BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ --------

ĐINH MẠNH TRƯỜNG

ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI TẠI CÁC HUYỆN NGHÈO TỈNH ĐIỆN BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014

BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ --------

ĐINH MẠNH TRƯỜNG

ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI TẠI CÁC HUYỆN NGHÈO TỈNH ĐIỆN BIÊN

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS VŨ QUANG LỘC

HÀ NỘI - 2014

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 3

Chương 1 ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI – NHỮNG VẤN ĐỀ

LÝ LUẬN

11 11 22 1.1. Quan niệm về đảm bảo An sinh xã hội 1.2. Nội dung và vai trò của đảm bảo An sinh xã hội

Chương 2 THỰC TRẠNG VIỆC ĐẢM BẢO AN SINH XÃ

HỘI TẠI CÁC HUYỆN NGHÈO TỈNH ĐIỆN

BIÊN THỜI GIAN QUA

31 31 41 70 2.1. Một số đặc điểm các huyện nghèo tỉnh Điện Biên 2.2. Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân 2.3. Những vấn đề đặt ra và cần giải quyết

Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN

SINH XÃ HỘI CÁC HUYỆN NGHÈO TỈNH

ĐIỆN BIÊN TRONG THỜI GIAN TỚI 74

3.1. Những quan điểm cơ bản chỉ đạo đảm bảo An sinh xã

hội ở các huyện nghèo tỉnh Điện Biên 74

3.2. Giải pháp thực hiện đảm bảo An sinh xã hội các

huyện nghèo tỉnh Điện Biên 78

KẾT LUẬN 99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101

PHỤ LỤC 105

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt

An sinh xã hội ASXH

Ngân hàng phát triển Châu Á ADB

Bảo hiểm xã hội BHXH

Bảo hiểm y tế BHYT

Bảo hiểm thất nghiệp BHTN

Cộng hòa dân chủ nhân dân CHDCND

Công nghiệp xây dựng CNXD

Dân tộc nội trú DTNT

Dân tộc thiểu số DTTS

Giao thông nông thôn GTNT

Kế hoạch hóa gia đình KHHGĐ

Kinh tế xã hội KTXH

Mặt trận tổ quốc MTTQ

Ngân hàng thế giới WB

Nông lâm nghiệp NLN

Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc UNICEF

Thể dục thể thao TDTT

Thương mại cổ phần TMCP

Trung học cơ sở THCS

Trung học phổ thông THPT

Trợ giúp xã hội TGXH

Vật liệu xây dựng VLXD

Xã hội chủ nghĩa XHCN

Xóa đói giảm nghèo XĐGN

Xây dựng cơ bản XDCB

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Đảm bảo an sinh xã hội (ASXH) là một bộ phận trong mô hình phát

triển xã hội để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,

văn minh”. Hoạt động của hệ thống ASXH là nơi thể hiện rõ nhất tính “định

hướng xã hội chủ nghĩa” của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam, trong đó

con người luôn có được, bao gồm cả cảm nhận được, một cuộc sống yên ổn

và an toàn, có khả năng phòng ngừa những cú sốc và có những “chiếc phao

cứu sinh” khi gặp phải những biến cố, rủi ro bất thường. Dưới góc độ của

khoa học kinh tế chính trị ASXH được xem như là một khâu của quá trình tái

sản xuất xã hội: Phân phối lại thu nhập quốc dân để tái sản xuất sức lao động.

Đảm bảo ASXH ở nước ta hiện nay có vị trí, vai trò hết sức quan trọng

trong quá trình xây dựng, phát triển và ổn định đất nước, góp phần hiện thực

hóa các quyền xã hội của mọi người dân; đặc biệt đối với các huyện nghèo

tỉnh Điện Biên đảm bảo ASXH góp phần từng bước nâng cao đời sống vật chất

và tinh thần cho đồng bào nghèo, người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa

những người có hoàn cảnh khó khăn… Với những chính sách đảm bảo ASXH

của Chính phủ bằng nhiều nguồn vốn khác nhau từ trung ương các tổ chức kinh

tế - xã hội và các cá nhân đã giúp người dân nơi đây từng bước thoát nghèo và

vươn lên làm giầu trên chính quê hương mình.

Đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên chính là nền tảng của

phát triển kinh tế - xã hội, nhằm điều tiết, phân phối lại thu nhập giữa các vùng

kinh tế và các nhóm dân cư, có thể được coi như là một giá đỡ đảm bảo thu nhập

cho người dân. Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững tại các

huyện nghèo ngang bằng với các huyện khác trong tỉnh Điện Biên.

Điện Biên là một tỉnh mới được thành lập, tách ra từ tỉnh Lai Châu cũ có

tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước. Toàn tỉnh hiện có 5/10 huyện nghèo theo

4

chuẩn mới của Chính phủ. Nhưng với những chủ trương, chính sách đúng đắn,

phát huy tốt nguồn lực tại chỗ và tận dụng tối đa nguồn lực hỗ trợ của Chính

phủ, cũng như các tổ chức kinh tế, tổ chức nhân đạo, từ thiện trong và ngoài

nước, tỉnh Điện Biên trong thời gian qua đã từng bước thực hiện tốt việc đảm

bảo ASXH, đời sống của người dân được đảm bảo, kinh tế, chính trị, xã hội

ngày càng phát triển ổn định…Các chương trình, dự án đảm bảo ASXH ngày

càng đồng bộ và hoàn thiện với số người dân tại các huyện nghèo được giải

quyết việc làm ngày tăng; số người tham gia BHXH ngày càng lớn, diện bao phủ

không ngừng được mở rộng; chính sách trợ giúp xã hội và hỗ trợ giảm nghèo

được triển khai đạt hiệu quả cao, tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo đã giảm

đáng kể; đảm bảo mức tối thiểu một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc

biệt là người nghèo, dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh khó khăn.

Tuy nhiên, trên thực tế việc đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh

Điện Biên hiện còn phân tán, chồng chéo, hiê ̣u quả chưa cao, tạo việc làm và

giảm nghèo chưa bền vững, tỉ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo còn cao; mức trợ cấp

xã hô ̣i còn thấp; giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; công tác

bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ người dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào

vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế; tỉ lệ trẻ em suy

dinh dưỡng còn cao và giảm chậm; tỉ lệ người tham gia Bảo hiểm xã hội

(BHXH), Bảo hiểm y tế (BHYT) còn thấp; đời sống của một bộ phận người

nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số chưa bảo đảm được mức tối thiểu và có sự

chênh lệch giữa miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với mức trung bình

chung của cả huyện.

Những hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là sự thiếu

thống nhất trong nhận thức về nô ̣i dung, vị trí và vai trò của đảm bảo ASXH

trong mô hình phát triển kinh tế - xã hội, nguồn lực tại chỗ của các huyện

nghèo trong thực hiện đảm bảo ASXH còn hạn chế, chủ yếu phải dựa vào

5

nguồn ngân sách của tỉnh, của Trung ương và sự hỗ trợ từ các tổ chức kinh tế,

xã hội khác; chưa khuyến khích người dân và các đối tác xã hội tích cực chủ

động tham gia, bởi vậy hệ thống ASXH chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh

tế - xã hội tại các địa phương.

Chính vì vậy, đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên nói

riêng, các huyện nghèo trong cả nước nói chung là một sự nghiệp cao cả và

còn phải nỗ lực phấn đấu lâu dài. Để làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn;

thực trạng và những quan điểm, giải pháp trong đảm bảo ASXH đối với các

huyện nghèo, tác giả xin lựa chọn vấn đề: “Đảm bảo An sinh xã hội tại các

huyện nghèo Tỉnh Điện Biên” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học chuyên

ngành kinh tế chính trị của mình.

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Trong những năm qua, cùng với việc tập trung phát triển kinh tế, Đảng và

Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát triển hệ thống ASXH

nhằm bảo đảm quyền lợi của mọi người dân, đặc biệt chú ý đến người nghèo,

người dân tộc, dân cư vùng nông thôn, dân cư vùng sâu, vùng xa. Đầu tư của

Nhà nước cho ASXH ngày càng tăng, quản lý Nhà nước về ASXH từng bước

được tăng cường, sự tham gia của doanh nghiệp, người dân và các tổ chức xã hội

ngày càng nhiều. Nhờ vậy, tỷ lệ nghèo giảm nhanh, đối tượng tham gia và thụ

hưởng các chính sách ASXH ngày càng mở rộng và tăng về số lượng; người

dân, đặc biệt dân cư vùng nông thôn bước đầu đã chủ động phòng ngừa, đối phó,

giảm thiểu và khắc phục có hiệu quả những rủi ro, để ổn định cuộc sống, hoà

nhập tốt hơn vào cộng đồng.

Tuy nhiên, hệ thống ASXH còn nhiều bất cập, thể hiện ở mức độ bao phủ

thấp, đối tượng hưởng lợi còn hạn chế, các khoản tiền trợ cấp ASXH chỉ bảo

6

đảm một phần trong tổng nhu cầu chi tiêu của hộ gia đình. Bởi vậy để làm rõ

hơn kết quả thực hiện công tác ASXH ở nước ta trong thời gian qua đã có các

công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, trong đó đáng chú ý là công trình

của các tác giả sau:

* Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã xây dựng Đề án chiến lược

ASXH giai đoạn 2011-2020. Đề án đã đề cập trên góc độ lý luận về quá trình

thực hiện công tác ASXH như: quan điểm, đối tượng, mục tiêu, định hướng giải

pháp và kinh phí thực hiện ASXH.

Gần đây nhất tháng 1 năm 2014, Viện khoa học Lao động và xã hôi thuộc

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam đã phát hành cuốn sách có nội

dung đặc biệt quan trọng đến hệ thống các chính sách về ASXH của Việt Nam

với tên sau: “Phát triển hệ thống ASXH ở Việt Nam đến năm 2020”. Cuốn sách

đã nêu lên toàn bộ cơ sở lý luận, thực tiễn cũng như những nội dung, chính sách

chủ yếu và thực trạng của hệ thống ASXH ở Việt Nam hiện nay; định hướng

phát triển chính sách ASXH đến năm 2020; cuốn sách đã cung cấp đầy đủ

những nội dung cơ bản về hệ thống ASXH của Việt Nam, nêu lên thực trạng

công tác ASXH trong những năm qua, đồng thời đề ra những mục tiêu cụ thể cả

trước mắt cũng như lâu dài, định hướng chính sách phát triển công tác ASXH

trong thời gian tới. Cuốn sách của PGS.TS, Mai Ngọc Cường chủ biên, Chính

sách xã hội nông thôn: kinh nghiệm CHLB Đức và thực tiễn Việt Nam. NXB lý

luận chính trị, Hà nội 2006; và “Về an sinh xã hô ̣i ở Viê ̣t Nam giai đoạn 2012-

2020 NXB chính trị Quốc gia (năm 2013).

Đề tài cấp Bộ năm 2002 của các tác giả: Bùi Văn Hồng, nghiên cứu mở

rộng đối tượng tham gia BHXH đối với người lao động tự tạo việc làm và thu

7

nhập; Nguyễn Văn Định, tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam trong nền

kinh tế thị trường đề tài cấp Bộ (năm 2000); Nguyễn Tiệp, các giải pháp nhằm

thực hiện xã hội hoá công tác trợ giúp xã hội, đề tài cấp Bộ năm 2002; Đặng

Cảnh Khanh, vấn đề trợ giúp xã hội trong chính sách bảo đảm xã hội ở Việt

nam đề tài KX. 04. 05 (năm 1994);

* Công trình nghiên cứu cấp nhà nước mang mã số KX 04.05: “Luận cứ

khoa học cho việc đổi mới và hoàn thiện các chính sách bảo đảm xã hội trong

điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam”, do Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội thuộc Bộ

Lao động – Thương binh và Xã hội, làm chủ đề tài. Kết quả nghiên cứu của đề

tài đề cập đến một cách khá hệ thống vấn đề bảo đảm xã hội như: đã làm rõ khái

niệm về đảm bảo xã hội; mối quan hệ giữa bảo đảm xã hội với các chính sách xã

hội, vị trí, vai trò và sự cần thiết khách quan của bảo đảm xã hội trong nền kinh

tế thị trường, khẳng định bảo đảm xã hội vừa là nhân tố ổn định, vừa là động lực

cho phát triển kinh tế xã hội. Đề tài đã nghiên cứu khá công phu về các bộ phận

cấu thành quan trọng của bảo đảm xã hội là BHXH, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã

hội; đã đánh giá thực trạng của các bộ phận cấu thành này, chỉ ra những thành

tựu, hạn chế của nó và chỉ ra quan điểm, phương hướng và giải pháp phát triển

trong tương lai của hệ thống bảo đảm xã hội ở nước ta.

