BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

PHẠM XUÂN QUỐC CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGUỒN NGUYÊN LIỆU GIẤY VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NĂM 2007

LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................................1

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGUỒN NGUYÊN LIỆU GIẤY

1.1- Khái Niệm về chiến lược.......................................................................................................4

1.1.1- Chiến lược tại các cấp độ khác nhau trong một doanh nghiệp.....................................4

1.1.2- Phân tích chiến lược .....................................................................................................5

1.1.3- Lựa chọn chiến lược.....................................................................................................5

1.1.4- Thực hiện chiến lược....................................................................................................5

1.2- Chiến lược phát triển ngành ..................................................................................................5

1.2.1- Các chiến lược cạnh tranh tổng quát ............................................................................5

1.2.2- Chiến lược đầu tư và các giai đoạn phát triển ngành ...................................................7

1.2.3- Chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu .....................................................................8

1.3- Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh.....................................................................................9

1.3.1- Lợi thế so sánh .............................................................................................................9

1.3.2- Lợi thế cạnh tranh theo quan điểm của Michael Porter ............................................. 10

1.3.3- Vài dẫn chứng về quan hệ giữa lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh ........................11

1.3.4- Mô hình lợi thế cạnh tranh ......................................................................................... 11

1.4- Một số phương pháp dự báo nhu cầu ..................................................................................11

1.4.1- Các nhân tố tác động ..................................................................................................11

1.4.2- Tác động của chu kỳ sống của sản phẩm đối với dự báo...........................................12

1.4.3- Một số phương pháp dự báo theo khuynh hướng ......................................................13

1.5- Các yếu tố ảnh hưởng đến chiến lược phát triển.................................................................15

1.5.1- Các yếu tố môi trường bên trong ...............................................................................15

1.5.2- Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô............................................................................16

Kết luận chương 1. ...................................................................................................................18

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP GIẤY VIỆT NAM

2.1- Bối cảnh ra đời và phát triển ban đầu của ngành giấy Việt Nam........................................19

2.1.1- Thời kỳ Bắc thuộc ......................................................................................................19

2.1.2- Giai đoạn 1945-1954..................................................................................................20

2.1.3- Giai đoạn 1954-1975..................................................................................................20

2.1.4- Giai đoạn sau 1975 đến nay .......................................................................................21

2.2- Khái quát toàn cảnh ngành giấy ..........................................................................................22

2.2.1- Về phân bố theo vùng địa lý ...................................................................................... 23

2.2.2- Về quy mô sản xuất....................................................................................................23

2.2.3- Về Trình độ công nghệ và thiết bị sản xuất ...............................................................23

2.2.4- Về tổ chức ..................................................................................................................24

2.2.5- Về sản xuất kinh doanh .............................................................................................. 24

2.3- Tình hình sản xuất và tiêu dùng giấy đến 2005 ..................................................................26

2.3.1- Thực trạng sản xuất và tiêu dùng giấy in và giấy viết................................................28

2.3.2- Giấy in báo .................................................................................................................30 2.4- Tình hình cung bột giấy và giấy năm 2005.........................................................................31

2.4.1- Tình hình sản xuất giấy ..............................................................................................31 2.4.2- Tình hình quy hoạch và đầu tư vùng nguyên liệu giấy ..............................................33 2.4- Sức ép khi nguyên – nhiên liệu cùng tăng giá.....................................................................36

2.5- Những điều mà ngành giấy đã làm......................................................................................37

2.6- Bốn điểm yếu cơ bản của ngành giấy .................................................................................38

2.6.1- Lệ thuộc vào bột giấy nhập ngoại ..............................................................................38

2.6.2- Sức cạnh tranh bấp bênh ............................................................................................39

2.6.3- Huy động vốn yếu và chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI ........39

2.6.4- Liên kết, hợp tác yếu ..................................................................................................40

2.7- Số liệu ngành giấy và dự báo ..............................................................................................41

2.8- Hệ số thời vụ của sản phẩm giấy in và giấy viết.................................................................43

2.9- Phân tích hoạt động kinh doanh của Công ty Giấy Tân Mai ..............................................45

2.10- Tương quan giữa tăng diện tích rừng trồng và sản lượng giấy in báo ..............................46

2.11- Tình hình sản xuất và tiêu thụ giấy một số quốc gia - Những kinh nghiệm mà Việt Nam

có thể vận dụng..................................................................................................................48

2.11.1- Hiệp hội bột giấy và giấy Trung Quốc.....................................................................48

2.11.2- Hiệp hội bột giấy và giấy Indonesia.........................................................................50

2.11.3- Cấu trúc ngành công nghiệp bột giấy và giấy CHLB Nga.......................................51

Kết luận chương 2. ...................................................................................................................52

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN

NGUỒN NGUYÊN LIỆU GIẤY VIỆT NAM

3.1- Định hướng, quan điểm và mục tiêu phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam........... 53

3.1.1- Về định hướng phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam....................................53

3.1.2- Quan điểm phát triển..................................................................................................53

3.1.3- Mục tiêu phát triển .....................................................................................................54

3.2- Giải pháp về quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu giấy..................................................55

3.2.1- Tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu ........................................55

3.2.2- Chính sách hỗ trợ của nhà nước để phát triển vùng nguyên liệu giấy .......................56

3.2.3- Khai thác liên tục diện tích đất trồng rừng nguyên liệu giấy .....................................57

3.3- Nhóm giải pháp đồng bộ và hỗ trợ......................................................................................58

3.3.1- Định hướng quy mô nhà máy sản xuất bột giấy và sản xuất giấy..............................58

3.3.2- Liên kết 4 nhà: nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà nước.................. 59

3.3.3- Nhận thức và tư duy, gắn mình vào phường hội........................................................60

3.3.4- Hiệp lực để cùng phát triển, liên kết với các tập đoàn mạnh nước ngoài .................. 61

3.3.5- Thị trường chứng khoán-nơi định giá giá trị doanh nghiệp và huy động vốn ...........62

3.3.6- Giải pháp bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.................................................63

Kết luận đề tài...........................................................................................................................66

Tài liệu tham khảo.

Phụ lục.

Giấy là một trong những ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Có thể nói không một lĩnh vực nào mà hoạt động của nó lại không cần sử dụng đến giấy. Xã hội công nghiệp càng phát triển thì nhu cầu về giấy càng tăng. Sự phát triển của khoa học và kỹ thuật đã làm cho giá trị của giấy trở nên hữu ích hơn cho con người và giá trị sử dụng của giấy theo đó càng trở nên đa dạng và phong phú.

Trước nhu cầu ngày càng tăng về sản phẩm giấy trong nước, ngành giấy đã tận dụng tối đa khả năng hiện có để đáp ứng nhu cầu. Nhưng đáp ứng được bao nhiêu? Những gì diễn ra trong thực tế hàng chục năm qua là bằng chứng xác thực và sống động nhất không thể chối cãi là sức cạnh tranh của ngành giấy quả thực là yếu kém nhưng lại tồn tại trong một cơ thể khá hoành tráng. Hệ quả là “lực bất tòng tâm” mà cái giá phải trả là những đồng ngoại tệ được tích lũy trong nước vốn đã khiêm tốn, thay vì chi tiêu cho hoạt động nhập khẩu máy móc công nghệ cao thì chi mua bột giấy nước ngoài. Công nghệ lạc hậu, nguyên liệu chính sản xuất giấy là bột giấy, hóa chất tẩy trắng phần lớn đều nhập từ nước ngoài đã “đè” những doanh nghiệp giấy xuống về lượng lẫn chất. Như vậy, cái mà chúng ta mong muốn là làm thế nào để có thể đứng trên đôi chân của mình? Lật đổ vị thế cạnh tranh của giấy ngoại như thế nào?

Muốn ngăn cản dòng chảy giấy ngoại vào Việt Nam, tự chủ về nguồn giấy cung cấp đủ cho thị trường nội địa, điều quan trọng là phải tự sản xuất lấy nguyên liệu bột giấy trên cơ sở tận dụng lợi thế so sánh. Từ năm 1998 đến nay, đã có một vài đột phá trong khâu tự cung nguyên liệu từ việc tăng diện tích trồng rừng nguyên liệu giấy nhưng cơ chế quy hoạch và quản lý vùng đan chéo nhập nhằng của cấp có thẩm quyền (trung ương và địa phương) đã tạo ra một ma trận nhằng nhịt như mạng nhện khiến các doanh nghiệp giấy trong nước không tìm được lối ra. Khó khăn của người là cơ hội của ta! Hệ quả là giấy ngoại tràn vào Việt Nam với tốc độ và sản lượng không ngừng tăng lên. Thực trạng này nếu càng kéo dài thì tương lai của ngành giấy Việt Nam như ánh sao trên bầu trời xa thẳm vốn đã lu mờ sẽ nhòe dần và tắt lịm là không thể tránh khỏi. Tương lai phụ thuộc vào hành động của chúng ta hôm nay!

Mức độ cạnh tranh giữa các sản phẩm giấy trong nước với nước ngoài đã lên đến đỉnh điểm với kết quả hiện tại đang nghiêng về sản phẩm nhập khẩu. Vị thế “đầu đàn” của sản phẩm giấy nhập khẩu sẽ còn tiếp diễn trong tương lai là điều chắc chắn cho đến khi Việt Nam thay đổi tư duy và hành động nhanh chóng trong tư thế không còn đường lùi. Thật phi lý và đau xót khi rừng Việt Nam được xem như một lợi thế so sánh nhưng

chẳng khai thác được gì. Nạn cháy rừng, khai thác manh mún và cục bộ là thủ phạm “gọt” dần ngọn tháp lợi thế so sánh ấy. Một viễn cảnh thật ảm đạm về tài nguyên rừng!

Phát triển ngành giấy phải bắt đầu từ đầu tư và khai thác tài nguyên rừng. Có gốc mới có ngọn. Những dự báo dựa trên dãy số liệu quá khứ thu thập được cho kết quả nhu cầu giấy sẽ tiếp tục tăng lên trong những năm tới. Với thực trạng nền công nghiệp giấy hiện nay thì chúng ta sẽ khó thoát khỏi tình cảnh “ở trong rừng mà thiếu củi!”. Không trồng được rừng nguyên liệu thì ngành giấy Việt Nam mãi mãi lệ thuộc nước ngoài. Không tự chủ được nguồn nguyên liệu giấy thì cạnh tranh và phát triển được không?

Đề tài: “Chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu giấy Việt Nam” nhằm tới mục

đích nghiên cứu:

-Đánh giá thực trạng ngành công nghiệp giấy Việt Nam. Theo đó, đề tài đề cập tới nhu cầu về giấy và khả năng cung ứng của doanh nghiệp giấy trong nước. Tình hình rừng nguyên liệu để sản xuất giấy ở góc độ cung cầu, tình hình bột giấy ngoại nhập. Tình hình cạnh tranh giấy nội và giấy ngoại trên thị trường nội địa.

-Trên cơ sở tình hình thực tế của ngành giấy Việt Nam, đề tài nghiên cứu và đề xuất các chính sách, giải pháp chiến lược nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh và phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam trong tương lai khởi nguồn từ đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu giấy.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào phân tích một số chỉ tiêu về năng lực sản xuất giấy, bột giấy và khả năng tiêu thụ các sản phẩm giấy tại việt Nam trong những năm gần đây cũng như các nước khác trong khu vực và thế giới. Truy tìm nguyên nhân gây nên “cơn cảm cúm” kéo dài triền miên của ngành. Một vài công ty điển hình trong nước được đề cập tới trong đề tài này không nằm ngoài mục đích phác họa ở mức độ tương đối bức tranh tổng thể ngành giấy Việt Nam. Một trong những nội dung trọng tâm mà đề tài nhấn mạnh là vấn đề rừng nguyên liệu giấy vốn là cơ sở cho chiến lược phát triển vững chắc ngành công nghiệp giấy nước nhà. Từ đó, các giải pháp phát triển nguồn nguyên liệu giấy Việt Nam được đề xuất với mong ước không xa ngành giấy Việt Nam sẽ phát triển vượt bậc, bền vững.

Đề tài được thực hiện dựa theo các phương pháp sau:

-Phương pháp thống kê và phân tích dữ liệu: tập hợp các phương pháp dùng để thu thập, phân tích, trình bày và diễn giải dữ liệu. Phương pháp này giúp người ra quyết định và quản trị viên ra quyết định tốt hơn;

-Phương pháp dự báo: dựa vào số liệu phản ánh tình hình thực tế hiện tại, quá khứ, căn cứ vào xu hướng phát triển của tình hình, dựa vào các mô hình toán học để dự đoán tình hình cơ bản sẽ xảy ra trong tương lai. Trong đề tài này, mô hình hồi quy tương quan được sử dụng để phân tích mối tương quan chặt chẽ giữa việc đầu tư trồng rừng nguyên liệu giấy với sản luợng. Đối với một số vấn đề quan trọng và phức tạp, nhất là khi dự báo dài hạn người ta thường sử dụng một số kỹ thuật dự báo rồi căn cứ vào độ lệch chuẩn để chọn lấy kết quả thích hợp.

-Phương pháp suy luận và kết hợp ý kiến chuyên gia trong ngành giấy Việt Nam.

Đề tài gồm có 66 trang, 27 bảng biểu và 8 sơ đồ có kết cấu như sau:

- Lời mở đầu

- Chương 1: Cơ sở lý luận về chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu giấy Việt Nam.

Khái niệm về chiến lược, các chiến lược cạnh tranh và phát triển ngành, các

phương pháp dự báo nhu cầu, các nhân tố ảnh hưởng đến chiến lược phát triển.

- Chương 2: Thực trạng ngành công nghiệp giấy Việt Nam

+Tình hình sản xuất và tiêu thụ giấy tại Việt Nam.

+Nhu cầu tiêu dùng và khả năng cung ứng của doanh nghiệp sản xuất giấy và

bột giấy.

+Tình hình quy hoạch và đầu tư vùng nguyên liệu giấy.

+Những yếu kém và khó khăn mà doanh nghiệp giấy trong nước đang đối mặt.

Dự báo xu hướng nhu cầu, khả năng tự cung, xuất và nhập khẩu giấy.

+Định hướng phát triển ngành giấy Việt Nam.

+Môi trường ngành công nghiệp giấy Việt Nam.

- Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển nguồn nguyên liệu giấy Việt Nam.

Các giải pháp và kiến nghị chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu giấy Việt

Nam.

- Kết luận đề tài.

1.1- Khái niệm về chiến lược.

Chiến lược là những kế hoạch được thiết lập hoặc những hành động được thực hiện trong nỗ lực nhằm đạt tới các mục đích của tổ chức. Chiến lược sẽ mang lại lợi thế cho tổ chức thông qua việc sắp xếp tối ưu các nguồn lực. Nội dung của chiến được thường được hoạch định xoay quanh các vấn đề như:

• Nơi mà doanh nghiệp cố gắng vươn tới trong dài hạn (phương hướng).

• Doanh nghiệp phải cạnh tranh trên thị trường nào và những loại hoạt động nào

doanh nghiệp thực hiện trên thị trường đó (thị trường, quy mô)?

• Doanh nghiệp sẽ làm thế nào để hoạt động tốt hơn so với các đối thủ cạnh tranh

trên những thị trường đó (lợi thế)?

• Những nguồn lực nào (kỹ năng, tài sản, tài chính, các mối quan hệ, năng lực kỹ thuật, trang thiết bị) cần phải có để có thể cạnh tranh được (các nguồn lực)?

• Những nhân tố từ môi trường bên ngoài ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của

doanh nghiệp (môi trường)?

• Những giá trị và kỳ vọng nào mà những người có quyền hành trong và ngoài

doanh nghiệp cần là gì (các nhà góp vốn)?

1.1.1- Chiến lược tại các cấp độ khác nhau trong một doanh nghiệp.

Trong bất kỳ tổ chức nào, các chiến lược đều tồn tại ở vài cấp độ khác nhau -

trải dài từ toàn bộ doanh nghiệp cho tới từng cá nhân làm việc trong đó.

Chiến lược doanh nghiệp - liên quan đến mục tiêu tổng thể và quy mô của doanh nghiệp để đáp ứng được những kỳ vọng của người góp vốn. Đây là một cấp độ quan trọng do nó chịu ảnh hưởng lớn từ các nhà đầu tư trong doanh nghiệp và đồng thời nó cũng hướng dẫn quá trình ra quyết định chiến lược trong toàn bộ doanh nghiệp. Chiến lược doanh nghiệp thường được trình bày rõ ràng trong “tuyên bố sứ mệnh”.

Chiến lược kinh doanh - liên quan nhiều hơn tới việc làm thế nào một doanh nghiệp có thể cạnh tranh thành công trên một thị trường cụ thể. Nó liên quan đến các quyết định chiến lược về việc lựa chọn sản phẩm, đáp ứng nhu cầu khách hàng, giành lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ, khai thác và tạo ra được các cơ hội mới v.v..

Chiến lược tác nghiệp liên quan tới việc từng bộ phận trong doanh nghiệp sẽ được tổ chức như thế nào để thực hiện được phương hướng chiến lược ở cấp độ công ty và từng bộ phận trong doanh nghiệp. Bởi vậy, chiến lược tác nghiệp tập trung vào các vấn đề về nguồn lực, quá trình xử lý và con người,…

Quản trị chiến lược là quá trình thực hiện “các quyết định chiến lược”. Đó là các quyết định trả lời được những câu hỏi phía trên. Trên thực tế, quá trình quản trị chiến lược hoàn chỉnh bao gồm 3 phần được mô tả như sơ đồ 1.

1.1.2- Phân tích chiến lược.

PHÂN TÍCH CHIẾN LƯỢC

Phân tích chiến lược là phân tích về điểm mạnh về vị thế của doanh nghiệp và hiểu được những nhân tố bên ngoài quan trọng có thể ảnh hưởng tới vị thế đó. Lập kế hoạch bao gồm nhiều phương án chọn - kỹ thuật xây dựng nhiều viễn cảnh khác nhau có thể xảy ra trong tương lai cho doanh nghiệp.

Sơ đồ 1: Quá trình quản trị chiến lược.

Phân tích 5 lực lượng bằng các kỹ thuật xác định các lực lượng có thể ảnh hưởng đến mức độ cạnh tranh trong một ngành:

(cid:190) Phân đoạn thị trường: kỹ thuật tìm kiếm cách xác định sự giống và khác

nhau giữa các nhóm khách hàng hoặc người sử dụng.

(cid:190) Ma trận chính sách định hướng: kỹ thuật tóm tắt lợi thế cạnh tranh của một

doanh nghiệp trên những thị trường cụ thể.

(cid:190) Phân tích đối thủ cạnh tranh: kỹ thuật và phân tích để tìm ra vị thế cạnh

tranh tổng thể của doanh nghiệp.

(cid:190) Phân tích nhân tố thành công then chốt: kỹ thuật nhằm xác định những khu

vực mà một doanh nghiệp cần phải làm tốt hơn để cạnh tranh thành công.

(cid:190) Phân tích ma trận SWOT: một kỹ thuật ngắn gọn hữu ích để tóm tắt những vấn đề then chốt nảy sinh từ việc đánh giá môi trường bên trong tác động của môi trường bên ngoài đối với doanh nghiệp.

LỰA CHỌN CHIẾN LƯỢC THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC

1.1.3- Lựa chọn chiến lược.

Quá trình này liên quan tới việc hiểu rõ bản chất các kỳ vọng của những nhà góp vốn (nguyên tắc cơ bản) để xác định được các tùy chọn chiến lược, sau đó đánh giá và chọn lựa các tùy chọn chiến lược.

1.1.4- Thực hiện chiến lược.

Khi một chiến lược đã được phân tích và lựa chọn, nhiệm vụ sau đó là chuyển

nó thành hành động trong tổ chức.

1.2- Chiến lược phát triển ngành.

1.2.1- Các chiến lược cạnh tranh tổng quát.

NGUỒN CỦA LỢI THẾ CẠNH TRANH

Chi phí thấp nhất Khác biệt hóa

Rộng

CHI PHÍ THẤP KHÁC BIỆT HÓA

PHẠM

VI

CẠNH

TRANH

Hẹp

Sơ đồ 2: Các chiến lược cạnh tranh cơ bản.

Để tồn tại trong môi trường cạnh tranh, công ty phải tạo ra được lợi thế cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh được thể hiện dưới hai hình thức cơ bản: chi phí thấp hoặc khác biệt hóa. Kết hợp hai hình thức cơ bản này của lợi thế cạnh tranh với phạm vi hoạt động của công ty sẽ hình thành nên ba chiến lược cạnh tranh tổng quát như sau:

TẬP TRUNG DỰA VÀO CHI PHÍ THẤP NHẤT TẬP TRUNG DỰA VÀO KHÁC BIỆT HÓA

1.2.1.1- Chiến lược chi phí thấp.

Chiến lược chi phí thấp Chiến lược khác biệt hóa Chiến lược tập trung

Cao Thấp hoặc cao Khác biệt hóa sản phẩm Thấp (chủ yếu là giá cả)

Mục tiêu của công ty theo đuổi chiến lược cho phí thấp nhất là vượt trội đối thủ cạnh tranh bằng cách tạo ra sản phẩm, dịch vụ với chi phí thấp nhất. Chiến lược này có các ưu điểm:

Thấp Cao Phân khúc thị trường Thấp (một hoặc một vài phân khúc)

Sơ đồ 3: Chiến lược cạnh tranh và các yếu tố nền tảng

Thứ nhất, do chi phí thấp, công ty có thể bán sản phẩm với giá thấp hơn đối thủ cạnh tranh mà vẫn giữ nguyên mức lợi nhuận.

Thứ hai, nếu xảy ra chiến tranh giá cả và các công ty cạnh tranh chủ yếu ở khía cạnh giá cả khi ngành kinh doanh đi vào giai đoạn trưởng thành, công ty có chi phí thấp hơn sẽ chịu đựng với sự cạnh tranh tốt hơn.

Thứ ba, công ty dễ dàng chịu đựng được khi có sức ép tăng giá của nhà cung cấp.

Quản trị sản xuất và nguyên liệu Thế mạnh đặc trưng Nghiên cứu và phát triển, Bán hàng và Markrting Bất kỳ thế mạnh nào (tùy thuộc vào chiến lược CP thấp hay khác biệt hóa)

1.2.1.2- Chiến lược khác biệt hóa sản phẩm.

Mục tiêu của chiến lược này là đạt được lợi thế cạnh tranh thông qua việc tạo ra sản phẩm được xem là duy nhất, độc đáo với khách hàng, thỏa mãn nhu cầu khách hàng bằng cách thức mà các đối thủ cạnh tranh không thể. Chính khả năng này đã cho phép công ty định giá “vượt trội” cho sản phẩm, tăng doanh thu và đạt tỷ

suất lợi nhuận trên trung bình. Sản phẩm càng độc đáo, khác biệt so với đối thủ cạnh tranh, nguy cơ bị cạnh tranh càng thấp, khả năng thu hút khách hàng càng lớn.

1.2.1.3- Chiến lược tập trung.

Khác với hai chiến lược trên, chiến lược tập trung chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu cho một phân khúc thị trường nào đó, được xác định thông qua yếu tố địa lý, đối tượng khách hàng hoặc tính chất sản phẩm.

Công ty có thể thực hiện chiến lược tập trung thông qua hai phương thức chi phí thấp hay khác biệt hóa. Theo đó, chỉ tập trung vào thị trường đã chọn, nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh. Sự khác biệt sản phẩm trong chiến lược tập trung ở mức cao hay thấp tùy thuộc vào việc công ty theo con đường chi phí thấp hay khác biệt hóa.

1.2.2- Chiến lược đầu tư và các giai đoạn phát triển ngành.

VỊ THẾ CẠNH TRANH

Mạnh

Yếu

Xây dựng thị phần

Xây dựng thị phần Phôi thai CÁC

GIAI Tăng trưởng Tăng trưởng Tập trung ĐOẠN

Cạnh tranh ác liệt

PHÁT Mở rộng thị phần Tập trung hay thu hoạch/thanh toán TRIỂN

Trưởng thành

CỦA Thu hoạch hay thanh toán/từ bỏ Duy trì và giữ vững lợi nhuận NGÀNH

Suy thoái Thay đổi, thanh toán hay từ bỏ Tập trung thu hoạch hay giảm thiểu đầu tư

Mỗi giai đoạn phát triển của ngành chứa đựng những cơ hội và đe dọa khác nhau nên có những ảnh hưởng khác nhau đến chiến lược đầu tư phát triển ngành. Chẳng hạn sự cạnh tranh là ác liệt nhất trước khi ngành bước vào giai đoạn trưởng thành trong khi không quan trọng lắm ở giai đoạn ban đầu.

Trong giai đoạn mới

Sơ đồ 4: Chiến lược đầu tư ứng với các giai đoạn phát triển của à h

hình thành còn phôi thai, tất cả các công ty - mạnh và yếu - đều chú trọng năng lực cạnh tranh và chính sách phát triển sản phẩm, thị phần cho riêng mình. Do vậy, chiến lược đầu tư thích hợp là chiến lược xây dựng nhằm mục đích xây dựng thị phần, tạo lợi thế cạnh tranh. Giai đoạn này, công ty cần lượng vốn đầu tư lớn để xây dựng năng lực nghiên cứu và phát triển, thiết lập lợi thế cạnh tranh.

Ở giai đoạn tăng trưởng, công ty có nhiệm vụ quan trọng nhất là củng cố vị trí, chuẩn bị cho giai đoạn cạnh tranh ác liệt sắp tới. Do đó, chiến lược đầu tư thích hợp sắp tới là chiến lược tăng trưởng, với mục đích duy trì vị thế cạnh tranh trong điều kiện thị trường đang tăng trưởng nhanh, xuất hiện nhiều đối thủ mới. Bên cạnh việc giữ vững thị trường đã có, công ty còn cố gắng mở rộng thị trường, nhằm tăng thị phần. Đây là giai đoạn công ty cần “dò tìm” thế mạnh của mình, đưa ra chiến lược cạnh tranh thích hợp.

Ở giai đoạn cạnh tranh ác liệt, mức cầu sẽ tăng chậm và cạnh tranh về giá cả hoặc tính năng sản phẩm trở nên quyết liệt. Các công ty mạnh sẽ cố gắng đầu tư mạnh hơn nhằm thu hút, lôi kéo khách hàng từ các công ty yếu hơn. Nói cách khác, mục tiêu là duy trì và tăng trưởng thị phần. Chẳng hạn, với chiến lược chi phí thấp, việc đầu tư nhằm giám sát, hạ thấp chi phí là vấn đề sống còn – công ty có thể tồn tại nếu chiến tranh giá cả xảy ra. Hoặc với công ty mạnh có chiến lược khác biệt hóa trên diện rộng, đầu tư có thể hướng vào việc xây dựng năng lực marketing, dịch vụ hậu mãi, hay đa dạng hóa sản phẩm. Đến giai đoạn trưởng thành, nhịp độ tăng trưởng đã chậm lại, trong ngành đã hình thành các nhóm chiến lược khác nhau. Chiến lược đầu tư giờ đây tùy thuộc vào mức độ cạnh tranh trong ngành và lợi thế cạnh tranh của một công ty. Tuy nhiên, nếu sự đầu tư không mạnh lắm, các công ty có thể theo hướng “hưởng thụ” kết quả đầu tư ở giai đoạn trước: giảm tỷ lệ tái đầu tư, tăng phần lợi nhuận giành cho cổ đông. Chiến lược này có thể kéo dài khi sự cạnh tranh còn ổn định.

Ở giai đoạn suy thoái của ngành, mức cầu về sản phẩm đã giảm, công ty có thể bị mất năng lực phân biệt do xuất hiện công nghệ mới, hiệu quả hơn. Trước tình huống này, công ty có thể sử dụng những chiến lược đầu tư khác nhau. Đầu tiên, công ty có thể thực hiện chiến lược tập trung vào một phân khúc thị trường nào đó hoặc chiến lược giảm thiểu đầu tư. Với chiến lược tập trung, công ty cố gắng củng cố sản phẩm và thị trường, làm cho vị thế cạnh tranh tốt hơn: giới hạn lại phạm vi sản phẩm, sắp xếp lại hướng đầu tư nhằm đạt hiệu quả cao hơn. Điều đó cho phép công ty tồn tại trong điều kiện ngành đang suy thoái.

1.2.3- Chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu: về thực chất là chiến lược chi phí thấp. Nó có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước. Bất kỳ tổ chức nào, hoạt động trong bất cứ lĩnh vực gì, việc xác định cho mình những bước đi trong tương lai là điều kiện cơ sở bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của tổ chức mình. Hoạch định chiến lược nguồn nguyên liệu giấy là cơ sở chắc chắn cho một ngành giấy Việt Nam trong tương lai mạnh hay tiếp tục phụ thuộc yếu tố nước ngoài. Muốn đủ sức cạnh tranh với giấy ngoại, trước hết giấy Việt Nam phải không còn phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Có đứng vững mới đi được, biết đi rồi mới biết chạy và tiếp đến là bay. Không tự mình sản xuất lấy nguyên liệu giấy thì đừng mơ tưởng hảo huyền tới việc cạnh tranh với giấy ngoại.

Vì vậy, chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu giấy Việt Nam là điều kiện cơ sở bảo đảm Việt Nam tự đáp ứng được nhu cầu căn bản về giấy trong nước, sau đó là cạnh tranh với nước ngoài trên thị trường thế giới. Cơ sở xây dựng và thực hiện chiến lược dựa trên những khía cạnh sau:

-Nhu cầu về bột giấy nhập khẩu trong thực tế tăng qua các năm. Quy mô nhà máy tăng lên cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự ra đời của các nhà máy mới làm tăng lượng cầu về nguyên liệu bột giấy, khiến giá bột giấy nhập khẩu không ngừng tăng lên. Các doanh nghiệp sản xuất bột giấy nước ngoài nhân cơ hội này mà làm giá. Các doanh nghiệp sản xuất giấy trong nước vẫn biết điều này nhưng không còn cách nào khác là đành chấp nhận mua vào, làm cho giá bán tăng lên.

-Xã hội phát triển kéo theo nhu cầu về giấy tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng. Giá trị sử dụng của giấy trước đây chỉ bó hẹp trong phạm vi phục vụ học tập, nghiên cứu, văn hóa thì nay nó đã mở rộng ra nhiều lĩnh vực mới như hội họa, trang trí, bao gói, ẩm thực,…

-Nước ta có một nguồn tài nguyên rừng dồi dào, trải rộng dọc chiều dài của đất nước. Do chính sách quản lý và trồng rừng còn nhiều yếu kém mà hàng chục năm qua, rừng bị tàn phá một cách vô tội vạ. Tuy nhiên, trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng của rừng vốn là nguồn tài nguyên quý giá, nhà nước đã dần khắc phục những yếu kém trong quản lý, bảo vệ và khai thác lợi ích từ tài nguyên rừng thông qua hệ thống văn bản pháp lý. Đây là cơ sở pháp lý để củng cố và phát triển rừng trồng nguyên liệu giấy, bảo đảm một lợi thế cạnh tranh của Việt Nam về lĩnh vực này. Trên cở sở đó, tiến hành khai thác và tạo lập vị thế cạnh tranh của ngành giấy.

*Cơ sở pháp lý và chính sách vĩ mô của nhà nước đối với chiến lược phát

-Quyết định 160/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 04/9/1998

triển vùng nguyên liệu giấy. phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Công nghiệp giấy đến năm 2010.

-Luật bảo vệ môi trường năm 2005.

-Quyết định số 07/2007/QĐ-BCN của Bộ trưởng Công nghiệp ngày 30/01/2007 về việc phê duyệt Quy hoạch điều chỉnh phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020. 1.3- Lợi thế so sánh và Lợi thế cạnh tranh.

1.3.1- Lợi thế so sánh (LTSS): Lý thuyết về lợi thế so sánh được David Ricardo (1772-1823) đề ra, xuất phát từ sự chênh lệch tương đối của chi phí sản xuất. Ông cho rằng, sức sản xuất của hai nước khác nhau, một nước cho dù không sản xuất được hàng hóa có chi phí tuyệt đối thấp, chỉ cần sản xuất ra hàng hóa có chi phí tương đối thấp thì có thể tiến hành buôn bán với nước khác và làm cho mậu dịch của hai bên đều có lợi. Ví dụ như Bồ Đào Nha sản xuất một đơn vị rượu vang cần 80 giờ, sản xuất một đơn vị vải len cần 90 giờ; nước Anh sản xuất một đơn vị rượu vang cần 120 giờ, sản xuất một đơn vị vải len cần 100 giờ. Về sản xuất hai mặt hàng đó, Bồ Đào Nha đều ở vào địa vị có lợi tuyệt đối. Nếu Bồ Đào Nha xuất khẩu rượu vang sang nước Anh, đổi lấy vải len vẫn có lợi. Bởi vì một đơn vị rượu vang của Bồ

Đào Nha chỉ có thể đổi được 0,89 đơn vị vải len của Anh, nếu đem rượu vang xuất sang nước Anh thì có thể đổi được 1,2 đơn vị vải len, nhiều hơn 0,31 đơn vị so với sản xuất trong nước. Nước Anh có thể dùng vải len để đổi lấy rượu vang của Bồ Đào Nha, bởi vì nước Anh sản xuất một đơn vị vải len của Anh chỉ có thể đổi được 0,83 đơn vị rượu vang, nếu xuất sang Bồ Đào Nha thì có thể đổi được 1,125 đơn vị rượu vang, tức nhiều hơn 0,295 đơn vị. Lý thuyết này của David Ricardo được xây dựng trong điều kiện các yếu tố sản xuất, nhất là tư bản, không thể tự do lưu thông giữa các nước.

