lực nằm trong mạng lưới xã hội. Điểm thống nhất thứ ba về vốn xã hội là quan niệm vốn xã hội được tạo ra thông qua việc đầu tư vào các mạng lưới và quan hệ xã hội, từ đó các cá nhân có thể tận dụng vốn xã hội có được từ việc đầu tư để tìm kiếm lợi ích. Coleman (1988) thì khẳng định vốn xã hội là nguồn lực phái sinh của các hoạt động khác, thông qua mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau. Người ta thiết lập và duy trì những quan hệ như thế để thu thập thông tin, lợi ích cho mình. Trong khi đó Putnam (2000) chỉ ra rằng vốn xã hội
  19. 11 được dùng để tìm kiếm các luồng thông tin, sự giàu có về kinh tế, hay thành tích tốt trong sự nghiệp, học hành. Và điểm thống nhất cuối cùng giữa nhiều tác giả khi đề cập đến vốn xã hội là vấn đề sự tin cậy và quan hệ qua lại/ sự có đi có lại. Coleman (1988) khẳng định trách nhiệm, niềm tin giữa con người với nhau là các hình thức của vốn xã hội. Cho đến nay, khái niệm vốn xã hội vẫn đang được các tác giả tiếp tục thảo luận và phát triển.  Lý do nào gọi vốn xã hội là vốn? Có ba lí do chính để gọi vốn xã hội là vốn: Thứ nhất, nó giống những loại vốn khác là có thể tích lũy được như các loại vốn khác với hi vọng sẽ có thêm nhiều thành quả trong tương lai dù không chắc chắn. Ví dụ như vốn tài chính là do con người tiết kiệm mà có được hay vốn con người do học hành, tìm tòi mới có được lượng kiến thức nhất định. Thứ hai, vốn xã hội có tính đa công dụng, hay nói cách khác, có thể được sử dụng trong rất nhiều trường hợp (Coleman, 1988). Ví dụ: Bạn có người bạn rất thân, khi bạn cần sự giúp đỡ về vấn đề tài chính, anh ta sẵn sàng cho bạn vay tiền mà không cần một đồng tiền lãi nào, dĩ nhiên bạn sẽ đỡ phải đi vay và trả tiền lãi cho ngân hàng, hay mạng lưới quan hệ của bạn rộng, bạn sẽ dễ tìm kiếm được việc làm thông qua những người bạn quen biết giới thiệu. Thứ ba, vốn xã hội có thể chuyển thành các loại vốn khác (Bourdieu, 1986), tuy nhiên sự chuyển đổi này không dễ như vốn tài chính. Ví dụ: Nếu mạng quan hệ xã hội của bạn rộng, bạn có thể học hỏi được rất nhiều kiến thức cũng như kinh nghiệm, từ đó nâng cao về kĩ năng của cá nhân, đây cũng là một trong những yếu tố được xem là vốn con người, rõ ràng nhờ có vốn xã hội mà vốn con người được cải thiện. Nguồn: Xem ở phụ lục 1A
  20. 12  So sánh vốn xã hội với các loại vốn khác? Cũng như các loại vốn khác, vốn xã hội có một vài đặc tính khác với các loại vốn khác. Thứ nhất, khác vốn tài chính nhưng lại có đặc điểm giống vốn vật thể và vốn con người, vốn xã hội cần được nuôi dưỡng, duy trì, để mang lại lợi ích. Ví dụ như mối liên hệ sẽ bị phai nhạt đi nếu con người không giữ liên lạc thường xuyên, không quan tâm tới bạn bè, đồng nghiệp hoặc anh chị em họ hàng. Thứ hai, khác với vốn vật thể (nhưng lại giống với vốn con người) không thể đoán trước được suất chiết khấu của vốn xã hội. Có thể ví dụ đơn giản như chiếc xe chạy càng lâu thì càng giảm giá, nhưng không thể đoán trước được giá trị của một mối liên hệ so với mức độ mà 2 người đang giữ liên lạc với nhau. Thứ ba, vốn xã hội có nhưng đặc điểm riêng như vốn xã hội là kết quả của nhiều người xây dựng, kết nối lại với nhau mới có được, không phải chỉ riêng một cá nhân tạo thành. Có thể nói vốn xã hội là một loại hàng hoá công. Không một ai có thể chiếm hữu riêng cho mình mạng lưới xã hội và cũng không một ai có thể phá hoại lợi ích đến người khác. Tuy nhiên, chỉ một vài cá nhân xấu cũng sẽ dẫn đến sự tàn phá vốn xã hội mà nhiều người đã mất công xây dựng. Nguồn: Xem ở phục lục 1B Coleman (1988) còn so sánh vốn xã hội với vốn vật thể và vốn con người dưới góc độ tiếp cận vốn con người. Cả ba loại có cùng đặc điểm chung: thứ nhất đều là một nguồn nguyên liệu cần cho sản xuất, thứ hai rất khó để luân chuyển dễ dàng từ loại vốn này sang loại vốn khác mà chỉ trong một số trường hợp nhất định, thứ ba không phải trong tất cả các trường hợp nó đều có lợi mà có thể có lợi trong trường hợp này nhưng lại có hại trong trường hợp khác. Tuy nhiên bên cạnh những đặc điểm giống nhau thì vốn xã hội cũng có nhiều sự khác biệt so với các loại vốn khác. Đầu tiên, vốn xã hội được xây dựng trong liên hệ giữa các cá nhân với nhau. Hai là, vốn vật thể thì con người hoàn toàn nhìn thấy và hình dung được bởi nó hiển thị rõ trước mắt; vốn con người thì khó thấy hơn, vì nó tiềm tàng ở bên trong lượng kiến thức,
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2