* Luận văn Tiến sỹ của tác giả Mai Ngọc Anh – Chuyên ngành quản lý

kinh tế, trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội với tên đề tài: “ASXH đối với

nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam”. Đề tài đã nghiên cứu

làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống

ASXH đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường; tổng kết kinh nghiệm

8

về xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông dân ở một số nước trên

thế giới, rút ra những kinh nghiệm có thể vận dụng vào việc xây dựng hệ thống

ASXH đối với nông dân ở nước ta; khái quát thực trạng hệ thống ASXH ở nước

ta hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của hệ

thống ASXH hiện hành đối với nông dân.

* Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Chương Phát – Chuyên ngành

Kinh tế nông nghiệp, Trường đại học Kinh tế - Quản trị kinh doanh, Đại học

Thái Nguyên với đề tài: "Ảnh hưởng của hệ thống ASXH tới vấn đề nghèo đói

của hộ nông dân huyện Văn Chấn - tỉnh Yên Bái". Đề tài có ý nghĩa lý luận và

thực tiễn, tạo điều kiện cho các cơ quan chính quyền, đoàn thể và nhân dân có

thể nhận diện bức tranh toàn cảnh về ASXH và ảnh hưởng của hệ thống ASXH

tới vùng nông thôn với một mức độ nhất định. Từ đó, giúp cho nhà nước có căn

cứ xây dựng pháp luật, chế độ, chính sách; phương hướng hoạt động phù hợp

nhằm tăng cường ASXH; cải thiện đời sống, xoá đói giảm nghèo và giảm thiểu

rủi ro cho những người bị thiệt thòi trong xã hội; đưa đất nước phát triển bền

vững đi lên trong nền kinh tế thị trường.

Bên cạnh đó, trong những năm gần đây nhiều nhà khoa học, nhà nghiên

cứu đã có những bài viết, công trình nghiên cứu bàn về hệ thống ASXH, cũng

như đảm bảo ASXH ở nước ta hiện nay. Có thể nêu lên một số công trình nghiên

cứu, bài viết của một số tác giả như sau: Nguyễn Hải Hữu, Phát triển hệ thống

an sinh xã hội phù hợp với bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa; Patricia Justino, khuôn khổ xây dựng tổng thể quốc gia về an sinh xã

hội ở Việt Nam (UNDP); PGS, TS Vũ Văn Phúc – Tổng biên tập Tạp chí Cộng

sản, An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn; GS, TS Hoàng

9

Chí Bảo – Hội đồng lý luận Trung ương, An sinh xã hội với ổn định và phát triển

bền vững ở Việt Nam (Tạp chí Tuyên giáo, năm 2014); ThS. Nguyễn Văn Chiều –

khoa Khoa học quản lý, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học

Quốc gia Hà Nội, ASXH và định hướng nghiên cứu nhằm nâng cao vai trò của

khoa học xã hội vào quá trình hoạch định chính sách ASXH ở Việt Nam; Cùng tác

giả ThS. Nguyễn Văn Chiều có bài đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản, Quan

điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện an sinh xã hội trong thời kỳ đổi

mới; ThS.Nguyễn Văn Hội, Phó cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội, Bộ Lao động –

Thương binh và Xã hội, tiếp tục thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo và

ASXH vùng đặc biệt khó khăn…

Các nghiên cứu trên tuy đã góp phần cung cấp cơ sở khoa học, lý luận

thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH nói chung ở nước

ta những năm qua. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đảm bảo ASXH dưới góc độ

của môn kinh tế chính trị ở một tỉnh miền núi mới được tách ra có nhiều

huyện nghèo vẫn chưa được giải quyết thấu đáo, còn nhiều vấn đề đặt ra nóng

bỏng, cấp bách cần giải quyết, đặc biệt những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn

tại các huyện nghèo, xã nghèo

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích nghiên cứu

Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đảm bảo ASXH tại

các huyện nghèo tỉnh Điện Biên hiện nay trên góc độ của khoa học kinh tế chính

trị. Trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm và giải pháp để giải quyết vấn đề

ASXH ở các huyện này trong thời gian tới.

* Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ những vấn đề lý luận về đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo

10

tỉnh Điện Biên hiện nay.

- Đánh giá thực trạng của đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh Điện

Biên thời gian qua và những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới.

- Đề xuất Quan điểm và giải pháp đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo

cho thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu

Đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên theo nghĩa rộng.

* Phạm vi nghiên cứu

Lựa chọn 05 huyện nghèo tỉnh Điện Biên (Mường Nhé, Mường Ảng, Điện

Biên Đông, Tủa Chùa và Nậm Pồ); thời gian nghiên cứu từ năm 2011 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận

Đề tài dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về

tái sản xuất sức lao động và nguồn lực con người trong phát triển kinh tế để làm rõ

các vấn đề lý luận đảm bảo ASXH, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân

dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt trong tình

hình kinh tế khó khăn, suy giảm.

* Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử, đề tài sử dụng phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị Mác - Lênin

(trừu tượng hoá khoa học) và các phương pháp khác như: kết hợp lôgíc và lịch sử,

phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.

6. Ý nghĩa của luận văn

- Góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về đảm

11

bảo ASXH ở các huyện nghèo nói riêng và cả nước ta nói chung.

- Góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho các cơ quan chức năng và các

huyện nghèo trong lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện công tác đảm bảo ASXH trong

thời gian tới.

- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy và

học tập môn Kinh tế chính trị ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận văn kết cấu 3 chương (7 tiết).

12

Chương 1

ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1. Quan niệm về đảm bảo An sinh xã hội

1.1.1. An sinh xã hội và các nguyên tắc của nó

* Khái niệm về An sinh xã hội

ASXH là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Thực chất đây là

hoạt động thuộc khâu phân phối, cụ thể là sự phân phối lại thu nhập quốc dân

trong quá trình tái sản xuất để nhằm tái sản xuất sức lao động, chính vì vậy trong

tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta” C.Mác đặt vấn để phân phối trong sự liên

hệ với trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội. Mác cho rằng trong giai đoạn

đầu của xã hội cộng sản cũng không thể bỏ được nhà nước và pháp luật và với

sự phát triển của sức sản xuất đòi hỏi xã hội phải thực hiện phân phối “làm theo

năng lực, hưởng theo nhu cầu” mặc dù ở giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản

trình độ kinh tế còn có hạn nhưng con người đã được phát triển tự do, toàn diện

được xã hội quan tâm đến mọi mặt của đời sống. Theo Lê nin, cách phân phối

này là một “bước tiến vĩ đại” vì nó nói lên bọn bóc lột đã bị tiêu diệt, ai nấy

đều tham gia lao động, mọi người đều có quyền làm việc và có quyền hưởng

theo lao động của mình, được hưởng những thành quả của chủ nghĩa xã hôi.

Nhưng khi chuyển sang giai đoạn của xã hội cộng sản, Mác nói rõ thêm: cùng

với sự phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa, sức sản xuất xã hội được phát

triển, trình độ văn hóa được nâng cao; sự đối lập giữa lao động trí óc và lao

động chân tay, giữa thành thị và nông thôn được xóa bỏ, lao động trở thành

nhu cầu cần thiết bậc nhất cho sức sống của mọi người, và do đó, tất nhiên

phải chuyển sang một giai đoạn mới, một nguyên tắc mới là “làm theo năng

lực, hưởng theo nhu cầu”. Đó là lúc xã hội có thể sản xuất ra sản phẩm tiêu

dùng dồi dào đến mức không cần dùng phân phối lợi ích vật chất để kích

thích lao động nữa, con người khi đó được giải phóng một cách triệt để, được

tự do phát triển theo những khả năng của mình.

13

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác -

Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và

xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí

Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con

người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là

vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người.

Có thể coi hai câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới đây

mang hàm ý rộng lớn, sâu xa, liên quan đến ASXH: “Tôi chỉ có một ham

muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta

được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học

hành”. Và “Đảng cần có một kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn

hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” [6, tr.23].

Tư tưởng Hồ Chí Minh về ASXH hình thành và phát triển từ rất sớm.

Trong cuốn “Đường cách mệnh” xuất bản năm 1927, nói về công hội Nguyễn

Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã viết: “Lại có bất thường phí như để dành lúc bãi

công hoặc giúp những hội khác bãi công, hoặc giúp đỡ người mất việc làm,

khi ốm đau, tai nạn, hoặc làm những việc công ích”. Đây là ý tưởng manh nha

của BHXH, BHYT, ASXH. Ngay sau khi giành được chính quyền, năm 1946

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đứng đầu Nhà nước ta xây dựng và ban hành

Hiến pháp, trong đó quy định những người già, hoặc người tàn tật không việc

làm thì được giúp đỡ. Trong giai đoạn từ năm 1947 đến những năm 50 của thế

kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo, ban hành một loạt chính sách,

chế độ liên quan đến cán bộ, công chức, người lao động như chế độ tiền

lương, phụ phí, chế độ trợ cấp BHXH đối với cán bộ, công chức, viên chức;

chế dộ đãi ngộ quân nhân. Trong những năm 60 của thế kỷ XX, khi tổ chức

công đoàn phát triển, chế độ BHXH, chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao

động, bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu, tuất được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan

tâm chỉ đạo, ban hành. Đây là những yếu tố nền tảng của ASXH.

14

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm, chăm lo đến toàn bộ các lĩnh

vực đời sống, các giai cấp, tầng lớp với tầm nhân văn, nhân sinh rộng lớn.

Hàng loạt bài nói, viết, chính sách chế độ được ban hành từ rất lâu, nhưng đến

nay vẫn còn nguyên tính chỉ đạo và giá trị thời đại như các tác phẩm, bài báo,

bài nói, các chính sách về lao động, việc làm; về dân số - kế hoạch hóa gia

đình; về y tế giáo dục; về tất cả các đối tượng, giai tầng, nghề nghiệp, các đối

tượng đặc thù, khó khăn trong xã hội [6, tr.24].