Như vậy, lợi thế so sánh là lợi thế đạt được trong trao đổi thương mại quốc tế, khi các quốc gia tập trung chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi những mặt hàng có bất lợi nhỏ nhất hoặc những mặt hàng có lợi lớn nhất thì tất cả các quốc gia đều cùng có lợi.

1.3.2- Lợi thế cạnh tranh theo quan điểm của Michael Porter(1).

Trong tác phẩm Lợi thế cạnh tranh, Michael đề ra lý luận về chuỗi giá trị là nguồn gốc cơ bản của LTCT. Theo đó, LTCT về cơ bản xuất phát từ giá trị mà một doanh nghiệp có thể tạo ra cho người mua và giá trị đó vượt quá chi phí mà xí nghiệp bỏ ra.

Theo lý luận này thì thông tin, nhân tố kích thích, sức ép cạnh tranh; doanh nghiệp chủ lực; thể chế, công trình hạ tầng; năng lực quan sát và kỹ năng củ con người đều có tác dụng trong việc nâng cao năng suất sản xuất của một quốc gia. Điều đó đồng nghĩa với các công ty của mỗi nước phải kiên trì nâng cao năng suất ngành bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến công nghệ và nâng cao hiệu quả sản xuất. Chỉ đi theo con đường đó, công ty mới có thể tham gia vào cạnh tranh quốc tế. Ngược lại nếu không có cạnh tranh quốc tế thì năng suất nước này không thể gây ảnh hưởng đối với năng suất của nước khác. Nhưng nền thương mại và đầu tư quốc tế đã tạo ra cơ hội nâng cao năng suất của tất cả các nước, đồng thời cũng tạo sức ép cho các công ty lớn duy trì năng suất cao. Do vậy, mỗi nước có thể chuyên kinh doanh những ngành mà các doanh nghiệp nước mình có năng suất cao hơn, và nhập khẩu những hàng hóa, dịch vụ do đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài sản xuất mà trong nước chỉ có thể sản xuất với năng suất thấp, từ đó có thể nâng cao năng suất bình quân trong nước.

Mặt khác, khi một nước trực tiếp tham gia cạnh tranh quốc tế thì tiêu chuẩn về năng suất đối với mỗi ngành trong nước ấy không còn là tiêu chuẩn trong nước mà là tiêu chuẩn quốc tế. Điều đó thúc ép các công ty trong nước vừa phải cạnh tranh với nhau, vừa phải cạnh tranh với các công ty nước ngoài.

(1) Michael Porter laø nhaø khoa hoïc noåi tieáng veà quaûn lyù cuûa Myõ, giaùo sö ñaïi hoïc Harvard kieâm coá vaán cuûa nhieàu coâng ty lôùn vaø caùc toå chöùc chính phuû treân theá giôùi. OÂng laø moät trong nhöõng nhaân vaät coù uy tín veà saùch löôïc caïnh tranh quoác teá. Naêm 1983, Porter laøm vieäc trong UÛy ban veà khaû naêng caïnh tranh cuûa toång thống Myõ Ronal Reagan. OÂng laø ngöôøi ñaàu tieân ôû ñaïi hoïc Harvard môû ra moân hoïc chieán löôïc caïnh tranh, lôïi theá caïnh tranh. Trong lónh vöïc lyù luaän caïnh tranh oâng ñaõ xuaát baûn caùc cuoán saùch : Chieán löôïc caïnh tranh naêm 1980, Lôïi theá caïnh tranh naêm 1985, Lôïi theá caïnh tranh quoác gia naêm 1990 vaø Daãn chöùng veà chieán löôïc caïnh tranh naêm 1992. Cuoán saùch cuûa oâng ñaõ ñöôïc giaùm ñoác cuûa 500 coâng ty lôùn vaø caùc nhaø phaân tích chöùng khoaùn coi nhö kinh thaùnh.

1.3.3- Vài dẫn chứng về quan hệ giữa lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh:

*Dẫn chứng quan hệ giữa lợi thế so sánh (LTSS) và lợi thế cạnh tranh ( LTCT).

(cid:194) Một quốc gia khi phát triển ngành mà nảy sinh quan hệ kinh tế đối ngoại thì LTSS và LTCT cũng sẽ tác động vào hoạt động kinh tế đối ngoại. Bất cứ nước nào, dẫu là nước có nền kinh tế phát triển nhất cũng không thể có LTCT quốc tế ở tất cả các ngành, do đó phải tận dụng LTSS.

(cid:194) Một nước có những ngành có LTSS thì thường dễ hình thành LTCT. Nói cách khác, LTSS có thể trở thành nhân tố nội sinh của LTCT, thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc tế của những ngành đó tăng lên.

(cid:194) LTSS của một ngành phải được thể hiện thông qua LTCT của ngành ấy. Trái lại, ngành không có LTSS thường khó hình thành và bảo vệ LTCT quốc tế. LTSS và LTCT thường nương tựa vào nhau.

(cid:194) Bản chất của LTSS và LTCT đều là so sánh về năng suất trên bình diện quốc tế. Nhưng khác nhau ở chỗ: lý luận về LTSS nhấn mạnh việc so sánh năng suất giữa các ngành khác nhau của quốc gia, còn lý luận về LTCT thì đặt nặng năng suất giữa các ngành giống nhau của các nước.

1.3.4- Moâ hình lôïi theá caïnh tranh.

Naêng löïc caïnh tranh

Lôïi theá caïnh tranh (Competitive Advantage)

Khaû naêng caïnh tranh (Competitive Possibilities)

Vò theá caïnh tranh (Competitive Position)

Moâi tröôøng beân ngoaøi

Sơ đồ 5: Mô hình lợi thế cạnh tranh.

Chiến lược phát triển ngành được xây dựng dựa trên cơ sở nào, quy mô tới đâu, nhằm tới mục tiêu gì,… một công cụ không thể thiếu khi tiến hành thiết lập chiến lược là dự báo nhu cầu và áp dụng một số mô hình toán học. 1.4- Một số phương pháp dự báo nhu cầu.

1.4.1- Các nhân tố tác động:

*Các nhân tố chủ quan: còn gọi là nhân tố bên trong nội bộ của doanh nghiệp, bao gồm: chất lượng thiết kế, cách thức phục vụ khách hàng, chất lượng sản phẩm, giá bán,... là những nhân tố mà doanh nghiệp có khả năng chủ động điều chỉnh kiểm soát.

*Các nhân tố khách quan: quan trọng nhất là thị trường, bao gồm: cảm tình của người tiêu dùng, quy mô dân cư, sự cạnh canh, các nhân tố ngẫu nhiên. Ngoài ra còn phải xét tới môi trường kinh tế bao gồm: luật pháp, tăng trưởng và phát triển kinh tế, chu kỳ kinh doanh, lạm phát và thất nghiệp, chính sách tài chính và tiền tệ, chính sách thu hút FDI, toàn cầu hóa,... Các nhân tố khách quan trên doanh nghiệp không thể kiểm soát được, nhưng nhất thiết phải nắm vững khi tiến hành dự báo.

Thiết kế

Nhân tố bên trong

Phục vụ khách hàng Nhu cầu Chất lượng

Giá cả

Cảm giác của người tiêu dùng

Quy mô dân cư

Nhân tố bên ngoài

Sự cạnh tranh

Nhân tố ngẫu nhiên

Luật pháp

Thực trạng nền kinh tế

Môi trường kinh tế

Chu kỳ kinh doanh

Sơ đồ 6: Các nhân tố tác động dự báo nhu cầu.

Các chính sách của Chính phủ Thời gian

1.4.2- Tác động của chu kỳ sống của sản phẩm đối với dự báo:

Chu kỳ sống của sản phẩm là một nhân tố quan trọng cần được xem xét kỹ trong quá trình dự báo nhất là đối với dự báo dài hạn. Các doanh nghiệp không thể bán sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ của mình với một mức độ hoặc số lượng không đổi trong một thời gian dài.

Đó là do tác động của chu kỳ sống của sản phẩm gây ra. Phần lớn các sản phẩm được chấp nhận trên thị trường có chu kỳ sống trải qua 4 giai đoạn như sơ đồ 7 bên dưới.

Khi một sản phẩm nào đó được phổ biến trên thị trường, nó bắt đầu nổi tiếng thì có nghĩa là sản phẩm đó đã đạt đến thời kỳ phát triển. Lúc này các đối thủ cạnh tranh chắc chắn đang tìm cách giành lấy một phần thị trường của sản phẩm đó. Điều này làm cho sản phẩm đó nhanh chóng đi vào giai đoạn chín muồi, hầu hết các sản

phẩm đều không thể tồn tại mãi mãi. Sau giai đoạn chín muồi, nhu cầu về sản phẩm này ngày càng giảm dần cho đến lúc chấm dứt hẳn.

Các sản phẩm đang nằm trong hai giai đoạn đầu (Introduction, Growth) cần dự

báo hơn là các sản phẩm đã nằm trong hai giai đoạn sau (Maturity, Decline).

Development

Introduction

Growth

Maturity

Decline

Doanh thu, Lợi nhuận Doanh thu

Thời gian

R & D

Giới thiệu

Tăng trưởng

Chín muồi

Suy tàn

Sơ đồ 7: Chu kỳ sống của sản phẩm

Trong giai đoạn đầu của chu kỳ sống, ta chưa có đủ số liệu thậm chí không có số liệu. Vì vậy phương pháp dự báo trong giai đoạn này thường dựa vào điều tra thực tế trên thị trường, dựa vào nhận xét, phán đoán của các chuyên gia hoặc phân tích các sản phẩm tương tự khác.

Trong các giai đoạn sau, ta ngày càng có nhiều số liệu hơn nên có thể sử

dụng phương pháp thống kê để dự báo và kết quả khả quan hơn.

Trong giai đoạn suy thoái mặc dù nguồn số liệu thống kê rất dồi dào nhưng thường chúng không giúp ích gì cho việc dự báo suy giảm. Lúc này ta lại phải sử dụng phương pháp điều tra thị trường, phương pháp chuyên gia hay phân tích các sản phẩm tương tự như đã làm trong giai đoạn đầu.

Lợi nhuận

1.4.3- Một số phương pháp dự báo theo khuynh hướng.

1.4.3.1- Phương pháp dự báo theo khuynh hướng có xét đến biến động thời vụ.

Đối với một số mặt hàng, nhu cầu thị trường có tính chất biến đổi theo thời vụ trong năm. Nguyên nhân có thể do điều kiện thời tiết, địa lý hoặc do tập quán của người tiêu dùng ở từng vùng có khác nhau (như Tết, hội, lễ,...). Chẳng hạn như nhu cầu giấy viết định lượng 58 g/m2, 60 g/m2, 70 g/m2 dùng sản xuất tập vở học sinh tăng rất cao vào dịp tháng 6, 7 và 8 hàng năm (cho mùa tựu trường), giấy tráng phấn như giấy Couché, giấy Bristol dùng in lịch vào những tháng cuối năm, giấy Duplex dùng làm hộp bánh trung thu vào các tháng 6 và 7 hàng năm,...

Dự báo nhu cầu đối với mặt hàng này ta cần khảo sát mức độ biến động của nhu cầu theo thời vụ bằng cách tính chỉ số thời vụ (còn gọi là chỉ số mùa) trên cở sở dãy số thời gian đã điều tra được.

Chỉ số thời vụ được tính theo công thức sau: yi

Is =

yo

Trong đó:

yi

- Is : chỉ số thời vụ. - : số bình quân của tháng/quý cùng tên. - : số bình quân chung của tất cả các tháng/quý trong dãy số.

yo

1.4.3.2- Mô hình hồi quy tuyến tính.

Trong thực tế, đại lượng dự báo còn có thể bị tác động bởi nhiều nhân tố. Chẳng hạn sản lượng lúa theo các năm thay đổi tùy theo lượng phân bón đã sử dụng trong các năm đó, hoặc như doanh thu của một sản phẩm phụ thuộc vào chi phí quảng cáo, doanh thu của một căn tin phụ thuộc vào mức lương của công nhân, sản lượng bột giấy phụ thuộc vào diện tích rừng trồng cây nguyên liệu giấy... Nói cách khác, đại lượng phân bón, chi phí quảng cáo, mức lương của công nhân, diện tích rừng trồng cây nguyên liệu giấy là những đại lượng mà ta cần dự báo cho các năm sau.

Trong đề tài này, mối liên hệ nhân quả giữa 2 biến định lượng : diện tích rừng trồng cây nguyên liệu giấy (x) và sản lượng bột giấy (y) không thể biểu diễn được dưới dạng một hàm số chính xác mà chỉ có thể biểu diễn gần đúng với dạng một tương quan tuyến tính.

Y

Y

Y

X

X

X

Hình (a) các chấm đại diện cho các cặp giá trị thực tế quan sát được (x,y) phân tán ngẫu nhiên, và không có mối liên hệ giữa hai biến. Hình (b) thì mối quan hệ đó gần như tuyến tính và cùng chiều. Hình (c) thể hiện mối liên hệ tuyến tính và có chiều nghịch.

(a) không có liên hệ (b) Liên hệ tuyến tính thuận (c) Liên hệ tuyến tính nghịch

-Hệ số tương quan r (pearson Correlation Coefficient): dùng để lượng hóa mức độ

chặt chẽ của mối liên hệ tuyến tính giữa hai biến định lượng (khoảng cách hay tỷ lệ).

n ∑ ( xi – x )( xi – x ) i= 1

r =

(-1 ≤ r ≤ 1)

(n -1) SxSy

Trị tuyệt đối của r cho biết mức độ chặt chẽ của mối liên hệ tuyến tính. Giá trị tuyệt đối của r tiến gần đến 1 thì hai biến có mối tương quan tuyến tính chặt chẽ (khi các điểm phân tán xếp thành một đường thẳng thì trị tuyệt đối của r = 1). Khi đường thẳng dốc lên như hình b thì r mang giá trị dương và khi đường thẳng dốc xuống như hình c thì r mang giá trị âm. Giá trị r = 0 chỉ ra rằng hai biến không có mối liên hệ tuyến tính.

-Hồi quy tuyến tính: Nếu kết luận được là 2 biến có liên hệ tương quan tuyến tính chặt chẽ với nhau qua hệ số tương quan r, thì có thể mô hình hóa quan hệ nhân quả của chúng bằng mô hình hồi quy tuyến tính trong đó một biến được gọi là biến phụ thuộc (hay biến được giải thích - y) và biến kia là biến độc lập (hay biến giải thích - x). Mô hình được xây dựng từ dữ liệu mẫu có dạng :

^ Y = Bo + B1Xi

Trong đó: -Xi là giá trị quan sát thứ i của biến độc lập.

^ -Yi là giá trị dự đoán (hay giá trị lý thuyết) thứ i của biến phụ thuộc, dấu mũ đại

diện cho giá trị dự đoán.

-Bo và B1 là hệ số hồi quy được xác định bằng phương pháp bình phương bé nhất.

1.5- Các Yếu tố ảnh hưởng đến chiến lược phát triển.

1.5.1- Các yếu tố môi trường bên trong:

Mục tiêu đầu tiên của công ty là phục vụ quyền lợi và thỏa mãn các nhu cầu đặc biệt của thị trường chiến lược đã chọn sẵn. Để thực hiện được các công việc này, công ty tự liên kết với một số người cung ứng và trung gian để tiếp cận khách hàng chiến lược. Hệ thống người cung ứng, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, công chúng tạo thành các yếu tố của môi trường vi mô.

1.5.1.1- Người cung ứng: bao gồm các công ty và cá nhân cung cấp nguồn nguyên vật liệu cần thiết cho doanh nghiệp và các đối thủ để sản xuất hàng hóa dịch vụ. Cung ứng là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mục tiêu của doanh nghiệp là lợi nhuận, để đạt được mục tiêu đó, doanh nghiệp cần có:

Machines - Máy móc

Manpower – Nhân lực

5M

Materials – Nguyên vật liệu

Money – Tiền

Management – Quản lý

1.5.1.2- Khách hàng: doanh nghiệp tự liên kết với người cung ứng và trung gian để có thể cung cấp hiệu quả sản phẩm thích hợp cũng như các dịch vụ cho thị trường mục tiêu của mình. Thường có 5 dạng thị trường khách hàng phổ biến như sau:

-Thị trường người tiêu thụ: cá nhân, hộ gia đình.

-Thị trường công nghiệp: các tổ chức mua hàng hóa, dịch vụ vì mục đích lợi

nhuận hay để hoàn thành các mục đích của mình.

-Thị trường bán lại: các tổ chức mua hàng hóa để bán lại kiếm lời.

-Thị trường phi lợi nhuận, chính phủ: chính phủ và các tổ chức phi lợi nhuận mua hàng hóa, dịch vụ để sản xuất dịch vụ công cộng hay chuyển các hàng hóa này cho người khác dùng.

-Thị trường quốc tế: người mua ở nước ngoài, gồm người tiêu thụ, sản xuất,

bán lại và các chính phủ.

1.5.1.3- Đối thủ cạnh tranh: doanh nghiệp thường phải đối phó với hàng loạt đối thủ. Cách tốt nhất để nắm được toàn bộ sự cạnh tranh là biết được quan điểm của khách hàng. Trong nền công nghiệp, doanh nghiệp tập trung chú ý đến các nhãn hiệu cạnh tranh mà quên khai thác các cơ hội để mở rộng toàn bộ thị trường hoặc ít ra chống rò rỉ. Sự cần thiết phải hiểu, duy trì trong suy nghĩ 5C là quan trọng trong chiến lược cạnh tranh với các đối thủ trên thương trường. Cụ thể là:

Customer - Khách hàng.

Communication - Truyền thông cho khách hàng cái hơn.

5C

Competitor - Lợi thế so với đối thủ.

Core Value - Lợi ích cốt lõi của sản phẩm.

Change - Thấy trước và thích nghi với sự thay đổi.

1.5.1.4- Công chúng: là những nhóm người có quyền lợi thực tế và hiển nhiên tác động đến công ty. Công chúng có thể làm thỏa mãn hay ngăn cản khả năng công ty hoàn thành mục tiêu. Các công chúng mà công ty thường gặp phải là: Công chúng tài chính (ngân hàng, nhà đầu tư, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm ảnh hưởng đến vốn của công ty), chính quyền, nội bộ,…

1.5.2- Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô:

1.5.2.1- Môi trường kinh tế:

Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng GDP, GNP và tốc độ tăng của thu nhập bình quân đầu người là cơ sở để dự đoán dung lượng thị trường của từng ngành và thị phần của doanh nghiệp.

Thứ hai, lãi suất và xu hướng của nó trong nền kinh tế tác động đến tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư. Sự tác động đó ảnh hưởng khá mạnh tới hoạt động của doanh nghiệp. Lãi suất tăng sẽ khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn về vốn vay để mở

rộng quy mô sản xuất, làm thấp đi mức lời của doanh nghiệp. Đối với dân chúng, họ sẽ gởi tiền vào ngân hàng nhiều hơn và hiển nhiên phần chi cho tiêu dùng sẽ giảm xuống.

Thứ ba, sự biến động của tỷ giá hối đoái vừa tạo ra những cơ hội và mối hiểm nguy đe dọa hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là tác động trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái là một trong những công cụ quan trọng mà chính phủ thường sử dụng để điều chỉnh chiến lược xuất nhập khẩu của nước mình.

Thứ tư, lạm phát là nguyên nhân đẩy hoặc níu chân tốc độ tăng trưởng kinh tế. Lạm phát cao tạo ra những rủi ro cho đầu tư của doanh nghiệp bởi nó không hấp dẫn dân chúng trong vấn đề tiết kiệm, kéo theo sức mua giảm sút và hậu quả là nền kinh tế bị đình trệ. Thiểu phát cũng gây nên hậu quả tương tự. Do vậy, một tỷ lệ lạm phát vừa phải luôn cần thiết để khuyến khích đầu tư vào nền kinh tế, kích thích thị trường tăng trưởng.

Thứ năm, hệ thống thuế và mức thuế là tác nhân làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp thay đổi theo cả hai hướng tốt và xấu. Mức thuế cao sẽ làm giá thành sản phẩm tăng kéo theo lượng cầu giảm, ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế.

Thứ sáu, các biến động về chỉ số trên thị trường chứng khoán làm xáo động giá trị cổ phiếu niêm yết. Sự bất ổn về chỉ số chứng khoán sẽ tạo ra những cơ hội hoặc rủi ro đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp.

1.5.2.2- Môi trường văn hóa xã hội:

Bao gồm những chuẩn mực và giá trị đã được thừa nhận bởi một công đồng dân tộc cụ thể. Các yếu tố nội tại của văn hóa ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh như là: đạo đức, thẩm mỹ, lối sống, nghề nghiệp; phong tục, tập quán, truyền thống; những quan tâm và ưu tiên của xã hội; trình độ nhận thức, mặt bằng dân trí xã hội; hôn nhân và gia đình; tín ngưỡng,… Những hiểu biết về văn hóa xã hội là điều căn bản đối với một nhà quản trị trong khía cạnh xây dựng và quản trị chiến lược.

1.5.2.3- Môi trường chính trị:

Là hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách của chính phủ. Hệ thống luật pháp với những quy định cho phép hay không cho phép, hoặc những ràng buộc mà doanh nghiệp phải tuân thủ tuyệt đối. Vai trò của chính phủ trong điều hành và điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ và các chương trình quốc gia. Chính phủ vừa đóng vai trò là người quản lý, kiểm soát, khuyến khích, tài trợ, ngăn cấm,… vừa đóng vai trò là khách hàng lớn của doanh nghiệp (thông qua các chương trình chi tiêu công). Sau cùng, chính phủ là nhà cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp.

1.5.2.4- Yếu tố dân số: sự tăng giảm dân số sẽ tác động mạnh mẽ đến chiến lược doanh nghiệp. Những yếu tố cốt lõi của môi trường dân số bao gồm: tổng dân số, tỷ lệ tăng dân số, kết cấu và xu hướng thay đổi của tháp dân số, tỷ suất sinh tự nhiên, xu hướng dịch chuyển dân số giữa các vùng,…

1.5.2.5- Yếu tố công nghệ: đây là môi trường cực kỳ năng động, thay đổi nhanh chóng, chứa đựng cơ hội và nguy cơ đối với vận mệnh doanh nghiệp. Sự ra đời của công nghệ mới sẽ làm tăng ưu thế cạnh tranh của sản phẩm thay thế, đe dọa các sản phẩm truyền thống. Nó làm cho giá thành sản phẩm trở nên rẻ hơn nhưng có chất lượng cao hơn và điều đó tự làm tăng tính cạnh tranh mạnh mẽ của nó. Mặt khác, sự ra đời của công nghệ mới càng làm tăng hấp lực gia nhập ngành đối với các nhà đầu tư mới, làm cho sân chơi càng trở nên chật chội hơn, cạnh tranh càng khốc liệt hơn. Ngoài ra, sự bùng nổ của công nghệ mới sẽ làm cho vòng đời công nghệ trở nên ngắn hơn, khiến áp lực rút ngắn thời gian khấu hao để giảm thiểu chi phí hao mòn vô hình.

1.5.2.6- Yếu tố tự nhiên: bao gồm vị trí địa lý, khí hậu, cảnh quan thiên nhiên, đất đai, sông biển, các nguồn tài nguyên khoáng sản trong lòng đất, tài nguyên rừng biển, sự trong sạch của môi trường nước và không khí,…

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Để xây dựng chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu giấy Việt Nam, đề tài vận dụng những kiến thức về chiến lược phát triển ngành như chiến lược cạnh tranh tổng quát, chiến lược chi phí thấp, chiến lược tập trung, lý thuyết về lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, các phương pháp dự báo nhu cầu, các yếu tố tác động đến chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu giấy Việt Nam cũng là những nội dung quan trọng mà đề tài vận dụng làm cơ sở lý luận. Đó là những nền tảng cơ sở cho việc phân tích thực trạng ngành công nghiệp giấy Việt Nam và từ đó đề xuất những giải pháp phát triển nguồn nguyên liệu giấy ở Việt Nam.

Giấy là một trong những phát minh lâu đời và có giá trị của nền văn minh nhân loại. Những tờ giấy cổ xưa làm từ xơ sợi thực vật đã được tìm thấy trong các di vật khảo cổ niên đại 206 trước công nguyên đến niên đại 220 sau công nguyên thuộc triều đại nhà Hán ở Trung Quốc. Lịch sử phát triển nghề giấy của thế giới đã ghi nhận vào năm 105 sau công nguyên ở Trung Quốc, Thái Luân1 là người đầu tiên hoàn thành công nghệ xeo giấy bằng phương pháp thủ công (dùng liềm xeo) và góp phần to lớn đưa nghề giấy lên một giai đoạn phát triển mới. Không lâu sau đó, nghề làm giấy với phương pháp tương tự như của người Trung Hoa cũng đã xuất hiện tại vùng Giao Chỉ (đất của Việt Nam bây giờ).

2.1- Bối cảnh ra đời và phát triển ban đầu của ngành giấy Việt Nam.

2.1.1- Thời kỳ Bắc thuộc.

Việt Nam và Trung Quốc có địa hình liền kề, nền chính trị ràng buộc nên nghề giấy ở Việt Nam cũng xuất hiện rất sớm. Người Giao Chỉ xưa đã biết dùng vỏ cây mật hương làm thành một thứ giấy bản tốt gọi là giấy mật hương. Giấy màu trắng có vân như vẩy cá, mùi rất thơm, bỏ xuống nước cũng không tan.

Trong suốt tiến trình lịch sử của dân tộc, nghề giấy của Việt Nam không ngừng phát triển để phục vụ cho triều đình phong kiến cũng như nhu cầu trong nước. Trong quá trình hình thành và phát triển của nghề làm giấy đã nổi lên một số vùng, một số làng được cả nước biết tên. Đó là vùng giấy ở ngoại vi phía tây thành Thăng Long, Yên Hòa-Kẻ Bưởi, tiếp đến là vùng giấy xứ Bắc gồm các làng Xuân Ổ (Tiên Sơn) và Dương Ổ (Yên Phong), làng Ném Tiền, Đào Thôn, Châu Khê đều thuộc tỉnh Bắc Ninh.

Đến nay, các sản phẩm giấy thủ công truyền thống gồm các loại chính sau đây: giấy mật hương làm bằng vỏ cây gỗ trầm; giấy nhũ tương có màu vàng, bạc lấp lánh, giấy điệp làm bằng vỏ cây dâu; giấy moi, giấy phèn làm từ vỏ ngoài cây dó, mặt thô ráp, dùng để gói hàng; giấy quạt, giấy pháo Thô nhưng bền) dùng để dán quạt và quấn pháo; giấy lệnh làm từ vỏ cây dó, khổ rộng và đẹp dùng để viết lệnh chỉ; giấy nghè (sắc) làm bằng dó tốt, trên mặt giấy còn nổi hình rồng mây, loại giấy dùng riêng cho nhà vua viết sắc phong ban cho thần dân hay các quan. 1. Thái Luân là một hoạn quan đời Hòa Đế nhà Hán ở Trung Quốc đã được phong tới tước Hầu. Thời đó đã có giấy làm bằng vỏ cây, giẻ rách và lưới cũ, số lượng rất ít nên rất đắt và rất quý. Chính Thái Luân đã hoàn thiện công nghệ dùng liềm xeo ra giấy có chất lượng cao hơn hẳn thời kỳ trước ông. Về sau ông bị tố cáo là có âm mưu với Hoàng Hậu nên bị buộc phải tự tử (Nguyễn Hiến Lê (1997). Sử Trung Quốc, trang 232 tập 1, Hà Nội, NXB Văn Hóa).

2.1.2- Giai đoạn 1945 - 1954.

Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh về tổ chức quản lý ngành giấy, bãi bỏ Hội đồng Giấy đặt dưới quyền của Tổng Thanh tra Khoáng chất và kỹ nghệ cũ, chuyển giao cho Bộ Kinh tế Quốc dân (Nha Kỹ nghệ) quản lý về sản xuất và Bộ Tuyên truyền và Cổ động quản lý về phân phối, nhập khẩu giấy, bìa cho tiêu dùng trong nước.

Thời kỳ này, toàn quốc đã có 553 xưởng giấy. Năm 1949 sản xuất được 1.587 tấn. Ngoài nhu cầu giấy dùng cho giáo dục, cho công tác tuyên truyền phổ biến tài liệu chính sách của Chính phủ, còn hai nhu cầu quan trọng nữa là:

Thứ nhất, phát hành đồng bạc Việt Nam (đồng bạc “Cụ Hồ”) cho tiêu dùng

và loại trừ ảnh hưởng của đồng tiền Đông Dương do Pháp phát hành.

Thứ hai, phục vụ cho giáo dục bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ, sách báo kháng chiến. Các báo xuất bản từ 1946 – 1954 được 77.212.128 số. Báo Sự Thật tăng từ 8.000 – 11.000 bản/tuần, báo Nhân Dân 20.000 bản/ngày, báo Cứu Quốc 25.000 – 30.000 bản/ngày. Sách các loại có 8.915.972 cuốn.

Một số nhà máy giấy quy mô tương đối lớn đã ra đời trong giai đoạn này. Đó là nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ (tiền thân là nhà máy giấy Đáp Cầu của Pháp), nhà máy giấy Lửa Việt, nhà máy giấy Lam Sơn.

2.1.3- Giai đoạn 1954 - 1975.

2.1.3.1- Tại miền Bắc:

Năm 1959, với sự viện trợ của Trung Quốc, nhà máy giấy Việt Trì được xây dựng với công suất 18.000 tấn/năm bằng thiết bị đồng bộ hoàn chỉnh từ khâu chuẩn bị nguyên liệu tới nấu, nghiền, xeo giấy và hoàn thành; sản xuất giấy in, viết, giấy vẽ. Trong 5 năm kể từ khi đi vào hoạt động (1961) nhà máy đã sản xuất được 41.000 tấn, trong đó năm 1965 đạt mức cao nhất là 12.700 tấn giấy các loại. Với sự ra đời của nhà máy giấy Việt Trì, lần đầu tiên nước ta đã tự túc được giấy in, viết cho học tập của nhân dân và một phần xuất khẩu.

Từ 1965, nhà máy giấy Việt Trì một mặt vẫn tổ chức sản xuất theo quy định của thời chiến, mắt khác sơ tán lập cơ sở sản xuất bằng máy xeo tròn 300 tấn/năm tại Bắc Kạn. Nhà máy giấy Hoàng Văn thụ cũng sơ tán một bộ phận lên chợ Chu, sản xuất sản phẩm 60-70 tấn/tháng, đồng thời giúp một số cơ sở địa phương ở các tỉnh phía Bắc chế tạo 5 máy xeo thô.

Đến 1975, miền Bắc đã hình được mạng lưới công nghiệp giấy địa phương. Cùng với các xí nghiệp có sẵn từ trước như giấy Hoàng Văn Thụ, giấy Việt Trì, giấy Vạn

Điểm, giấy Trúc Bạch, giấy Lam Sơn cung cấp các mặt hàng giấy in, viết, vẽ, gói diêm, bìa tập học sinh, giấy pơluya, giấy gói, hệ thống máy xeo nhỏ địa phương cũng góp phần đáng kể cung cấp giấy các loại cho nhu cầu văn hóa của nhân dân. Trên cơ sở lực lượng đông đảo đó, Bộ Công nghiệp nhẹ quyết định thành lập Nhóm sản phẩm giấy phía Bắc (do Nhà máy giấy Việt Trì làm chủ tịch) làm cầu nối liên kết cả ngành giấy lại.

2.1.3.2- Tại miền Nam: chủ lực là Công ty giấy và hóa phẩm Đồng Nai (Cogido) ra đời năm 1959 và tiếp đó là Công ty kỹ nghệ Giấy Việt Nam (Cogivina) ra đời năm 1959. Công suất ban đầu của Cogido là 15.000 tấn bột giấy/năm và 21.000 tấn giấy/năm, còn Cogivina là 5.000 tấn bột giấy/năm và 18.000 tấn giấy/năm. Những năm sau đó còn xuất hiện các xí nghiệp giấy quy mô từ 3.000 – 5.000 tấn/năm như Nagico, Kiss Me, Cogimeko (giấy Bình An), Sakygico, giấy Linh Xuân, giấy Viễn Đông chủ yếu sản xuất các mặt hàng giấy mỏng: in, viết, quảng cáo, giấy vệ sinh, bìa tập học sinh. Tất cả các xí nghiệp này đều tập trung ở vùng Biên Hòa, Bình Dương và TP.HCM.

2.1.4- Giai đoạn sau 1975 đến nay.

Thống nhất đất nước, nhiều xí nghiệp quy mô nhỏ ra đời nhưng ngành giấy toàn quốc nói chung chưa có bước tiến đáng kể. Các xí nghiệp giấy trung ương ở phía Bắc sản xuất trong tình trạng thiết bị công nghệ lạc hậu. Các xí nghiệp giấy trung ương ở phía Nam tuy thiết bị công nghệ có khá hơn nhưng không có ngoại tệ để nhập khẩu bột cho nên sản xuất bị đình trệ và ngày càng sa sút. Chủ trương trang bị thêm thiết bị và sửa chữa các máy móc đã có nhằm phát huy năng lực sản xuất bột tại chỗ, mặt khác tổ chức sơ chế bột tại các địa phương có sẵn nguyên liệu đã diễn ra liên tục trong nhiều năm trời. Tuy nhiên, những cố gắng đó vẫn không thể ngăn cản được sự sa sút của các cơ sở này: Giấy Tân Mai cũng chỉ có thể sản xuất xung quanh con số sản lượng 10.000 tấn/năm, Giấy Đồng Nai thì trong khoảng 8.500 tấn/năm (thời gian từ 1979 đến 1990). Vì Tân Mai và Đồng Nai là hai xí nghiệp lớn nhất của ngành giấy lúc ấy nên sản lượng năm của Tổng Công ty từ 1979 – 1989 hầu như chỉ xoay quanh con số 50.000 tấn/năm. Đó là thời kỳ khó khăn nhất của ngành giấy Việt Nam.

Năm 1982, ra đời Nhà máy Giấy Bãi Bằng quy mô lớn và hiện đại nhất cả nước với công suất 55.000 tấn/năm, đem lại hy vọng lớn cho ngành giấy toàn quốc. Tuy nhiên, đến năm 1986 xí nghiệp mới đạt đến 57% công suất, năm 1992 đạt xấp xỉ 70%, cũng chưa tạo được chuyển biến gì đáng kể cho ngành giấy nói chung ngoài việc đảm bảo ổn định được về cơ bản nhu cầu giấy viết với mức độ khiêm tốn thời bấy giờ. Giấy Tân Mai thì từ năm 1978 bắt đầu ký kết dự án Sogée về xây dựng dây chuyền TM (công suất 40.000 tấn/năm) và lắp đặt máy xeo III (công suất 30.000 tấn/năm). Tuy nhiên, đến năm 1989, giấy Tân Mai mới đưa được xưởng bột vào

hoạt động và đến năm 1990 mới khởi động được máy xeo III, năm 1994 mới bắt đầu phát huy công suất thật sự.

Thực tế, nhờ có sự ra đời, nâng cấp và dần dần đi vào nề nếp của hai con chim đầu đàn nên Tổng Công ty Giấy Việt Nam mới bắt đầu vượt qua sản lượng 90.000 tấn/năm trong năm 1994 và năm 1995 vượt qua sản lượng 100.000 tấn/năm (đạt 126.250 tấn), khởi đầu thời kỳ tăng trưởng cao của ngành giấy (toàn ngành đạt 215.000 tấn năm 1995). Giai đoạn 1986 – 1991 có thể được coi là thời kỳ đình trệ nhất của ngành giấy nhất là khu vực địa phương. Nhiều nhà máy giấy trung ương đều giảm tốc độ sản xuất, thậm chí ngừng sản xuất do thiếu vốn và thiếu bột. Hàng loạt xí nghiệp giấy địa phương đóng cửa, tan rã, số cơ sở làm giấy còn lại khoảng 50% so với 5 năm trước đó. Nguyên nhân của sự khủng hoảng là do nhà nước không đủ sức và không thể duy trì mãi cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. bản thân xí nghiệp thì cơ sở vật chất yếu kém, lại thiếu vốn. Đất nước thì thiếu lương thực, năng lượng, nguồn viện trợ bên ngoài bị cắt hoặc ngưng trệ, nhiều chính sách kinh tế xã hội gò bó,… Chỉ đến khi mạnh dạn chuyển sang cơ chế thị trường (1986), các doanh nghiệp giấy mới từng bước phát huy cao tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm, năng động đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ sản xuất, tìm ra mặt hàng phù hợp nhất để sản xuất kinh doanh thì tình hình bắt đầu biến chuyển. Không những thế, sản xuất kinh doanh toàn Tổng Công ty Giấy Việt Nam mới có điều kiện gắn kết với nhau, vai trò Tổng Công ty trong tư vấn đầu tư, tìm kiếm thị trường, hỗ trợ kinh doanh mới bắt đầu phát huy tác dụng của nó. Ngành giấy trung ương bắt đầu khởi sắc, nhất là từ năm 1995 trở đi (đạt 126.250 tấn, toàn ngành đạt 215.000 tấn/năm) với sự vươn lên mạnh mẽ của giấy Bãi Bằng (50.622 tấn) và giấy Tân Mai (41.521 tấn) Còn ngành giấy địa phương thì bắt đầu có chuyển động sớm hơn từ 1992 – 1993. Các cơ sở này đã tự tìm lối đi cho mình: cải tạo dây chuyền sản xuất, cải tiến thiết bị để sản xuất ra những mặt hàng có lợi thế, dễ tiêu thụ, trong đó đại bộ phận chuyển sang sản xuất giấy hộp. Công ty Giấy Vĩnh Huê, Giấy Nhất Huê, Giấy Hải Phòng và một loạt xí nghiệp mới quy mô nhỏ ở các tỉnh trung du phía Bắc chuyên làm giấy vàng mã xuất khẩu. Giấy mai Lan, Giấy Linh Xuân, Giấy Trúc Bạch, Giấy Lửa Việt chuyển sang làm giấy vệ sinh, giấy tissue. Giấy Xuân Hà, Giấy Đồng Tâm chuyên làm giấy vệ sinh, giấy pơ-luya. Giấy Mục Sơn, Lam Sơn, Sông Lam, Rạng Đông, Công ty bao bì Phú Thọ, An Bình, Công ty TNHH Giấy Sài Gòn chuyên sản xuất giấy hộp và làm hộp. 2.2- Khái quát toàn cảnh ngành giấy.

Toàn ngành có khoảng 300 đơn vị sản xuất kinh doanh với tổng công suất sản xuất giấy khoảng 570.000 tấn/năm. Từ quy mô lớn với công suất 70.000 tấn/năm, tới các xí nghiệp gia đình công suất chỉ có vài trăm tấn/năm, thậm chí chỉ xấp xỉ 100 tấn/năm.

2.2.1- Về phân bố theo vùng địa lý.

Các địa phương có năng lực sản xuất lớn là các tỉnh và thành phố Phú Thọ, Bắc Ninh, TP.HCM, Đồng Nai và mỗi vùng khoảng trên 100.000 tấn giấy/năm. Trung bình các tỉnh và thành phố Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng, Thanh Hóa, Bình Dương, Nghệ An, Khánh Hòa năng lực trên dưới 10.000 tấn/năm. Cũng có nhiều tỉnh năng lực sản xuất trên dưới 2.000 tấn/năm, hoặc mới bắt đầu xây dựng như Sơn La, Lai Châu, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Giang, Hòa Bình, Hà Tây, Hưng Yên, Nam Định, Quản Ngãi, Bình Định, Thừa Thiên Huế, Long An, Cần Thơ, Tiền Giang, An Giang, Bình Phước, Kom Tum, Gia Lai, Lâm Đồng,…Ngược lại cũng có địa phương hầu như không có xí nghiệp nào.

2.2.2- Về quy mô sản xuất.

Lớn nhất 50.000 tấn/năm, chỉ có Công ty Giấy Bãi Bằng và Công ty Giấy Tân Mai; loại trên 25.000 tấn/năm tới 35.000 tấn/năm có Công ty giấy Việt Trì, Công ty giấy Đồng Nai; loại trên 5.000 tấn/năm tới 25.000 tấn/năm có nhiều hơn (khoảng 12 nhà máy) gồm các công ty giấy: Hải Phòng, Lửa Việt, Mục Sơn, Lam Sơn, Hoàng Văn Thụ, Vạn Điểm, Bao bì Rạng Đông, Bình An, Xuân Đức, Vĩnh Huê, An Bình, Sài Gòn, Bao bì Phú Thọ, New Toyo, VietPack. Số còn lại quy mô dưới 3.000 tấn/năm chiếm phần lớn.

2.2.3- Về trình độ công nghệ và thiết bị sản xuất.

Sản xuất giấy Việt Nam nhìn chung ở trình độ công nghệ thấp và kém phát triển hơn so với khu vực và thế giới. Ngoài Công ty giấy Bãi Bằng và Tân Mai, các doanh nghiệp còn lại đều sản xuất bột theo phương pháp kiềm không thu hồi hóa chất nên giá thành cao và gây ô nhiễm môi trường. Đa phần các xí nghiệp vừa và nhỏ lại sử dụng giấy loại với dây chuyền xử lý thô, cũng tạo ra nhiều chất thải. Cụ thể có thể phân ra thành các nhóm: *Nhóm I: Công nghệ tương đối hiện đại gồm có Công ty Giấy Bãi Bằng và Công ty Giấy Tân Mai phần mở rộng với dây chuyền hoàn chỉnh, chất lượng trang thiết bị tốt, tương đương với trình độ thế giới của những năm 70, 80. Năng lực sản xuất phần bột giấy chiếm tới 50,8% và phần sản xuất giấy chiếm 37,9% công suất toàn ngành. *Nhóm II: Công nghệ mức trung bình gồm Nhà máy Giấy Đồng Nai, phần dây chuyền cũ của giấy Tân Mai, Bình An, Thủ Đức, Việt Trì. Năng lực sản xuất của nhóm này chiếm 20,7% công suất sản xuất bột giấy và 25,1% công suất sản xuất giấy toàn ngành.

*Nhóm III: Công nghệ cổ điển gồm các doanh nghiệp không thuộc hai nhóm trên. Công nghệ sản xuất chủ yếu do Trung Quốc hoặc Đài Loan chế tạo (trình dộ công nghệ của những thập kỷ đầu thế kỷ 20). Năng lực sản xuất của nhóm này chiếm 25,5% công suất sản xuất bột giấy và 22% công suất sản xuất toàn ngành.

Nhóm công nghệ cổ điển và lạc hậu trước đây chiếm 35% công suất giấy

*Nhóm IV: Công nghệ sản xuất lạc hậu với hầu hết thiết bị tự chế tạo hoặc do các nhà máy trong nước sản xuất. Nhóm này chiếm khoảng 3% công suất bột và 15% công suất sản xuất giấy toàn ngành. Tuy nhiên, chỉ trong mấy năm, kể từ 1998, nhờ quan tâm đến công tác đầu tư bổ sung mới, đặc biệt trong các đơn vị thuộc Tổng Công ty Giấy Việt Nam, ngành giấy cả nước đã có bước tiến vượt bậc làm thay đổi bộ mặt công nghệ của ngành. Cụ thể tại các nhóm như sau: Tại Nhóm I: đã bổ sung một số năng lực ở các đơn vị giấy Việt Trì, Giấy Cầu Đướng, Giấy Hoàng Văn Thụ, Vạn Điểm, Bình An, Đồng Nai và ở cả Giấy Bẵi Bằng, Giấy Tân Mai với năng lực lên tới 280.000 tấn/năm, tức tăng 2,7 lần, chiếm 51% năng lực sản xuất giấy toàn ngành. Tại Nhóm II: Đã được mở rộng sang các xí nghiệp địa phương ngoài tổng công ty, lan tới một số doanh nghiệp tư nhân với tổng năng lực lên tới 150.000 tấn/năm, tức tăng 2,6 lần chiếm 28% công suất toàn ngành. toàn ngành thì nay chỉ còn khoảng 22% (tổng năng lực 120.000 tấn/năm).

2.2.4- Về tổ chức.

Ngành giấy có Hiệp hội Giấy Việt Nam là tổ chức tập hợp lực lượng toàn ngành và là người đại diện cho ngành giấy trước nhà nước cũng như trước ngành giấy thế giới. Hiệp hội được thành lập ngày 18/8/1992 trên cơ sở của hai nhóm sản phẩm giấy phí Bắc và phía Nam bao gồm khoảng 30% số xí nghiệp, nhưng lại chiếm tới 90% công suất sản xuất toàn ngành. Hạt nhân của Hiệp hội Giấy Việt Nam là Tông Công ty Giấy Việt Nam, một trong 18 Tổng công ty 91 của cả nước, loại doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt có quy mô lớn do Thủ tướng Chính phủ thành lập tại Quyết định 256/TTg ngày 21/4/1995, bao gồm 8 doanh nghiệp quốc doanh giấy trung ương, 2 công ty trồng rừng nguyên liệu giấy, 2 tổ chức nghiên cứu KHCN ngành, 1 trường đào tạo nghề giấy và một số xí nghiệp ngành gỗ, diêm, văn phòng phẩm và in.

2.2.5- Về sản xuất kinh doanh.

Năm 2001, sản lượng chung của toàn ngành đạt 435.000 tấn giấy các loại (trên năng lực sản xuất toàn ngành khoảng 570.000 tấn/năm). Trong đó, sản lượng của các đơn vị thuộc Hiệp hội Giấy Việt Nam là 340.000 tấn, sản lượng

của Tổng Công ty Giấy Việt Nam chiếm khoảng 50% (187.000 tấn), sản lượng bột giấy toàn ngành đạt 260.000 tấn, trong đó Tổng Công ty Giấy đạt 120.000 tấn, các địa phương là 140.000 tấn.

Bảng 1: Sản lượng giấy các đơn vị thuộc Tổng Công ty Giấy Việt Nam 1997-2002.

Đơn vị: tấn/năm

Tên đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Công ty Giấy Bãi Bằng 53.631 60.115 63.101 65.111 72.850 75.200 Công ty Giấy Tân Mai 37.362 60.030 61.965 63.000 67.980 61.050 Công ty Giấy Việt Trì 5.104 7.286 9.073 11.633 15.068 20.282 Công ty Giấy Đồng Nai 17.082 23.610 18.619 14.825 17.023 20.430 Công ty Giấy Bình An 4.140 4.632 5.974 6.062 6.365 6.800 Công ty Giấy Hoàng Văn Thụ 3.613 3.652 3.866 4.113 4.115 4.523 Công ty Giấy Vạn Điểm 3.202 3.312 3.500 3.554 3.750 3.950

Tổng Công ty 127.373 165.158 108.928 173.452 187.501 192.235

Nguồn: Tổng Công ty Giấy Việt Nam

Năm 2002, sản lượng toàn ngành đạt 550.520 tấn, tăng 23,6% so với năm 2001. Trong đó toàn Hiệp hội Giấy Việt Nam đạt 374.390 tấn, tăng 12,9%, Tổng Công ty Giấy Việt Nam đạt 192.235 tấn, tăng 4,2%.

Năm 2003, sản lượng toàn ngành đạt 642.000 tấn giấy bìa các loại, trong đó Tổng công ty đạt 182.930 tấn; sản lượng giấy in, viết đạt 145.000 tấn (của Tổng công ty đạt 111.210 tấn, Giấy kraft, carton, duplex 313.000 tấn, giấy vệ sinh 33.000 tấn, giấy vàng mã 105.500 tấn, các loại giấy khác 18.600 tấn, bột tái sinh (OCC và DIP) 370.000 tấn. Bột nhập khẩu tẩy trắng 80.000 tấn.

Lượng giấy và carton sản xuất trong nước đã đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu tiêu dùng trong nước (tổng số lượng giấy tiêu thụ năm 2001 giấy và carton sản xuất trong nước đã đáp ứng được 632.000 tấn giấy các loại, bình quân đầu người 8,2 kg). Năm 2001, cả nước đã nhập khẩu 302.000 tấn giấy các loại, trong đó nhiều nhất là giấy làm lớp mặt hòm hộp carton. Năm 2001, sản lượng giấy xuất khẩu khoảng 60.000 tấn, năm 2003 xuất khẩu 96.000 tấn chủ yếu là giấy vàng mã. Năm 2003 nhập khẩu 450.000 tấn trong đó giấy làm thùng hộp 375.000 tấn, giấy in báo 25.900 tấn (giấy tự sản xuất là 26.730 tấn), giấy in và viết là 16.000 tấn.

Tốc độ phát triển về sản lượng từ 1995 đến nay đạt trên 15%/năm. Vài

năm gần đây, tốc độ này của xí nghiệp ngoài quốc doanh đạt 25%/năm.

Nguyên liệu cho sản xuất giấy in, viết, giấy in báo chủ yếu là từ gỗ, tre, nứa rừng Việt Nam và một khối lượng nhỏ gỗ và bột giấy nhập khẩu. Các loại giấy và carton khác chủ yếu sử dụng giấy loại thu gom trong nước và nhập khẩu

từ các nguồn Mỹ, Nhật Bản, châu Âu,… Tỷ lệ thu hồi giấy loại mới đạt khoảng 25%. Năm 2001, cả nước nhập khẩu 52.000 tấn bột (chủ yếu là bột sợi ngắn) và khoảng 20.000 tấn hòm hộp phế liệu và giấy loại (báo, tạp chí cũ, túi giấy,…)

Năm 2001, sản lượng giấy vẫn được nhà nước bảo hộ ở mức cao. Theo lộ trình hòa nhập và thị trường ASEAN (AFTA), Chính phủ đã bỏ việc cấp phép có điều kiện các loại giấy in, giấy viết và giấy in báo, đồng thời thuế suất nhập khẩu của 2 loại mặt hàng với khoản phụ thu là 30% và 50%; đến 01/01/2003 thuế suất chỉ còn 20% rồi 10% vào năm 2005 và 5% vào năm 2006.

2.3- Tình hình sản xuất và tiêu dùng giấy đến 2005.

Nếu sản xuất giấy in và giấy viết đạt mức dự kiến thì năm 2005 sản xuất được 824.000 tấn giấy. Như vậy mức tăng trưởng về sản lượng 2005 so với năm 2004 (753.750 tấn) chỉ đạt 9,32% (mức thấp nhất từ năm 1997). Cần lưu ý, mức tăng trưởng sản xuất công nghiệp năm 2005 so với năm 2004 đạt 16% thì mức tăng trưởng của sản xuất giấy đạt mức qua thấp. So với năm 2004, sản xuất giấy in báo sẽ tăng 7%, sản xuất giấy in và viết sụt giảm 4%, sản xuất giấy bao bì in công nghiệp tăng 21% (do đầu tư mới), sản xuất giấy tissue tăng 9% còn sản xuất giấy vàng mã giảm 6%. Giấy tráng phấn sản xuất ra rất ít, dù năng lực đạt tới gần 100.000 tấn/năm.

Trong khi sản xuất trì trệ, thì nhập khẩu giấy vượt xa dự báo. Các chuyên gia dự báo nhập khẩu giấy năm 2005 chỉ tăng 8,23 so với năm 2004, do sản xuất giấy tráng phấn sẽ có tăng trưởng vượt bậc (Công ty Giấy Việt Trì, Công ty Giấy Bình An), sản xuất giấy làm carton sóng cũng tăng mạnh nhờ đổi mới công nghệ ở một số cơ sở sản xuất, nhưng điều đó đã không xảy ra nên năm 2005 nhập khẩu có thể tăng 31%.

Bảng 2: Giấy thu hồi (USD/tấn, CIF cảng Đông Nam Á) (Cập nhật: 30/08/2005).

Loại giấy

Nguồn: Pulp and Paper Market news for Asia (PPI Asia News)

Theo phân loại của Mỹ Bao bì Carton cũ Lề Kraft 2 mặt nhẵn mới Giấy báo cũ Giấy loại hỗn hợp Hóa đơn trắng đã lựa Lề cứng trắng Theo phân loại của Nhật Bao bì Carton cũ Giấy báo cũ Giấy loại hỗn hợp Cuối tháng 5/2005 145-150 170-190 150-153 240-270 380-410 125-130 140-142 Cuối tháng 6/2005 140-145 165-185 150-155 115-120 220-250 370-400 120-125 135-140 110-115 Cuối tháng 7/2005 140-145 165-185 150-155 115-120 220-250 370-400 120-125 110-115 Cuối tháng 8/2005 140-143 160-180 145-150 110-115 220-250 370-400 130-135 135-140 110-120 Cuối tháng 8/2004 140-145 160-170 135-145 110-120 240-275 360-390 115-120 125-130 105-115

Bảng 3: Sản xuất, Xuất khẩu, nhập khẩu giấy.

Đơn vị : Tấn 8

Tháng 1 2 3 4 5 6 7 2005

53.981 51.626 75.756 66.980 64.590 65.040 65.900 64.400 824.000 Sản xuất

4.481 3.926 4.446 3.980 3.790 3.840 4.400 4.800 41.000 Giấy in báo 14.000 21.000 14.000 13.500 13.000 15.000 14.000 205.000 Giấy in & viết 36.500 25.000 37.610 36.000 35.000 35.000 35.000 34.000 433.000 Giấy bao gói 4.000 2.700 4.200 4.500 4.800 4.700 5.000 4.100 51.000 Giấy lụa 9.000 6.000 8.500 8.500 7.500 8.500 8.000 7.500 94.000 Vàng mã 76.280 28.357 56.236 58.484 56.857 55.344 55.000 56.000 657.150 Nhập khẩu

1.994 267 2.017 525 1.646 1.270 1.300 1.250 28.850 Giấy in báo 1.310 1.534 1.365 470 1.683 1.749 1.700 1.600 17.000 Giấy in & viết 8.000 9.000 175.000 Giấy, bìa có tráng phủ 32.500 9.495 17.461 10.520 15.922 10.645 Giấy, bìa không tráng phủ 37.181 11.966 24.096 20.932 27.918 28.675 33.850 33.000 300.000 0.020 229 163 148 150 150 3.000 Giấy lụa 3.295 5.095 11.296 25.808 9.525 12.857 10.000 11.000 133.300 Giấy khác 12.240 7.920 13.030 14.540 14.760 16.215 18.200 16.110 150.500 Xuất khẩu

Nguồn: Tổng Công ty Giấy Việt Nam

Đầu tư sản xuất giấy tráng phấn trong những năm trước (Công ty Giấy Việt Trì, Công ty Giấy Bình An) và nay có thêm dây chuyền sản xuất giấy tráng phấn mới của Công ty cổ phần Giấy Hải Phòng là những quyết định có tầm nhìn chuẩn xác, nhịp nhàng với nhu cầu tiêu dùng. Tuy nhiên đến nay giấy tráng phấn chưa thành mặt hàng sản xuất ổn định là một tổn thất nghiêm trọng. Có thể rút ra bài học, chỉ khi đầu tư phần mềm (công nghệ, tay nghề, kinh nghiệm, thị trường) thật kỹ trước khi đầu tư phần cứng (thiết bị), thì phần cứng mới phát huy được hiệu quả ngay. Điều này cũng lý giải vì sao một số dây chuyền sản xuất giấy in và viết được đầu tư ồ ạt 3 năm trước đây đã thất bại do coi thường công nghệ, dù sản xuất giấy in và giấy viết đã thuần thục ở Việt Nam trên 20 năm nay.

Trong giấy nhập khẩu làm carton sóng thì giấy mặt là 38,97% và giấy lớp giữa là 61,03%. Điều này bộc lộ sự yếu kém trong sản xuất giấy bao bì. Thậm chí ta không tự túc nổi giấy làm lớp giữa. Năm 2005, lượng giấy lớp giữa nhập khẩu sẽ lên tới 139.000 tấn, trong khi giấy lớp giữa sản xuất trong nước tiêu thụ rất khó khăn. Rõ ràng yêu cầu chất lượng của hòm hộp carton sóng mỗi năm đòi hỏi một cao, trong khi các nhà sản xuất có thể còn đang phấn khích trước một thời giấy chất lượng nào cũng bán được nên nhà nhà làm giấy bao bì đã không tỉnh táo đầu tư nâng cấp công nghệ cho kịp nhu cầu.

40 20 60 50 60 65 50 10 500 Giấy in báo 100 100 950 200 1.050 1.100 2.700 3.000 23.000 Giấy in & viết 3.800 2.600 3.300 3.500 3.400 3.300 3.200 3.100 42.000 Giấy, bìa 1.300 1.200 1.230 1.280 1.250 1.250 1.250 1.000 15.000 Giấy lụa 7.000 8.000 9.000 70.000 9.000 10.500 11.000 Giấy vàng mã 4.000 9.000

2.3.1- Thực trạng sản xuất và tiêu dùng giấy in và giấy viết:

2.3.1.1- Nhập khẩu giấy in và viết chất lượng cao (định lượng trên 70g/m2):

0,22

15,05

50,63

34,10

Singapore

Indonesia

Thái Lan

Khác

Giấy in khổ A3 và A4 là loại giấy được sử dụng rất nhiều trong in ấn văn phòng, công sở. Nhập khẩu giấy in khổ A3 và A4 năm 2005 đã đạt 7.200 tấn, với kim ngạch nhập khẩu đạt 4,56 triệu USD. Tuy nhiên, năm 2006 nhập khẩu giấy in A3 và A4 đã tăng tới 2 lần về lượng, đạt gần 15.000 tấn và 2,41 lần về kim ngạch, tương đương 9,89 triệu USD. Số liệu trên cho thấy một thực tế là nhu cầu sử dụng giấy in khổ A3 và A4 trong nước năm 2006 đã tăng cao hơn nhiều so với năm 2005, trong khi đó sản xuất trong nước chưa thể đáp ứng có thể cả về số lượng lẫn chất lượng, và tất yếu là nhập khẩu phải tăng để bù đắp khoản thiếu hụt đó.

Có 7 thị trường cung cấp giấy in khổ A3 và A4 năm 2006. Trong đó, 3 thị trường chính là Indonesia, Singapore và Thái Lan cung cấp đến 99,77% về lượng và đóng góp tới 99,8% vào kim ngạch nhập khẩu. Ba thị trường này năm 2005 cũng đã đóng góp đến 99,11% vào lượng và 99,26% vào kim ngạch. Giá nhập khẩu trung bình trên 3 thị trường này năm 2006 đều tăng so với năm 2005, mức tăng cao nhất là tại thị trường Singapore 25,71%, sau đó là Indonesia 12,64% và Thái lan là 9,87%.

Bảng 4: Thị trường cung cấp giấy in khổ A3 và A4 năm 2005 và 2006.

Thị trường Cung cấp

(*)So với Giá trung bình năm 2005 (%)

Lượng (tấn)

Kim ngạch (USD)

Indonesia Singapore Thái Lan Ấn Độ Trung Quốc Hàn Quốc Đài Loan

Đóng góp (%) năm 2006 Đóng góp (%) năm 2005 Kim ngạch Lượng (tấn) (USD) 51,05 28,27 19,94 0,63 0,04 0,04 0,03

50,63 34,10 15,05 0,12 0,07 0,02 0,01

52,86 30,20 16,74 0,09 0,08 0,02 0,01

47,67 34,75 16,69 0,77 0,05 0,04 0,03

Giá trung bình năm 2006 (USD/tấn)* 763,04 642,07 818,84 569,88 669,45 699,90 650,00

12,64 25,71 9,87 11,74 34,69 1,65 -18,25

Nguồn: Tổng Công ty Giấy Việt Nam

Thị trường Indonesia cung cấp gần 6.800 tấn giấy in khổ A3 và A4, kim ngạch nhập khẩu đạt 5,21 triệu USD, chủ yếu là giấy A4, giấy A3 chỉ chiếm tỷ trọng gần 4%. Các định lượng nhập vào Việt Nam đối với loại giấy này là 70, 75, 80, 160 g/m2, trong đó loại có định lượng 70 và 80 chiếm tỷ trọng trên 90%. Giấy nhập khẩu chủ yếu là giấy trắng, giấy màu chỉ chiếm 1,5% lượng nhập khẩu.

Tỷ trọng sản lượng giấy in NK năm 2006

Thị trường Singapore cung cấp 4.580 tấn giấy in khổ A3 và A4, kim ngạch nhập khẩu đạt 2,98 triệu USD, chủ yếu là giấy A4, giấy A3 chỉ chiếm khoảng 1%, định lượng 70 và 80 g/m2 và nhập khẩu toàn bộ giấy trắng.

Thị trường Thái Lan cung cấp 2.022 tấn giấy in khổ A3 và A4, kim ngạch nhập khẩu đạt 1,65 triệu USD, chủ yếu là giấy A4, giấy A3 chỉ chiếm khoảng 3%, định lượng 70 và 80 g/m2.

2.3.1.2- Xuất khẩu giấy in và viết định lượng thấp (từ 48 – 60 g/m2):

Xuất khẩu năm 2005 tăng hơn năm 2004 nhờ tăng xuất khẩu giấy in, viết và giấy lụa, cho dù xuất khẩu giấy vàng mã sụt giảm. Lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu giấy in và viết định lượng thấp với số lượng lớn, trên 20.000 tấn. Đó là nỗ lực vượt bậc của Công ty giấy Bãi Bằng, là hiệu quả đầu tư chiều sâu mới đây. Cả hai dây chuyền sản xuất giấy lụa (Công ty New Toyo và Công ty giấy tissue Cầu Đuống) đều tăng xuất khẩu (đều xuất khẩu khoảng 50% năng lực sản xuất). Nhờ vậy lượng giấy xuất khẩu đã chiếm 18,26% lượng giấy sản xuất ra.

2.3.1.3- Tình hình sản xuất và tiêu dùng bột giấy:

Sản xuất bột hóa tẩy trắng từ gỗ (BHKP) năm 2002 đáp ứng được khoảng 42% nhu cầu sản xuất, đến năm 2005 là 43%. Sản xuất bột hóa không tẩy từ gỗ, tre nứa (UHKP) sụt giảm do một số dây chuyền phải ngừng sản xuất vì nước thải làm ô nhiễm môi trường. Công ty Cổ phần Giấy Lam Sơn, Công ty Cổ phần Giấy Mục Sơn và Công ty Giấy Lam Kinh đã phải ngừng sản xuất bột từ đầu năm 2005. Hiện tại để duy trì sản xuất các công ty trên mua bột của những nơi chưa bị cấm sản xuất và sử dụng thêm giấy loại. Đây chỉ là giải pháp tình huống. Hầu hết các cơ sở sản xuất bột UHKP hiện nay không đủ khả năng xử lý nước thải và vì vậy các dây chuyền sản xuất này phải đóng cửa là điều không tránh khỏi khi mà yêu cầu về bảo vệ môi trường ngày một quyết liệt hơn.

Sản xuất bột hóa từ gỗ, tre nứa tẩy trắng (BHKP) vẫn chưa có thêm năng lực sản xuất mới. Hiện vẫn chỉ có Công ty giấy Bãi Bằng và Công ty Giấy Việt Trì sản xuất và đã khai thác hết công suất (61.000 + 12.000 tấn). Sản xuất bột hóa nhiệt cơ (CTMP) tại Công ty Giấy Tân Mai vẫn chỉ huy động nửa công suất (hai dây chuyền, mới huy động một) như từ thưở ban đầu. Dự kiến sản lượng bột CTMP năm 2005 đạt 25.000 tấn. Dây chuyền thứ hai chưa đưa vào sử dụng là một sự lãng phí lớn. Điều này cũng kìm hãm sự phát triển ngành giấy in và viết. Khi CTMP có dư trên thị trường trong nước với giá hợp lý sẽ kích thích việc sử dụng CTMP trong sản xuất giấy in và giấy viết để giảm chi phí sản xuất.

Lượng bột nhập khẩu năm 2005 khoảng 138.000 tấn. Bột hóa gỗ mềm nhập khẩu (BSKP) tăng 3,06% so với năm 2004 25.800 tấn so với 19.750 tấn) do giá thấp và nhu cầu sử dụng BSKP tăng (nâng cao chất lượng giấy tissue, giấy chất lượng cao). Lượng bột hóa gỗ cứng tẩy trắng (BHKP) nhập ít so với năm 2004, chỉ bằng 76,89% do sản xuất giấy in và viết, giấy tráng phấn, duplex mặt trắng thấp. Đặc biệt năm 2005 chỉ riêng 6 tháng đầu năm đã nhập tới 5.726 tấn bột CTMP do giá gỗ thông trong nước tăng cao. Một lượng bột DIP cũng được nhập khẩu trong năm 2005 chứng tỏ bước tiến bộ trong công nghệ và cuộc chiến giảm chi phí sản xuất ở một số cơ sở. Điều lạ là giá bột nhập khẩu luôn cao hơn về giá bột được cung ứng tại khu vực châu Á. Tính đến tháng 6 năm 2005, bình quân giá nhập khẩu BSKP là 488 USD/tấn, bình quân giá nhập BHKP là 535,74 USD/tấn và bình quân giá nhập DIP là 372,42 USD/tấn.

Bảng 5: Sản lượng xuất khẩu và nhập khẩu các loại bột giấy.

Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 2005

4.000 4.000 4.500 600 5.800 6.000 7.000 830 5.800 5.000 7.000 850 5.400 5.000 8.500 850 5.800 5.300 8.000 850 5.800 6.000 8.000 850 5.800 6.500 8.200 850

329

7.625 11.721 610 5.561 11.110 1.735 1.634 1.082 5.045 384 4.661 538 6.954 80 4.880 1.994 0 8.000 1.000 6.400 600 Sản xuất BHKP UHKP Semichemical Mechanical DIP & OCC Nhập khẩu BSKP BHKP CTMP DIP Tiêu dùng 64.130 47.100 64.150 64.750 57.750 64.450 64.350 63.150 702.180 65.000 5.500 65.000 5.500 97.000 7.500 23.000 850 44.500 34.000 45.500 45.000 38.400 44.500 43.000 42.500 452.180 7.500 138.000 9.523 12.392 25.800 1.000 4.756,00 93.200 6.000 7.526 7.635,62 10.500 1.997 8.500 500 535 76.522 54.725 75.871 69.795 67.273 71.404 72.350 70.650 840.180 Nguồn: Công nghiệp Giấy 2005

2.3.2- Giấy in báo.