Như vậy, theo cách nhìn nhận như trên, chúng ta có thể tìm tòi, khám

phá, phát hiện và nhìn nhận những kía cạnh về ASXH trong tư tưởng Hồ Chí

Minh. Có thể khẳng định rằng cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng

như những tư tưởng xuyên suốt, quán xuyến trong tư tưởng của Người là tất

cả vì dân, vì hòa bình, độc lập, tự do, ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Trong

điều kiện hoàn cảnh nước nhà còn nhiều khó khăn, Bác Hồ đã quan tâm đến

ASXH cụ thể: Các chính sách liên quan đến thương binh, bệnh binh, gia đình

liệt sỹ, những người đã phải chịu những hy sinh, mất mát vì nền độc lập,

thống nhất của dân tộc. Bác đã nhiều lần nhắc nhở: “Thương binh, bệnh binh,

gia đình quân nhân, gia đình liệt sỹ là người có công với Tổ quốc với nhân

dân cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu, giúp đỡ

họ, để họ có cuộc sống ổn định, bớt đi những khó khăn của sự mất mát hy

sinh”. Một trong những vẫn đề luôn được Bác quan tâm là vấn đề bảo vệ

quyền và lợi ích của người lao động. Trong bài viết ngày 29/10/1946 Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Công đoàn có nhiệm vụ giữ gìn quyền lợi cho

công nhân và giúp cho Chính phủ xây dựng đất nước. Chính phủ Việt Nam

luôn là Chính phủ dân chủ vì vậy đã ban hành Bộ luật lao động ấn định giờ

làm, tiền công, bảo vệ đàn bà, người già và trẻ em”. Khi nói đến quan điểm

của Người về ASXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một đối tượng được Bác

quan tâm là phụ nữ và vị trí gia đình trong xã hội và tư tưởng Hồ Chí Minh

còn thể hiện, thấm đượm trong việc xây dựng, thực hiện chính sách xã hội đối

15

với nhiều đối tượng trong xã hội như người già, trẻ em, thanh niên, trí thức,

công nhân, nông dân, học sinh, sinh viên, đồng bào các dân tộc thiểu số…

Chăm sóc xây dựng và thực hiện tốt chính sách, chế độ cho mọi đối tượng,

mọi tầng lớp trong xã hội chính là ASXH [6, tr.24-25].

Toàn bộ cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh thắm đượm tư tưởng vì

nhân dân, vì nhân loại. Lý tưởng, mục tiêu phấn đấu của Người là hòa bình,

độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người Việt Nam và nhân dân lao

động trên thế giới. Người quan tâm đến lợi ích thiết thân, hàng ngày của quần

chúng nhân dân, người lao động. Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham

muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn

toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.

Hiện nay ASXH là một thuật ngữ được dịch ra từ cụm từ social

security (Tiếng Anh) hoặc từ sécurites sociale (Tiếng Pháp). Đây là thuật

ngữ xuất hiện trong một đạo luật của Mỹ năm 1935. Trong đạo luật này

ASXH được hiểu là sự bảo đảm nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị cá

nhân, đồng thời tạo lập cho mỗi con người một đời sống sung mãn và hữu

ích để phát triển tài năng đến tột độ.

An sinh xã hội có nội dung rất rộng và ngày càng hoàn thiện về nhận thức

và thực tiễn thực hiện trên toàn thế giới. ASXH theo quan điểm của một số tổ

chức quốc tế cũng có mức độ rộng, hẹp và đối tượng hướng tới khác nhau:

Theo Liên hiệp quốc, ASXH tiếp cận trên quyền của người dân (Điều

25, Hiến chương Liên hiệp quốc năm 1948): “…Mọi người dân và hộ gia

đình đều có quyền có mức tối thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã hội bao

gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế (bao gồm cả thai sản), dịch vụ xã hội thiết yếu và

có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, góa

phụ, tuổi già… hoặc các trường hợp bất khả kháng khác…” [40, tr.11].

Theo Ngân hàng thế giới (WB) “ASXH là những biện pháp của chỉnh

phủ nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiền

16

chế được nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và

những bấp bênh thu nhập” [40, tr.11].

Thuật ngữ ASXH cũng được Tổ chức lao động quốc tế ILO ghi nhận:

“ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua

một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và

xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai

nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; bảo đảm chăm sóc y tế

và trợ cấp cho các gia đình đông con” [40, tr.11].

Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) cũng cho rằng “ASXH là các

chính sách, chương trình giảm nghèo và giảm sự yếu thế bởi sự thúc đẩy có

hiệu quả thị trường lao động giảm thiểu rủi ro của người dân và nâng cao

năng lực của hộ để đối phó với rủi ro và suy giảm hoặc mất thu nhập”. ASXH

có 5 hợp phần: (i) các chính sách và chương trình thị trường lao động; (ii) bảo

hiểm xã hội; (iii) trợ giúp xã hội; (iv) quỹ hỗ trợ phát triển cộng đồng và (v)

bảo vệ trẻ em [40, tr.12].

ASXH là một vấn đề phong phú, phức tạp, là một “khái niệm mở” nên

có thể hiểu theo hai nghĩa: rộng và hẹp.

Theo nghĩa rộng, ASXH bao trùm lên nhiều mặt cuộc sống của con

người. Đó là các quan hệ hình thành trong nhiều lĩnh vực nhằm ổn định đời

sống, nâng cao chất lượng sống của các thành viên xã hội, góp phần ổn định,

phát triển và tiến bộ xã hội.

Theo nghĩa hẹp, ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên

của mình, trước hết và chủ yếu là những trường hợp bị giảm sút thu nhập

đáng kể do gặp những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp, tàn tật, mất việc làm, mất người nuôi dưỡng, nghỉ thai sản, về già

cũng như các trường hợp bị thiên tai, dịch họa. Đồng thời, xã hội cũng ưu

đãi những thành viên của mình đã có những hành động xả thân vì nước, vì

dân, có những cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo

vệ tổ quốc.

17

Ở Việt Nam, thuật ngữ ASXH được tiếp cận dưới nhiều tên gọi khác

nhau như: bảo trợ xã hội, bảo tồn xã hội, bảo đảm xã hội, trật tự an toàn xã

hội. Có quan điểm cho rằng ASXH trước hết là sự bảo vệ của xã hội đối với

các thành viên của mình nhờ một loạt các biện pháp công cộng nhằm giúp đỡ

chống lại sự thiếu hụt về kinh tế mà họ có thể gặp phải do mất đi hoặc bị giảm

quá nhiều nguồn thu nhập bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.

Dưới góc độ Kinh tế chính trị: ASXH là một khâu của quá trình tái sản

xuất xã hội (gồm các khâu sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng). Thực chất

đây là hoạt động thuộc khâu phân phối, cụ thể là sự phân phối lại thu nhập quốc

dân (v + m) trong quá trình tái sản xuất để nhằm tái sản xuất sức lao động và

thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, thực hiện định

hướng XHCN và mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công

bằng, văn minh.

Tiếp cận dưới góc độ quan hệ sản xuất: Đây là một hệ thống quan hệ

giữa người với người trong quá trình tái sản xuất xã hội. Các quan hệ đó gắn

người lao động cần được đảm bảo ASXH, các chủ thể kinh tế, các tổ chức kinh

tế - xã hội và nhà nước trong quá trình tái sản xuất mà trực tiếp là tái sản xuất

sức lao động thông qua các quan hệ phân phối và phân phối lại. Thu nhập quốc

dân và các nguồn lực khác phục vụ cho đời sống con người, phục vụ cho tái

sản xuất sức lao động, đồng thời thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, thể

hiện bản chất chủ nghĩa xã hội.

Mặc dù diễn đạt khác nhau, các quan niệm về ASXH đều có những

điểm chung sau đây:

Một là, ASXH là sự bảo đảm an toàn thu nhập ở mức tối thiểu thông

qua hệ thống các chính sách can thiệp nhằm quản lý rủi ro tốt hơn, bao gồm

các rủi ro liên quan đến nhu cầu cơ bản nhất của con người: rủi ro về sức

khỏe, thiếu hoặc mất việc làm, tuổi già, trẻ em, tàn tật…dẫn đến không có thu

nhập tạm thời hoặc vĩnh viễn so với mức tối thiểu đủ sống (được luật hóa

hoặc quy định).

18

Hai là, ASXH là các chính sách do Nhà nước tổ chức thực hiện là

chính, ngoài ra còn có sự tham gia của các tổ chức xã hội, cộng đồng và thị

trường trong việc tổ chức thực hiện và cung cấp dịch vụ ASXH. Các chính

sách này hướng đến mọi thành viên trong xã hội, bảo đảm cho mọi thành viên

được bình đẳng về tiếp cận và chất lượng dịch vụ, tuy nhiên, nhấn mạnh đến

nhóm đối tượng yếu thế (lý dó chính để có sự tham gia của nhà nước).

Ba là, ASXH là lưới an toàn cho mọi thành viên trong xã hội. Do đó,

phạm vi của ASXH là bao phủ toàn dân và toàn diện (cơ bản đáp ứng được

nhu cầu ASXH của người dân một cách toàn diện).

* Các nguyên tắc của ASXH

Thứ nhất: Nhà nước quản lý hoạt động ASXH

+ Nhà nước có trách nhiệm tổ chức các biện pháp bảo đảm xã hội đối

với các đối tượng bị giảm hoặc mất thu nhập, ngay từ đầu Nhà nước đã thành

lập Ban chỉ đạo thực hiện các chính sách về ASXH

+ Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý điều

chỉnh các hoạt động của ASXH; việc ban hành các văn bản, các chính sách,

pháp luật về ASXH tạo sự đồng bộ, thống nhất thực hiện từ Trung ương đến

địa phương.

+ Nhà nước thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của ASXH.

Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát là cách ngăn ngừa tốt nhất những vi

phạm, sai sót trong quá trình tổ chức thực hiện công tác ASXH,

+ Nhà nước tăng cường công tác thanh tra, phát hiện và xử lý nghiêm

minh mọi hành vi vi phạm pháp luật về ASXH.

+ Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí để thực hiện hoạt động ASXH

trong phạm vi cả nước.

Thứ hai: Phải bảo đảm xã hội cho mọi người bị giảm hoặc mất khả

năng lao động dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập do bị mất việc làm, do gặp

thiên tai, hoả hoạn hoặc các rủi ro khác.

19

Thứ ba: Thực hiện ASXH trên cơ sở sự đóng góp của các bên và sự trợ

giúp của toàn xã hội, sự chia sẻ của cộng đồng. Cùng với ngân sách nhà nước

và sự tham gia đóng góp của các thành phần trong xã hội và các tổ chức nước

ngoài và bằng chính sự tham gia, đóng góp của người thụ hưởng các chính

sách này.

Thứ tư: ASXH không nhằm mục đích lợi nhuận mà chủ yếu thực hiện

mục đích xã hội vì cộng đồng.

Thứ năm: Mức ASXH nhằm trợ giúp bảo đảm nhu cầu tối thiểu cho

những người thụ hưởng.

1.1.2. Quan niệm về đảm bảo An sinh xã hội

Về thuật ngữ “Đảm bảo an sinh xã hội” mỗi nước lại sử dụng thành

những từ khác nhau, mặc dù nội dung đều hiểu như nhau nhưng do được

dịch từ nhiều ngôn ngữ khác nhau (tiếng Anh: Social Security; tiếng Pháp:

Securite Sociale) nên có tài liệu dùng tên gọi là: Bảo đảm xã hội, An toàn

xã hội, Bảo trợ xã hội hoặc Đảm bảo an sinh xã hội. Để tránh lẫn với cụm

từ “Trật tự an toàn xã hội”, mà ở nước ta hay dùng với một ý nghĩa khác.