Hiện tại cả nước có khoảng 700 ấn phẩm báo chí trong đó gần 200 ấn phẩm sử dụng giấy in báo và khoảng 20 ấn phẩm nhật báo và tuần báo có số lượng phát hành trên 100.000 bản/lần. Số ấn phẩm này đang gia tăng nhanh chóng cả về số lượng lẫn số trang phát hành. Người ta đang quan tâm đến sự phát triển của báo điện tử thậm chí còn coi nó là cứu cánh của báo in. Song những lợi thế của báo in dường như vẫn nổi trội hơn, đặc biệt trong nền kinh tế đang phát triển như ở Việt Nam. Với xu hướng phát triển báo chí hiện nay, có thể số đầu báo in sẽ giảm do không đủ khả năng để hoạt động thì xu hướng tập trung thành những tập đoàn báo chí lớn là hoàn toàn có thể. Và như vậy dù số đầu báo có giảm nhưng số trang in và bản báo phát hành sẽ gia tăng do mở rộng các điểm in theo phân bố địa lý, sự phong phú hơn về thông tin và các nhu cầu quảng cáo tăng mạnh.

Ngoài báo chí, hai kênh tiêu dùng giấy in báo khác cũng cần được kể đến. Thứ nhất là giấy in báo cao cấp để in sách giáo khoa dùng cho bậc phổ thông. Hàng năm có khoảng một phần ba sách giáo khoa được in từ loại giấy này. Với tỷ lệ học

sinh phổ thông gia tăng, mục tiêu tăng tỷ lệ học sinh đến trường trong độ tuổi và chưa kể việc gia tăng các ấn phẩm tham khảo thì đây cũng là một kênh có nhu cầu tiêu dùng cao. Thứ hai là giấy in báo để in truyện tranh. Đây là một kênh tiêu dùng rất mới mẻ mà có lẽ chúng ta gần như chẳng quan tâm tới (doanh thu cả nước về truyện tranh năm 2006 gần 600 tỷ đồng). Một vài năm trước đây, truyện tranh được du nhập từ Nhật Bản và mọi người nghĩ rằng truyện này chỉ dành cho thiếu nhi song nay đã dần đổi khác. Người lớn bắt đầu thích xem truyện tranh. Có lẽ trong thời đại công nghiệp và nhu cầu giải trí nhanh, văn hóa đọc-xem bị thay đổi nên truyện tranh dường như sẽ trở thành một nhu cầu của người lớn, trước hết là trong giới trẻ. Theo số liệu thống kê, cơ cấu tiêu dùng giấy in báo cho loại giấy này chỉ chiếm khoảng 3% nhưng trong ba năm trở lại đây nó có tốc độ tăng khoảng 55%/năm.

Tình hình trên có thể thấy trong vòng 5 năm tới, báo điện tử sẽ trở thành một phương tiện thông tin đại chúng được nhiều người đọc nhất trên thế giới và như vậy báo in và nhu cầu giấy in báo sẽ giảm? Theo dự báo thì điều đó có thể đúng ở Bắc Mỹ khi mà mức tiêu dùng giấy in báo ở khu vực này trong tương lai có thể giảm 10 - 15% so với hiện nay. Trong khi đó, dự báo khu vực châu Á sẽ tăng khoảng 3,5%/năm đến năm 2010. Mức tiêu dùng giấy in báo bình quân đầu người ở Mỹ hiện tại 34,8 kg trong khi ở Trung Quốc là 1,8 kg, Ấn Độ 1,1 kg. Còn Việt Nam, năm 1995 là 0,37 kg, sau 10 năm đạt 0,7 kg. Với dự báo dân số Việt Nam đến năm 2010 khoảng 88 triệu và nếu mức tiêu dùng giấy in báo bằng Trung Quốc hiện tại (1,8 kg/người/năm) thì tổng nhu cầu là 158.000 tấn, còn nếu phấn đấu bằng mức bình quân chung của châu Á năm 2003 là 3,1 kg thì tổng nhu cầu là 270.000 tấn.

Xét ở khía cạnh tiêu dùng, hiện nay lượng giấy in báo chiếm khoảng 27% sản lượng giấy và bìa toàn cầu. Năm 2004 cơ cấu này ở Việt Nam là 5,6%. Nếu giữ nguyên cơ cấu này và tổng nhu cầu giấy và bìa trong nước đạt 2,7 triệu tấn vào năm 2010 thì nhu cầu giấy in báo là 270.000 tấn.

2.4- Tình hình cung bột giấy và giấy.

2.4.1- Tình hình sản xuất giấy:

Theo Tổng công ty Giấy Việt Nam, ngành giấy hiện chỉ có 4 doanh nghiệp có quy mô sản xuất trên 50.000 tấn giấy/năm, còn lại có tới 46,4% số doanh nghiệp có quy mô sản xuất dưới 1.000 tấn giấy/năm; 42% có công suất từ 1.000 đến 10.000 tấn/năm.

Theo các chuyên gia, tính nhỏ lẻ, tự phát, mạnh ai nấy làm, liên kết, hợp tác kém là khá phổ biến và là nét đặc trưng trong ngành sản xuất giấy. Mặc dù hàng năm, năng lực sản xuất giấy của cả nước tăng trên 100.000 tấn, nhưng đó là phép cộng của hơn một chục dây chuyền được đầu tư mới, chứ không phải từ 1-2 dây chuyền. Thực tế đó

khiến cho ngành giấy không có được sức bật như mong muốn. Nếu như năm 1975, Việt Nam và Indonesia có năng lực sản xuất giấy tương đương nhau là 46.000 tấn, thì hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam mới nâng sản lượng lên hơn 800.000 tấn giấy các loại/năm, trong khi Indonesia đã vươn tới 7,8 triệu tấn giấy/năm, tức là gấp gần 10 lần.

Sức cạnh tranh còn yếu cũng bởi quy mô sản xuất nhỏ, trình độ công nghệ thấp. Trong khi dây chuyền bột hóa lớn nhất của Việt Nam mới ở mức 61.000 tấn/năm, thì dây chuyền bột hóa ở đảo Hải Nam (Trung Quốc) là 1 triệu tấn/năm; còn máy xeo giấy lớn nhất trong nước hiện nay có công suất 50.000 tấn/năm với chiều rộng lưới là 4,15 m, tốc độ là 600 -700 m/phút thì máy xeo mới đầu tư ở Trung Quốc có công suất 800.000 tấn/năm, chiều rộng lưới là 10,4 mét với tốc độ 2.000 m/phút. Mặc khác, một thực tế là các doanh nghiệp giấy Việt Nam đang phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn bột và hóa chất nhập ngoại, khiến cho sản xuất giấy trong nước càng kém sức cạnh tranh.

Theo tính toán, nếu sản xuất giấy từ nguyên liệu thô như tre, nứa, gỗ thì chi phí nguyên liệu chiếm khoảng 15% tổng chi phí, nhưng nếu sản xuất giấy từ bột nhập khẩu thì chi phí nguyên liệu chiếm từ 29- 35% tổng chi phí. Như vậy, mỗi tấn bột giấy sản xuất trong nước có giá thành thấp hơn bột giấy nhập khẩu từ 2-2,5 triệu đồng. Một thực tế đáng buồn nữa là, dù tài nguyên rừng hiện còn đủ sức phát triển bột giấy dư thừa cho nhu cầu nội địa, nhưng trong 20 năm qua, năng lực sản xuất bột giấy chỉ tăng thêm có… 10.000 tấn!

Hiện tại có 3 dự án sản xuất bột giấy từ tre nứa, đay và gỗ đang triển khai: Dự án bột giấy và giấy Thanh Hóa (Tổng Công ty Giấy Việt Nam), công suất 50.000 tấn bột kraft chưa tẩy (từ tre nứa) và 60.000 tấn giấy (động thổ năm 2003). Công ty bột giấy Phương Nam (Long An) công suất 100.000 tấn bột giấy tẩy trắng (từ đay) đã ký hợp đồng cung cấp thiết bị và hiện đang thu xếp tài chính cho dự án. Nhà máy bột giấy Hải Hà (Công ty cổ phần Giấy Hải Phòng) tổ chức lễ động thổ ngày 18/05/2005 công suất giai đoạn I là 12.000 tấn/năm bột không tẩy (từ gỗ), giai đoạn 2 sẽ thêm 20.000 tấn /năm bột (từ gỗ) và tẩy trắng toàn bộ bột sản xuất ra (32.000 tấn). Ngoài ra Lâm trường Bảo Yên cũng đã tổ chức đấu thầu thiết bị cho dây chuyền sản xuất bột giấy không tẩy từ gỗ vào quý II/2005, nhưng đến nay thời hạn cung cấp thiết bị chưa được định rõ. Công ty giấy Sài Gòn đã lắp đặt thiết bị sản xuất bột OCC công suất 60.000 tấn/năm (hoàn thành quý I/2006) và đã đi vào vận hành sản xuất.

Tháng 5/2006, Công ty cổ phần giấy An Hòa, Tuyên Quang đã khởi công xây dựng nhà máy bột giấy và giấy An Hòa giai đoạn I công suất 130.000 tấn/năm. Nhà máy được xây dựng tại trung tâm vùng nguyên liệu của tỉnh Tuyên Quang với diện tích rừng trồng nguyên liệu giấy lên đến 72.000 ha. Hiện nay, Công ty cổ phần An Hòa đã triển khai giai đoạn II của dự án với nội dung đầu tư mở rộng sản xuất bột

giấy tẩy trắng thêm 200.000 tấn/năm và sản xuất giấy in cao cấp công suất 100.000 tấn/năm. Tổng vốn đầu tư cho giai đoạn này dự kiến khoảng 5.000 tỷ đồng. Tỉnh Tuyên Quang đã cam kết sẽ có đủ quỹ đất cho phát triển vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất cả 2 giai đoạn của dự án.

Ngoài ra còn có dự án về Nhà máy bột giấy Quảng Nam 100.000 tấn/năm, Nhà máy bột giấy và giấy Hiệp Phước (Phú Yên) có công suất bột 450.000 tấn/năm và giấy 380.000 tấn/năm đều chỉ mới ở giai đoạn xin chủ trương đầu tư.

Trong năm 2006, Công ty Quốc tế (Hoa Kỳ), Thai Martin Group (Thái Lan), Pheonix Pulp & Paper Public Co., Ltd (Thái Lan) và Ballarpur Industries Co., Ltd (India) đã nhiều lần tới Việt Nam để tìm hiểu và xúc tiến đầu tư sản xuất bột giấy tại Việt Nam. Trong những năm tới dự báo sẽ có các dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài sản xuất bột giấy.

2.4.2- Tình hình quy hoạch và đầu tư vùng nguyên liệu giấy:

2.4.2.1- Quy hoạch, chính sách và đầu tư vùng nguyên liệu giấy Việt Nam.

Trồng rừng nguyên liệu giấy là một dự án lớn trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam và trong định hướng phát triển của chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng của chính phủ.

Đầu tư phát triển rừng là đầu tư phát triển ổn định các ngành chế biến có sử dụng gỗ cũng như đầu tư phát triển bền vững môi trường sinh thái. Từ 1999 đến 2004, Tổng Công ty giấy Việt Nam có những đóng góp đáng kể vào sự nghiệp phát triển rừng. Đáng chú ý là từ năm 2000 đến nay, cả nước mỗi năm trồng được khoảng 100.000 ha rừng kinh tế, trong đó rừng nguyên liệu giấy của Tổng Công ty giấy Việt Nam mỗi năm trồng từ 12.000 đến 14.000 ha, chiếm 12 – 14%, với biện pháp kỹ thuật thâm canh rừng được mở rộng và tăng cường, công tác giống được quan tâm hơn, nhiều giống mới được lựa chọn đưa vào sử dụng. Hình thành cơ bản được rừng nguyên liệu giấy tập trung theo mục tiêu gắn vùng nguyên liệu giấy với khu chế biến, năng suất rừng trồng được cải thiện đáng kể, chất lượng rừng được đánh giá tốt và đầu tư cho trồng rừng có hiệu quả.

Tuy nhiên, kết quả đó chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành cả về diện tích trồng rừng hàng năm cũng như năng suất rừng sau 1 chu kỳ. Tại sao như vậy? Vấn đề đặt ra là cần phải xem xét lại một cách đầy đủ hơn thực trạng về phát triển rừng, về đầu tư, những vướng mắc tồn tại về cơ chế, chính sách,… từ đó đề xuất các biện pháp tích cực thì mới nâng cao được năng lực và hiệu quả của trồng rừng công nghiệp nói chung và trồng rừng nguyên liệu giấy nói riêng.

Tổng Công ty Giấy Việt Nam trong 6 năm qua (từ 1999 - 2004) trồng được trên 59.000 ha, tập trung vào 3 vùng quy hoạch chính là: vùng nguyên liệu giấy

Trung tâm Bắc bộ, vùng nguyên liệu giấy Tây Nguyên và vùng nguyên liệu giấy Đông Nam bộ. Loài cây trồng chính là keo tai tượng, keo lai, thông ba lá, bạch đàn. Tăng trưởng bình quân của lâm phần vùng Trung tâm Bắc bộ đạt được 15 - 20 m3/ha/năm, vùng Tây Nguyên và Đông Nam bộ rừng keo lai đạt tăng trưởng bình quân trên 20m3/ha/năm, thông ba lá đạt tăng trưởng 14m3/ha/năm.

Đạt được kết quả đó là nhờ có chính sách quy hoạch và định hướng phát triển ngành của chính phủ, những chính sách về tài chính, đất đai và sự cố gắng không nhỏ của Tổng Công ty Giấy Việt Nam, trong đó có các công ty trồng rừng nguyên liệu giấy. Dong khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện nảy sinh nhiều, đòi hỏi cần có những đánh giá trung thực những vấn đề sau:

*Về quy hoạch sản xuất: Tiềm năng đất lâm nghiệp là rất lớn nhưng khả năng sử dụng vào trồng rừng công nghiệp là rất khó khăn. Trên 20% là diện tích đất dóc phân bổ ở vùng sâu vùng xa, phân tán và manh mún, do đó độ chính xác trong quy hoạch thấp, thường là theo con số với đối chiếu trên bản đồ. Trở ngại lớn nhất là quy hoạch vùng dự án không có ranh giới pháp lý trên thực địa, thường xuyên xảy ra tranh chấp trong quá trình thực thi hoặc thậm chí có sự chồng chéo về quy hoạch giữa các dự án, sự bất bình đẳng giữa quy hoạch đất cho trồng rừng nguyên liệu giấy với quy mô cho trồng các cây công nghiệp khác là một thực tế luôn xảy ra.

*Về cơ chế chính sách: Thủ tục và cơ chế tiêu thụ sản phẩm từ rừng trồng

thiếu tính thống nhất và kỷ cương được thể hiện:

Thứ nhất, nhà nước ban hành một số quy trình, quy phạm trong trồng rừng và

khai thác lâm sản nhưng có địa phương lại ban hành những quy định quy chế riêng.

Thứ hai, nhà nước cho phép các đơn vị trồng rừng kinh tế được tự chủ quyết định tuổi khai thác sản phẩm khi thấy cần thiết, ngược lại, có địa phương có những quyết định trái với quyết định của chính phủ. Điều này khiến không ít các doanh nghiệp lao đao, mặc dù rừng trồng đã quá tuổi thành thục công nghệ, vốn vay đã quá hạn phải trả, nợ nhà nước kéo dài, dẫn đến kinh doanh thua lỗ.

Thứ ba, thủ tục khai thác hiện phải qua quá nhiều cơ quan trung gian kiểm soát. Vậy các doanh nghiệp vay vốn trồng rừng đang mong muốn cải tiến những cơ chế, chính sách chưa phù hợp, nhưng cải tiến như thế nào và đến bao giờ?

Tất cả những mặt hạn chế nêu trên đã kìm hãm và hạn chế khả năng trồng thâm canh đầu tư cao, không cải thiện được năng suất rừng trồng, doanh nghiệp gặp khó khăn, thậm chí còn điêu đứng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

2.4.2.2- Tình hình tự cung nguyên liệu.

Trong năm 2006, sản lượng giấy cả nước đạt 850.000 tấn nhưng sản lượng bột giấy mới chỉ đạt 288.000 tấn. Trong đó công suất của các doanh nghiệp thuộc Tổng Công ty Giấy Việt Nam chỉ đạt 325.000 tấn giấy, chiếm tỷ trọng 27,9% tỷ trọng công suất của toàn ngành và 135.000 tấn bột giấy tấn bột giấy, chiếm 43,3%, còn lại là đóng góp của công nghiệp địa phương, các công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân và các khu vực kinh tế khác.

Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Về mặt bằng cơ sở vật chất, chỉ có hai đơn vị trong ngành giấy (Bãi Bằng và Tân Mai) là sở hữu công nghệ và thiết bị tương đối hiện đại, trong đó, Công ty giấy Bãi Bằng (trước đây) là đơn vị duy nhất sản xuất bột giấy tẩy trắng chất lượng cao, nhưng mới chỉ đạt công suất 80.000 tấn bột giấy hóa học/năm, còn công ty giấy Tân Mai chỉ sản xuất bột cơ nhiệt. Do sản lượng không đáp ứng nhu cầu sản xuất, hàng năm Bãi Bằng nhập 15.000 tấn bột giấy hóa học tẩy trắng để sản xuất loại giấy cao cấp đáp ứng yêu cầu in ấn các ấn phẩm sử dụng lâu dài như sách giáo khoa, sách các loại,… Khắc phục những hạn chế này, nhà nước quyết định đầu tư 1.107 tỷ đồng, chủ yếu là vốn vay nước ngoài để nâng cấp đồng bộ dây chuyền sản xuất của công ty. Năm 2003, năm đầu tiên Bãi Bằng nâng cấp lại đồng bộ dây chuyền sản xuất kể từ sau khi nhà máy giấy Bãi Bằng được xây dựng bằng kinh phí không hoàn lại của chính phủ Thụy Điển. Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn I đã nâng năng lực sản xuất bột giấy lên 68.000 tấn/năm và năng lực sản xuất giấy lên 100.000 tấn/năm với chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Một nguyên nhân nữa tác động trực tiếp đến sản xuất trong suốt giai đoạn qua là nguyên liệu sản xuất bột giấy thiếu. Mỗi năm, Bãi Bằng cần tới 350.000 tấn tre, gỗ, nứa,… để làm nguyên liệu. Trong khi đó, đến năm 2005 mới đạt 218.000 tấn nguyên liệu, không tương ứng với nhu cầu tiêu thụ giấy được dự báo là sẽ tăng bình quân từ 10-11%/năm.

Hiện nay, Giấy Bãi Bằng đang triển khai chương trình nâng cấp toàn bộ dây chuyền sản xuất dựa trên ba tiêu chí quan trọng là: nâng sản lượng bột giấy và giấy, nâng chất lượng giấy từ độ trắng 80% ISO lên 90% ISO, bổ sung công nghệ xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học đạt chuẩn thải quốc gia nhằm giảm ô nhiễm môi trường.

Để đạt được mục tiêu trên, bãi Bằng cần đầu tư hơn 1.107 tỷ đồng, chủ yếu bằng vốn vay nước ngoài. Đây là một chương trình đầu tư mở rộng dây chuyền sản xuất lớn. Để thực hiện hiệu quả dự án trên, vấn đề quyết định vẫn là phát triển nhanh và vững chắc nguồn nguyên liệu.

Hiện nay, tại vùng nguyên liệu phía Bắc, Tổng Công ty Giấy Việt Nam có 16 lâm trường với tổng diện tích đất được giao quản lý sử dụng là hơn 65.000 ha, diện tích đất rừng trồng nguyên liệu là 32.000 ha. Hàng năm, các lâm trường này cung

cấp cho Bãi Bằng 60% nhu cầu nguyên liệu, còn lại là thu mua từ các hộ dân và lâm trường trực thuộc địa phương. Vùng nguyên liệu chủ yếu ở phía Bắc gồm các tỉnh: Hà Giang, Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Sơn La, Lào Cai. Việc tổ chức thu mua được đơn giản hóa. Các lâm trường có thể giao dịch trực tiếp với nhà máy, không cần phải có các giấy phép bắt buộc như trước kia. Hộ trồng nguyên liệu cũng có thể ký hợp đồng trực tiếp với nhà máy với thủ tục đơn giản, chỉ cần xác nhận của UBND xã và giấy chứng minh nhân dân. Thủ tục thông thoáng và cởi mở này đã tạo điều kiện thuận lợi cho người trồng rừng mua bán dễ dàng nên khâu khai thác nguyên liệu khá ổn định.

Các vùng nguyên liệu phát triển nhanh thông qua các biện pháp có tính khuyến khích, nhà máy phối hợp chặt chẽ với các đầu mối cung cấp nguyên liệu. Với các lâm trường trực thuộc, nhà máy cấp vốn vay từ quỹ hỗ trợ cho các lâm trường để đầu tư xây dựng phát triển vùng nguyên liệu.

Đối với địa bàn gần nhà máy, công ty thực hiện mô hình trực tiếp hợp tác trồng rừng với các xã ở huyện Phù Ninh. Đến nay công ty đã trồng 380 ha. Theo cách làm mới này, công ty cho người trồng rừng vay vốn với lãi suất ưu đãi (3%/năm), vốn được giải ngân theo tiến độ trồng, bảo vệ, chăm sóc rừng. Các hộ trồng rừng còn được công ty đầu tư kỹ thuật, phân bón, cây giống, hướng dẫn trồng và chăm sóc rừng. Tính ra công ty đầu tư 80% vốn, hộ dân đầu tư 20%. Công ty trích 5% tổng giá trị mua nguyên liệu hàng năm bảo đảm cho những nguồn đầu tư này. Đến chu kỳ khai thác, công ty thu mua theo giá thị trường và cam kết khi hạ giá cũng sẽ thu mua bằng 80% giá khi ký hợp đồng.

Lâm trường Đoan Hùng, một lâm trường có diện tích đất rừng nguyên liệu giấy 2.064 ha. Mỗi năm lâm trường trồng từ 200 đến 250 ha cây nguyên liệu giấy, khai thác từ 180 đến 200 ha, sản lượng gỗ bình quân 10.000 đến 12.000 m3 gỗ/năm. Thực hiện dự án đầu tư nâng công suất giấy và bột giấy giai đoạn II, Tổng Công ty giấy Việt Nam đã lập quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu với diện tích 172.000 ha ở các tỉnh Phú Thọ, Sơn La, yên bái, Tuyên Quang, Hà Giang, Vĩnh Phúc với tổng mức đầu tư lên đến 1.500 tỷ đồng. Do đặc thù của cây nguyên liuệu giấy có chu kỳ 7 đến 8 năm, người trồng rừng chủ yếu là đồng bào vùng sâu, vùng xa thiếu vốn sản xuất, cho nên để thực hiện được mục tiêu phát triển rừng cây nghuyên liệu, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn cho người trồng rừng.

2.4- Sức ép khi nguyên - nhiên liệu cùng tăng giá.

Đầu năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định cho phép Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam tăng giá bán cho 4 hộ tiêu thụ lớn là giấy, phân bón, xi măng

và điện. Cũng từ 01/01/2007, giá điện tăng 7,6%. Hai ngành năng lượng chính, ”đầu vào” của nền kinh tế tăng giá chắc chắn sẽ tác động mạnh đến mặt bằng giá cả.

Theo Tổng Công ty Giấy Việt Nam, giá bán than được hai bên thỏa thuận là 380.000 đồng/tấn (chưa tính thuế giá trị gia tăng ), tăng 20% so với giá thực hiện từ năm 2003 là 316.200 đồng/tấn, thấp hơn mức 40% mà Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam đề xuất. Như vậy, với giá than mới, chi phí sản xuất giấy của Vinapaco trong hai tháng cuối năm 2006 sẽ tăng thêm khoảng 1,9 tỷ đồng. Với mức tiêu thụ trung bình 270.000 tấn than/năm, thì việc tăng giá than đã ”đẩy” chi phí đầu vào của ngành giấy Việt Nam tăng từ 6 – 6,8%. Mức lợi nhuận tối đa hiện nay là 5%, để tránh khỏi thua lỗ do bù đắp chi phí sản xuất do giá than tăng, ngành giấy sẽ phải nâng giá bán sản phẩm khoảng 5% thì mới bảo đảm hoạt động sản xuất.

Như vậy, sức ép tăng giá than đợt cuối năm này mới chỉ là sức ép ban đầu của một lộ trình buộc hàng loạt các ngành khác phải ”gồng mình” chạy theo. Đặc biệt, với ngành giấy vốn đang còn ”non yếu” sau khi hội nhập WTO do phải chịu chi phí sản xuất cao, giá các loại hóa chất, bột giấy nhập khẩu,... cũng đang tăng khá mạnh và một việc nữa không thể không thực hiện đó là tăng lương.

Việt Nam đã gia nhập WTO, tiến trình cam kết mở cửa thị trường sẽ được thực hiện, các rào cản thương mại, bảo hộ sẽ không còn. Ngành giấy cũng sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh khốc liệt khi các nhà đầu tư nước ngoài tăng cường đầu tư sản xuất giấy tại Việt Nam. Một khi nguồn cung tăng, sẽ làm cho bài toán tăng giá sản phẩm của ngành giấy thêm khó khăn, vì phải đối mặt với cuộc chiến giá cả mới.

Ngay trong năm 2006, đã xuất hiện một nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất giấy đã đi vào hoạt động, sản phẩm của nhà máy này đã bắt đầu cạnh tranh trên thị trường. Sức ép kép (tăng giá cộng hội nhập) đang tạo ra thế bí, buộc ngành giấy Việt Nam không thể không tăng giá và đưa ra những đề xuất về lộ trình tăng giá.

Tăng giá than đột ngột và ở mức cao như vậy sẽ đẩy nhiều doanh nghiệp ngành giấy, nhất là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn yếu, máy móc thiết bị cũ lâm vào cảnh khốn khó. Trước thực trạng đó, ngành giấy đã đề xuất với Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam thay vì tăng giá than tối đa bước đầu 20% xuống 15% với lộ trình tăng là tháng 7/2007. Nếu tăng ở mức 10% mỗi năm theo lộ trình từ nay đến năm 2010 thì sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngành giấy trong nước tạo được bước đi vững chắc, có sự phát triển ổn định, nâng cao được sức cạnh tranh trong môi trường cạnh tranh tự do của WTO.

2.5- Những điều mà ngành giấy đã làm.

Tốc độ tăng trưởng hàng năm trong 20 năm qua luôn trong khoảng 15-16%. Từ 80.000 tấn/năm lên 824.000 tấn/năm. 20 năm qua, nhà nước chỉ dồn sức đầu tư cho các doanh nghiệp giấy quốc doanh, với một mục tiêu rất khiêm tốn, rất “kế hoạch hóa” chỉ để đảm bảo nhu cầu thiết yếu về giấy in báo, giấy in và giấy viết. Nhưng xét tổng thể phần lớn đều lỡ nhịp và hiệu quả chưa cao, thậm chí có những doanh nghiệp lâm vào khủng hoảng tài chính sau đầu tư. Không phải doanh nghiệp giấy quốc doanh nào cũng có lãi và có khả năng tái đầu tư.

Trong khi dù hoàn toàn không được nhà nước hỗ trợ về vốn, nhưng doanh nghiệp tư nhân phát triển rất nhanh, nhất là sau năm 2000, phần lớn do những người nông dân, dân nghèo thành thị bỏ sức lao động và đồng vốn ít ỏi gây dựng. Hầu hết doanh nghiệp nào ít nhiều đều có lãi và quan trọng hơn là có khả năng tái đầu tư nên gần như từ con số 0, nay khu vực kinh tế này đã sản xuất 75% sản lượng giấy của cả nước (60% về giá trị). Thật xót xa, 20 năm qua năng lực sản xuất bột giấy tẩy trắng chỉ tăng từ 70.000 tấn/năm lên 80.000 tấn/năm. Đây là minh chứng rõ ràng về tư duy kinh tế yếu kém, đậm tính cơ hội, ăn xổi và manh múm.

Chủng loại giấy sản xuất trong nước rất nghèo nàn chỉ có giấy in báo, giấy in và giấy viết, giấy bao gói (không tráng), giấy lụa, thể hiện rõ tính tự cấp của ngành. Dù đã đầu tư 112.000 tấn/năm năng lực sản xuất giấy tráng, nhưng nay hầu như chỉ sản xuất giấy không tráng. Chúng ta đã bỏ qua việc gia công, chế biến giấy đến sản phẩm cuối cùng và qua đó nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm giấy.

Năm 2005, khả năng đáp ứng tiêu dùng của toàn ngành giấy là 61,92%, cụ thể như sau: với giấy in báo: 68,42%; giấy in và viết: 89,29%; giấy bao bì (không tráng): 71,50%; giấy tráng: 5,75%; giấy lụa: 96,97%.

2.6- Bốn điểm yếu cơ bản của ngành giấy.

2.6.1- Lệ thuộc vào bột giấy nhập ngoại.

Sản xuất bột giấy ở trong nước chỉ đáp ứng 37% nhu cầu vì thế phải nhập khẩu 63%. Trước đây, nhập khẩu chủ yếu tập trung vào bột hóa tẩy trắng, nay bột hóa không tẩy nhập ngày càng tăng vì các cơ sở phải ngừng sản xuất do không có khả năng xử lý nước thải vì quy mô nhỏ và công nghệ lạc hậu. Kinh tế thế giới càng ổn định và phát triển thì giá bột càng cao và càng biến động. Điều này cho thấy hiệu quả sản xuất của ngành giấy mong manh, dễ bị tổn thương đến mức nào và hậu quả là khả năng cạnh tranh cũng mong manh.

Với tài nguyên rừng dù không giàu có, nhưng cũng đủ để phát triển sản xuất bột giấy dư thừa cho nhu cầu nội địa. Nhưng trong 20 năm, năng lực mới chỉ tăng thêm 10.000 tấn (trong khi ở cạnh chúng ta, đảo Hải Nam, Trung Quốc, một dây chuyền sản xuất bột hóa công suất 1 triệu tấn/năm đã đi vào sản xuất từ 11/2004).

Rõ ràng phương thức phân bổ nguồn lực cho phát triển của chúng ta kém hiệu quả, không tạo ra được tiền đề cho những bước tiếp phát triển tiếp theo của ngành giấy.

2.6.2- Sức cạnh tranh bấp bênh.

Năm 2005, mức tăng trưởng của sản xuất giấy so với năm 2004 chỉ đạt 9,32% (thấp nhất trong 9 năm qua, so với 15-16% so với các năm trước). Nhập khẩu giấy lại có mức tăng trưởng kỷ lục 35,77% (trước đó chỉ 18-20%).

Nguyên nhân chính là giấy bao bì sản xuất ra không kịp đáp ứng yêu cầu về chất lượng đã tăng cao. Mặc dù năm 2006 là năm bảo hộ đối với ngành giấy được gỡ bỏ hoàn toàn với thị trường AFTA, nhưng dự báo sản xuất, kinh doanh giấy vẫn chưa có biến động lớn dù gặp khó khăn nhiều hơn. Điều này không thể đảm bảo sự phát triển sẽ suôn sẻ như vậy sau khi Việt Nam gia nhập WTO, rồi ASEAN + 1 (thêm Trung Quốc; lưu ý rằng thị trường tự do – AFTA giữa ASEAN và Trung Quốc sẽ hoàn tất vào năm 2010, tức chỉ gần 4 năm nữa, khi đó thuế suất nhập khẩu các mặt hàng sẽ là 0%), ASEAN + 2 hay ASEAN + 3 (thêm Trung Quốc, Nhật bản và Hàn Quốc). Cần lưu ý là trong khu vực châu Á nói chung và Đông Á nói riêng, là khu vực kinh tế năng động nhất thế giới, có nhiều cường quốc về công nghiệp giấy: Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Đài Loan.

Xét các yếu tố tạo ra sức cạnh tranh, ngành giấy việt Nam thua thiệt nhiều mặt. Chỉ có yếu tố thị trường tại chỗ là lợi thế của các doanh nghiệp. Dù lao động rẻ nhưng chi phí về lao động ở các nhà máy giấy Việt Nam lại lớn vì năng suất lao động rất thấp (trong khi một lao động Nhật Bản sản xuất gần 806 tấn/năm thì một lao động ở cơ sở tốt nhất Việt Nam chỉ sản xuất được 140 tấn/năm). Chỉ ở những cơ sở lớn công nhân mới được đào tạo bài bản, còn lại phần lớn rời “tay cày” ra đứng máy và trưởng thành trong thực tiễn. Trình độ công nghệ của ngành giấy Việt Nam ở mức dưới trung bình so với thế giới, nên chất lượng sản phẩm chỉ ở mức trung bình và thấp. Quản lý ở những cơ sở lớn mang dáng dấp “kế hoạch hóa”, còn ở cơ sở nhỏ mang tính chất “gia đình”, “tiểu chủ”.

Sức cạnh tranh còn do quy mô sản xuất nhỏ, trình độ công nghệ thấp: công suất dây chuyền bột hóa lớn nhất của Việt Nam là 61.000 tấn/năm, trong khi ở đảo Hải Nam, Trung Quốc là 1 triệu tấn/năm; máy xeo lớn nhất của Việt Nam có công suất 50.000 tấn/năm, chiều rộng lưới là 4,15 m, tốc độ 600-700 m/phút, trong khi máy xeo mới đầu tư ở Trung Quốc có công suất 80.000 tấn/năm, chiều rộng lưới là 10,4 m, tốc độ là 2.000 m/phút.

2.6.3- Huy động vốn yếu và chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

chưa hấp dẫn (FDI).

Vốn để phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đến nay chủ yếu là vốn trong dân. Cả ngành và từng doanh nghiệp chưa có chiến lược huy động vốn. Các chiến thuật huy động vốn vẫn xoay quanh vốn nhà nước, ngân hàng và các quỹ. Điều này là tốt, nhưng chưa hữu hiệu, tuy vẫn là nguồn huy động vốn cần tích cực khai thác.

Vốn có thể khai thác và sử dụng tốt hơn theo dạng một dây chuyền thay cho 3 dây chuyền. Một nguồn huy động vốn rất quan trọng là thị trường chứng khoán lại chưa được khai thác đúng mức. Kinh nghiệm của công ty cổ phần giấy Hải Phòng (Hapaco) cho thấy huy động vốn trên thị trường chứng khoán không phải khó.

Xuất phát từ một công ty nhỏ, sản xuất giấy vàng mã (sản phẩm cấp thấp), sau 5 năm tham gia thị trường chứng khoán Hapaco đủ vốn mua lại khá nhiều nhà máy, công ty sản xuất, đầu tư mới nhà máy bột, nhà máy giấy công suất tương đối lớn, đang dự định xây dựng nhà máy lọc dầu. Nếu nói về tiềm lực so với Hapaco ở thời điểm đó, thì rất nhiều công ty giấy thừa khả năng tham gia thị trường chứng khoán, nhưng đáng tiếc chỉ có một Hapaco. Như vậy ngành giấy đã bỏ qua hai kênh huy động vốn có hiệu quả: huy động trong nội bộ và trên thị trường chứng khoán.

Trong nhiều năm qua, nhà nước luôn coi trọng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), liên tục cải cách thể chế, luật pháp, chính sách, môi trường kinh doanh,... và dành cho việc thu hút FDI hầu hết mọi ưu đãi có thể. Nhưng so sánh với nhiều nước trong khu vực, Việt Nam sau 20 năm đổi mới vẫn bị coi là nước “chưa thân thiện” với FDI, khả năng cạnh tranh thu hút FDI còn thấp so với những điều kiện thuận lợi cho phép. Nguyên nhân chính là công tác dự báo trong môi trường kinh doanh ở nước ta kém chủ yếu do: bất cập trong hệ thống chính sách và quản lý; các chính sách kinh tế, luật pháp,... thay đổi luôn và lúc thực thi nhiều khi bị bóp méo. Thêm nữa, ta còn thiếu nhân lực cung cấp cho các dự án FDI.

Vì vậy, trong nhiều năm qua, không phải các tập đoàn bột, giấy lớn trên thế giới không quan tâm đến Việt Nam (IP của Mỹ - tập đoàn lớn nhất thế giới), doanh thu trước thuế một năm trên 27 tỷ USD, Trung Quốc, Ấn Độ,...) hết đoàn này đến đoàn khác đến tìm hiểu và không trở lại, trong khi tất cả các công ty giấy, bột lớn trên thế giới đều đổ xô đến Trung Quốc. Cũng có một số đề xuất liên doanh nghiêm túc, nhưng cũng không được chấp nhận.

2.6.4- Liên kết, hợp tác yếu.

Sự hợp tác trong nội bộ ngành kém, thậm chí một gia đình có 3 cơ sở sản xuất nhưng ông bố ngao ngán vì bị con trai, con dâu chèn ép. Hiện tượng phổ biến là cả một dãy phố công xưởng nhỏ dưới dạng “xí nghiệp ống” chen sát vách nhau thay cho một nhà máy và một khu dân cư. Hay 3 dây chuyền mới đầu tư cùng công suất, cùng xuất xứ thiết bị, của những người có quan hệ huyết thống, đặt cạnh nhau thay vì chung nhau

một dây chuyền có công suất lớn gấp 3 lần. Hàng năm, năng lực sản xuất giấy tăng trên 100.000 tấn/năm nhưng với cả chục dây chuyền máy, thay vì một vài dây chuyền. Nhiều công ty dù quy mô nhỏ, thiết bị lạc hậu, trình độ kỹ thuật và quản lý hạn chế nhưng rất không muốn cho ai vào xem vì sợ lộ “bí quyết”. Phương thức mua chịu, bán chịu phổ biến, nên khi một khâu gặp khó khăn sẽ kéo cả một dây khó theo (như sự sụp đổ đều đặn của quân cờ đôminô). Rất ít cơ sở công khai giá mua, giá bán, phần lớn đều tìm cách dò hỏi giá bán sản phẩm, giá mua nguyên liệu của người khác, còn giá bán, giá mua nguyên liệu của mình thì dấu kỹ. Hầu hết các doanh nghiệp đều mua nguyên liệu (bột giấy, hóa chất, vật tư,…) theo kiểu nhỏ lẻ, mua tức thì theo giá giao ngay.

2.7- Số liệu ngành giấy và dự báo.

Bảng 6: Sản xuất bột giấy. (* = dự báo theo phương pháp bình phương bé nhất).

Đơn vị: Tấn

Hàm dự báo xu hướng tuyến tính:

2008* Năm 2003 2004 2005 2006 2007*

y = 5.195x + 9.025

Công suất - - - - - -

Sản xuất - - - - - -

=> y2007 = 35.000 tấn. Và y2008 = 40.195 tấn.

Nhập khẩu 13.600 19.750 25.800 28.900 35.000 40.195

Xuất khẩu - - - - - -

Bảng 7: Giấy loại thu gom trong nước để tái xuất. (* = dự báo theo PP bình phương bé nhất).

Nguồn : Công nghiệp giấy

Đơn vị: Tấn

Hàm dự báo xu hướng tuyến tính:

Năm 2003 2004 2005 2006 2007* 2008*

Công suất: y = 78.292x + 292.794

Sản xuất: y = 44.292x + 337.794

Công suất 353.468 425.801 537.671 607.150 684.252 762.543

Sản xuất 383.468 415.801 487.671 507.150 559.252 603.543

Nhập khẩu: y = -10.000x + 85.000 Xuất khẩu: y = 33.000x + 10.000

Nhập khẩu 80.000 60.000 50.000 50.000 35.000 25.000

Xuất khẩu 50.000 70.000 100.000 150.000 175.000 208.000

Bảng 8: Sản xuất giấy và bìa. (* = dự báo theo phương pháp bình phương bé nhất).

Giấy in và viết có tráng phấn.

Nguồn : Công nghiệp giấy

Hàm dự báo xu hướng tuyến tính:

Đơn vị: Tấn

Công suất: y = 3.600x + 39.000

2008* Năm 2003 2004 2005 2006 2007*

Sản xuất: y = 4.500x – 5.000

Công suất 45.000 45.000 45.000 57.000 57.000 60.600

Nhập khẩu: y = 16.900x + 6.400

Sản xuất 5.000 5.000 15.000 0 17.500 22.000

Nhập khẩu 28.200 33.900 55.000 77.500 90.900 107.800

0 Xuất khẩu 0 0 0 0 0

Bảng 9: Sản xuất giấy và bìa. (* = dự báo theo phương pháp bình phương bé nhất).

Giấy in và viết không tráng phấn.

Nguồn : Công nghiệp giấy

Hàm dự báo xu hướng tuyến tính:

Đơn vị: Tấn

Công suất: y = 12.000x + 220.000

Năm 2003 2004 2005 2006 2007* 2008*

Sản xuất: y = 20.262x + 143.692

Công suất 220.000 260.000 260.000 260.000 280.000 292.000

Nhập khẩu: y = 2.335x + 13.217

Sản xuất 145.000 212.383 205.000 215.000 245.000 265.262

Xuất khẩu:y = 8.849x - 8.881

Nhập khẩu 17.217 17.000 17.000 25.000 24.892 27.226

Xuất khẩu 2.269 2.700 23.000 25.000 35.366 44.215

Bảng 10: Giấy làm bao bì (lớp mặt). (* = dự báo theo phương pháp bình phương bé nhất).

Nguồn : Công nghiệp giấy

Hàm dự báo xu hướng tuyến tính:

Đơn vị: Tấn

Công suất: y = 6.900x + 290.000

2008* Năm 2003 2004 2005 2006 2007*

Sản xuất: y = 31.980x + 156.400

Công suất 290.000 313.000 313.000 313.000 324.500 331.400

Nhập khẩu: y = 58.680x + 56.400

Sản xuất 203.400 199.000 250.000 293.000 316.300 348.280

Xuất khẩu:y = 1.468x + 6.181

Nhập khẩu 138.400 150.000 210.000 314.000 349.800 408.480

Xuất khẩu 7.456 9.450 10.500 12.000 13.522 14.990

Bảng 11: Giấy làm bao bì (lớp giữa).

(* = dự báo theo phương pháp bình phương bé nhất). Đơn vị: Tấn

Hàm dự báo xu hướng tuyến tính:

Nguồn : Công nghiệp giấy

Công suất: y = 5.500x + 160.000

2008* Năm 2003 2004 2005 2006 2007*

Sản xuất: y = 22.150x + 90.253

Công suất 161.000 170.000 172.000 172.000 177.500 181.000

Nhập khẩu: y = 63.598x - 4.060

Sản xuất 110.000 132.505 168.000 172.000 201.000 223.150

Xuất khẩu:y = 4.097x + 19.069

Nhập khẩu 74.440 100.000 188.300 257.000 313.930 377.528

Xuất khẩu 22.394 28.350 31.500 35.000 39.553 43.650

Nguồn : Công nghiệp giấy

Bảng 12: Giấy tráng phấn. (* = dự báo theo phương pháp bình phương bé nhất).

Hàm dự báo xu hướng tuyến tính:

Đơn vị: Tấn

Công suất: y = 20.100x - 11.000

Năm 2003 2004 2005 2006 2007* 2008*

Sản xuất: y = -2.080x + 21.100

Công suất 0 45.000 45.000 67.000 89.500 109.600

Nhập khẩu: y = -2.505x - 103.516

Sản xuất 18.600 20.000 10.000 15.000 10.700 8.620

Xuất khẩu:y = 630x - 1.050

Nhập khẩu 137.016 15.100 155.000 82.100 90.992 88.487

Xuất khẩu 0 0 0 2.100 2.100 2.730

Bảng 13: Giấy Tissue.

(* = dự báo theo phương pháp bình phương bé nhất).

Nguồn : Công nghiệp giấy

Hàm dự báo xu hướng tuyến tính:

Đơn vị: Tấn

Công suất: y = 2.250x – 56.750

Năm 2003 2004 2005 2006 2007* 2008*

Sản xuất: y = 7.737x + 27.716

Công suất 59.000 60.500 65.000 65.000 68.000 70.250

Nhập khẩu: y = 369x – 1.404

Sản xuất 33.000 46.832 51.000 57.400 66.400 74.137

Xuất khẩu:y = 4.056x - 1.648

Nhập khẩu 1.704 2.000 3.000 2.600 3.248 3.617

Xuất khẩu 3.148 13.000 15.000 16.000 21.926 25.982

Bảng 14: Giấy in báo. (* = dự báo theo phương pháp bình phương bé nhất).

Nguồn : Công nghiệp giấy

Hàm dự báo xu hướng tuyến tính:

Đơn vị: Tấn

Công suất: y = 40.000

Năm 2003 2004 2005 2006 2007* 2008*

Sản xuất: y = 7.189x + 21.055

Công suất 40.000 40.000 40.000 40.000 40.000 40.000

Nhập khẩu: y = 2.178x – 23.523

Sản xuất 27.000 38.019 41.000 50.000 57.000 64.189

Xuất khẩu:y = 60x - 234

Nhập khẩu 28.023 25.000 28.850 34.000 34.414 36.592

Xuất khẩu 234 400 500 400 533 593

Bảng 15: Giấy vàng mã. (* = dự báo theo phương pháp bình phương bé nhất).

Nguồn : Công nghiệp giấy

Hàm dự báo xu hướng tuyến tính:

Đơn vị: Tấn

Công suất: y = 6.000x + 120.000

Năm 2003 2004 2005 2006 2007* 2008*

Sản xuất: y = -2.089x + 104.945

Công suất 120.000 140.000 140.000 140.000 150.000 156.000

Xuất khẩu:y = 4.005x + 56.516

Sản xuất 105.000 99.890 94.000 100.000 94.500 92.411

Nhập khẩu 0 0 0 0 0 0

Xuất khẩu 60.916 63.200 70.000 72.000 76.542 80.547

Nguồn : Công nghiệp giấy

Bảng 16: Sản xuất giấy toàn ngành (* = dự báo theo phương pháp bình phương bé nhất).

Hàm dự báo:

Đơn vị: Tấn

Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2010 2020

y = 80.560x + 479.910

Sản xuất 538.200 642.000 753.000 824.000 850.000 1.204.950 2.010.550

Kết quả tính toán ở bảng 17 cho biết nhu cầu về sản xuất giấy đến năm 2010 là trên 1,2 triệu tấn, năm 2020 là trên 2 triệu tấn. Lượng bột giấy nhập khẩu theo đó sẽ tăng lên tương ứng. Mỗi tấn bột giấy theo giá hiện hành chênh lệch với giá sản xuất trong nước là 2 triệu đồng/tấn. Dự báo nhu cầu ngoại tệ sẽ là rất lớn cho ngành giấy để dùng vào việc thanh toán bột giấy nhập khẩu. Đó là chưa kể đến giá nguyên liệu sẽ biến động theo chiều hướng tăng qua các năm. Vì thế có thể nói một chiến lược phát triển nguyên liệu giấy ở Việt Nam là yếu tố sống còn đối với ngành giấy Việt Nam trong tương lai. 2.8- Hệ số thời vụ của sản phẩm giấy in và giấy viết. Giấy viết là một trong những sản phẩm giấy được tiêu thụ mạnh nhất ở Việt Nam. Loại sản phẩm này có tính chất thời vụ rõ rệt. Theo lệ thường niên, cứ vào quý III (đầu tháng 7 đến cuối tháng 8), các doanh nghiệp sản xuất tập vở học sinh chạy “đỏ đèn” để sản xuất tập vở học sinh cho năm học mới sẽ được khai giảng đầu tháng 9 hàng năm. Đây là thời điểm mà nhu cầu về giấy viết tăng cao nhất và cũng được tiêu thụ mạnh nhất trong năm.

Số liệu tại Công ty TNHH SXTM Trí Đức (DN chuyên sản xuất tập vở học

sinh) cho thấy tính chất mùa thông qua hệ số thời vụ được như bảng 17 dưới đây. Bảng 17: Hệ số thời vụ thể hiện tính chất mùa của sản phẩm tập học sinh.

Năm

Quý

Nhu cầu TB quý

Chỉ số mùa

Dự báo 2007

2003

2004

2005

2006

Nhu cầu TB mỗi quý 2003-2006

I

185,000

240,500

288,600

404,040

279,535

347,394

0.80

502,915

II

150,500

206,185

259,793

316,948

233,356

347,394

0.67

419,834

III

420,000

630,000

819,000 1,113,840

745,710

347,394

2.15

1,341,615

IV

159,500

48,315

135,607

180,472

130,974

347,394

0.38

235,636

Tổng

915,000

1,125,000 1,503,000 2,015,300

1,389,575

2,500,000

Nguồn: Công ty TNHH SXTM Trí Đức

2.500.000

Sản lượng (1.000 quyển)

x 0,80 = 502.915 quyển

1,200

N/C Quý I/2007 =

4

1,000

2.500.000

800

x 0,67 = 419.834 quyển

N/C Quý I/2007 =

4

600

400

2.500.000

x 2,15 = 1.341.965 quyển

200

N/C Quý I/2007 =

4

0

2003

2004

2005

2006 Năm

2.500.000

Quý 1

Quý 2

Quý 3

Quý 4

x 0,38 = 235.636 quyển

N/C Quý I/2007 =

4

Định lượng giấy viết dùng làm tập học sinh theo tiêu chuẩn Việt Nam là từ 50 đến 80 g/m2. Tại Công ty Trí Đức, phân khúc thị trường tập trung vào học sinh cấp 1, 2 và 3, nên định lượng giấy được dùng cho sản phẩm này là từ 58 đến 70 g/m2. Trong đó, loại giấy Fort có độ trắng 90 ISO định lượng 60g/m2 là được dùng nhiều nhất, chiếm tỷ trọng 90,5%.

Khổ giấy dùng để sản xuất tập học sinh (in và kẻ) là 65 cm x 83 cm. Nếu tính định lượng trung bình 60g/m2 thì lượng giấy tiêu thụ hàng năm từ 2003 đến năm 2006 như sau (quy ra từ tập):

- Số quyển trên 1 Ram: 167. Tức là 1 ram giấy khổ 65 x 83 với số tờ 500 sản

xuất được 167 quyển (đã trừ hao hụt tổn thất trong quá trình kẻ, in offset là 4%).

- Số kg/Ram định lượng 60: 0,65m x 0,83m x 0,06 kg/m2 x 500 tờ/Ram =

16,185 kg/Ram.

- Do đó, 1 tấn giấy tương đương: 59,47Ram. Tương đương 9.931 quyển/tấn.

Vậy sản lượng giấy viết dùng để sản xuất tập học sinh của Công ty Trí Đức từ

năm 2003 đến năm 2006 là:

Bảng 18: Dự báo sản lượng giấy viết năm 2007 của công ty Trí Đức.

Năm (tấn)

Quý

2003

2004

2005

2006

Dự báo 2007

I

18.63

24.22

29.06

40.68

50.64

II

15.15

20.76

26.16

31.91

42.28

III

42.29

63.44

82.47

112.16

135.09

IV

16.06

4.87

13.65

18.17

23.73

Tổng

92.14

113.28

151.34

202.93

251.74

2.9- Phân tích hoạt động kinh doanh của Công ty Giấy Tân Mai.

Công ty cổ phần giấy Tân Mai tiền thân là Công ty Giấy Tân Mai (100% vốn nhà nước, thực hiện hình thức công ty cổ phần từ 27/11/2006) với vốn điều lệ là 348 tỷ đồng (Nhà nước: 60,03%, CNV: 6,77%, bên ngoài 33,2%), đang bán đấu giá 20% vốn nhà nước hiện có tại công ty nhằm giảm phần vốn nhà nước hiện có trong doanh nghiệp, tiến tới niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.

Hiện nay năng lực sản xuất giấy của công ty là 120.000 tấn/năm với 4 máy xeo chính (PM1, PM2, PM3 và PM4). PM1 và PM2 là máy xeo lưới dài của Black Clawson, tốc độ 250m/phút, công suất 30 tấn/ngày, khổ máy 2,84 mét. PM3 là máy xeo lưới đôi Valmet hiệu Allimand, tốc độ 600 m/phút, công suất 120 tấn/ngày, khổ máy 4,8 mét được đưa vào vận hành năm 1990 và đã 4 lần được nâng cấp. Hiện MP3 là máy xeo giấy in báo hiện đại nhất Việt Nam. MP4 là máy sản xuất giấy tráng phấn (Couché) tại Nhà máy giấy Bình An được đầu tư mới đây, sử dụng công nghệ đồng bộ của Đức, công suất 45.000 tấn/năm. Năng lực sản xuất bột là 90.000 tấn/năm.

Công ty có 29.284 ha rừng. Tổng diện tích rừng trồng nguyên liệu giấy là 15.604 ha với 4.269 ha cây keo lai đang sinh trưởng và phát triển ổn định, còn lại 11.335 ha là rừng thông. Nhờ đó công ty tự túc được 75% nguyên liệu sản xuất bột giấy. Hiện công ty tự cung 100% nguyên liệu bột trong sản xuất giấy in báo. Còn đối với giấy in, giấy viết và giấy tráng phấn công ty phải nhập bột hóa tẩy trắng. Công ty có 2 sản phẩm chủ lực là giấy in báo (thay thế cho giấy in báo nhập từ Indonesia và Philipine) với sản lượng trên 50.000 tấn/năm và giấy couché với sản lượng 45.000 tấn/năm. Ngoài ra giấy in, giấy viết, giấy photocopy Tân Mai có chất lượng cao được người dùng thay giấy ngoại nhập. Giấy ram Tân Mai đã trở thành thương hiệu quen thuộc với người tiêu dùng. Đặc biệt, tháng 11/2005 công ty đã xuất 2 container giấy màu các loại-khổ A4 đầu tiên sang Singapore, mở đầu cho việc xuất khẩu giấy Tân Mai. Năm 2006, công ty đẩy mạnh sản xuất giấy in báo (do có lợi thế về nguồn nguyên liệu và công nghệ) đã chiếm được 70% thị trường cả nước.

Tốc độ tăng trưởng doanh thu các năm qua tăng khá. Năm 2004 so với 2003 là 11%, năm 2005 tăng lên 43% (nguyên nhân chủ yếu là sáp nhập Nhà máy giấy Bình An). Đến hết tháng 9 doanh thu của công ty đạt 857 tỷ đồng.

Lợi nhuận năm 2005 bị ảnh hưởng nặng do dây chuyền sản xuất giấy tráng phấn ở Nhà máy Giấy Bình An mới đầu tư chưa khai thác thương mại. Đến tháng 9/2006, lợi nhuận đạt được là 10,8 tỷ đồng, bất chấp giá bột nhập ngoại tăng cao nhờ cắt giảm chi phí sản xuất (chi phí quản lý giảm từ 3,84% xuống còn 2,42%).

Thời gian tới công ty nỗ lực nâng thương hiệu Giấy Tân Mai; mở rộng kinh doanh, niêm yết trên thị trường chứng khoán, thực hiện các biện pháp nâng cao hiệu

quả sản xuất kinh doanh, nâng cao lợi tức cho cổ đông, kết hợp liên doanh liên kết với các đối tác với nhiều hình thức nhằm tăng cường khả năng và sức mạnh của công ty với những kế hoạch cụ thể trong 3 năm tới (2007-2009). Chú trọng đầu tư phát triển rừng nguyên liệu liên kết với các đối tác để tăng nhanh diện tích rừng trồng đảm bảo nguyên liệu gỗ cho nhu cầu phát triển những năm tới. Mỗi năm trồng 1.700 - 2.200 ha rừng. Năm 2007 dự kiến khai thác 70.000 m3, đến năm 2009 là 106.000 m3 đáp ứng từ 63% đến 90% nhu cầu gỗ nguyên liệu cho dây chuyền sản xuất bột giấy.

Sản lượng bột giấy sản xuất những năm tới đạt trung bình 60.000 tấn/năm (tự đảm bảo 55% đến 60% nhu cầu bột giấy). Công ty tự đảm bảo được 100% bột gỗ cho sản xuất giấy in báo. Để sản xuất giấy tráng phấn, công ty phải tiếp tục nhập bột hóa tẩy trắng. Để chủ động công ty sẽ nhập bột bằng những hợp đồng dài hạn.

2.10- Tương quan giữa tăng diện tích rừng trồng và sản lượng giấy in báo.

Từ 1995, công ty Giấy Tân Mai đã đầu tư và triển khai trồng rừng nguyên liệu giấy trên cơ sở diện tích 29.284 ha rừng được giao. Tốc độ tăng diện tích rừng trồng hàng năm trên 10%. Đây là một trong những công ty đi tiên phong về lĩnh vực trồng rừng với mục tiêu là tự cung nguyên liệu đầu vào, hạn chế nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ.

Bảng 19: Diện tích và sản lượng giấy từ 1996 đến 2002.

NỘI DUNG

NĂM

1998

1999

2000

2002

2003

2004

2001

9.958

10.955

12.050

13.698

13.890

14.185

15.604

Diện tích rừng Nguyên liệu giấy (ha)

16.339

19.646

27.625

29.946

32.431

36.242

40.322

Sản lượng tiêu thụ (tấn)

-Miền Bắc

666

5.470

8.721

11.845

11.871

13.509

14.242

-Miền Nam

15.377

13.470

18.074

17.252

19.312

21.091

24.503

-Miền Trung

296

706

830

849

1.248

1.642

1.577

-Diện tích rừng trồng nguyên liệu giấy bình quân (Bảng 20):

Bảng 20: Tính toán mối tương quan. (Xem Phụ lục 5).

Năm

DT (ha) (xi)

SL (tấn) (yi)

1998

16.339

9.958

1999

19.646

10.955

2000

27.625

12.050

2001

29.946

10.250

2002

32.431

13.890

2003

36.242

14.185

2004

40.322

15.604

Nguồn: Công ty Giấy Tân Mai

Tổng

202.551

86.893

Hàm hồi quy sẽ là: Sản lượng giấy = -13.445 + 3,42 x DT rừng trồng NL

*Sai số chuẩn: Sxy = 4.713 tấn.

45,000

40,000

35,000

30,000

25,000

20,000

10,000

12,000

14,000

16,000

Công ty Giấy Tân Mai dự kiến năm 2007, diện tích rừng trồng nguyên liệu giấy sẽ đạt 22.000 ha. Khi đó, sản lượng giấy in báo (sản xuất từ nguồn nguyên liệu tự cung) sẽ là:

Sai số chuẩn

y2007 = -13.445 + 3,42 x 22.000 = 61.795 tấn.

Hệ số tương quan: Ryx = 0,87 Ryx mang dấu dương chứng tỏ quan hệ giữa tăng sản lượng diện tích trồng rừng và sản lượng giấy tương quan thuận. Hơn nữa, trị số R = 0,87 khá gần 1 chứng tỏ diện tích trồng rừng và sản lượng giấy có tương quan rất chặt chẽ. Điều đó có nghĩa rằng tăng diện tích rừng trồng nguyên liệu giấy phải được coi là chiến lược ưu tiên số 1 bảo đảm cho Công ty chiếm giữ vị thế cạnh tranh, tiếp tục tăng trưởng và phát triển vững chắc.

2.11- Tình hình sản xuất và tiêu thụ giấy một số quốc gia-Những kinh nghiệm mà Việt nam có thể vận dụng.

2.11.1- Hiệp hội bột giấy và giấy Trung Quốc.

Với tổng sản lượng 43 triệu tấn giấy và carton năm 2003, Trung Quốc hiện nay đã trở thành nước có sản lượng giấy đướng thứ hai thế giới sau Mỹ. Trung Quốc hy vọng sẽ đạt tổng sản phẩm giấy và carton là 68,5 triệu tấn vào năm 2010. Dự kiến đến năm 2010, công nghiệp sản xuất giấy và carton của Trung Quốc sẽ tiêu thụ khoảng 60 triệu tấn bột các loại mỗi năm, đó là: giấy loại, bột phi gỗ, bột gỗ. Trong đó bột gỗ sẽ chiếm khoảng 25% tổng nhu cầu về bột của sản xuất giấy các loại ở Trung Quốc. Bột Kraft từ gỗ tẩy trắng hy vọng sẽ đáp ứng 2/3 nhu cầu, phần còn lại là bột gỗ không tẩy, bột gỗ cơ và bán cơ.

Thực hiện kế hoạch phát triển 5 năm lần thứ X của Trung Quốc, lãnh đạo ngành lâm nghiệp đã dành sự ưu tiên cho việc thiết lập rừng trồng cây gỗ mọc nhanh- năng suất cao, và coi đây là một trong những chương trình nồng cốt của quốc gia về phát triển rừng. Trọng tâm của sáng kiến thiết lập rừng trồng cây gỗ mọc nhanh-năng suất cao là mở rộng khả năng cung cấp gỗ thương mại trong nước cho công nghiệp chế biến, đặc biệt là cho công suất mới của các nhà máy sản xuất bột gỗ.

Theo kế hoạch chiến lược thuộc chương trình bảo vệ rừng quốc gia, chính phủ đã lập kế hoạch ngân sách 8,6 tỷ USD để tài trợ cho việc phát triển 13,3 triệu ha rừng trồng cao sản trong giai đoạn 2001-2015. Khoảng 5,8 triệu ha, xấp xỉ 45% tổng diện tích mà mục tiêu chương trình đặt ra dự định sẽ được trồng rừng cây gỗ mọc nhanh cung cấp nguyên liệu cho sản xuất bột gỗ. Chương trình này dự kiến triển khai trên 4 vùng địa lý ưu tiên như trong bảng 21 dưới đây.

Bảng 21: Diện tích rừng trồng nguyên liệu gỗ theo phân vùng, 2001 – 2015.

Vùng

Tỉnh

Tổng diện tích

Diện tích cho bột gỗ

Tỷ lệ % DT bột gỗ / tổng số

Vùng biển phía Nam

1,9 triệu

1,4 triệu

74 %

Quangdong, Quangxi Hainan, Fijjan

Zhejjang, jjangxi, Hubei

3,0 triệu

1,3 triệu

43 %

Trung lưu và hạ lưu sông Giang Tô

Habei, Henan, Shandong

1,0 triệu

0,8 triệu

80 %

7,2 triệu

2,4 triệu

33 %

Trung lưu và hạ lưu sông Hoàng Hà Đông Bắc Trung Quốc/Vùng Nội Mông

Vùng Nội Mông, Liaoning, Heilongjang, Jilin

Nguồn : Công nghiệp giấy

Chính phủ Trung Quốc cơ cấu chương trình trồng rừng cao sản thành 99 dự án ưu tiên. Chúng đủ điều kiện để nhận được nguồn vốn ưu đãi để phát triển rừng trồng cây mọc nhanh. 39/99 dự án tham gia trồng rừng nguyên liệu bột gỗ. Theo kế hoạch của chính phủ, việc phát triển rừng trồng này sẽ được ưu đãi thông qua: trợ cấp lãi suất tiền vay, giảm lãi suất tiền vay từ ngân hàng nhà nước và tăng thời hạn cho vay.

Cụ thể vốn cho các dự án ưu tiên trồng rừng cây gỗ mọc nhanh sẽ được vay

từ 4 nguồn khác nhau:

-Ngân hàng quốc gia sẽ đáp ứng 70% tổng vốn của chương trình trồng rừng cao sản, tương đương với 6,1 tỷ USD. Với hình thức giảm lãi suất tiền vay cho các lâm trại quốc doanh, các công ty lâm nghiệp tư doanh và hợp tác giữa các nông dân. Ngân hàng phát triển và Ngân hàng nông nghiệp Trung Quốc, trong trường hợp đặc

biệt, sẽ cung cấp nguồn vốn cho vay với lãi suất giảm và mở rộng thời hạn cho vay 10 - 15%.

-Bộ Tài chính sẽ cấp 20% tổng số vốn cho chương trình trồng rừng cao sản,

xấp xỉ 1,7 tỷ USD thông qua hỗ trợ lãi suất tiền vay.

-Các công ty được vay vốn ưu đãi để thực hiện dự án chịu trách nhiệm đóng góp

7% nguồn vốn dự án của họ từ nguồn vốn tự có hoặc từ các nguồn thương mại khác.

Với các dự án ưu tiên, thể chế này cho phép được vay vốn với lãi suất thấp hơn tới 10% so với lãi suất cơ bản của Ngân hàng trung tâm. Nguồn vốn này thường cho vay với chu kỳ dài hơn, trong một số trường hợp kéo dài tới 10 - 15 năm.

Tỷ trọng bột giấy từ gỗ tăng lên rất cao từ 19,94% năm 1995 lên đến 47,28% năm 2005, trong khi bột giấy sản xuất từ nguyên liệu phi gỗ giảm từ 80,06% xuống còn 52,72% trong cùng một thời gian. Sản xuất giấy ở Trung Quốc đã đạt được tăng trưởng bình quân hàng năm 8,8% trong giai đoạn từ 1995 đến 2005. Mức tăng trưởng đã lên tới 12,9% kể từ năm 2000 khi đầu tư mới trong sản xuất giấy tăng mạnh. Mức tăng trưởng bình quân tiêu dùng nguyên liệu thô trong thời gian từ năm 1995 đến 2005 là 9,1%, mức này trong 6 năm gần đây kể từ năm 2000 là là 13,9%. Đặc biệt năm 2005 có mức tăng trưởng rất cao 17,3% so với năm 2004. (Bảng 22).

Bảng 22: Tiêu dùng giấy theo chủng loại.

Đơn vị: 1.000 tấn

16,50

59,90

2.830 19,94 2.010 820

5.350 32,42 2.000 3.350

Bột giấy từ gỗ Tỷ trọng (%) -Sản xuất -Nhập khẩu Bột giấy phi gỗ Tỷ trọng (%)

54,88

67,58

Tổng

Tốc độ tăng trưởng bình quân (%) 1995 2000 2002 2004 Nội dung 2005 1995-2000 2000-2005 2005/2004

16,10 13,20 17,80 2,50 7,7

9.700 11.300 7.400 47,28 45,12 40,00 3.710 2.380 2.140 7.590 7.320 5.260 11.360 11.150 11.100 11.800 12.500 80,06 52,72 60,00 14.190 16.500 18.500 21.500 23.900

14,80 6,30 3,70 24,90 6,80 1,00 11,20 5,4 Nguồn : Công nghiệp giấy

Bảng 23: Tiêu dùng nguyên liệu thô.

Đơn vị: 1.000 tấn

Bột

14.190

16.500

18.500

21.500

23.900

5,40

7,70

11,20

-Sản xuất

13.370

13.150

13.240

14.180

16.310

2,00

4,40

15,00

-Nhập khẩu

820

3.350

5.260

7.320

7.590

24,90

17,70

3,70

Giấy loại

10.500

14.250

20.250

28.810

35.130

12,80

19,80

21,90

Tổng

Tốc độ tăng trưởng bình quân (%) 1995 2000 2002 2004 Nội dung 2005 1995-2000 2000-2005 2005/2004

24.690

30.750

38.750

50.310

59.030

9,10

13,90

17,30

Nguồn : Công nghiệp giấy

Năm 1995, tổng lượng bột nhập khẩu vào Trung Quốc đạt 820.000 tấn, chiếm khoảng hơn 5,8% tổng lượng bột sử dụng. Tỷ lệ này đã tăng vọt lên 31,8% trong năm 2005 với 7,59 triệu tấn bột nhập khẩu. (Bảng 24). Bảng 24: Thị trường tiêu dùng bột thế giới.