Trong bài viết này tác giả sử dụng cụm từ “Đảm bảo an sinh xã hội” cho

nội dung này. Theo nghĩa chung nhất Social Security là sự đảm bảo thực

hiện các quyền của con người được sống trong hoà bình, được tự do làm

ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khuôn khổ luật pháp; được

bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được học tập, được có việc làm, có

nhà ở; được đảm bảo thu nhập để thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết

yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già... Theo nghĩa này thì tầm “bao” của

Social Security rất lớn và vì vậy khi dịch sang tiếng Việt có nhiều nghĩa

như trên cũng là điều dễ hiểu. Theo nghĩa hẹp, Social Security được hiểu là

sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho

người lao động và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm

hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho những người già cả, cô

20

đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người nghèo đói và những người

bị thiên tai, địch hoạ...

Tại Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua, trên cơ sở phát triển kinh tế - xã

hội, cùng với việc không ngừng cải tiến chế độ tiền lương, tiền công và nâng

cao thu nhập cho người lao động, Đảng và Nhà nước rất quan tâm chăm lo đến

ASXH và phúc lợi xã hội cho nhân dân. Những năm sau đó, mặc dù trong điều

kiện còn hết sức khó khăn, thiếu thốn, nhưng Đảng và Nhà nước vẫn luôn dành

sự quan tâm đặc biệt đến công tác bảo đảm ASXH và phúc lợi xã hội.

Nhận thức, quan điểm và cơ chế chính sách phát triển hệ thống ASXH

và phúc lợi xã hội được hoàn thiện dần qua các kỳ đại hội của Đảng. Văn

kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: đảm bảo

ASXH là tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y

tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có

khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu

thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống.

Tăng tỉ lệ người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm. Đẩy mạnh xã hội

hoá dịch vụ bảo hiểm xã hội, chuyển các loại hình trợ giúp, cứu trợ xã hội

sang cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng. Bảo đảm cho các

đối tượng bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn định, hoà nhập tốt hơn vào cộng

đồng, có cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu. Thanh

tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội, đảm bảo

thực hiện đúng, đầy đủ chế độ quy định đối với mọi đối tượng. Tập trung

triển khai có hiệu quả các chương trình xoá đói, giảm nghèo ở vùng sâu,

vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hoá các nguồn lực và phương

thức xoá đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát

triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm để xoá đói, giảm nghèo bền

vững; tạo điều kiện và khuyến khích người đã thoát nghèo vươn lên làm giàu

và giúp đỡ người khác thoát nghèo. Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng

21

với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những

người và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách

người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ

trang, thanh niên xung phong trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến.

Tạo điều kiện, khuyến khích người và gia đình có công tích cực tham gia

phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, có mức sống cao

hơn mức sống trung bình của dân cư tại địa bàn.

Gần đây nhất tác giả PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn – Hiệu trưởng Trường

đại học kinh tế (Đại học quốc gia Hà Nội) trong bài: “ Kinh nghiệm phát triển

kinh tế gắn với đảm bảo an sinh xã hội ở Việt Nam” đăng trên tạp chí Tuyên

giáo số 1/2013 đã nêu khái niệm về đảm bảo ASXH: Đảm bảo ASXH là đảm

bảo cuộc sống an bình, hạnh phúc cho mọi tầng lớp dân cư trong xã hội, tránh

được sự bất hạnh, rủi ro trong cuộc sống của người dân. Hệ thống ASXH theo

quan điểm hiện đại là một cấu trúc thống nhất bao gồm năm yếu tố: Bảo hiểm xã

hội; Bảo hiểm y tế; Bảo hiểm thất nghiệp; Cứu trợ xã hội và trợ giúp; Ưu đãi xã

hội. Trên cơ sở nghiên cứu, kế thừa kết quả những công trình đã được nghiên

cứu, tác giả luận văn đưa ra quan niệm của mình về đảm bảo ASXH như sau:

Đảm bảo An sinh xã hội là tổng thể các hoạt động của toàn xã hội dựa

trên các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

nhằm huy động, hình thành và sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả các

nguồn lực vật chất, tài chính cho các đối tượng được hưởng chính sách

ASXH, để tạo điều kiện cho họ đảm bảo, nâng cao mức sống vật chất, văn

hóa, tinh thần và tái sản xuất sức lao động.

Cần hiểu rằng theo nghĩa đầy đủ hoạt động đảm bảo ASXH là công

việc của toàn xã hội trên một lĩnh vực rất rộng lớn, phức tạp và quan trọng

của toàn bộ đời sống xã hội. Đó là hoạt động mà mục tiêu cao cả của nó là vì

cuộc sống hạnh phúc và các quyền con người trong chế độ ta. Cho nên đảm

bảo ASXH không phải là sự ban phát hay đem đến cho đối tượng nào đó được

22

hưởng thụ những giá trị vật chất mang tính tạm thời giống như một sự cứu trợ

vì lý do của những hoàn cảnh không may mà đây là hoạt động có ý nghĩa kinh

tế, chính trị, xã hội mang tính nhân văn hết sức sâu sắc. Nếu xét trong quá

trình tái sản xuất xã hội thì nó thuộc về quá trình tái sản xuất sức lao động và

tái sản xuất các quan hệ sản xuất xã hội. Rõ ràng đảm bảo ASXH phản ảnh

bản chất của một chế độ kinh tế - xã hội nhất định. Bởi vậy, ở nước ta đảm

bảo ASXH được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của

Nhà nước, là sự nghiệp của toàn dân mà đối tượng được hưởng là mọi công

dân Việt Nam. Tất nhiên tùy theo hoàn cảnh, điều kiện khác nhau việc đảm

bảo ASXH cho tường đối tượng cụ thể sẽ có những nội dung và sự quan tâm

không giống nhau. Để xây dựng hoàn thiện hệ thống các giải pháp về đảm

bảo ASXH, không thể không tiếp cận theo phương pháp trong cách nhìn nhận

đánh giá đảm bảo ASXH về hình thành, vận hành trên nền tảng kinh tế - xã

hội với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, khách quan. Yêu cầu việc đảm bảo ASXH là

xuất phát từ thực tiễn khách quan, tất yếu, tự thân đối với mỗi đất nước, mỗi

cộng đồng nếu muốn hướng tới sự phát triển bền vững. Vì vậy, cần phải xác

định các nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng các chính sách đảm bảo ASXH

hoàn thiện vì mục tiêu lâu dài trong phát triển.

Cần khẳng định rằng điều có ý nghĩa quyết định để thực hiện được mục

tiêu, nhiệm vụ đảm bảo ASXH là việc phải tạo ra được các nguồn lực kinh tế,

vật chất tài chính cần thiết, trong điều kiện nước ta đang phát triển nền kinh tế

thị trường định hướng XHCN ở những bước đầu tiên. Dù cho khi nền kinh tế

còn đang nghèo hay khi đã phát triển nếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước thì

không bao giờ có thể giải quyết được các yêu cầu lớn lao của đảm bảo ASXH.

Do đó việc xã hội hóa để tạo ta các nguồn lực sẽ là con đường cơ bản để thực

hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đảm bảo ASXH. Nói cách khác phải coi đó

là trách nhiệm, nghĩa vụ của các thành phần và tổ chức kinh tế, của tất các

nguồn lực trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng với các hoạt động của

các tổ chức, cá nhân và các thành phần xã hội khác.

23

1.2. Nội dung và vai trò của đảm bảo An sinh xã hội

1.2.1. Nội dung cơ bản của đảm bảo An sinh xã hội

Ở Việt Nam, việc đảm bảo ASXH là một hệ thống chính sách và giải

pháp được áp dụng rộng rãi để trợ giúp các thành viên trong xã hội đối phó

với những khó khăn khi gặp phải rủi ro dẫn đến mất hoặc suy giảm nghiêm

trọng nguồn thu nhập và cung cấp các dịch vụ chăm sóc về mọi mặt của đời

sống xã hội. Xét về thực chất, hệ thống ASXH là nhằm thực hiện 3 chức năng

chiến lược: Phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro.

Sơ đồ 1.1: Cấu trúc an sinh xã hội truyền thống

CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI

Nhóm chính sách ASXH không đóng góp: Chính sách về trợ giúp xã hội và giảm nghèo

Các quy định của thị trường lao động Chính sách thị trường lao động chủ động

Nhóm chính sách ASXH dựa vào đóng góp: Chính sách về bảo hiểm

Hiện nay tại Việt Nam đang áp dụng phổ biến cấu trúc đảm bảo ASXH

theo 4 nội dung cơ bản sau:

Một là, nhóm thực hiện chính sách thị trường lao động chủ động là các

chính sách về việc làm, giáo dục đào tạo, thông tin việc làm, tín dụng … cho

đối tượng đang có nhu cầu tìm việc làm, thường là người thất nghiệp, thiếu

việc làm và thậm chí là cả những người đang có nhu cầu tìm việc làm tốt hơn

với mục tiêu nâng cao cơ hội tham gia hoặc tái hòa nhập vào thị trường lao

động. Nguồn tài chính dành cho việc thực hiện các chính sách này thường

được lấy từ thuế và từ đóng góp.

24

Chính sách thị trường lao động trọng tâm của nó là trợ giúp tạo việc

làm cho các đối tượng yếu thế trong thị trường lao động và trợ cấp cho số lao

động dôi dư do quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp, cổ phần hoá các doanh

nghiệp. Mục tiêu phát triển thị trường lao động là đảm bảo phân bổ tối ưu các

nguồn lực, thúc đẩy việc làm bền vững thông qua kết nối giữa cung – cầu lao

động, giảm thiểu thất nghiệp, bảo vệ và hỗ trợ cho các đối tượng yếu thế.

Hai là, nhóm thực hiện chính sách BHXH

Bảo hiểm là sự bảo đảm thay thế hay bù đắp một phần thu nhập của

người dân khi họ gặp rủi ro trong đời sống (sức khỏe, tai nạn, mùa màng…)

thông qua việc đóng thường xuyên một khoản tiền (phí bảo hiểm) cho tổ chức

(nhà nước hoặc tư nhân) tương ứng với xác xuất xảy ra và chi phí của rủi ro

liên quan đến chu kỳ sống của người lao động và gia đình họ.

Chính sách bảo hiểm xã hội tốt đóng vai trò tích cực cho sự phát triển

ổn định kinh tế - xã hội, mang đến trạng thái an toàn về tinh thần, giảm bớt sự

lo âu trước rủi ro, bất trắc cho người được bảo hiểm; giảm sức ép đối với hệ

thống phúc lợi xã hội; Chính sách BHXH bao gồm các chế độ hưu trí, mất sức

lao động; ốm đau, thai sản, tại nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và tử tuất. Tuy

nhiên, chế độ ốm đau lại được giải quyết chủ yếu thông qua chính sách bảo

hiểm y tế bắt buộc và số lượng tham gia không lớn, do vậy vẫn có trụ cột thứ

ba là BHYT với phạm vi rộng hơn so với bảo hiểm y tế bắt buộc.

Cấu phần BHXH bao gồm: bảo hiểm y tế; bảo hiểm xã hội tự nguyện;

bảo hiểm xã hội bắt buộc; bảo hiểm thất nghiệp.

Ba là, nhóm thực hiện các chính sách trợ giúp xã hội và hỗ

trợ giảm nghèo

Trợ giúp xã hội là sự trợ giúp bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật của Nhà

nước (lấy từ nguồn thuế, không phải đóng góp của người nhận) nhằm đảm bảo

mức sống tối thiểu cho đối tượng được nhận. Hầu hết các khoản trợ cấp dựa

trên cơ sở đánh giá gia cảnh hoặc mức thu nhập nhất định. Theo quan điểm

hiện đại, trợ giúp xã hội bao gồm 3 loại hình: hỗ trợ thu nhập, trợ cấp gia đình

25

và dịch vụ xã hội. Các chính sách/ chương trình này hướng vào những người

sống trong nghèo cùng cực, nghèo và dễ bị tổn thương, ngăn chặn sự suy giảm

trong thu nhập và năng lực tiêu dùng của những người trong tình huống dễ bị

tổn thương, kết nối và tạo điều kiện tiếp cận các dịch vụ trợ giúp xã hội.