Đơn vị: 1.000 tấn

Tốc độ tăng trưởng bình quân (%) 1995 2000 2002 2004 Nội dung 2005 2000-2005 2005/2004

955 7.005 20.940 2.180 17.320 7.320 905 6.745 19.565 2.120 14.645 5.265

Canada Hoa Kỳ Châu Âu Mỹ la tinh Châu Á/Châu Phi Riêng Trung Quốc Châu Đại Dương 820 2,30% 215 Tổng 905 1.010 1.050 7.670 7.350 6.125 21.240 17.055 18.970 2.200 1.910 1.825 17.855 9.900 12.260 3.345 7.590 8,00% 11,90% 15,00% 15,10% 345 50.215 315 36.260 41.815 385 44.365 420 48.820 -1,50 2,30 2,20 1,90 6,00 24,90 4,80 3,30 -2,20 0,90 2,30 2,90 78,00 17,80 1,80 3,70 Nguồn : Công nghiệp giấy3/2007

Indonesia có 81 đơn vị sản xuất bột và giấy, trong đó có 3 đơn vị thành viên do nhà nước quản lý, 66 đơn vị là doanh nghiệp trong nước và 12 đơn vị do nước ngoài. Công suất sản xuất bột là 5,23 triệu tấn/năm, sản xuất giấy là 9,12 triệu tấn/năm.

Bảng 25: Tình hình sản xuất, tiêu thụ và xuất nhập khẩu bột, giấy của Indonesia.

2.11.2- Hiệp hội bột giấy và giấy Indonesia.

1999

2000

1- Bột giấy (tấn)

3.989.550 768.590 1.328.930 3.429.210

3.694.630 956.960 1.179.400 3.472.190

Sản xuất Nhập khẩu Xuất khẩu Tiêu thụ trong nước

1999

2000

2- Giấy loại (tấn)

1.698.740 1.428.160 22.220 3.104.680

1.682.970 2.035.970 0 3.718.820

Sản xuất Nhập khẩu Xuất khẩu Tiêu thụ trong nước

1999

2000

3- Giấy bìa các loại (tấn)

Sản xuất Nhập khẩu Xuất khẩu Tiêu thụ trong nước

6.720.560 143.800 3.394.320 3.470.040 200

6.849.000 212.630 3.105.470 3.956.160 203,5

4- Dân số (triệu người)

17,3

19,4

5- Mức tiêu thụ giấy bình quân đầu người (kg/người/năm)

Năm 2005, Indonesia xuất khẩu trên 7,8 triệu tấn giấy (trong đó có các loại giấy in, viết chiếm trên 6 triệu tấn), giấy lớp mặt, giấy làm túi, bìa, giấy thuốc lá,…chiếm trên 900.000 tấn, còn lại là các loại giấy khác.

Nguồn: Thông tin công nghiệp giấy 7-2001

2.11.3- Cấu trúc ngành công nghiệp bột giấy và giấy CHLB Nga trong điều

kiện toàn cầu hóa.

Sơ đồ 8: Cấu trúc ngành công nghiệp rừng và công nghiệp chế biến lâm sản CHLB Nga

Khai thác rừng

Trồng rừng và tái sinh rừng

Chế tạo phôi CN chế tạo máy CN chế biến gỗ và SX xuất ván CN SX ván sợi ép

CN hóa chất CN bột giấy và giấy

Hóa gỗ

Thu gom giấy loại

SX giấy in báo Đồ gỗ dân dụng Ván VLXD nhà ở

SX giấy tráng

Hoạt động của cấu trúc này bắt nguồn từ một môi trường xác định và từ những điều kiện xác định. Những điều kiện này lại là tổng thể của rất nhiều yếu tố khác nhau. Sự liên kết giữa các tập đoàn có thể điều chỉnh được các yếu tố bên ngoài, thậm chí có thể chi phối một vài trong số các yếu tố đó. Ngay cả với những yếu tố bên trong, các tập đoàn sẽ có những thành công hơn so với khả năng mà xí nghiệp nhỏ có thể làm. Ngày nay, vai trò quyết định của toàn bộ ngành lâm nghiệp Nga là ngành công nghiệp bột giấy và giấy với một cấu trúc toàn phần theo một trục xuyên suốt và một chu trình công nghệ hoàn thiện: từ giai đoạn trồng rừng cho đến khi có sản phẩm cuối cùng. Tuy nhiên suất đầu tư cao và lợi nhuận ít ỏi đã hạn chế đầu tư một cách tích cực vào ngành công nghiệp bột giấy và giấy. Thực tế này buộc nhà nước phải trở thành các nhà đầu tư chiến lược. (sơ đồ 8).

Tissue SX giấy in offset Giấy bao gói Giấy và Carton

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.

Thực trạng ngành giấy qua những phân tích trong chương 2 này đã chỉ ra được một điều quá rõ ràng : non kém, sức sản xuất yếu, tổ chức sản xuất rời rạc và manh mún, cục bộ. Hiện tượng giấy ngoại nhập tăng qua mỗi năm là một thực tế đáng buồn nhưng không còn cách nào khác nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước. Sản xuất trong nước chỉ đáp ứng 60% nhu cầu, còn lại nhập khẩu tới 40%. Bột giấy tự sản xuất toàn ngành chỉ đáp ứng được 43%, một khoản ngoại tệ “cho không” nước ngoài để đổi lấy bột giấy cho sản xuất trong nước lên tới hơn 40 triệu USD (Xem phụ lục 5). Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh trong những năm gần đây khiến nhu cầu về giấy tăng theo. Áp lực về cung càng trở nên nặng nề đối với các doanh nghiệp ngành giấy trong nước. Chúng ta đã thua ngay trên sân nhà. Chúng ta hiểu rất rõ về lợi thế so sánh, tiềm năng vô tận của tài nguyên rừng nhưng vận dụng chúng lại là quá kém cỏi.

Thế trận WTO đã đẩy nhiều ngành nước ta vào cái thế không còn đường lùi, tiến lên bằng mọi giá là con đường duy nhất và tất yếu. Để phát triển nguồn nguyên liệu giấy Việt Nam, Nhà nước cần ban hành và thực thi những chính sách gì? Diện tích rừng trồng nguyên liệu giấy cần được quy hoạch ra sao? Về phía doanh nghiệp cần chủ động sản xuất kinh doanh trong bối cảnh hội nhập như thế nào? Trả lời những câu hỏi ấy chính là phương cách mà chúng ta hành động nhằm đưa ngành công nghiệp giấy Việt Nam vươn lên trong thế chủ động chiếm lấy một vị thế mới trên thế giới. Những giải pháp và kiến nghị trong chương 3 tiếp theo dưới đây cũng không nằm ngoài mục tiêu phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam trong tương lai một cách căn bản và bền vững.

Xuất phát từ những nhận định, phân tích tình hình thực tiễn được nêu trong nội dung chương 2 trên, các giải pháp được đề xuất không nằm ngoài mục đích đưa ngành giấy Việt Nam phát triển vững chắc bền vững dựa trên cơ sở phát triển nguồn nguyên liệu, bởi nguồn nguyên liệu chính là sự sống của ngành giấy. Các nhóm giải pháp nhằm phát triển nguồn nguyên liệu giấy ở Việt Nam như sau:

3.1- Định hướng, quan điểm và mục tiêu phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam.

3.1.1- Về định hướng phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam.

Quyết định 160/1998/QĐ-TTg ngày 04/9/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp giấy đến năm 2010 đã nêu rõ : “Mục tiêu của ngành công nghiệp giấy đến năm 2010 là khai thác và phát triển các nguồn nhân lực sản xuất, bảo đảm 85-90% nhu cầu tiêu dùng trong nước, từng bước tham gia hội nhập khu vực. Đổi mới thiết bị và hiện đại hóa công nghệ, kết hợp hài hòa giữa đầu tư xây dựng mới với đầu tư chiều sâu, mở rộng các cơ sở hiện có, phát triển vùng nguyên liệu, cân đối giữa tiêu dùng và sản xuất, xuất nhập khẩu, tăng sản lượng, đảm bảo chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa, góp phần tăng trưởng kinh tế, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

Chủ trương và quan điểm của chính phủ về mặt vĩ mô đối với chiến lược phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam là hết sức đúng đắn, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên việc thực hiện quyết định 160 rất khó khăn, một số chỉ tiêu cơ bản đã không đạt được. Xuất phát từ thực tế diễn biến của sự phát triển của ngành công nghiệp giấy Việt Nam, Bộ Công nghiệp đã ra Quyết định số 2727/QĐ-TDTP ngày 15/10/2004 giao cho Tổng Công ty Giấy Việt Nam thực hiện lập quy hoạch điều chỉnh phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam và vùng nguyên liệu giấy đến 2010, tầm nhìn 2020.

3.1.2- Quan điểm phát triển.

Công nghiệp giấy là một ngành kinh tế quan trọng, cần được ưu tiên phát triển phù hợp với đường lối đổi mới của nền kinh tế đất nước, với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp giấy phải được quy hoạch phát triển theo các khu vực tập trung với quy mô đủ lớn (công suất nhà máy giấy từ 100.000 đến 150.000 tấn/năm trở lên, công suất nhà máy bột giấy từ 200.000 đến 250.000 tấn/năm trở lên) để đảm bảo điều kiện hiện đại hóa và hiệu quả kinh tế.

Phát triển ngành công nghiệp giấy phải kết hợp với việc phát triển các vùng nguyên liệu giấy, coi trọng lợi ích, quyền lợi của người trồng rừng. Quan điềm này cần được thể hiện qua các chính sách ưu đãi đối với việc phát triển các vùng nguyên liệu giấy, cụ thể là cần coi cây nguyên liệu giấy như một loại cây công nghiệp, từ đó có các chính sách về quy hoạch đất trồng cây nguyên liệu giấy. Đất trồng cây nguyên liệu giấy phải được quy hoạch với diện tích đủ lớn, để có thể tập trung cơ giới hóa khâu trồng, chăm sóc, khai thác rừng, đồng thời có điều kiện để thâm canh và áp dụng các công nghệ mới nhằm đạt năng suất cao.

Các dự án đầu tư mới, quy mô lớn nhằm nâng cao sức cạnh tranh của ngành công nghiệp giấy cần ưu tiên sử dụng công nghệ tiên tiến, phù hợp với chủng loại và chất lượng của dự án. Phát triển ngành công nghiệp giấy không phân biệt thành phần kinh tế, đồng thời phải dựa trên cơ sở đa dạng hóa các nguồn lực trong nước và nước ngoài, có chính sách hợp lý để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp, tham gia thị trường chứng khoán để tạo điều kiện huy động vốn từ các nhà đầu tư vào ngành giấy.

Phát triển vùng nguyên liệu giấy phải dựa trên cơ sở thâm canh với các loài cây phù hợp, tập trung với điều kiện đất đai, khí hậu tốt. Xây dựng vùng nguyên liệu giấy phải gắn với lợi ích của người trồng rừng, thông qua các chính sách ưu đãi ưu tiên cụ thể, nhất là đối với các vùng kinh tế khó khăn, địa hình trải rộng, phức tạp,... Vùng nguyên liệu cho nhà máy bột giấy không lệ thuộc vào ranh giới hành chính, mà phải được cân nhắc trên quan điểm phạm vi thu hút nguyên liệu và lợi thế cạnh tranh, gắn với địa phương kém phát triển kinh tế-xã hội.

3.1.3- Mục tiêu phát triển.

Giai đoạn 2005 - 2010:

Phát huy tối đa công suất thiết bị để gia tăng sản xuất các mặt hàng giấy và bột giấy đáp ứng khoảng 70% nhu cầu tiêu dùng trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm giấy in, giấy tissue và một số loại giấy khác,... Đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án nhà máy và vùng nguyên liệu tại Thanh Hóa, Bãi Bằng giai đoạn II và một số dự án khác để dần dần giảm sự mất cân đối giữa sản xuất bột giấy và sản xuất giấy.

Giai đoạn 2010 - 2020: Xây dựng ngành công nghiệp giấy Việt Nam với công nghệ hiện đại, hình thành các khu vực sản xuất giấy, bột giấy tập trung với công suất lớn, tạo điều kiện để xây dựng tập đoàn công nghiệp giấy Việt Nam. Đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng giấy, tạo thế cạnh tranh với các thị trường trong khu vực và quốc tế.

Về chỉ tiêu sản lượng: Với tốc độ tăng trưởng bình quân 10-11%/năm trong cả thời kỳ từ 2006 đến năm 2020, các chỉ tiêu về sản lượng bột và giấy dự kiến như sau: sản lượng giấy sản xuất trong nước đạt 1.380.000 tấn/năm 2010 và dự kiến đạt 3.600.000 tấn/năm 2020. Sản lượng bột giấy sản xuất trong nước đạt 600.000 tấn/năm 2010 và dự kiến đạt 800.000 tấn/năm 2020.

3.2- Giải pháp về quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu giấy:

Thứ nhất, giống cây trồng là yếu tố vô cùng quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và nâng cao hiệu quả sản xuất. Do đó, ngoài việc đầu tư nghiên cứu tuyển chọn một số giống cây ở địa phương, Nhà nước và các cơ quan nghiên cứu cần tập trung nghiên cứu lai tạo và nhập nội các giống cây mới, đặc biệt với các loại cây trồng ngắn ngày ở các vùng khác nhau để có năng suất cao, chất lượng tốt và có khả năng kháng sâu bệnh cao. Đồng thời, triển khai đưa giống cây mới đã qua khảo nghiệm vào sản xuất đại trà ở các vùng, từng bước thay thế các giống cũ của địa phương.

Thứ hai là phải tăng cường công tác đầu tư vào việc thâm canh tăng vụ, đặc biệt là tăng mức đầu tư phân bón và vật tư nông nghiệp, tăng cường áp dụng các kỹ thuật tiến bộ, các quy trình thâm canh tiên tiến vào sản xuất đại trà.

Thứ ba, phải tiến hành nâng cao trình độ dân trí cho người nông dân để họ

tiếp thu các hướng dẫn kỹ thuật tiên tiến.

Thứ tư, vai trò của các cơ quan, tổ chức nhà nước trong việc chỉ đạo sản xuất, khuyến nông, nghiên cứu khoa học, thông tin thị trường, tư vấn đầu tư, cho nông dân vay vốn với lãi suất ưu đãi...

3.2.1- Tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu.

Nhà nước cần sớm ban hành khung pháp lý về hợp đồng đầu tư, thu mua sản phẩm giữa các doanh nghiệp và các hộ nông dân (theo tinh thần Quyết định số 80/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng) để các doanh nghiệp có thể đầu tư vốn cho nông dân trồng nguyên liệu cho nhà máy. Có như vậy, các nhà sản xuất sẽ giảm được những bấp bênh về cung nguyên liệu và người nông dân cũng thấy yên tâm khi sản xuất. Ngoài ra, Nhà nước nên hỗ trợ các địa phương, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, xây dựng các mô hình kiểu mẫu về phát triển thâm canh cây nguyên liệu giấy cho bà con tham quam, học hỏi kinh nghiệm để nhân rộng ra.

Để các vùng nguyên liệu có điều kiện tái sản xuất mở rộng, các nhà máy sản xuất nguyên liệu bột giấy cần đi trước một bước. Giai đoạn đầu có thể sử dụng nguyên liệu nhập và sử dụng một phần nguyên liệu trong nước như hiện nay đang

làm, sau đó từng bước thay thế bằng nguyên liệu trong nước theo từng thời kỳ phát triển vùng nguyên liệu giấy. Bố trí các cơ sở sản xuất ở gần vùng trồng cây nguyên liệu tập trung lớn nhằm tận dụng cơ sở hạ tầng sẵn có, giảm bớt chi phí ban đầu, hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh đối với nguyên liệu nhập ngoại, đặc biệt có thể kết hợp nguyên liệu trong nước lẫn nguyên liệu nhập khẩu.

3.2.2- Chính sách hỗ trợ của nhà nước để phát triển vùng nguyên liệu giấy một cách bền vững.

-Thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngành kinh tế, giữa các tổ chức Nhà nước, giữa các doanh nghiệp với chính quyền và giới khoa học trong việc thực hiện quy hoạch vùng nguyên liệu, xúc tiến phát triển cây nguyên liệu giấy đồng bộ từ nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng giống mới đại trà, áp dụng các phương pháp thâm canh khoa học, tổ chức thu mua bao tiêu sản phẩm cho nông dân.

-Nâng cao chất lượng các đề tài nghiên cứu khoa học thông qua hiệu quả sản xuất và thương mại hóa các hoạt động nghiên cứu khoa học, tạo mối liên kết giữa nghiên cứu và ứng dụng trong sản xuất kinh doanh.

-Thành lập một cơ quan chuyên nghiên cứu sản xuất giống cây nguyên liệu giấy có năng suất cao, chất lượng tốt để giúp nông dân tăng năng suất, tăng thu nhập và hạ giá thành sản phẩm.

-Có chương trình xúc tiến, hỗ trợ nông dân sử dụng giống cây mới năng suất

cao thông qua các chương trình hỗ trợ nông dân.

Quy hoạch phát triển nguyên liệu giấy đã được chia thành 6 vùng, gồm: Vùng nguyên liệu trung tâm, Vùng Đông Bắc, Vùng Tây Bắc, Vùng Bắc Trung bộ, Vùng Duyên Hải Trung bộ, Vùng Bắc Tây Nguyên. Cả 6 vùng nguyên liệu trên được đầu tư phát triển trên nguyên tắc: đầu tư cho nguyên liệu phải đi trước một bước, khi nguyên liệu sẵn sàng sẽ đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất bột giấy với quy mô phù hợp. Căn cứ vào đặc điểm loài cây trồng rừng, tiến độ cung cấp nguyên liệu để xác định thời điểm xây dựng nhà may bảo đảm sự hài hòa, thống nhất giữa khả năng chế biến và cung cấp nguyên liệu. Quyết định 160/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 04/9/1998 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Công nghiệp giấy đến năm 2010 như sau:

-Tổng diện tích quy hoạch trồng mới

: 640.000 ha.

-Tổng diện tích rừng có trong vùng quy hoạch

: 174.000 ha.

-Tổng diện tích trồng rừng tự nhiên trong vùng quy hoạch

: 476.000 ha.

Trồng rừng mới chia ra:

-Vùng trung du và miền núi phía Bắc (trên cơ sở đã hình thành) : 135.000 ha. : 135.000 ha. -Vùng miền Đông Nam bộ (trên cơ sở đã hình thành) : 50.000 ha. -Vùng Tây Bắc Thanh Hóa : 90.000 ha. -Vùng Bắc Kon Tum : 140.000 ha. -Vùng Hòa Bình – Sơn La : 40.000 ha. -Vùng Bắc Kạn – Thái Nguyên : 50.000 ha. -Vùng duyên hải miền Trung

Về giống cây và năng suất thu hoạch:

Hiện có năm loại keo đã được trồng thử nghiệm ở 3 địa phương Hàm Yên (Tuyên Quang), Gia Thanh (Phú Thọ) và Thanh Vân (Vĩnh Phúc) được cho là giống mới cho năng suất cao nhất hiện nay. Đó là các loài A.crassicarpa (keo lưỡi liềm) đạt 17,7 m3/ha/năm trong khi A.mangium (keo tai tượng), A.aulacocarpa (keo hồ đào) và A.Auriculiformis (keo lá tràm) đạt trên 12 m3/ha/năm. Trong các loài cây trên thì loài A.crassicarpa (keo lưỡi liềm) sinh trưởng tốt nhất, chu kỳ thu hoạch là 54 tháng tuổi (4,5 năm). Điều kiện thổ nhưỡng khác nhau tại 3 vùng nhưng loài keo này đều sinh trưởng tốt và cho năng suất khá ổn định, bình quân 14 m3/ha/năm, năng suất bột giấy đạt 301 kg/m3.

Dựa vào kết quả tính toán ở bảng 17, với sản lượng giấy sản xuất năm 2010 và

năm 2020, thì diện tích đất trồng rừng nguyên liệu cần là:

Bảng 26: Diện tích đất trồng rừng nguyên liệu giấy đáp ứng nhu cầu sản xuất.

Diện tích đất trồng (ha)

Năng suất bột (tấn/ha)

Năng suất bột 301 kg/m3

Năng suất gỗ bình quân 14 m3/ha

4,214 tấn/ha

2010 284.765 ha

2020 474.608 ha

3.2.3- Khai thác liên tục diện tích đất trồng rừng nguyên liệu giấy.

Nhu cầu giấy tiêu dùng trong nước theo dự báo năm 2010 là 1,2 triệu tấn. Để có 1,2 triệu tấn giấy thì lượng nguyên liệu bột giấy cần có là con số tương ứng. nếu chúng ta chỉ quy hoạch và đầu tư diện tích 243.225 ha trong năm 2010 thì (theo chu kỳ vòng đời cây nguyên liệu giấy là 54 tháng tuổi) phải đến giữa năm 2015 mới có thể khai thác lại khu rừng này để tự cung bột giấy cho sản xuất nội địa mà không phải nhập khẩu. Các năm từ 2011 đến nửa đầu năm 2015, nguyên liệu bột giấy phải nhập khẩu. Điều này có nghĩa rằng diện tích đất trồng rừng nguyên liệu giấy phải là con số gấp 4,5 lần diện tích đất trồng năm 2010, tức 1.094.513 ha.

Với diện tích này, việc khai thác nguyên liệu sẽ được tiến hành quanh năm mà không lo thiếu nguyên liệu. Quy trình “chặt chỗ nào trồng ngay chỗ đấy”, sau

4,5 năm chúng ta chặt tiếp tại chỗ mà cách đây đúng 4,5 năm chúng ta đã chặt. Cứ thế, quá trình khai thác sẽ lặp lại và tiếp diễn không ngừng.

Quy mô đất trồng nguyên liệu giấy sẽ tăng lên hàng năm để đến năm 2020 chúng ta vẫn đáp ứng đủ bột giấy cho sản xuất trong nước. Vì thế, việc quy hoạch đất trồng nguyên liệu phải được quyết định, thực hiện và quản lý ở cấp trung ương. Không giao cho chính quyền địa phương cái quyền quy hoạch đất trồng nguyên liệu giấy. Phải đặt chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu giấy ở cấp độ quốc gia mà địa phương phải chấp hành theo nguyên tắc “mệnh lệnh hành chính”.

3.3- Nhóm giải pháp đồng bộ và hỗ trợ.

3.3.1- Định hướng quy mô nhà máy sản xuất bột giấy và sản xuất giấy:

Về nhà máy sản xuất giấy từ bột nhập hoặc giấy lề, giấy loại, sẽ có 2 loại quy mô nhà máy để phù hợp với quá trình phát triển ngành trong điều kiện đang bước vào hội nhập và huy động mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển ngành.

Loại quy mô vừa và nhỏ: định hướng quy mô các nhà máy sản xuất giấy vừa và nhỏ là từ 20.000 tấn/năm đến 50.000 tấn/năm với điều kiện các nhà máy này phải đầu tư đồng bộ các hệ thống xử lý chất thải và bảo vệ môi trường.

Loại quy mô lớn: định hướng công suất nhà máy khoảng từ 100.000 đến 150.000 tấn/năm trở lên, với các nhà máy lớn như vậy sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn và đảm bảo đáp ứng tốt các yêu cầu về bảo vệ môi trường.

Về nhà máy sản xuất bột giấy, chúng đòi hỏi vốn đầu tư khá lớn và chi phí đầu tư cho khâu xử lý môi trường khá cao, do đó yêu cầu cần phải tập trung sản xuất với quy mô đủ lớn để đảm bảo hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững. Vì vậy quy mô nhà máy sản xuất bột giấy khoảng từ 200.000 - 250.000 tấn/năm trở lên, công suất tối đa không hạn chế.

Định hướng đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất bột giấy:

Đối với các nhà máy hiện có, phải tích cực đầu tư chiều sâu để nâng công suất, cải tiến công nghệ, bổ sung các thiết bị mới, hiện đại hóa các nhà máy này nhằm nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trong khu vực và quốc tế.

Đối với các nhà máy mới đầu tư, trước hết phải tuân thủ định hướng về đầu tư tập trung, đảm bảo quy mô công suất đủ lớn, đảm bảo yêu cầu về mức độ hiện đại hóa và bảo vệ môi trường. Trên cơ sở khả năng cung cấp nguyên liệu và nhu cầu thị trường, định hướng các dự án đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất giấy và bột giấy như sau:

+Về tăng trưởng kinh tế ngành: với tổng vốn đầu tư mới và đầu tư mở rộng đến năm 2020 là 58.000 tỷ đồng, toàn ngành công nghiệp giấy Việt Nam sẽ tăng công

suất thiết kế các nhà máy bột giấy lên 2.010.550 tấn/năm, đủ sức đáp ứng 70% nhu cầu thị trường trong nước.

+Về trồng rừng: với tổng vốn khoảng gần 8.000 tỷ đồng, đến năm 2020 sẽ tạo lập được 6 vùng nguyên liệu giấy ổn định với diện tích là 828.000 ha rừng kinh doanh cây nguyên liệu giấy, cung cấp cho các nhà máy sản xuất bột giấy trong nước.

+Về cơ cấu ngành, phân ngành, cơ cấu vùng: quy hoạch điều chỉnh đã phát huy được lợi thế của nhiều vùng, miền trên cả nước, đặc biệt là các vùng núi, vùng đồng bào dân tộc ít người sẽ có điều kiện phát triển kinh tế qua việc tham gia trồng cây nguyên liệu giấy.

Cụ thể trong quy hoạch các vùng Trung tâm Bắc bộ, Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung bộ, Vùng Duyên Hải Trung bộ, Tây Nguyên,... đã được chú ý đầu tư phát triển cả vùng nguyên liệu và công nghiệp sản xuất giấy và bột giấy, qua đó sẽ tạo công ăn việc làm và thu nhập cho hàng ngàn nông dân miền núi, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp ngày càng tăng.

3.3.2- Liên kết 4 nhà: Nhà nông, Nhà doanh nghiệp, Nhà khoa học và Nhà

nước trong chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu giấy.

Liên kết 4 nhà là chủ trương của chính phủ được pháp lý hóa thông qua Quyết định 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ hàng hóa thông qua hợp đồng. Theo đó, các doanh nghiệp sẽ chủ động hợp tác với nông dân trong vấn đề từ sản xuất đến thu hoạch và bao tiêu toàn bộ sản phẩm. Các nhà khoa học sẽ ứng dụng công nghệ sinh học tiên tiến để nghiên cứu giống cây trồng mới cho năng suất cao hơn. Nhà nước sẽ ban hành các chính sách quản lý vĩ mô bảo đảm lợi ích hài hòa cho các nhà. Đây là một chủ trương hết sức đúng đắn và cần thiết trong thời điểm hiện nay. Trong thực tế khi triển khai thực hiện, về các phía có sự nhìn nhận khác nhau:

- Đối với nông dân: sẽ rất an tâm để đầu tư cho sản xuất vì đầu ra của sản phẩm đã được doanh nghiệp ký kết hợp đồng bao tiêu với giá sàn bảo đảm có lãi cho nông dân. Nông dân không phải lo sợ đến khi thu hoạch giá nguyên liệu gỗ cao hay thấp và yên tâm đã có nơi tiêu thụ. Mặt khác, khi ký kết hợp đồng theo giá sàn với doanh nghiệp người nông dân cũng đã tính được mức lợi nhuận thấp nhất của mình khi thu hoạch, còn khi giá thị trường cao hơn giá đã ký hợp đồng thì doanh nghiệp vẫn mua theo giá thị trường nên người dân luôn luôn có lợi trong sản xuất.

- Đối với doanh nghiệp: khi thực hiện Quyết định 80/TTg có nhiều khó khăn và rủi ro hơn vì nếu đến khi thu hoạch giá nguyên liệu thị trường giảm thì doanh

nghiệp vẫn mua theo giá đã ký kết trong hợp đồng bao tiêu nên phải chấp nhận thua lỗ, nếu giá thị trường tăng thì doanh nghiệp cũng mua theo giá thị trường nên cũng không tăng thêm được lợi nhuận. Mặt khác, nhà nước không có chính sách ưu đãi đặc biệt khi doanh nghiệp thực hiện Quyết định. Vì vậy khi thực hiện doanh nghiệp luôn bị rủi ro. Tuy nhiên Quyết định 80 TTg nếu thực hiện đúng theo yêu cầu cần đặt hàng của khách hàng thì doanh nghiệp sẽ thuận lợi là chủ động trong kế hoạch có nguồn hàng ổn định cho kinh doanh.

- Đối với nhà khoa học: giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình liên kết. Họ chính là người giúp nông dân ứng dụng các công nghệ, kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng, giảm chi phí sản xuất, tăng giá bán và tăng sức cạnh tranh của hàng hóa. Tuy nhiên, cho đến nay, số đông các cơ quan khoa học vẫn lúng túng khi thực hiện liên kết ''bốn nhà''.

Vẫn còn thiếu vắng các cơ quan hay tổ chức nghiên cứu mạnh dạn, chủ động đưa định hướng liên kết thành một ưu tiên trong việc triển khai các chương trình, dự án nghiên cứu. Ngay cả những hợp đồng được ký kết thông qua hoạt động liên kết thì quyền lợi vật chất của các cơ quan khoa học hay các nhà khoa học cũng chưa được xác định rõ ràng. Đã có không ít trường hợp các nhà khoa học đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, chế biến sản phẩm, làm lợi hàng chục tỷ đồng nhưng phần được hưởng của họ hầu như không đáng kể. Cần có cơ chế tưởng thưởng thỏa đáng cho những nghiên cứu ứng dụng thành công của các nhà khoa học, bởi lao động của họ là không thể đo lường được nhưng sẽ tạo bước đột phá, chuyển đổi về chất và lượng một cách nhanh chóng với tốc độ cực nhanh.

- Đối với nhà nước: nắm vai trò chủ đạo và quan trọng hơn cả trong liên kết ''4 nhà''.. Cần phải thẳng thắn thừa nhận là Nhà nước vẫn chưa tạo ra được một hành lang pháp lý phù hợp cho việc giải quyết tranh chấp trong liên kết giữa các nhà, đặc biệt là hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa nhà doanh nghiệp và nhà nông.

Trong một số trường hợp, các bộ, ngành còn lúng túng, chưa có chế tài phù hợp để hỗ trợ giải quyết tranh chấp hợp đồng thu mua giữa doanh nghiệp và người sản xuất. Đối với những trường hợp thiệt hại do các nguyên nhân bất khả kháng, Nhà nước cũng chưa có chính sách cụ thể để hỗ trợ thiệt hại cho các bên tham gia liên kết. Ngoài ra, một số lãnh đạo địa phương còn không biết hoặc không hiểu đầy đủ về chính sách liên kết ''4 nhà'' nên chưa có sự hỗ trợ một cách hợp lý.

Nhà nước phải như người trọng tài công tâm, minh bạch và khách quan khi điều khiển một trận bóng để các cầu thủ chơi bóng đúng luật, đồng thời phải có tấm lòng bao dung của một người cha khi con cái gặp hoạn nạn do trường hợp bất khả kháng gây ra.

Thực hiện trợ cấp bằng nhiều hình thức khi doanh nghiệp “căng sức” thu mua nguyên liệu giấy của nông dân (theo hợp đồng) khi giá nguyên liệu giấy trên thị trường giảm.

3.3.3- Nhận thức và tư duy, gắn mình vào phường hội.

Ngày nay toàn cầu hóa đạt tới mức cả thế giới thách thức một người và một người có khả năng coi cả thế giới là đối tượng lao động của mình (trường hợp Bill Gate là một ví dụ). Một khi ý thức được như vậy ta sẽ biết mình rõ hơn, biết người rõ hơn, sẽ tìm ra đường biến thế giới thành đối tượng lao động của mình. Chúng ta không ngồi than thân, trách phận, cám cảnh sức cạnh tranh của mình quá chênh lệch so với thiên hạ mà phải ý thức được điều cốt tử này để có phương thức hành động đúng.

Khi hội nhập, phải đổi mới tư duy, bỏ quan niệm làm ăn cũ. Chìa khóa thành công trong thời buổi hội nhập là triết lý “đôi bên cùng thắng”, coi “đối thủ” là “đối tác”, “sống chung với lũ để vượt lũ”, không “đối đầu” mà “mượn gió, bẻ măng”.

“Các tập đoàn đa quốc gia và các công ty nhỏ cũng như những loài cá lớn và cá nhỏ ở biển khơi cùng tồn tại nhằm tạo ra sự cân bằng cho hệ thống. Các con cá lớn sẽ chết nếu không có các loài cá nhỏ. Hệ thống kinh tế thế giới là các công ty nhỏ cần các công ty lớn và ngược lại”. “Đó là một tình thế cả hai cùng thắng, ở Mỹ hay châu Âu, bên cạnh các công ty lớn còn có vô vàn các công ty nhỏ”. (Tổng giám đốc WTO Pascal Lamy trả lời phỏng vấn của Vietnamnet ngày 03/06/2006).

Rõ là “bé”, “lớn” đều cần có nhau, như là một “cân bằng sinh thái” trong kinh doanh. “Bé”, “lớn” đều phải xác định chỗ đứng của mình trong bản đồ toàn cầu. Mỗi doanh nghiệp phải tìm cho ra những “kẻ lách” mới và xây dựng được chiến lược nâng cao khả năng cạnh tranh có thể bằng nhiều cách như cơ cấu lại qui mô sản xuất, xác định sản phẩm hoặc chất lượng sản phẩm thích hợp, thị trường thích hợp, tham gia vào phân công lao động trong ngành, tạo dựng hệ thống phân phối,...