Chính sách giảm nghèo là tập hợp các chính sách, biện pháp và dự án

nhằm thúc đẩy khả năng tiếp cận của người nghèo đến dịch vụ sản xuất và

dịch vụ xã hội, như: chương trình mục tiêu giảm nghèo, chương trình 134,

chương trình 135, và chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tại 63

huyện nghèo trong cả nước (Nghị quyết 30a của Chính phủ). Hỗ trợ giảm

nghèo cho các đối tượng yếu thế (đối tượng bảo trợ xã hội) bao gồm trợ cấp

xã hội hàng tháng cho đối tượng bảo trợ xã hội (trẻ em mồ côi; người già cô

đơn; người 90 tuổi trở lên không có nguồn thu nhập; người tàn tật nặng; gia

đình có từ hai người tàn tật nặng trở lên không có khả năng tự phục vụ; người

có HIV/AIDS nhà nghèo; gia đình, người nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ

em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt); trợ giúp về y tế; giáo dục; dạy

nghề, tạo việc làm; tiếp cận các công trình công cộng; hoạt động văn hoá thể

thao và trợ giúp khẩn cấp mà từ trước đến nay hay gọi là trợ giúp xã hội cho

những người không may gặp rủi ro đột xuất bởi thiên tai.

Bốn là, nhóm thực hiện các chính sách dịch vụ xã hội cơ bản

Dịch vụ xã hội cơ bản là dịch vụ cung cấp cho các đối tượng nhằm đáp

ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, do vậy, có vai trò quan trọng và

quyết định sự thành công của các chính sách ASXH.

Dịch vụ xã hội cơ bản có vai trò rất qua trọng trong hệ thống ASXH.

Các hoạt động giúp người dân tiếp cận hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản là

những hoạt động đầu tiên và ở tầng thấp nhất trong hệ thống ASXH, tạo điều

kiện cho người dân từng bước vươn lên để có cuộc sống tốt hơn.

Các dịch vụ xã hội cơ bản, gồm:

26

* Dịch vụ việc làm: tạo điều kiện cho những người thuộc nhóm thu

nhập thấp có việc làm và tham gia các hoạt động sản xuất tạo thu nhập có thể

đáp ứng được nhu cầu tối thiểu và duy trì được sự độc lập về tài chính.

* Dịch vụ công tác xã hội: trợ giúp những đối tượng khó khăn, không

nơi nương tựa; giúp người tàn tật có khả năng sống độc lập hơn và tham gia

một cách tích cực trong các hoạt động kinh tế cũng như hoạt động cộng đồng;

* Dịch vụ y tế: thúc đẩy việc chăn sóc sức khỏe, chính sách và các

chương trình trợ giúp người nghèo (chính sách và chương trình xóa đói giảm

nghèo). Đây là một hệ thống chính sách, giải pháp mới được hình thành trong

vài thập kỷ gần đây, ở Việt Nam bắt đầu từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX [40, tr20-

27].

Sơ đồ 1.2: Hệ thống an sinh xã hội Việt Nam giai đoạn 2012-2020

27

1.2.2. Vai trò của đảm bảo An sinh xã hội trong xây dựng và bảo vệ

tổ quốc ở nước ta hiện nay

Đảm bảo ASXH là một lĩnh vực hoạt động rất rộng lớn trong toàn bộ

đời sống kinh tế - xã hội lấy con người làm đối tượng của mọi quốc gia nên

nó có ý nghĩa rất quan trọng trên nhiều mặt kinh tế, chính trị, xã hội…Đối với

nước ta ý nghĩa đó càng trở nên đặc biệt trên con đường phát triển theo định

hướng XHCN, vì chính trên lĩnh vực hoạt động này tính ưu việt của chế độ

kinh tế, chính trị, xã hội mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn được thể hiện rất rõ

nét. Vai trò, ý nghĩa của đảm bảo ASXH đối công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ

quốc ở nước ta có thể trình bày trên một số nội dung sau:

Thứ nhất: Đảm bảo ASXH là sự thể hiện rõ nét bản chất ưu việt của

chế độ XHCN, mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu nước mạnh, dân chủ, công

bằng, văn minh tất cả vì hạnh phúc của con người.

Thuật ngữ ASXH chỉ mới xuất hiện trong những văn kiện, tài liệu, sách

báo ở nước ta thời gian gần đây nhưng những nội dung cơ bản của nó đã được

Bác Hồ khẳng định trong tư tưởng của người và được xác định từ rất lâu trong

các văn kiện, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà

nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước theo con đường XHCN

Đảng ta xác định lấy con người làm trung tâm. Con người vừa là mục tiêu vừa

là động lực của toàn bộ sự nghiệp đổi mới. Đảm bảo ASXH đã trở thành một

phần cấu thành trong các hoạt động của toàn xã hội để thực hiện mục tiêu đó,

mặc dù vậy trong điều kiện kinh tế chưa phát triển, của cải vật chất chưa dồi

dào nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn giành sự quan tâm hàng đầu cho các vấn

đề quan trọng và thiết thực của đảm bảo ASXH chứ không chờ đến khi có

trình độ phát triển cao về kinh tế. Đặc biệt là các lĩnh vực y tế, giáo dục, chính

sách với những người có công với nước, có hoàn cảnh khó khăn, nạn nhân

của chiến tranh, chất độc da cam, thiên tai, đồng bào DTTS, những địa

phương nghèo…

28

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước và sự

phấn đấu nỗ lực vượt bậc của toàn dân, đến nay công tác đảm bảo ASXH đã

đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được nhân dân đồng tình, quốc tế đánh giá

cao: số hộ nghèo giảm từ 29% (năm 2002) xuống còn 9,5% (năm 2011); chỉ

số phát triển con người (HDI) tăng từ mức 0,683 (năm 2000) lên mức 0,728

(năm 2011), xếp thứ 128/187 nước, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới;

năm 2011 nước ta đã hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ

(MDGs) do Liên hợp quốc đề ra cho các nước đang phát triển đến năm 2015.

Như vậy, công cuộc xóa đói giảm nghèo, thực hiện bình đẳng giới, nâng cao

chỉ số phát triển con người, nâng cao tuổi thọ trung bình, đẩy mạnh sự nghiệp

giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho toàn dân, Liên hiệp quốc đã coi Việt Nam

như một điểm sáng của việc thực hiện các mục tiêu thiên kỷ.

Thứ hai: Thực hiện đảm bảo ASXH là sự thể hiện kế thừa, phát huy

truyền thống và những tinh hoa tốt đẹp của dân tộc ta, kết hợp những truyền

thống và tinh hoa đó và những mục tiêu cao cả của XHCN, để trở thành

những động lực mới phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Trong suốt một ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước dân tộc ta có

những truyền thống lịch sử và nền văn hóa với những giá trị hết sức quý giá.

Đó là lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng trong lao động và chiến đấu chống

giặc ngoại xâm, chống thiên tai, cùng với tinh thần đoàn kết cộng đồng, yêu

thương gắn bó, lòng vị tha cao thượng. Những nhân tố đó tạo nên nét văn hóa

Việt Nam với sức mạnh bất diệt để giúp dân tộc ta vượt qua mọi thử thách

đánh thắng mọi kẻ thù, giữ gìn và bảo vệ nền độc lập dân tộc và trường tồn

của tổ quốc Việt Nam. Những truyền thống và tài sản vô giá đó được mang

những nội dung mới và phát huy cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh – thời đại

của độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

29

Đảm bảo ASXH ở nước ta hiện nay mang trong bản chất và nội dung

của nó những mục tiêu cao cả của CNXH kết hợp và phát huy, phát triển lên

tầm cao mới những truyền thống và tinh hoa văn hóa lịch sử tốt đẹp của dân

tộc để trở thành động lực mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Được sống trong độc lập tự do và có một cuộc sống bình đẳng, công bằng,

các quyền của con người được tôn trọng là mơ ước ngàn đời của những người

lao động. Song trong các chế độ dựa trên chế độ tư hữu và tồn tại ách áp bức,

bóc lột, những mơ ước đó mãi mãi chỉ là mơ ước mà thôi. Chỉ có trong xã hôi

XHCN mà chúng ta đang xây dựng và sẽ đi tới, những ước mơ đó mới có các

điều kiện và khả năng để hiện thực hóa. Đảm bảo ASXH chính là cả mục đích

và phương tiện để đạt tới. Bởi vậy đảm bảo ASXH trở thành một trong những

động lực mạnh mẽ để thực hiện thành công mục tiêu xây dựng xã hội dân

giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.

Thứ ba: Thực hiện đảm bảo ASXH nhằm xây dựng khối đại đoàn kết

toàn dân tộc, xây dựng nền tảng chính trị của chế độ XHCN và thế trận quốc

phòng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Thực hiện đảm bảo ASXH không chỉ có ý nghĩa trực tiếp về mặt kinh

tế như là một sự đãi ngộ hay trợ giúp đối với những người được hưởng chính

sách mà còn có ý nghĩa chính trị, xã hội hết sức to lớn vì đó là sự thể hiện về

thái độ, quan điểm của chế độ với con người. Bởi vậy cùng với các hoạt động

khác nó là sự giáo dục, truyền bá có hiệu quả các quan điểm, đường lối, chính

sách đến từng người dân và cộng đồng xã hội. Thông qua đó nâng cao trình

độ giác ngộ, lòng yêu nước, yêu chế độ, truyền thống và các giá trị văn hóa

lịch sử làm cho mọi người vững tin ở sự lãnh đạo của Đảng, tính ưu việt của

chế độ XHCN, sự quản lý của Nhà nước, nâng cao nhận thức về thái độ, trách

nhiệm của công dân, nhận rõ những âm mưu thủ đoạn, hành động của các thế

30

lực thù địch tự giác và tích cực xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc bảo

vệ Đảng bảo vệ chế độ.

Thực hiện đảm bảo ASXH trong đó rất nhiều nội dung có quan hệ trực

tiếp đến xây dựng nền quốc phòng toàn dân như chính sách hậu phương quân

đội… Nói rộng ra nó có một vai trò to lớn trong xây dựng thế trận lòng dân

của sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân.

Thứ tư: Đảm bảo ASXH còn có ý nghĩa đối với tham gia hội nhập quốc

tế, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay đảm bảo

ASXH đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, như là một hoạt động tham gia tích

cực vào xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế và các mặt khác của đời sống

quốc tế. Các hoạt động thuộc lĩnh vực ASXH đã trở thành mối quan tâm chung

của cả cộng đồng quốc tế vì con người. Liên hiệp quốc đã có những mục tiêu

và chương trình thiên niên kỷ về chống bênh tật, đói nghèo; các tệ nạn, đối phó

với những biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu với sự tham gia của cộng

đồng các quốc gia trên thế giới. Với tư cách là một quốc gia thành viên của tổ

chức lớn nhất hành tinh và nhiều tổ chức văn hóa, nhân đạo khác lại là nước

chịu nhiều đau thương, hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh việc tích cực,

chủ động tham gia của nước ta và thực hiện tốt các hoạt động ASXH được

cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Liên hiệp quốc và nhiều tổ chức quốc tế coi

Việt Nam như là một tấm gương trong thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ.