Không phải ngẫu nhiên Tổng Công ty Giấy Việt Nam được hội viên Hiệp hội giấy Việt Nam suy tôn là “hạt nhân” của Hiệp hội (ghi trong Điều lệ). Trong thực tiễn, tổng công ty, một sáng lập viên hiệp hội, ngay từ ngày đầu đã gánh vác hầu như toàn bộ hoạt động của hiệp hội, hết lòng giúp đỡ các doanh nghiệp trong ngành. Hiệp hội nhanh chóng đổi mới hoạt động, trở thành người dẫn đường, người tập hợp sức mạnh của ngành, giúp các doanh nghiệp phát triển, đặc biệt trong việc cung cấp thông tin và liên kết các doanh nghiệp.

3.3.4- Hiệp lực để cùng phát triển, liên kết với các tập đoàn mạnh nước ngoài.

Gia tăng liên kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau để tranh thủ cơ hội mới và ứng phó với những thách thức mới. Một số thương hiệu của ngành giấy

đã thành danh trên thị trường như Bãi Bằng, Tân Mai, Đồng Nai, Việt Trì, Pulpy, Sài Gòn, Hapaco, ... trong đó nổi bật nhất là Bãi Bằng, Tân Mai. Liệu những thương hiệu có phải là một cách để phân công lao động cấp cao nhằm hợp tác, hiệp lực cùng phát triển. Những năm gần đây mức tăng trưởng nhập khẩu giấy so với mức tăng trưởng của sản xuất giấy năm sau cao hơn năm trước, chứng tỏ thị phần của giấy sản xuất trong nước bị thu hẹp dần. Thị phần thu hẹp không chỉ với các công ty nhỏ mà cả với các công ty lớn. Nếu tiêu dùng trung bình hàng năm tăng 15% (thực tế là 16- 17%) thì chỉ sau 5 năm tiêu dùng giấy sẽ tăng gấp đôi. Thực tế không doanh nghiệp giấy Việt Nam nào sau 5 năm tăng được gấp đôi năng lực sản xuất để thị phần của mình không đổi. Nhượng thương hiệu không chỉ giữ mà còn tăng được thị phần của thương hiệu. Người được nhượng thương hiệu được giúp đỡ nâng cao chất lượng sản phẩm với chi phí đầu tư thấp, tiếp cận trình độ quản trị cao hơn. Rồi đến một lúc nào đó tự mình tạo ra một thương hiệu cũng sáng ngời. Đó cũng là con đường hình thành các tập đoàn giấy Việt Nam.

Hãy liên kết, liên doanh với các tập đoàn nước ngoài để tranh thủ chuyển giao công nghệ, cải tiến phương thức quản trị kinh doanh, tiếp cận và khai phá thị trường mới bên ngoài. Không chỉ các doanh nghiệp Việt Nam cần mà FDI cũng cần. “Ở mỗi quốc gia chúng tôi đầu tư vào, chúng đôi đều phải có những đối tác ở nước sở tại. Chúng tôi muốn hợp tác với những doanh nghiệp hàng đầu của các bạn. Đối tác tốt sẽ tạo nên sự đồng bộ với hiệu quả cao. Nếu không có đối tác tốt, không ai có thể thành công được. Khi chúng tôi cộng tác với họ, có thể nói rằng, cả hai bên đều có những đóng góp hiệu quả hơn cho đất nước Việt Nam”. (Kasuto Moii, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Nihon Unisia, Nhật Bản-Vietnamnet 02/06/2006).

3.3.5- Thị trường chứng khoán-nơi định giá trị doanh nghiệp và huy động vốn.

300,000

250,000

200,000

150,000

100,000

50,000

0

2001

2002

2003

2004

2005

2006

từ khi

thị

Giá trị SX

Doanh thu

SP chủ yếu

Vốn chủ SH

Công ty cổ phần giấy (HAPACO) Hải Phòng tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam ngay từ ngày đầu thị trường mở cửa từ tháng 07/2000 với mã cổ phiếu là HAP. HAP là 1 trong 4 cổ phiếu có mặt trên trường chứng khoán thị trường ngay chứng khoán Việt Nam mở cửa. HAP là cổ phiếu hấp

Biểu đồ tốc độ phát triển của HAPACO

dẫn nhất đối với các nhà đầu tư. Giá cổ phiếu trên thị trường liên tục tăng đến định điểm đạt 146.000 đồng/cổ phiếu, tức tăng 14,6 lần mệnh giá vào tháng 6/2001. Từ chỗ chỉ có 1 triệu cổ phiếu nay đã có trên 6 triệu cổ phiếu đưa ra thị trường với gần 1.600 nhà đầu tư trong nước và nước ngoài sở hữu cổ phiếu HAP. Hàng năm, công ty vẫn thực hiện thường xuyên việc chia cổ tức cho các nhà đầu tư (cổ đông) từ 20- 22%.

Bảng 27: Tốc độ phát triển của HAPACO.

Chỉ tiêu ĐVT 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Giá trị sản xuất Trđ 117.004 130.418 191.267 204.600 233.259 270.000

Doanh thu Trong đó: xuất khẩu Trđ USD 81.334 4.500.000 94.044 5.485.388 122.847 6.287.000 141.000 8.000.000 158.000 8.125.000 250.000 10.000.000 Nộp ngân sách Trđ 1.781 1.330 2.136 2.240 5.413 6.000 Tấn Sản phẩm chủ yếu 18.601 19.218 27.897 31.327 35.414 40.000 Thu nhập bình quân 1.000đ 1.080 .1080 1.300 1.350 1.350 1.400 Lao động Người 754 764 885 997 1.137 1.452 Vốn điều lệ Trđ 10.080 20.080 20.080 32.502 30.502 60.002 Vốn chủ sở hữu Trđ 24.497 57.222 64.000 64.178 69.581 105.000

Nguồn : Công nghiệp giấy

Tháng 3/2002, HAPACO đã phát hành thành công 1 triệu cổ phiếu ra công chúng (cũng là doanh nghiệp duy nhất của TTCK Việt Nam thực hiện mục tiêu này) thu được 32,36 tỷ đồng để đầu tư dự án Nhà máy sản xuất giấy kraft công suất giai đoạn I 22.000 tấn/năm. Năm 2004, công ty tiếp tục phát hành 1 triệu cổ phiếu thưởng cho các cổ đông và hơn 240.000 cổ phiếu trả cổ tức và tiền mặt với tổng giá trị 15,4 tỷ đồng.

Thương hiệu HAPACO đã trở nên thương hiệu mạnh kể từ khi tham gia TTCK. Kỳ đại hội thường niên 07/04/2006, công ty đã có gần 1.600 cổ đông, trong đó 22 nhà đầu tư là pháp nhân, 65 cá nhân nước ngoài gồm: Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Canada, Hồng Kông, Thái Lan, Đức,... còn lại là các cổ đông trên cả nước.

3.3.6 - Giải pháp bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

- Sản xuất sạch hơn, phòng ngừa ô nhiễm.

Sản xuất sạch hơn là một sự áp dụng liên tục chiến lược phòng ngừa tổng hợp đối với các quá trình sản xuất, các sản phẩm dịch vụ, nhằm nâng cao hiệu suất và giảm rủi ro đến với con người và môi trường.

Đã có rất nhiều hoạt động nghiên cứu và phát triển trong công nghiệp giấy và bột giấy trong 20 năm qua đã tập trung tìm ra phương pháp giảm thiểu ô nhiễm từ quá trình sản xuất bột hóa học, sản xuất bột cơ học, bột hóa nhiệt cơ và xơ sợi tái sinh từ công nghệ sản xuất sạch hơn. Các hướng chủ yếu của công nghệ này là:

-Áp dụng các biện pháp khử lignin bằng ôxy, công nghệ tẩy trắng không sử dụng clo nguyên tố và công nghệ tẩy trắng bột giấy hoàn toàn không sử dụng clo (công nghệ ECF) và các hợp chất chứa clo (công nghệ TCF). Dòng thải của công đoạn tẩy ECF và TCF ít tác động hơn so với dòng thải từ các công nghệ cũ sử dụng clo. Mục tiêu phát triển cần phải đạt tới là một dây chuyền tẩy trắng hầu như khép kín hoàn toàn không có dòng thải. Công nghệ ECF đang được đưa vào dự án đầu tư mở rộng Công ty Giấy Bãi Bằng giai đoạn II trong việc sản xuất bột giấy tẩy trắng bằng phương pháp sản xuất sạch hơn. Nói chung các dây chuyền đầu tư mới để sản xuất bột giấy tẩy trắng cần phải có công suất tối thiểu 100.000 tấn/năm trở lên và cần phải áp dụng công nghệ này.

-Áp dụng công nghệ sinh học trong sản xuất bột giấy, tẩy trắng bột giấy khử mực giấy loại và trong công nghệ xử lý nước thải. Đây là một loại hình công nghệ sản xuất sạch hơn rất dễ áp dụng và có suất đầu tư thấp, có thể áp dụng bất kỳ dây chuyền sản xuất nào, kể cả dây chuyền sản xuất cũ.

Mục tiêu cần thiết trước tiên và căn bản của sản xuất sạch hơn là giữ cho tải lượng dòng thải thật thấp, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu và năng lượng, giảm thiểu ô nhiễm, giảm thiểu chi phí xử lý nội vi và ngoại vi, bảo vệ môi trường.

- Chuyển đổi cơ cấu sản phẩm thân thiện môi trường.

Sản phẩm thân thiện với môi trường là những sản phẩm mà khi tạo ra nó ít gây tổn hại tới môi trường hoặc là tạo ra những sản phẩm dễ tái sinh, tái sử dụng, sử dụng ít nguyên nhiên liệu.

- Lồng ghép giữa đầu tư và đổi mới công nghệ:

Đổi mới công nghệ đồng thời với việc nâng cao hiệu quả sản xuất, hạ giá

thành sản phẩm và giảm ô nhiễm môi trường.

- Tuần hoàn và khép kín dây chuyền.

Một dây chuyền sản xuất tương đối khép kín hoặc hoàn toàn khép kín sẽ là cơ hội để tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu và năng lượng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường do tải lượng thải phát ra môi trường rất thấp. Không hiểu vì sao đa số các doanh nghiệp sản xuất giấy hiện nay vẫn chưa ý thức được điều này và thực sự việc

cải tiến các dây chuyền cũ để trở nên khép kín hơn, hợp lý hơn hoàn toàn không cần chi phí lớn, đặc biệt là với các dây chuyền sản xuất giấy.

- Xử lý nội vi và ngoại vi.

+ Xử lý nội vi nhằm thu hồi triệt để nguyên liệu xơ sợi chất độn, các hợp chất

khác và nước, đồng thời giảm tải lượng thải vào công đoạn xử lý ngoại vi.

+ Xử lý ngoại vi: là một công đoạn cần được nhận thức là bất khả kháng để xử lý nước thải trước khi thải ra môi trường. Một khi các cơ quan quản lý nhà nước quản lý chặt chẽ tiêu chuẩn các chất phát thải ra môi trường thì các doanh nghiệp không còn cách nào khác là phải thực thi nhiệm vụ này. Đối với các nhà máy sản xuất công suất dù to dù nhỏ, việc xử lý nước thải ngoại vi đều có thể thực hiện được.

- Giải pháp quản lý nhà nước trong công tác bảo vệ môi trường ngành

công nghiệp bột giấy và giấy.

Thứ nhất, nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy liên quan tới công tác bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ngành công nghiệp bột giấy và giấy, xây dựng bổ sung tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường phù hợp với đặc trưng và hoàn cảnh lịch sử của ngành công nghiệp bột giấy và giấy Việt Nam, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đã hình thành trước Luật Bảo vệ môi trường có cơ hội vươn lên trong quá trình đầu tư.

Thứ hai, để một số quy tắc và tiêu chuẩn môi trường có tính khả thi, các quy định và giới hạn nên được đặt ra cho từng nhà máy bột giấy và giấy riêng biệt. Bởi vì một số tiêu chuẩn chung cho tất cả thì đối với một số nhà máy bột giấy và giấy, việc thực hiện các tiêu chuẩn này là bất khả thi. Ngoài ra, một số định mức có thể được thiết lập để áp dụng chung cho tất cả các nhà máy.

Thứ ba, trong giai đoạn hiện nay, thuế môi trường hoặc tỷ lệ chi trả nên được thiết lập và tính toán cụ thể cho từng loại hình xí nghiệp, phù hợp với hoàn cảnh và khả năng tài chính của doanh nghiệp, nhưng chỉ coi đây như một giải pháp tình thế. Mục tiêu chiến lược vẫn là bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Thứ tư, các vấn đề môi trường cần được nhà nước coi là một yếu tố điều khiển quan trọng đối với nền công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp giấy nói riêng trên rất nhiều thương trường và sẽ phải được xem là vấn đề chủ đạo trong khi ra các quyết định kinh tế quan trọng. Thực tế người tiêu dùng ngày một quan tâm hơn đến các cam kết về sản phẩm và việc lựa chọn sản phẩm của họ về mặt môi trường đang trở nên phổ biến hơn trên sản phẩm giấy cũng như nhiều sản phẩm khác.

Thứ năm, đất, nước và năng lượng là những yếu tố thiết yếu đang khan hiếm ở nhiều vùng và sẽ ngày càng ít đi trong tương lai. Công nghiệp giấy và bột giấy cần

phải được chuẩn bị để đối phó với sự cạnh tranh có thể xảy ra với các ngành khác sử dụng loại tài nguyên nói trên. Quản lý môi trường của các cơ quan quản lý nhà nước là một phương cách quan trọng để thực hiện điều này vì nó giảm thiểu các tác động của sản xuất công nghiệp.

Thứ sáu, đánh giá tác động môi trường cần được áp dụng một cách phổ biến để đánh giá các dự án, các thay đổi công nghệ và tăng cường năng lực sản xuất. Các đánh giá tác động môi trường và kiểm toán môi trường cần được thực hiện để so sánh tác động môi trường có thể thấy trước với kết quả thực tế.

Thứ bảy, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cần áp dụng một cách kiên quyết những biện pháp và các giải pháp hữu hiệu buộc các nhà máy bột giấy và giấy phải giảm các tác động môi trường phát sinh từ các hoạt động sản xuất của họ. Và để làm được điều này, khung pháp lý cần phải trao cho cơ quan quản lý nhà nước về môi trường nhiều quyền hơn.

KẾT LUẬN ĐỀ TÀI

Những thách thức to lớn đang diễn ra theo trận cuồng phong hội nhập đã hiển hiện ngày một rõ và trầm trọng đối với các ngành sản xuất trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Ngành giấy cũng không nằm ngoài quỹ đạo của nó. Có thể nói, mức độ cạnh tranh đang diễn ra gay gắt với sự tấn công ồ ạt của giấy ngoại đã thực sự trở thành áp lực nặng như đá tảng đối với ngành công nghiệp giấy Việt Nam vốn vẫn còn yếu kém. Sự trợ giúp ở tầm vĩ mô của chính phủ không còn được chi tiết và cụ thể như trước khi hội nhập WTO nữa mà chỉ dừng lại ở vạch chính sách phù hợp với luật quốc tế. Không còn đường lùi! Chỉ có sự nỗ lực tự thân của các doanh nghiệp ngành giấy mới là cứu cánh duy nhất cho chính mình trong sân chơi toàn cầu.

Càng phụ thuộc càng tụt hậu, càng bị dồn ép! Ngành giấy phụ thuộc nhiều quá vào nguồn nguyên liệu bột giấy nước ngoài. Quả thực thật xót xa và mâu thuẫn khi tài nguyên rừng quốc gia là một lợi thế vô cùng to lớn nhưng chưa được đầu tư và khai thác đúng mức để có thể thực sản xuất lấy bột giấy cung cấp cho ngành giấy. Trên cơ sở dự báo về nhu cầu giấy trong tương lai, nhận định tình hình thực tế về cách thức chúng ta đang hành động, chỉ nhiêu đó thôi cũng đủ thấy được viễn ảnh không mấy gì sáng sủa của ngành giấy Việt Nam.

Tự chủ sản xuất bột giấy trước hết đủ để tự cung cho đất nước mình có lẽ là phương cách tốt nhất để chúng ta chiếm được vị thế cạnh tranh. Đóng góp lớn nhất cho một quốc gia mà một ngành mang lại chính là khai thác tối ưu lợi thế so sánh. Điều đó không những mang lại cho đất nước một vị thế cạnh tranh cao mà còn không trở thành gánh nặng của Chính phủ khi phải “lo nghĩ” hay tệ hơn là phải “nuôi” thêm đứa con kém năng lực này nữa. Khả năng tự cung đủ đồng nghĩa với kim ngạch nhập khẩu giấy và bột giấy bằng không. Nguồn ngoại tệ sẽ không chi cho nguyên liệu nhập giấy nữa. Nguồn ngoại tệ đó sẽ được dùng cho nhập máy móc công nghệ hiện đại nâng cao năng suất và công suất.

Chúng ta có thể thấy được kết quả qua những hành động mà chúng ta đang làm. Chính sách vĩ mô của chính phủ, chiến lược linh hoạt của doanh nghiệp, cơ chế thông thoáng bảo đảm cuộc sống ổn định cho người trồng rừng và ứng dụng thành tựu sinh học về giống cây nguyên liệu giấy hiệu suất cao là điều kiện cần và đủ để ngành giấy Việt Nam “xoải cánh” lượn bay trên thương trường quốc tế.

Phụ lục 1: CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM BỘ CÔNG NGHIỆP ===(cid:72)(cid:214)(cid:73)===

TIÊU CHUẨN NGÀNH

24TCN 81-2000: BỘT GIẤY, GIẤY VÀ CÁCTÔNG THÔNG DỤNG – THUẬT NGỮ

Glossary of pulp, paper and board (Có hiệu lực từ: 20-02-2000)

MỤC ĐÍCH VÀ PHẠM VI ÁP DỤNG

Tiêu chuẩn này quy định một số thuật ngữ kèm theo định nghĩa về các loại bột giấy, giấy và

cáctông thông dụng, được SX, lưu thông và sử dụng trong nước.

1. BỘT GIẤY

1.1. KHÁI NIỆM CHUNG

1.1.1. Bột giấy (pulp): Vật liệu dạng xơ sợi, chế biến từ các lọai nuyên liệu thực vật, được sử dụng

chủ yếu trong SX giấy và các tông.

1.1.2.Anpha-xenluylô (alpha cellulose): Phần bột giấy không hòa tan trong dung dịch NaOH

17,5% ở nhiệt độ 20°C.

1.1.3. Bột giấy hòa tan (dissolving pulp): Bột giấy hóa học đã được tẩy trắng có hàm lượng anpha-xenluylô cao. Loại bột giấy này được sử dụng để hòa tan trong các dung môi thích hợp, chế biến ra dạng SP như xelôphan, sợi nhân tạo... hoặc kết hợp với các loại hóa chất khác để tạo ra các dẫn xuất của xenluylô như axetat, nitrat...

1.1.4. Bột giấy không tẩy trắng (unbleached pulp): Bột giấy không được tẩy trắng trong quá trình

SX.

1.1.5. Bột giấy bán tẩy trắng (semi-bleached pulp): Bột giấy chỉ được tẩy trắng nhẹ và có độ trắng ở

mức thấp.

1.1.6. Bột giấy tẩy trắng (bleached pulp): Bột giấy được tẩy trắng trong quá trình SX để có độ

trắng ở mức cao.

1.2. MÔ TẢ SẢN XUẤT

1.2.1. Nấu (cooking): Quá trình xử lý NL bằng dung dịch hóa chất thích hợp ở nhiệt độ và áp suất

cao cần thiết, để tách loại các thành phần không phải là xenluylô, nhằm thu được SP bột giấy.

1.2.2. Tẩy trắng (bleaching): Quá trình làm trắng bột giấy bằng xử lý hóa học hoặc sinh học, để

loại phần lớn hoặc một phần nhất định các phần tử mang mầu có trong nó.

1.2.3. Giấy loại (waste paper): Giấy hoặc cáctông được thu hồi lại sau khi đã sử dụng, để tái SX

thành giấy và cáctông bằng các PP xử lý cơ học hoặc kết hợp giữa PP cơ học và hóa học.

1.3. CÁC LOẠI BỘT GIẤY

1.3.1. Bột giấy từ gỗ (woodpulp): Bột giấy được SX từ NL gỗ. 1.3.2. Bột giấy gỗ mềm (softwood pulp): Bột giấy được SX từ NL cây gỗ mềm (gỗ lá kim), ví dụ

như tùng, bách, thông...

1.3.3. Bột giấy gỗ cứng (hardwood pulp): Bột giấy được SX từ NL cây gỗ cứng (gỗ lá rộng),

thường có chiều dài xơ sợi ngắn hơn so với xơ sợi của bột giấy gỗ mềm.

1.3.4. Bột giấy phi gỗ (nonwood pulp): Bột giấy được SX từ các loại NL không phải thân gỗ ví dụ: các loại tre, nứa; các phụ phẩm của cây lương thực (rơm, rạ...); bã mía; các loại cỏ (lau, sậy, cỏ bàng...); các loại NL của ngành dệt (bông, lanh, gai...); các loại vỏ cây (dó, đay, dâu...).

1.3.5. Bột giấy hóa học (chemical pulp): Bột giấy được SX bằng cách loại khỏi NL các thành phần không phải là xenluylô bằng quá trình nấu NL với các loại hóa chất khác nhau, ví dụ như quá trình nấu sunphat, kiềm, sunphit...

1.3.6. Bột giấy bán hóa học (semi-chemical pulp): Bột giấy được SX bằng cách loại khỏi NL một phần các thành phần không phải là xenluylô bằng quá trình xử lý hóa học, ví dụ như quá trình nấu NL với các loại hóa chất khác nhau, giai đoạn tách xơ sợi tiếp theo cần phải có quá trình xử lý cơ học.

1.3.7. Bột giấy sunphít (sulphite pulp): Bột giấy hóa học được SX bằng PP nấu NL với dung

dịch muối bisunphit trong môi trường axit.

1.3.8. Bột giấy sunphit trung tính (neutral sulphite pulp): Bột giấy hóa học được SX bằng PP

nấu NL với dung dịch có chứa chủ yếu là muối monosunphit.

1.3.9. Bột giấy sunphat (sulphate pulp): Bột giấy hóa học được SX bằng quá trình nấy NL với dung dịch có chứa chủ yếu là hydroxit natri (NaOH), sunphua natri (Na2S), và có thể có các hợp chất phụ gia khác trong môi trường kiềm.

1.3.10. Bột giấy kraft (kraft pulp): Một dạng của bột giấy sunphat, có độ bền cơ học cao thường

được sử dụng để làm các loại giấy kraft.

1.3.11. Bột giấy kiềm (sodo pulp): Bột giấy hóa học được SX bằng quá trình nấu NL với dung

dịch chỉ có chứa hydroxit natri (NaOH).

1.3.12. Bột giấy cơ học (mechanical pulp): Bột giấy được SX hoàn toàn bằng các quá trình cơ học

(ví dụ như quá trình nghiền, mài), từ các loại NL khác nhau, nhưng chủ yếu là gỗ.

1.3.13. Bột giấy nhiệt cơ (thermomrchanical pulp-TMP): Bột giấy cơ học được SX theo PP nhiệt cơ – các mảnh gỗ được xử lý bằng hơi trước khi nghiền trong điều kiện nhiệt độ và áp suất thích hợp, giai đoạn nghiền tiếp theo được thực hiện trong áp suất thường.

1.3.14. Bột giấy hóa nhiệt cơ (chemithermomechanical pulp - CTMP): Bột giấy được SX bằng PP hóa nhiệt cơ - các mảnh gỗ được xử lý trước bằng hóa chất, thường là sunphit natri (Na2SO3) trong một giai đoạn riêng hoặc trong giai đọan xử lý hơi, tiếp theo là quá trình xử lý cơ học.

1.3.15. Bột giấy dỗ mài (groundwood pulp): Bột giấy cơ học được SX bằng PP màu bề mặt của

gỗ trên đá mài.

1.3.16. Bột giấy cơ-sinh học (biomechanical pulp): Dạng bột giấy cơ học, SX từ các mảnh gỗ đã được xử lý trước bằng PP sinh học, để làm tăng độ bền và giảm năng lượng tiêu thụ trong quá trình nghiền sau đó.

2. GIẤY VÀ CÁCTÔNG

2.1. KHÁI NIỆM CHUNG

2.1.1. Giấy (paper): Từ thông dụng dể chỉ các loại SP dạng tờ hoặc dạng cuộn, trừ các tấm bột giấy được dùng để SX giấy hoặc cho mục đích hòa tan và các SP vải không dệt - được SX bằng cách làm lắng lọc các xơ sợi thực vật, khoáng, động vật, tổng hợp hoặc hỗn hợp của các loại xơ sợi đó từ huyền phù lỏng trên các dạng thiết bị thích hợp, có hoặc không có bổ sung các chất phụ gia. Giấy có thể được tráng, ngâm tẩm hoặc các quá trình chế biến khác trong hoặc sau khi SX, mà không làm mất đi đặc tính nhận dạng của nó. Chú thích: Thông thường các loại SP có định lượng nhỏ hơn 225 g/m2 được gọi là giấy, loại có định lượng lớn hơn 225 g/m2 được gọi là cáctông. Tuy nhiên trong một số trường hợp, phụ thuộc vào mục đích sử dụng, một số loại có định lượng nhỏ hơn 225 g/m2 vẫn được gọi là cáctông (các loại làm hòm hộp, làm thành phần của cáctông sóng...) và một số loại có định lượng lớn hơn 225 g/m2 vẫn được gọi là giấy (các loại giấy lọc, giấy thấm...).

2.1.2. Cáctông (board or paperboard): Từ thông dụng để chỉ các dạng của giấy thường có định

lượng, độ dầy và độ cứng cao. Chú thích: Xem mục 2.1.1. 2.1.3. Thành phần giấy và cáctông (composition of paper and board): Tính chất tự nhiên và tỷ

lệ của thành phần xơ sợi và không phải xơ sợi có tỏng giấy và cáctông.

2.1.4. Thành phần xơ sợi (fibre composition): Thành phần của các loại xơ sợi có trong giấy và

cáctông, và tỷ lệ của chúng thường được biểu thị bằng phần trăm so với tổng lượng xơ sợi.

2.1.5. Chiều dọc của giấy (machine direction): Chiều của giấy và cáctông tương ứng với chiều

chuyển động của nó trên máy xeo.

2.1.6. Chiều ngang của giấy (cross direction): Chiều vuông góc với chiều dọc của giấy và

cáctông.

2.1.7. Ram (ream): Một tập các tờ giấy cùng chủng lọai và kích thước. Số lượng tờ trong một ram

thường là 480, 500 hoặc 1000. 2.2. MÔ TẢ SẢN XUẤT

2.2.1. Xeo giấy (forming): Quá trình hình thành tờ giấy (hoặc cáctông) bằng cách lắng lọc xơ sợi

bột giấy trên lưới xeo.

2.2.2. Chất độn (filler; loading): Các pigment (bột màu) mịn, thường có màu trắng và có nguồn

gốc vô cơ được cho vào trong huyền phù bột giấy trong quá trình SX giấy hoặc cáctông.

2.2.3. Dung dich tráng phấn (coating slip): Dung dịch để tráng phủ lên bề mặt của giấy hoặc cáctông, bao gồm các pigment vô cơ, thường có màu trắng có kích thước hạt rất nhỏ (mịn) và các chất kết dính. Ngoài ra có thể có các chất khác như chất màu, các chất phân tán.

2.2.4. Huyền phù bột giấy (stock): Huyền phù bột giấy gồm có một hoặc nhiều loại bột giấy và

các chất phụ gia khác sau giai đoạn nghiền, để tạo thành giấy hoặc cáctông trên máy xeo.

2.2.5. Gia keo (sizing): Quá trình ho các chất keo (nhựa thông, tinh bột, keo tổng hợp...) vào huyền phù bột giấy (gia keo nội bộ) hoặc lên bề mặt giấy và cáctông (gia keo bề mặt) để làm tăng độ bền bề mặt và tính chống thấm.

2.2.6. Cán láng (calendering): Quá trình xử lý giấy trên thiết bị cán láng, sau giai đoạn sây khô của máy

xeo để tăng độ nhẵn, độ bóng bề mặt, độ chặt của giấy hoặc cáctông.

2.2.7. Làm bóng (glazing): Quá trình làm bóng bề mặt giấy hoặc cáctông bằng các thiết bị sấy khô

thích hợp, hoặc bằng các quá trình hoàn thiện cơ học.

2.2.8. Làm chun (creping): Quá trình làm chun (nhăn) giấy để tăng độ dãn dài và tính mềm mại của

giấy, được thực hiện trên máy xeo hoặc các thiết bị khác.

2.2.9. Tráng phủ (coating): Quá trình đưa lên bề mặt giấy hoặc cáctông một hoặc nhiều lớp dung dịch tráng phấn, hoặc các vật liệu dạng lỏng khác (không phải là các chất gia keo), nhằm làm cho giấy có các tính năng đặc biệt mới.

2.2.10. Hình bóng nước (watermark): Các ký hiệu hoặc các hình chìm được tạo ra trong giấy bởi

sự thay đổi vị trí của xơ sợi, nhìn thấy được khi soi ra ánh sáng, bằng các PP khác.

2.3. CÁC SẢN PHẨM GIẤY VÀ CÁCTÔNG

2.3.1. Giấy SX thủ công (handmade paper): Giấy được xeo bằng tay từng tờ một, bằng khung lưới xeo (liềm xeo). Quá trình ép và làm khô tờ giấy tiếp theo được tiến hành bằng PP thủ công hoặc bằng máy.

2.3.2. Giấy định lượng thấp (light-weight paper): Các loại giấy có định lượng nhỏ hơn 40 g/m2. 2.3.3. Giấy không tro (ashless paper): Giấy có hàm lượng các chất vô cơ thấp, gần như bằng

không.

2.3.4. Giấy phi axit (acit-free paper): Giấy không có chứa các axit tự do. Loại giấy này thường

được SX trong môi trường kiềm nhẹ hoặc trung tính.

2.3.5. Cáctông duplex (Two-layer board): Cáctông gồm có hai lớp vật liệu giấy khác nhau được

hình thành trong quá trình SX khi ở trạng thái ướt, không sử dụng keo dán.

2.3.6. Cáctông ba lớp (Three-layer board): Cáctông gồm có ba lớp vật liệu giấy được hình thành trong quá trình SX khi ở trạng thái ướt, không sử dụng keo dán. Các lớp vật liệu giấy có thành phần giống hoặc khác nhau.

2.3.7. Cáctông nhiều lớp (Multi-layer board): Cáctông gồm có nhiều hơn ba lớp vật liệu giấy, được hình thành trong quá trình SX khi ở trạng thái ướt, không sử dụng keo sán. Các lớp vật liệu giấy có thành phần giống hoặc khác nhau.

2.3.8. Giấy hoặc cáctông bồi (Composite paper or board): Loại giấy hoặc cáctông có hai hoặc

nhiều lớp được dán, ép lại với nhau bằng keo dính.

2.3.9. Giấy không gia keo (unsized paper): Giấy không được gia keo trong quá trình SX. 2.3.10. Giấy gia keo (sized paper): Giấy được gia keo trong quá trình SX. 2.3.11. Giấy hoặc cáctông có xơ sợi màu (Veined paper or board): Giấy hoặc cáctông có chứa một lượng nhỏ xơ sợi được nhuộm màu khác với màu của bột giấy còn lại, thường được sử dụng làm giấy trang trí, hoặc các mục đích đặc biệt khác.

2.3.12. Giấy giả vân (grained paper): Loại giấy bọc bên ngoài, được dập nổi hoặc trang trí bề mặt

giống như vân gỗ, đá cẩm thạch hoặc da.

2.3.13. Giấy nhuộm vân (ingrained paper): Loại giấy có bề mặt được xử lý bằng PP nhuộm màu

để có vân giống như đá hoa cương.

2.3.14. Giấy hoặc cáctông bóng một mặt (Machine-glazed paper or board): Giấy hoặc cáctông có một mặt được làm nhẵn, bóng bằng cách ép và làm khô trên lô sấy kim loại bóng, lô sấy này nằm trong phần sấy của máy xeo. Mặt còn lại của giấy không nhẵn.

2.3.15. Giấy cán bóng hay giấy satinê (Supercalendered paper): Giấy được ép qua hệ thống cán

láng đặc biệt để bề mặt có độ nhẵn và bóng cao.

2.3.16. Giấy hoặc cáctông mầu một mặt (one-side coloured paper or board): Giấy hoặc cáctông

có một mặt được nhuộm mầu trong quá trình SX.

2.3.17. Giấy hoặc cáctông mầu hai mặt (two-sides coloured paper or board): Giấy hoặc

cáctông có hai mặt được nhuộm mầu trong quá trình SX.

2.3.18. Giấy kraft (kraft paper): Giấy được SX chủ yếu bằng bột giấy kraft. 2.3.19. Giấy vải (rag paper): Giấy có chứa một lượng lớn xơ sợi vải. hàm lượng xơ sợi vải tối thiểu có

trong giấy phụ thuộc vào quy định của từng nước khác nhau.