Mặt khác thực hiện có hiệu quả ASXH của chúng ta đã góp phần giữ vững ổn

đinh chính trị tạo ra các yếu tố cần thiết, điều kiện và môi trường đầu tư thuận

lợi để mời gọi, thu hút đầu tư từ các nước khác vào Việt Nam, ngày càng nâng

cao úy tín và vị thế của nước ta trong con mắt của bạn bè quốc tế, với những

hoạt động chủ động, tích cực của chúng ta cũng là điều kiện thuận lợi để các

31

nguồn lực từ bên ngoài về vật chất, tài chính, khoa học, thông tin, công nghệ và

sự hợp tác nhiều mặt từ bạn bè quốc tế để thực hiện đảm bảo ASXH.

*

* *

Như vậy, thực hiện việc đảm bảo ASXH là một trong những nhiệm vụ vô

cùng quan trọng và cấp bách của mỗi một quốc gia, dân tộc; nó làm cho đất

nước ngày một phát triển trên mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và văn

hóa, thể hiện tính ưu việt một xã hội phát triển, hội nhập toàn cầu. Thực vậy đảm

bảo ASXH đã trở thành mối quan tâm chung của cả cộng đồng quốc tế vì quyền

con người. Đối với nước ta đảm bảo ASXH còn là lĩnh vực thể hiện rõ rệt nhất

tính chất ưu việt của chế độ XHCN mà Đảng và nhân dân ta lấy làm mục tiêu, lý

tưởng để phấn đấu. Ở lĩnh vực này là sự thể hiện sự kết hợp những mục tiêu cao

cả của thời đại với những tinh hoa, truyền thống tốt đẹp của lịch sử và văn hóa

của dân tộc ta đã kết tinh từ suốt bốn nghìn năm. Nó thực sự trở thành động lực

quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.

32

Chương 2

THỰC TRẠNG VIỆC ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI TẠI CÁC HUYỆN

NGHÈO TỈNH ĐIỆN BIÊN THỜI GIAN QUA

2.1. Một số đặc điểm các huyện nghèo tỉnh Điện Biên

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên

* Vị trí địa lý

Tỉnh Điện Biên gồm 10 đơn vị hành chính trực thuộc, cụ thể: Thanh

phố Điện Biên Phủ, thị xã Mường Lay, các huyện Mường Chà, Điện Biên,

Tuần Giáo và 5 huyện nghèo Mường Nhé, Điện Biên Đông, Mường Ảng, Tủa

Chùa, Nậm Pồ (mới tách ra từ huyện Mường Nhé năm 2012).

Các huyện nghèo được kết nối với thành phố Điện Biên Phủ thông qua

hệ thống các tuyên quốc lộ 6, quốc lộ 12, quốc lộ 729…đường thuỷ là hệ

thống sông Đà, qua Lào Cai có tuyến đường sắt và tuyến hàng không Hà Nội

- Điện Biên.

Huyện Mường Nhé là huyện nằm ở phía tây bắc của tỉnh Điện Biên có

diện tích đất tự nhiên 2.507,90 km2, gồm 16 đơn vị hành chính ( 15 xã, 01 thị

trấn), có đường biên giới dài với nước Lào và Trung Quốc, trong đó: biên giới

với Lào dài 360 km và biên giới với Trung Quốc dài 38,5 km. Trên tuyến biên

giới Việt - Lào ngoài 2 cửa khẩu đã được mở là Huổi Puốc và Tây Trang, còn 3

cặp cửa khẩu phụ khác sắp tới sẽ được mở. Trên tuyến biên giới Việt - Trung

sẽ mở cặp cửa khẩu A Pa Chải - Long Phú thành cửa khẩu Quốc gia sẽ là lợi

thế rất lớn để Điện Biên phát triển kinh tế cửa khẩu, mở rộng giao lưu hợp tác

với các tỉnh Bắc Lào và tỉnh Vân Nam - Trung Quốc. Đặc biệt cửa khẩu Tây

Trang từ lâu đã là cửa khẩu quan trọng của vùng Tây Bắc và cả nước đã được

Chính phủ hai nước thỏa thuận nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế và Khu kinh tế

cửa khẩu đang được xây dựng. Đây là điều kiện và cơ hội rất lớn để huyện

nghèo đẩy mạnh thương mại quốc tế, tiến tới xây dựng khu vực này thành địa

bàn trung chuyển chính trên tuyến đường xuyên Á phía Bắc, nối liền vùng Tây

Bắc Việt Nam với khu vực Bắc Lào - Tây Nam Trung Quốc và Đông Bắc

33

Mianma... huyện có ví trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh đối với

vùng Trung du miền núi Bắc Bộ và cả nước.

Huyện Tủa Chùa là huyện nằm ở phía đông bắc của tỉnh với diện tích đất

tự nhiên 679,41 km2, gồm 13 đơn vị hành chính trực thuộc (11 xã, 01 thị trấn),

nằm ở khu vực đầu nguồn 3 con sông lớn của cả nước là sông Đà, sông Mã và

sông Mê Kông, trong đó riêng lưu vực Sông Đà có diện tích khoảng 5.300

km2, chiếm 55% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, do vậy có vai trò hết sức quan

trọng trong việc phòng hộ đầu nguồn, bảo vệ các công trình thuỷ điện lớn trên

sông Đà và điều tiết dòng chảy cho các khu vực hạ lưu.

Huyện Mường Ảng là huyện nằm phía đông, đông bắc của tỉnh, phía

Đông giáp với huyện Tuần Giáo; phía Tây giáp huyện Điện Biên; phía Nam

giáp huyện Thuận Châu (tỉnh Sơn La) và huyện Điện Biên Đông; phía Bắc

giáp huyện Tuần Giáo và huyện Mường Chà với diện tích đất tự nhiên 443,20

km2, gồm 10 đơn vị hành chính trực thuộc (9 xã, 01 thị trấn), là huyện có vị trí

địa lý quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Huyện Điện Biên Đông nằm phía đông nam của tỉnh, phía Bắc giáp

huyê ̣n Mường Ảng; phía Nam giáp huyê ̣n Điê ̣n Biên và huyê ̣n Sông Mã; phía

Đông giáp huyê ̣n Sông Mã và huyê ̣n Sốp Cô ̣p của tỉnh Sơn La; phía Tây giáp

huyê ̣n Điê ̣n Biên và thành phố Điê ̣n Biên Phủ, với 1.206,39 km2 đất tự nhiên,

gồm 14 đơn vị hành chính trực thuộc (13 xã, 01 thị trấn). Hệ thống sông suối ở

Điện Biên Đông dày đặc, độ dốc lớn nên có tiềm năng phát triển thủy điện và

thủy lợi, đất đai ở Điện Biên Đông thích hợp cho việc trồng các loại cây như:

lúa, ngô, lạc, trầu, bông, chè, gấc và chăn nuôi trâu, bò…

Huyện Nậm Pồ mới được thành lập năm 2012 nằm ở phía tây bắc của

tỉnh, phía Đông giáp huyện Mường Chà, phía Tây giáp huyện Mường Nhé,

phía Nam giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, phía Bắc giáp huyện

Mường Tè, tỉnh Lai Châu, có diện tích tự nhiên gần 150.000 km 2; dân số gần

44.000 nhân khẩu thuộc 10 dân tộc với trên 95% cư dân là đồng bào dân tộc

34

thiểu số trên cơ sở tách 10 xã thuộc huyện Mường Nhé và 5 xã thuộc huyện

Mường Chà; Huyện có 2 tuyến đường từ trung tâm đi các các huyện, thị,

thành phố trong tỉnh: một tuyến từ trung tâm huyện ra Km45, quốc lộ 4H đi

huyện Mường Chà; một tuyến từ trung tâm huyện ra Km70, quốc lộ 4H đi

huyện Mường Nhé, thông ra lối mở A Pa Chải – Long Phú. Khu vực trung

tâm huyện có địa hình tương đối bằng phẳng, 2 bên là triền đồi thoải, có suối

Nậm Pồ chảy qua tạo cảnh quan thoáng đẹp. Việc mở cặp cửa khẩu phụ này

đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân hai bên biên giới; người dân có

cơ hội, điều kiện để qua lại thăm hỏi, thông thương, trao đổi hàng hóa, qua đó

thắt chặt thêm tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa hai nước Việt Nam-Lào,

đây sẽ là điều kiện mang đến những cơ hội trong quan hệ hợp tác phát triển

kinh tế-xã hội, giữ gìn an ninh khu vực biên giới giữa 2 huyện Nậm Pồ -

Mường Mày nói riêng, 2 tỉnh Điện Biên – Phoong Sa Lỳ nói chung.

* Đặc điểm địa hình

Do ảnh hưởng của các hoạt động kiến tạo nên địa hình của các huyện

nghèo tỉnh Điện Biên rất phức tạp, được cấu tạo bởi những dãy núi chạy dài

theo hướng Tây Bắc - Đông Nam với độ cao biến đổi từ 200 m đến hơn 1.800

mét. Địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và nghiêng dần từ Tây sang Đông.

Ở phía Bắc có các điểm cao 1.085 m, 1.162 m và 1.856 m (thuộc Mường

Nhé), cao nhất là đỉnh Pu Đen Đinh cao 1.886 m. Ở phía Tây có các điểm cao

1.127 m, 1.649 m, 1.860 m và dãy điểm cao Mường Phăng kéo xuống Tuần

Giáo. Xen lẫn các dãy núi cao là các thung lũng, sông suối nhỏ hẹp và dốc

phân bố khắp nơi trên địa bàn tỉnh, trong đó đáng kể có thung lũng Mường

Thanh rộng hơn 150 km2, là cánh đồng lớn và nổi tiếng nhất của tỉnh và toàn

vùng Tây Bắc. Núi bị bào mòn mạnh tạo nên những cao nguyên khá rộng như

cao nguyên A Pa Chải (huyện Mường Nhé), cao nguyên Tả Phình - Tủa

Chùa. Ngoài ra còn có các dạng địa hình thung lũng, sông suối, thềm bãi bồi,

nón phóng vật, sườn tích, hang động castơ, mô sụt võng... phân bố rộng khắp

trên địa bàn, nhưng diện tích nhỏ.

35

Nhìn chung địa hình ở các huyện nghèo khá hiểm trở, một số khu vực

thuộc cao nguyên ở Mường Nhé, Tủa Chùa... địa hình tương đối bằng phẳng,

còn hầu hết là địa hình đồi núi dốc, hiểm trở và chia cắt mạnh nên gặp rất

nhiều khó khăn trong việc phát triển sản xuất, xây dựng hạ tầng, nhất là hệ

thống giao thông và tổ chức địa bàn dân cư xã hội.

* Đặc điểm khí hậu, thời tiết

Các huyện nghèo tỉnh Điện Biên có khí hậu thuộc loại nhiệt đới gió

mùa núi cao, mùa đông tương đối lạnh và ít mưa, mùa hè nóng, mưa nhiều

với các đặc tính diễn biến thất thường, phân hoá đa dạng, ít chịu ảnh hưởng

của bão, chịu ảnh hưởng vừa của gió tây khô và nóng.

Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 210 – 230 C, nhiệt độ trung bình thấp

nhất thường vào tháng 12 đến tháng 2 năm sau (từ 140 – 180 C), các tháng có

nhiệt độ trung bình cao nhất từ tháng 4 - 9 (250 C), chỉ xảy ra các khu vực có

độ cao thấp hơn 500m.

Lượng mưa hàng năm trung bình từ 1300 mm đến 2000mm, thường

tập trung theo mùa, mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Độ ẩm

trung bình hàng năm từ 76 - 84%.

* Đặc điểm nguồn nước và thủy năng

Nguồn nước mặt trên địa bàn thuộc 3 hệ thống sông chính:

- Các suối thuộc Mường Chà, Mường Nhé, thị xã Mường Lay và Tủa

Chùa thuộc lưu vực của sông Đà. Dòng chính sông Đà đến Thị xã Mường Lay

là ranh giới giữa hai tỉnh Điện Biên, Lai Châu.

- Nước mặt phân bố ở các huyện Điện Biên, Điện Biên Đông và thành

phố Điện Biên Phủ với diện tích 1.650 km2, được tập trung dồn về sông Nậm

Rốm và là lưu vực của sông Mê Kông.

- Nước mặt phân bố ở các huyện Tuần Giáo và Điện Biên Đông với

diện tích 2.550km2 là lưu vực của sông Mã.

36

Sông suối các huyện dốc, lắm thác nhiều ghềnh, có lượng dòng chảy

lớn. Lượng dòng chảy giảm dần từ phía Bắc đến phía Nam. Các huyện

Mường Chà và phía bắc Tuần Giáo có một dòng chảy từ 30 đến 40 l/s/km2;

huyện Điện Biên và phía nam Tuần Giáo chỉ còn 20 l/s/km2. Sông suối nơi

đây nhiều, nguồn nước tương đối dồi dào, tuy nhiên, do cấu tạo địa chất cộng

với địa hình cao, dốc nên khả năng giữ nước vào mùa khô rất khó.

Về tiềm năng thủy điện: Do nằm ở vùng núi cao, nhiều sông suối, lắm

thác ghềnh, lưu lượng dòng chảy mạnh... nên các huyện nghèo tỉnh Điện Biên

có tiềm năng thuỷ điện rất phong phú và đa dạng về quy mô. Theo khảo sát sơ

bộ, có nhiều điểm có khả năng xây dựng nhà máy thuỷ điện, trong đó đáng

chú ý là các điểm: Thuỷ điện Mùn Chung trên suối Nậm Pay, thuỷ điện

Mường Pồn trên suối Nậm Ty, thuỷ điện Nậm Mức trên sông Nậm Mức, thuỷ

điện Nậm He trên suối Nậm He, thuỷ điện Nậm Pồ, trên suối Nậm Pồ, hệ

thống thuỷ điện trên sông Nậm Rốm, Nậm Khẩu Hu...

Tuy nhiên việc khai thác các tiềm năng này còn ở mức khiêm tốn. Hiện

nay trên địa bàn tỉnh mới có một số nhà máy thuỷ điện như Nà Lơi 9.300

KW, thác Bay 2.400 KW, Thác trắng 6.200 KW, Nậm Mức 44 Mw được xây

dựng và khai thác khá hiệu quả.

* Tài nguyên đất: Điện Biên có tổng diện tích tự nhiên là 955.409ha.

Trong đó hầu hết đất đai có độ dốc lớn, tầng canh tác mỏng; cùng với đặc

điểm trên 5 huyện nghèo đều nằm ở những vùng đất có độ dốc trên 250 0

chiếm hơn 70% quỹ đất, chỉ thích hợp cho phát triển lâm nghiệp, trồng và tái

sinh rừng. Diện tích có độ dốc từ 15 - 250 chiếm 25%. Đất có độ dốc dưới

150 chỉ chiếm 4% quỹ đất, trong đó khoảng 75% có tầng dày trên 50 cm...

- Quỹ đất thích hợp cho gieo trồng lúa nước chỉ chiếm khoảng 1,5%

tổng diện tích tự nhiên, bao gồm các loại đất phân bố ở độ dốc dưới 80; chủ

yếu là nhóm đất phù sa.

- Quỹ đất thích hợp cho cây ngắn ngày khác (lúa nương, hoa màu, cây

công nghiệp ngắn ngày...) chiếm khoảng 1,6% tổng diện tích tự nhiên, bao

37

gồm các loại đất có độ dốc 8 - 150, tầng dày trên 70cm, chủ yếu là nhóm đất

feralit đỏ vàng.

- Quỹ đất thích hợp cho phát triển cây dài ngày theo phương thức nông

lâm kết hợp chiếm khoảng 18% tổng diện tích tự nhiên; gồm các loại đất phân

bố ở độ dốc dưới 150, tầng dày từ 50 - 70cm và ở độ dốc từ 15 - 250, tầng đất

dày trên 70cm. Chủ yếu là nhóm đất feralit đỏ vàng.

- Quỹ đất dành cho phát triển lâm nghiệp chiếm khoảng 75% tổng diện

tích tự nhiên, bao gồm các loại đất nằm ở độ dốc trên 250 và một phần đất ở

độ dốc dưới 250 nhưng có tầng đất dày mỏng, chỉ dưới 50 cm.

Diện tích đất đang sử dụng vào sản xuất nông, lâm nghiệp của Điện

Biên có 479.817ha, chiếm 50,2% diện tích tự nhiên của tỉnh, diện tích đất

đang sử dụng vào sản xuất nông, lâm nghiệp của các huyện nghèo chiếm đến

70% diện tích tự nhiên. Trong đó đất sử dụng vào sản xuất nông nghiệp là

111.749ha, chiếm 11,6% diện tích tự nhiên; đất sử dụng vào sản xuất lâm

nghiệp là 367.398 ha, chiếm 38,5% và mặt nước nuôi trồng thủy sản là 670ha,

chiếm 0,07% diện tích tự nhiên của tỉnh. Đất chưa sử dụng tại các huyện

nghèo rất lớn, tới 326.372ha, chiếm trên 50% tổng diện tích tự nhiên, trong đó

chủ yếu là đất dốc chỉ có khả năng phát triển lâm nghiệp.

* Tài nguyên khoáng sản: Đến nay trên địa bàn tỉnh và các huyện

nghèo đã xác định được 32 điểm quặng sắt và kim loại, 14 điểm mỏ than,

trong đó có 2 điểm đó được đánh giá trữ lượng cấp C1 và nhiều điểm khoáng

sản VLXD, nước khoáng... nhưng chưa được thăm dò đánh giá sâu về trữ

lượng và chất lượng. Sơ bộ cho thấy, các khoáng sản chính ở Điện Biên gồm

có: sắt, chì - kẽm, nhôm, đồng, thủy ngân...

- Sắt có phân bố rải rác ở các huyện Điện Biên, Tuần Giáo và Mường

Chà với quy mô nhỏ, chỉ ở mức điểm quặng và chưa xác định được trữ lượng.

38

- Chì - kẽm phân bố tập trung quanh huyện Điện Biên, Điện Biên

Đông, Tủa Chùa và thành phố Điện Biên Phủ. Hiện nay có điểm quặng chì

kẽm ở khu vực Tuần Giáo đang hoạt động.

- Qua khảo sát sơ bộ phát hiện mỏ đồng ở khu vực Chà Tở huyện

Mường Chà với trữ lượng khá lớn nhưng chưa được thăm dò đánh giá cụ thể.

- Nhôm và nhôm - sắt có triển vọng ở xã Phình Sáng huyện Tuần Giáo

với trữ lượng cấp P khoảng 40 - 50 triệu tấn.

* Tiềm năng du lịch: Ngoài khu di tích lịch sử Điện Biên Phủ, khu chỉ

huy chiến dịch Mường Phăng, Các huyện nghèo còn có tiềm năng văn hóa phi

vật thể, với các dân tộc anh em chung sống, mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa

riêng rất đa dạng, điển hình là dân tộc Thái, dân tộc H'Mông với những nét

văn hoá đặc trưng riêng, gồm cả văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể, rất

thích hợp để phát triển du lịch văn hoá.

Bên cạnh đó có nhiều hang động, nguồn nước khoáng và hồ nước tạo

thành nguồn tài nguyên du lịch thiên nhiên phong phú như: Rừng nguyên sinh

Mường Nhé; các hang động tại Pa Thơm (Điện Biên), Thẩm Púa (Tuần Giáo);

các suối khoáng nóng Hua Pe, U Va; các hồ Pá Khoang, Pe Luông, Huổi Phạ, ...

2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội và những thuận lợi, khó khăn của các

huyện nghèo

* Về dân số và lao động: Dân số trung bình tính đến thời điểm 31/12/2012

là: 519.300 người, mật độ dân số bình quân 54 người/ km2, Riêng 5 huyện nghèo

dân số chiếm đến trên 60% dân số toàn tỉnh,, dân số trung bình của 5 huyện nghèo

là 311.599 người với mật độ 45 – 48 người/km2.

Trên địa bàn các huyện nghèo hiện có 21 dân tộc sinh sống, trong đó

dân tộc Thái chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 42,2%, tiếp đến là dân tộc H’Mông

chiếm 27,2%, dân tộc Kinh chiếm 19%, dân tộc Khơ Mú 3,9%, còn lại là các

dân tộc khác như Dao, Hà Nhì, Hoa, Kháng... Các dân tộc nơi đây có những

nét văn hoá đặc trưng của đồng bào khu vực Tây Bắc.

39

Lao động: Số người trong độ tuổi lao động các huyện là 183.843 người,

chiếm 59%/tổng dân số. Hằng năm, duy trì việc làm ổn định cho 147.074 lao

động, giải quyết việc làm mới 5.559 lao động. Hiện nay hầu hết là lao động

nông, lâm nghiệp chiếm tới 75,6% tổng số lao động đang làm việc; lao động

công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 9,5% và lao động khu vực dịch vụ chiếm

14,9%. Số lao động chưa có việc làm hiện còn khá lớn, khoảng 25.810 người,

chiếm 8,6% tổng số lao động có khả năng lao động.

Về chất lượng nguồn nhân lực: Những năm gần đây chất lượng lao động

ở các huyện đã được cải thiện một bước, trình độ văn hoá của lực lượng lao

động ngày được nâng cao. Tỷ lệ lao động không biết chữ và chưa tốt nghiệp

phổ thông giảm, số lao động tốt nghiệp THCS và THPT ngày càng tăng. Số lao

động có trình độ chuyên môn kỹ thuật tăng nhanh. Chất lượng nguồn nhân lực

của các huyện hiện nay còn rất thấp so với các địa phương khác trong tỉnh, tỷ lệ

lao động qua đào tạo của các huyện đến năm 2013 chỉ chiếm 21,4% số lao

động trong độ tuổi, hầu hết lao động qua đào tạo đều là cán bộ, công chức làm

việc trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, sự nghiệp và các tổ chức đoàn thể...

tập trung ở các trung tâm thị trấn huyện. Tại các khu vực khác, số lao động có

kỹ thuật tay nghề không đáng kể. Hiện nay chất lượng nguồn nhân lực của các

huyện hiện còn nhiều bất cập cả về số lượng cũng như chất lượng và cơ cấu.