2.3.20. Giấy hoặc cáctông không có bột cơ học (woodfree paper or board): Giấy hoặc cáctông chỉ có bột giấy hóa học trong thành phần xơ sợi. Tuy nhiên, trong thực tế nó có thể có một lượng nhỏ các loại xơ sợi khác.

2.3.21. Giấy chống gỉ (anti-rust paper): Giấy trong thành phần có chứa các chất để giấy có khả năng

bảo vệ được bề mặt của các kim loại có chứa sắt chống lại sự ăn mòn.

2.3.22. Giấy không gây gỉ (non-rust paper): Giấy không chứa các hóa chất có khả năng ăn mòn

các kim loại có chứa sắt.

2.3.23. Giấy giả da gốc thực vật (Vegetable parchment): Giấy đã được biến tính bằng phản ứng với axit sunphuaric. Sự xử lý này làm cho giấy có cấu trúc liên tục, có tính chống thấm cao đối với các chất lỏng hữu cơ, đặc biệt là đối với các loại ầu mỡ, tăng độ cứng của bề mặt.

2.3.24. Giấy bóng mờ (glasine): Loại giấy định lượng thấp, trong mờ làm từ bột giấy hóa học, có mức độ hydrat hóa cao và qua quá trình cán láng đặc biệt. Giấy có độ nhẵn, bóng cao ở cả hai mặt và có tính chống thấm dầu mỡ. Loại giấy này thường được sử dụng để bao gói các loại thực phẩm, kẹo, thuốc lá, hóa chất và kim loại.

2.3.25. Cáctông cứng (Solid board): Cáctông dầy chỉ có một lớp bột giấy.

2.3.26. Cáctông da (Leatherfibre board): Loại cáctông thường được SX bằng quá trình gián đoạn

trên máy xeo và có hàm lượng da không nhỏ hơn 50% so với tổng lượng bột giấy.

2.3.27. Cáctông nỉ (felt board): Giấy có định lượng cao làm từ xơ sợi vải và bột giấy báo tái chế. Loại giấy này thường được sử dụng làm các tấm ngăn cách để chống tiếng ồn, gió và được tẩm nhựa đường để làm các tấm lợp và tấm vách ngoài.

2.3.28. Giấy sáp hay giấy parafin (Waxed paper): Giấy đã được xử lý bằng sáp parafin hoặc các loại sáp theo PP tẩm hoặc tráng bề mặt. Loại giấy này thường có độ bền ẩm cao và được sử dụng để bao gói, đặc biệt là bao gói thực phẩm.

2.3.29. Giấy làm chun (crepe paper): Loại giấy có định lượng thấp, được làm chun (làm nhăn) để

tăng độ dãn dài và tính mềm mại.

2.3.30. Giấy gia keo bề mặt (surface sized paper): Giấy được xử lý bề mặt bằng chất keo, để cải

thiện các đặc tính bề mặt của nó.

2.3.31. Cáctông Bristol hay cáctông ngà (Ivory board): Loại giấy này được gia keo tốt thường có định lượng lớn hơn 150 g/m2, hoặc là cáctông bao gồm một lớp hoặc nhiều lớp được kết hợp với nhau không phải bằng chất kết dính, được làm hoàn toàn bằng bột giấy hóa học tẩy trắng, thích hợp để in và viết. Đặc tính của loại giấy này là nhẵn, cứng, sạch và thường được sử dụng để in danh thiếp, thực đơn và các mục đích khác.

2.3.32. Giấy “art” (art paper): Thuật ngữ tiếng Anh dùng để chỉ các loại giấy hoặc cáctông có tráng phủ bề mặt. Ở Mỹ thuật ngữ này có thể dùng để chỉ các loại giấy tráng hoặc các loại giấy dùng để vẽ có độ nhẵn cao.

2.3.33. Giấy hoặc cáctông tráng phấn (Coated paper or board): Giấy hoặc cáctông có phủ một lớp hỗn hợp dungdịch tráng bao gồm các pigment vô cơ, các chất kết dính và có thể bổ sung các chất khác như chất mầu, các tác nhân phân tán, chống dính, chống mốc... trên một hoặc cả hai mặt giấy.

2.3.34. Giấy tráng nhẹ (light weight coated paper, LWC): Loại giấy tráng cả hai mặt, định lượng không lớn hơn 72 g/m2, khối lượng chất tráng trên một mặt không lớn hơn 6 g/m2, với loại thông thường giấy đế có hàm lượng bột giấy cơ học từ gỗ không nhỏ hơn 50% so với tổng lượng bột giấy, với loại đặc biệt giấy đế được làm từ 100% bột giấy hóa học.

2.3.35. Giấy tráng dung môi (Solvent coated paper): Giấy được tráng bằng chất dẻo (plastic) đã

được hòa tan trong các dung môi dễ bay hơi.

2.3.36. Giấy tráng nhũ tương (Emulsion coated paper): Giấy được tráng bằng chất dẻo (plastic)

ở dạng nhũ tương.

2.3.37. Giấy in báo (newsprint paper): Giấy được dùng để in báo. Đó là loại giấy không tráng, có hàm lượng bột giấy cơ học hoặc hóa-cơ không nhỏ hơn 65% so với tổng lượng bột giấy, không gia keo hoặc được gia kro nhẹ, có độ nhám bề mặt PPS (1 MPa) không lớn hơn 2,5 μm, có định lượng không nhỏ hơn 40 g/m2 và không lớn hơn 65 g/m2.

2.3.38. Giấy in sách chỉ dẫn (directory paper): Loại giấy có định lượng thấp, có độ bền cao, được làm từ hôcn hợp của bột giấy hóa học tẩy trắng, bột giấy cơ học và bột giấy tái chế từ giấy loại. Giấy được sử dụng để in các ấn phẩm như: niên giám điện thoại, các bản mục lục, chỉ dẫn, các quyển sách nhỏ.

2.3.39. Giấy in (printing paper): Tất cả các loại giấy có gia keo (nội bộ, hoặc bề mặt), có các đặc

tính thích hợp cho mục đích in ấn.

2.3.40. Giấy in ôpset (ofset paper): Giấy được gia keo tốt, có các đặc tính thích hợp để sử dụng cho công nghệ in ôpset, mà trong đó mực được chuyển từ bản in cùng với các hình trên đó sang băng cao su và sau đó được chuyển sang giấy.

2.3.41. Giấy in bản đồ (map paper): Loại giấy in, không có bột cơ học, có độ bền ẩm, độ bền cơ

học cao đặc biệt là độ chịu xé, độ chịu gấp, độ chịu mài mòn và tính ổn định kích thước.

2.3.42. Giấy viết (writing paper): Loại giấy có mức độ gia keo phù hợp với việc sử dụng bút mực để viết.

2.3.43. Giấy vệ sinh (Toilet paper): Loại giấy định lượng thấp, có khả năng hút nước, mềm, sạch

và bảo đảm vệ sinh.

2.3.44. Giấy làm khăn (Napkin paper): Loại giấy định lượng thấp, mềm có khả năng hút nước,

được cắt và gấp ở các kích thước khác nhau. Giấy thường được làm nhăn, dập nổi hoặc có các hình in.

2.3.45. Giấy lọc (Filter paper): Loại giấy có độ tinh khiết hóa học, độ bền, độ xốp cao, không gia keo, làm từ bột giấy hóa học, xơ sợi bông hoặc xơ sợi tổng hợp, được sử dụng để tách các chất rắn lơ lửng ra khỏi các chất lỏng và chất khí.

2.3.46. Giấy đế hay giấy cốt (base paper): Các loại giấy hoặc cáctông được dùng để gia công thnhà loại khác, ví dụ như bằng quá trình tráng hoặc ngâm tẩm. Ở một số nước, thuật ngữ này còn được dùng để chỉ các loại giấy dùng để ghép với một lớp vật liệu khác (nhôm, plastic...).

2.3.47. Giấy cốt giấy than (Carbonizing base paper): Loại giấy có định lượng thấp, mỏng, có độ bền, độ đồng đều cao, thích hợp để tráng pigment, không được có lỗ thủng mà các pigment có thể lọt qua.

2.3.48. Giấy đế giấy diazo (base paper for diazotype): Giấy được làm từ bột giấy hóa học tẩy trắng, thích hợp để tráng chất diazo. Giấy có độ nhẵn, dộ chịu gấp, độ chịu xé cao; có tính trơ hóa học và không chứa các ion kim loại mà có thể ảnh hưởng không tốt tới quá trình sao chép.

2.3.49. Giấy đế giấy ảnh (photographic base paper): Giấy có độ bền ướt cao, có tính ổn định về kích thước, tính trơ đối với hóa chất và không chứa các tạp chất mà có thể tác động không tốt đến tính nhạy sáng của lớp tráng hoặc đến các hình ảnh.

2.3.50. Giấy đế giấy dán tường (wallpaper base): Giấy có một mặt dùng để tráng phủ, hoặc in, hoặc cả hai; mặt kia dùng để quét một lớp hồ hoặc keo dính. Loại giấy đế này phải thích hợp để gia công thành giấy dán tường.

2.3.51. Giấy cốt giấy nến (stencil base paper): Loại giấy có định lượng thấp, mỏng, có độ bền

cao, làm từ bột giấy xơ sợi dài, được thấm tẩm hoặc tráng các chất thích hợp để trở thành giấy nến.

2.3.52. Giấy cốt giấy dầu (asphalting paper): Giấy làm từ bột giấy sunphat, có độ bền cao, được

sử dụng để SX giấy dầu.

2.3.53. Giấy đế giấy tự nhân bản hay giấy đế không cácbon (carbonless base paper): Loại giấy mỏng, đồng đều về độ dầy, có độ hút nước thấp, có độ chịu kéo và độ chịu xé cao, được làm từ bột giấy hóa học tẩy trắng, thích hợp cho công nghệ tráng phấn và các hợp chất khác.

2.3.54. Giấy can (Tracing paper): Giấy được làm từ bột hóa học tẩy trắng và xơ sợi vải, có độ bền cao và trong suốt (do bột giấy được nghiền đến độ nghền cao). Loại giấy này cho phép nhìn rõ các chữ in, viết và hình vẽ ở bên dưới để sao chép lại trên nó.

2.3.55. Giấy chống thấm dầu (Greaseproof paper): Giấy không có bột cơ học, có độ bền cao đối

với tính thấm của các loại dầu và mỡ.

2.3.56. Giấy lưu trữ (archival paper): Giấy có tuổi thọ cao, được sử dụng để in các tài liệu lưu trữ

trong một thời gian dài.

2.3.57. Giấy in tiền (bank note paper): Loại giấy bảo đảm tính bền lâu, được làm từ xơ sợi bông,

lanh và bột giấy hóa học tẩy trắng, hích hợp để in nhiều mầu, có độ chịu gấp và độ bền sử dụng cao.

2.3.58. Giấy chịu lửa (fireproof paper): Các loại giấy được làm từ xơ sợi amiăng, thủy tinh hoặc

gốm, được sử dụng cho mục đích cách nhiệt, ví dụ như để bảo vệ trong các thiết bị nhiệt...

2.3.59. Giấy chống cháy (flameproof paper): Giấy đã được xử lý hóa học để khó bắt cháy. Giấy chỉ bị

cháy khi có lửa và sẽ tự tắt ngay khi bỏ ngọn lửa đi.

2.3.60. Giấy và cáctông cách điện (Electrical insulating paper or board): Giấy và cáctông có các tính chất (độ bền điện cao, có tính bền, không có các hạt kim loại hoặc các vật liệu có tính dẫn điện, có độ đồng đều về độ dầy và cấu trúc...) giống các vật liệu được sử dụng làm chất cách điện.

2.3.61. Giấy nhôm (Aluminum paper): Dạng giấy bao gói được SX bằng cách cho bột nhôm vào thành phần bột giấy, hoặc bằng cách tráng lên giấy lớp bột nhôm. Loại giấy này thường được sử dụng để bao gói thực phẩm, thuốc lá...

2.3.62. Giấy dầu (asphalt paper): Các loại giấy được tẩm, tráng, ghép với lớp nhựa đường, ví dụ như giấy duplex chống thấm nước bao gồm hai lớp giấy được dính với nhau bởi một lớp nhựa đường; Giấy làm vách nhà được tẩm no nhựa đường, sau đó tráng nhựa đường lên cả hai mặt và sau cùng là rắc bột tan (talc); giấy lợp nhà thường là loại giấy được làm từ bột vải, mềm, xốp được tráng, ngâm tẩm no nhựa đường và có bột đá đen hoặc các loại đá sỏi khác được đưa vào bằng cách ép.

2.3.63. Giấy dán tường (wallpaper): Giấy có độ bền thích hợp làm từ bột giấy cơ học, được nhuộm mầu, dập nổi, in hình hoặc có các trang trí khác trên bề mặt, có hoặc không tráng phủ lớp bảo vệ bằng plastic trong suốt để giấy có khả năng rửa hoặc thậm chí giặt bằng nước.

2.3.64. Giấy nến (stencil paper): Giấy cốt giấy nến được xử lý bằng sáp hoặc dầu, được sử dụng

để in ronêô và trong các loại máy sao chép tương tự.

2.3.65. Giấy than hay giấy carbon (carbon paper): Giấy cốt của giấy than được tráng (một mặt) bằng hỗn hợp của carbon đen hoặc vật liệu có mầu tương tự và sáp hoặc một số loại chất mang dầu tan. Loại giấy này được sử dụng để sao chép tại cùng một thời điểm các bản viết tay hoặc đánh máy chữ.

2.3.66. Giấy diazo (Diazotype paper): Giấy đế của giấy diazo có một mặt được tráng hóa chất

diazo nhạy sáng, sử dụng cho các máy sao chụp.

2.3.67. Giấy tự nhân bản hay giấy không carbon (Selff-copy paper carbonless paper): Hay còn gọi là giấy copy không carbon, là loại giấy đã được xử lý hoặc tráng loại hỗn hợp thích hợp để nhân bản được các bản viết tay hoặc đánh máy mà không cần có giấy than giữa các lớp giấy.

2.3.68. Giấy tự ghi hay giấy cảm nhiệt (Thermal recording paper): Giấy được tráng một hỗn

hợp nhạy nhiệt, mà sẽ thay đổi mầu sắc khi có nguồn nhiệt làm nóng đầu viết.

2.3.69. Giấy in hình trên vải (Heat transfer printing paper): Giấy đã được in hình để khi đặt lên

vải, dưới tác dụng nhiệt các hình in đó chuyển được sang vải.

2.3.70. Giấy bao gói (wrapping paper): Loại giấy có độ bền cơ học cao, với các định lượng khác

nhau, được dùng để bao gói bên ngoài các SP khác.

2.3.71. Giấy bao gói hoa quả (fruit wrapping paper): Loại giấy định lượng thấp, không mùi, bề

mặt có độ bóng cao và đã được xử lý bằng một loại dầu đặc biệt.

2.3.72. Giấy bao gói mầu đen (black wrapping paper): Loại giấy có mầu đen, thường được làm từ xơ sợi đay và bột giấy sunphat hoặc sunphit. Giấy có độ bền cơ học cao, có tính chịu ánh sáng và được sử dụng cho mục đích bao gói hoặc trang trí.

2.3.73. Giấy bao gói mỏng ( wrapping tissue): Các loại giấy bao gói có định lượng thấp, thông thường từ 12 g/m2 đến 30 g/m2, mềm và có độ bền cơ học cao. Loại giấy này thường được sử dụng để bao gói các vật dễ vỡ và các loại vật phẩm làm quà tặng.

2.3.74. Giấy bao gói thực phẩm (food wrappers paper): Loại giấy tráng, giấy sáp có các đặc tính

phù hợp để bao gói thực phẩm.

2.3.75. Giấy bao goi thuốc nổ (blasting paper): Loại giấy có định lượng cao, làm từ bột giấy hóa học và xơ sợi cây gai, đã được làm no sáp hoặc dầu. Giấy có tính kỵ nước tốt, thường được sử dụng để bao gói các vật liệu nổ, và còn được sử dụng làm lớp lót cho các lỗ khoan đặt thuốc nổ trong ngành mỏ. 2.3.76. Giấy làm bao (sack paper): Loại giấy có độ bền cơ học cao, thường được làm từ bột giấy

kraft, dùng để làm các loại bao một lớp hoặc nhiều lớp.

2.3.77. Giấy làm túi (bag paper): Loại giấy được SX để sử dụng làm túi. 2.3.78. Giấy túi lọc chè (tea bag paper): Loại giấy mỏng, xốp có độ bền ướt cao làm từ bột hóa học tẩy trắng và xơ sợi gai, được sử dụng để làm túi lọc chè (nhúng ngập túi có chứa chè bên trong vào nước nóng). 2.3.79. Giấy cuốn đầu lọc thuốc lá (cigarette tip paper): Loại giấy được làm từ bột giấy hóa học,

có cấu trúc mềm mại, độ nhẵn cao và độ thấu khí thấp.

2.3.80. Giấy cuốn thuốc lá (cigarette paper): Loại giấy mỏng có định lượng thấp, không gia keo, có chứa chất độn hay phụ gia dễ bắt cháy với thuốc lá. Giấy có độ chịu xé, độ chịu cọ sát cao, độ thấu khí thấp, thích hợp để SX thuốc lá và có khả năng cắt thành các cuộ có bề rộng nhỏ.

2.3.81. Giấy thấm (Blotting paper): Giấy có tỷ trọng thấp, không gia keo, có tính hút chất lỏng nhanh được làm từ bột giấy hóa học, bột giấy cơ học, xơ sợi vải, bông hoặc hỗn hợp của các loại đó. Loại giấy này thường được sử dụng để thấm mực dư trên các bản viết tay và các loại chất lỏng khác.

2.3.82. Giấy hoặc cáctông gia cường (reinforced paper or board): Bất cứ các loại giấy hoặc cáctông được làm tăng độ bền cơ học bằng cách kết hợp với các loại vật liệu như: các dải kim loại, các loại sợi tự nhiên hoặc tổng hợp.

2.3.83. Cáctông lớp mặt (liner board): Một dạng cáctông phẳng thường làm từ bột không tẩy trắng (một hoặc hai lớp ngoai thường được làm từ bột giấy kraft), được sử dụng để làm lớp mặt của cáctông sóng.

2.3.84. Giấy làm lớp sóng (Corrugating paper): Giấy làm chủ yếu từ bột giấy bán hóa học, bột

giấy tái chế, hoặc hỗn hợp của các loại bột đó, được sử dụng để làm lớp sóng của cáctông sóng.

2.3.85. Cáctông sóng (Corrugated fibreboard): Cáctông bao gồm một hoặc nhiều lớp giấy sóng được dán dính xen kẽ liên tiếp với một hoặc nhiều lớp cáctông phẳng. Có thể phân thành các loại: 2 lớp, 3 lớp hoặc nhiều hơn.

2.3.86. Giấy đề can (decal paper): Loại giấy có định lượng trung bình, có độ bền ướt cao, nhẵn và

được tráng một lớp keo dính. Loại giấy này thường được làm từ bột giấy hóa học và xơ sợi bông.

2.3.87. Giấy làm nhãn (Label paper): Giấy có bề mặt nhẵn, được làm từ bột hóa học thích hợp để

tráng các loại keo dính, được sử dụng để in các loại nhãn khác nhau.

2.3.88. Giấy làm nhãn chai (Bottle labeling paper): Loại giấy tráng và gia keo đặc biệt, được làm chủ yếu từ bột giấy hóa học, có tính năng in tốt và các đặc tính khac thích hợp để in nhãn dán trên các loại chai thủy tinh.

2.3.89. Giấy tự dính (Self-adhéive paper): Loại giấy được tráng loại keo đặc biệt cho phép dán

được lên các tờ giấy hoặc lên các bề mặt của các vật khác bằng cách ép.

2.3.90. Giấy chỉ thị màu (indicator paper): Loại giấy không gia keo, được xử lý với các hóa chất đặc biệt để có khả năng thay đổi màu khi tiếp xúc với các chất chỉ định ở dạng lỏng (để xác định sự có mặt của chúng).

2.3.91. Giấy làm phong bì (Envelope paper): Loại giấy có độ bền thích hợp để làm các loại

phong bì và túi, có khả năng in, viết và tráng các chất keo dán phù hợp.

2.3.92. Giấy ráp hay giấy nhám (Abrasive paper): Loại giấy kraft gia keo tốt có một mặt được tráng bằng hỗn hợp keo và các chất có khả năng mài mòn như: đá flin, granat, oxit nhôm, silic cacbua, cat... có độ mịn khác nhau phù hợp cho việc làm nhẵn, bóng bề mặt theo yêu cầu.

2.3.93. Giấy trang trí (Decorated paper): Các loại giấy bề mặt được dập nổi, làm nhăn, in mầu...

sử dụng cho mục đích trang trí.

2.3.94. Giấy truyền nhiệt (Heat transfer paper): Loại giấy có một mặt được tráng bằng hợp chất nhạy với nhiệt độ, sử dụng cho máy copy hồng ngoại để thực hiện sự sao chép các tài liệu gốc, bằng cách truyền các hợp chất mầu cùng với chất tráng lên một tờ giấy thường khác.

3. CÁC TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA BỘT GIẤY, GIẤY VÀ CÁCTÔNG

3.1. Định lượng (basis weight): Trọng lượng của một đơn vị diện tích của giấy và cáctông được

xác định theo PP tiêu chuẩn. Đơn vị biểu thị kết quả là g/m2.

3.2. Độ dầy (thicknes; caliper): Khoảng cách giữa hai mặt của giấy và cáctông đo theo PP tiêu

chuẩn. Đơn vị biểu thị kết quả là mm.

3.3. Tỷ trọng (density): Trọng lượng của một đơn vị thể tích của giấy và cáctông. Đơn vị biểu thị

kết quả g/cm3.

3.4. Độ nhẵn (smoothness): Tính chất đặc trưng để đánh giá mức độ phẳng của bề mặt giấy và

cáctông. Tính chất này được xác định trong các PP thử tiêu chuẩn.

3.5. Tính ổn định kích thước (dimensional stability): Khả năng giữ được hình dạng và kích thước của giấy và cáctông khi độ ẩm thay đổi, hoặc dưới các tác động khác như: sự thay đổi của môi

trường xung quanh, các ứng suất vật lý, cơ học trong quá trình in và các thao tác khi gia công hoặc khi sử dụng.

3.6. Độ ẩm (moisture content): Lượng nước có trong vật liệu. Thực tế đó là tỷ số của tọng lượng mất đi của mẫu thử, khi sấy trong điều kiện tiêu chuẩn của PP thử và trọng lượng của mẫu thử tại thời điểm lấy mẫu, đơn vị biểu thị là %.

3.7. Độ tro (ash content): Trọng lượng vật liệu còn lại sau khi nung trong điều kiện tiêu chuẩn của

PP thử.

3.9. Độ thấu khí (air permeability): Đặc tính của tờ giấy biểu thị khả năng cho phép không khí đi

qua cấu trúc xơ sợi của nó, được xác định bằng PP thử tiêu chuẩn.

3.10. Độ chịu bục (bursting strenght): Áp lực tác dụng vuông góc lên bề mặt lớn nhất mà mẫu

thử chịu được trước khi bục trong điều kiện xác định của PP thử tiêu chuẩn.

3.11. Độ chịu kéo (tensile strenght): Lực kéo lớn nhất mà mẫu thử chịu được trước khi đứt trong

điều kiện xác định của PP thử tiêu chuẩn.

3.12. Độ dài đứt (breaking lenght): Cjiều dài tính được của băng giấy với chiêu rộng đồng nhất có

trọng lượng đủ nặng để làm đứt chính nó khi treo một đầu lên.

3.13. Độ dãn dài (stretch at break): Độ dãn dài đo được tại thời điểm đứt của băng giấy các cáctông khi nó được kéo dãn dưới điều kiện xác định của PP thử tiêu chuẩn; đơn vị biểu thị thường là % so với chiều dài ban đầu của mẫu thử.

3.14. Độ hút nước (absorbency): Khả năng hấp thụ và giữ lại khi tiếp xúc với nước của giấy và

cáctông; hoặc tốc độ hút nước, được xác định bằng các PP thử tiêu chuẩn.

3.15. Độ đục (opacity): Tỷ số được biểu thị bằng % của lượng ánh sáng phản xạ từ một tờ giấy đặt trên vật chuẩn mầu đen và lượng ánh sang phản xạ của chính tờ giấy đó đặt trên vật chuẩn màu trắng trong điều kiện của PP thử tiêu chuẩn.

Phụ lục 2: GIÁ BỘT GIẤY VÀ GIẤY LOẠI TRÊN THỊ TRƯỜNG CHÂU Á THÁNG 12/2006

I- GIÁ BỘT GIẤY TRÊN THỊ TRƯỜNG CHÂU Á

Cuối tháng 12/2006 Đầu tháng 12/2006 Cuối tháng 12/2005

Chủng loại Hợp đồng kỳ hạn, CIF tại cảng châu Á Bột Kraft gỗ mềm tẩy trắng -NBSK -Thông đỏ Chi Lê Bột Kraft gỗ cứng tẩy trắng -Bạch đàn (Braxin) -Hỗn hợp (Indonexia) -Keo (Indonesia) -Hỗn hợp Phương Bắc -Hỗn hợp Phương Nam Bột khác -BCTMP (cây dương) -BCTMP (hỗn hợp) -BCTMP (cây vân sam) -Bột Kraft gỗ mềm không tẩy $710 – 740 $690 – 725 $605 – 640 $590 – 630 $605 – 640 $605 – 640 $595 – 630 $575 – 590 $565 – 590 $550 – 590 $575 – 615 $710 – 740 $690 – 725 $605 – 640 $590 – 620 $605 – 630 $605 – 630 $595 – 620 $565 – 590 $555 – 590 $540 – 590 $575 – 615 $500 – 550 $485 – 530 $515 – 555 $490 – 530 $505 – 540 $515 – 540 $505 – 530 $465 – 500 $455 – 500 $450 – 500 $430 – 470

Hợp đồng giao ngay, CIF tại cảng châu Á Bột Kraft gỗ mềm tẩy trắng -NBSK -Thông đỏ Chi Lê -Thông phương Nam -Bột Nga Bột Kraft gỗ cứng tẩy trắng -Bạch đàn (Braxin) -Hỗn hợp (Indonexia) -Keo (Indonesia) -Bột Nga Bột khác -Kraft gỗ mềm không tẩy -Kraft gỗ mềm Nga không tẩy $690 – 710 $680 – 690 $690 – 700 $670 – 680 $620 – 650 $605 – 640 $615 – 650 $600 – 610 $550 – 570 $525 – 545 $690 – 710 $680 – 690 $680 – 690 $670 – 680 $620 – 650 $605 – 640 $615 – 650 $600 – 610 $550 – 570 $525 – 545 $480 – 490 $470 – 480 $460 – 470 $460 – 470 $505 – 540 $500 – 525 $510 – 535 $500 – 510 $450 – 470 $430 – 440

II- GIÁ GIẤY LOẠI TRÊN THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC VÀ ĐÔNG NAM Á

Giấy loại Mỹ -Cáctông hòm hộp cũ OCC -Lề Kraft 2 mặt -Giấy in báo cũ -Giấy loại hỗn hợp -Lề trắng ngắn -Lề trắng cứng $135 – 140 $220 – 225 $164 – 169 $132 – 134 $310 – 320 $480 – 500 $135 – 140 $220 – 225 $164 – 169 $132 – 134 $310 – 320 $480 – 500 $120 – 128 $155 – 165 $133 – 138 $110 – 113 $215 – 235 $360 – 390

Giấy loại châu Âu -Cáctông hòm hộp cũ OCC -Giấy in báo cũ -Giấy loại hỗn hợp $130 – 135 $142 – 145 $122 – 125 $130 – 135 $142 – 145 $122 – 125 $110 – 120 $118 – 123 $108 – 115

Nguồn: Công nghiệp giấy tháng 1/2007

Giấy loại Nhật Bản -Cáctông hòm hộp cũ OCC -Giấy in báo cũ -Giấy loại hỗn hợp $130 – 135 $160 – 165 $135– 140 $130 – 135 $160 – 165 $135– 140 $105 – 110 $135 – 140 $110 – 115

Phụ lục 3: SẢN LƯỢNG BỘT GIẤY VÀ GIẤY NĂM 2002

Đơn vị: tấn

Tên đơn vị

SL giấy

TT

SL bột giấy

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16

CHI HỘI I

Công ty Chế biến NLSTP Yên Bái Công ty Cổ phần Giấy Hải Phòng Công ty Cổ phần Giấy Tuyên Quang Công ty Giấy Bãi Bằng Công ty Giấy Lửa Việt Công ty Giấy Việt Trì Công ty Giấy xuất khẩu Bắc Giang Công ty Giấy xuất khẩu Thái Nguyên Công ty Hóa chất Vật liệu Điện Công ty Lâm sản Bắc Kạn Công ty Thương mại Hạ Long Công ty Cổ phần Yên Sơn HTX Giấy Mỹ Hương Công ty Giấy Hoàng Văn Thụ Xí nghiệp giấy Đế Công ty Phân đạm Hóa chất Hà Bắc Cộng Chi hội I

5,380 0 732 66,383 5,050 6,345 1,062 2,500 0 770 2,700 10,300 0 2,676 2,443 950 107,291

5,600 20,430 615 75,500 4,632 21,242 733 3,698 5,220 701 1,800 9,720 2,756 4,544 2,332 950 160,473

CHI HỘI I

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16

Công ty Cổ phần Giấy Mục Sơn Công ty Cổ phần Giấy Thuận Thành Công ty In Hàng Không Công ty Giấy và Bao bì Phú Giang Công ty Cổ phần Giấy Lam Sơn Công ty Giấy Trúc Bạch Công ty TNHH Tân Thành Đồng Công ty TNHH Giấy Bình Minh Công ty Cổ phần Giấy Sông Lam Công ty Cổ phần Giấy Thanh Long Công ty Giấy Vạn Điểm Viện CN Giấy và Xenluylô Xí nghiệp Chế biến Gỗ Hà Tây Xí nghiệp Đường - Giấy - Rượu Hà Tây Xí nghiệp Giấy Chí Thiết Xí nghiệp Giấy Thanh Sơn Cộng Chi hội II

5,600 0 0 1,346 4,000 0 0 0 6,840 0 1,000 0 0 10 0 400 19,196

7,300 2,300 113 6,600 6,036 488 3,000 1,500 3,100 650 3,950 450 110 220 1,200 800 37,817

CHI HỘI III

6,700

1

Công ty Cổ phần Giấy Rạng Đông

0

0 0 0

2 3 4

420 350 300

5 6

Cty In thống kê và Sản xuất bao bì Huế HTX Giấy Đồng Tâm Xí nghiệp Giấy tư doanh Xuân Hà XN Giấy - Văn phòng phẩm Thanh Xuân XN Giấy tư doanh Trường Thắng Cộng Chi hội III

0 0 0

600 1,150 9,520

CHI HỘI IV

0 5,650 0 0 25,275 6,773 0 0 0

1 2 3 4 5 6 7 8 9

1,191 18,659 6,989 2,406 61,049 8,730 5,600 2,062 1,200

10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

Công ty Cổ phần Giấy Viễn Đông Công ty Giấy Đồng Nai Công ty Giấy Bình An Công ty Giấy Linh Xuân Công ty Giấy tân Mai Công ty Giấy Vĩnh Huê Công ty Giấy Xuân Đức Công ty TNHH An Thiên Công ty TNHH Giấy Bách Hợp Công ty TNHH CN XD TM Hòa Phương Công ty TNHH Giấy An Bình Công ty TNHH Giấy Mai Tân Công ty TNHH Giấy Bao bì Phú Thịnh Công ty TNHH Giấy Bao bì Phú Thọ Công ty Cổ phần Giấy Sài Gòn Công ty TNHH Phạm Thu Công ty TNHH Quảng Phát Công ty TNHH SXTM Giấy Lụa Công ty TNHH Vạn Phát HTX CN-Tiểu thủ công nghiệp Cây Tre Nhà máy Giấy Long An Xí nghiệp Giấy Mai Lan Xí nghiệp Giấy Vĩnh Phú Xí nghiệp tư doanh Bột Phước Long Cộng Chi hội IV

0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 153 212 1,000 39,063

1,500 19,231 1,586 3,290 4,300 9,200 2,950 4,525 170 2,800 1,800 1,959 1,074 4,309 0 166,580

Cộng toàn Hiệp hội:

165,550

374,390

NGOÀI HIỆP HỘI

1 2 3 4

Lam Kinh Vàng mã (nhiều đơn vị) Bắc Ninh Các cơ sở khác Ước tính các cơ sở ngoài Hiệp hội:

4,000 55,000 0 15,000 74,000

6,030 50,000 70,000 50,100 176,130

550,520

Nguồn: Hiệp hội Giấy Việt Nam

Cộng toàn ngành:

239,550

Phụ lục 4 : SẢN LƯỢNG BỘT GIẤY VÀ GIẤY NĂM 2002

Ngoài

Toàn ngành

Nội dung

ĐVT Hiệp hội

Hiệp hội

239,550

Khoản mục

165,550

74,000

Tấn

550,520

Giấy

374,390

176,130

Tấn

43.1%

%

Tỷ lệ bột giấy đáp ứng nhu cầu SX

44.2%

42.0%

Nhập khẩu bột giấy

Tấn

208,840

102,130

310,970

Thiệt hại (Giá bột NK>giá bột trong

40,426,100

USD 27,149,200

13,276,900

nước 130USD/tấn)