* Tình hình phát triển kinh tế

Các huyện nghèo của tỉnh Điện Biên có nhiều tiềm năng và lợi thế để

phát triển kinh tế, cùng với những chính sách đúng đắn, các chương trình, dự

án hỗ trợ kịp thời đã đưa các huyện nghèo đạt được những thành tựu khá quan

trọng về phát triển kinh tế - xã hội: tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai

đoạn 2011-2013 đạt 9,64%, riêng năm 2013 đạt 8,55% (theo giá so sánh

1994), năm 2013 chưa đạt mục tiêu kế hoạch là 9,72%, tuy nhiên vẫn cao hơn

so với bình quân chung toàn quốc 5,42%; đây là kết quả của sự nỗ lực, phấn

đấu tích cực của cả hệ thống chính trị trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó

khăn, thách thức. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng xác định, tăng dần tỷ

40

trọng công nghiệp- xây dựng, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, cụ

thể: Nông - Lâm - Nghiệp tăng 4,95%; công nghiệp xây dựng tăng 5,56%; các

ngành dịch vụ tăng 11,04% so với năm 2012. GDP bình quân đầu người (theo

giá hiện hành) ước đạt 20,41 triệu đồng/người/năm, tăng 16,2% so với năm

2012. Cơ cấu kinh tế năm 2013, khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản chiếm

25,76%, giảm 1,67%; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 29,52%, giảm

0,82%; khu vực dịch vụ chiếm 44,72%, tăng 2,5% so với năm 2012. Quy mô

GDP theo giá thực tế năm 2010 đạt 5.625 tỷ đồng, gấp 2,37 lần năm 2005,

Thu nhập bình quân đầu người (giá thực tế) tăng từ 4,46 triệu đồng năm 2005

lên 11,15 triệu đồng năm 2010, mức tăng bình quân đạt 20,1% năm [35, tr.1].

Từ khi tách ra và thành lập mới, dựa vào nội lực cùng với sự quan tâm

giúp đỡ của Trung ương, Điện Biên và các huyện nghèo đã xây dựng và phát

triển được hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở, nhất là nâng cấp cải tạo 3 tuyến

quốc lộ 6, quốc lộ 12 và quốc lộ 729, phát triển cơ bản hệ thống giao thông

nông thôn, xây dựng nhiều công trình thủy lợi, phát triển hệ thống điện, xây

dựng hệ thống các trường học, trạm y tế ở các tuyến tỉnh, huyện và cơ sở

đồng bộ, phát triển hệ thống thông tin và truyền thông có độ bao phủ lớn…

đây chính là cơ sở quan trọng cho sự phát triển ổn định và bền vững của tỉnh

cũng như các huyện nghèo.

* Thuận lợi khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội ở các

huyện nghèo

Thuận lợi: Các huyện nghèo có lợi thế lớn về tiềm năng đất đai, đặc

biệt là diện tích đất chưa sử dụng còn rất lớn ( chiếm 55% tổng diện tích tự

nhiên). Đây chính là tiềm năng lợi thế lớn để các huyện đầu tư phát triển lâm

nghiệp, trồng cây công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, trồng rừng… nếu được

đầu tư thoả đáng và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật thì sẽ trở thành nơi sản

xuất lúa gạo chất lượng cao để xuất khẩu. Tại các vùng Mường Nhé, Si Pa

Thìn, có rất nhiều thuận lợi để tập trung phát triển chăn nuôi các loại gia súc

theo hướng kinh tế trang trại.

41

Ngoài những tiềm năng trên, các huyện nghèo còn có đường biên giới

chung với nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào và Trung Quốc. Tại đây có

các cửa khẩu Tây Trang (đang đề nghị được nâng cấp thành cửa khẩu quốc

tế), cửa khẩu Pa Thơm, cửa khẩu Mường Lói, cửa khẩu A Pa Chải… Đây là

những cửa khẩu quan trọng để tỉnh Điện Biên mở mang phát triển kinh tế và

giao lưu với các nước. Đồng thời còn có nhiều tiềm năng để phát triển thuỷ

điện và các nguồn điện năng khác.

Khó khăn: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa thực sự vững chắc, chất

lượng của tăng trưởng kinh tế còn thấp, thiếu bền vững: sự tăng trưởng đạt

được phụ thuộc rất lớn vào chi tiêu từ nguồn ngân sách nhà nước, việc khai

thác các tiềm năng lợi thế của địa phương đóng góp cho tăng trưởng và

chuyển dịch cơ cấu chưa nhiều; Tăng trưởng kinh tế mới chỉ diễn ra theo

chiều rộng, chưa theo chiều sâu, tốc độ tăng trưởng có được chủ yếu nhờ mở

rộng quy mô sản xuất, phụ thuộc vào yếu tố vốn đầu tư và lao động trình độ

thấp, hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm sản xuất chiếm tỷ trọng

nhỏ, sản phẩm sản xuất có quy mô nhỏ, sức cạnh tranh thấp, nhiều sản phẩm

có mức tăng không ổn định.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chưa vững chắc, cơ cấu thành phần kinh tế

đã chuyển dịch theo hướng xác định nhưng chưa mạnh mẽ, việc thực hiện

chính sách phát triển các thành phần kinh tế còn hạn chế, kinh tế cá thể quy

mô nhỏ manh mún còn chiếm tỷ trọng lớn, hiệu quả hoạt động của doanh

nghiệp Nhà nước của địa phương còn thấp.

Sản xuất nông lâm nghiệp tuy đã đạt được những kết quả khích lệ

nhưng quy mô vẫn còn nhỏ bé, tiềm năng về rừng và đất rừng chưa được khai

thác hiệu quả, tỷ lệ che phủ của rừng tăng thấp (37,4%).

Công nghiệp tăng trưởng chưa ổn định, quy mô ngành công nghiệp

nhỏ, mức đóng góp vào nền kinh tế còn thấp.

42

Các thành phần kinh tế phát triển còn nhiều hạn chế, kinh tế quốc doanh

địa phương mặc dù đã được sắp xếp, đổi mới nhưng vẫn có nhiều doanh nghiệp

làm ăn kém hiệu quả làm suy giảm phần vốn đầu tư của Nhà nước. Các thành

phần kinh tế phát triển nhưng chưa bền vững, chủ yếu tập trung ở lĩnh vực dịch

vụ; lĩnh vực sản xuất và trồng rừng bước đầu có sự đầu tư của một số doanh

nghiệp lớn nhưng đa số đang ở giai đoạn đầu tư kiến thiết ban đầu.

Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã có những bước phát triển tích cực so

với giai đoạn trước, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, cụ thể: vẫn còn

30/112 xã ô tô không đi lại được vào mùa mưa; 10/112 xã chưa có điện lưới

quốc gia, 24,5% số hộ chưa được sử dụng điện; 2.543 phòng học tạm và thiếu

khoảng 1.141 phòng ở cho học sinh bán trú dân nuôi; 9 xã chưa có nhà trạm y

tế và 31 trạm y tế xã hiện đã xuống cấp nghiêm trọng; 96 xã và 1.551 thôn,

bản chưa có nhà văn hóa.

Thu ngân sách trên địa bàn chiếm tỷ trọng thấp, nguồn thu không ổn

định: Nguồn thu còn phụ thuộc nhiều vào các công trình xây dựng từ ngân

sách Nhà nước, thu từ các hoạt động sản xuất kinh doanh còn ít, thu ngân sách

trên địa bàn mới chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu chi của địa phương.

Tỷ lệ huy động ngân sách trong GDP mặc dù đã được cải thiện song vẫn còn

có khoảng cách khá xa so với bình quân chung toàn quốc (4,8% so với 22%).

Công tác xoá đói, giảm nghèo chưa bền vững (chưa đạt mục tiêu NQ): tỷ lệ

hộ đói nghèo cao, số hộ cận nghèo nhiều, chênh lệch về mức sống giữa các vùng

còn lớn, công tác điều tra, rà soát hộ nghèo của cấp huyện còn nhiều bất cập nên

một số huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao nhưng không được hưởng chính sách đầu tư,

hỗ trợ theo Nghị quyết 30a như huyện Mường Chà, huyện Điện Biên...

Sự nghiệp giáo dục, y tế được quan tâm phát triển song vẫn còn nhiều

khó khăn: Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, chưa đồng

đều giữa các vùng, miền trong tỉnh. Tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại

học còn ở mức thấp; đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục còn bất cập

về cơ cấu, vùng miền. Số giáo viên, cán bộ quản lý giỏi phân bố không đều,

chiếm tỷ lệ cao ở các vùng đô thị; thiếu ở vùng sâu, vùng xa.

43

Nhân lực ngành y tế còn bất cập cả về thành phần và cơ cấu cán bộ; nhân

lực y tế dự phòng còn thiếu so với nhu cầu; thiếu bác sĩ và dược sĩ đại học, đặc

biệt ở tuyến huyện, xã. Chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa

gia đinh còn nhiều hạn chế, tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ sơ sinh còn cao. Một số chỉ

tiêu về chăm sóc sức khỏe trẻ em đến năm 2010 không đạt mục tiêu đề ra. Các

nguy cơ dịch bệnh như: sốt rét, thương hàn và các dịch bệnh nguy hiểm khác

như cúm A(H5N1, H1N1), dịch tả… còn tiềm ẩn diễn biến phức tạp, có thể

bùng phát dịch, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.

Bức xúc xã hội vẫn diễn biến phức tạp: Số đối tượng nghiện ma túy, lây

nhiễm HIV/AIDS có chiều hướng gia tăng, hiệu quả cai nghiện ma túy thấp,

tỷ lệ tái nghiện chiếm tới trên 96%; số hộ thoát nghèo hàng năm giảm thấp, tỷ

lệ hộ nghèo còn cao.

Công tác cải cách hành chính có tâ ̣p trung thực hiê ̣n nhưng mô ̣t số nơi

còn chưa đáp ứng yêu cầu. Sự phối kết hợp giữa các cấp, các ngành trong

công tác quản lý còn chưa chặt chẽ làm giảm hiệu lực, hiệu quả công tác quản

lý Nhà nước; Trình độ đội ngũ cán bộ, công chức chưa đồng đều, một số cán

bộ cơ sở cấp xã còn bất cập về trình độ học vấn và chuyên môn, nghiệp vụ.

Quốc phòng an ninh trật tự xã hội còn diễn biến phức tạp như lợi dụng

tự do tín ngưỡng tôn giáo, truyền đạo trái pháp luật, di dịch cư tự do,… tiềm

ẩn những nguy cơ gây mất ổn định chưa được giải quyết triệt để; tai nạn giao

thông và vi phạm trật tự an toàn giao thông trên địa bàn vẫn còn ở mức cao.

Các tệ nạn xã hội như: buôn bán và sử dụng chất ma túy, tệ nạn mại dâm, mê

tín dị đoan, trộm cắp... vẫn còn tồn tại ở một số nơi và chưa có biện pháp xóa

bỏ triệt để.

2.2. Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân

2.2.1. Những thành tựu đạt được trong những năm qua

Đảm bảo ASXH là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm cải

thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về

trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư.

44

Thành tựu đạt được tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên trong những năm qua

đã góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững và thực hiện công bằng xã hội,

được cộng đồng quốc tế đánh giá cao; đặc biệt để tiếp tục khẳng định tình

cảm, trách nhiệm và tính nhân văn, tính đoàn kết cộng đồng “lá lành đùm lá

rách” trong con người Việt Nam.

Khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân

trong các huyện nghèo tỉnh Điện Biên ngày càng được cải thiện cũng là một điểm

nhấn quan trọng trong đảm bảo ASXH, nổi bật như: “chương trình mục tiêu quốc

gia xây dựng nông thôn mới”; chương trình “Hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền

vững” theo tinh thần Nghị quyết 30a của Chính phủ… Những chương trình hỗ trợ

của Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội và mọi người dân đã thực sự đem lại hiệu

quả đối với nhiều đối tượng trong xã hội. Trong số 58 chương trình, dự án giảm

nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số và trẻ em tỉnh Điện Biên nổi bật là các chương

trình 134, 135 giai đoạn 2; chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững; các Dự án

cho vay ngành dệt may, nuôi trồng, chăm sóc và chế biến cây công nghiệp … Bên

cạnh đó, những chương trình hướng tới từng đối tượng trong xã hội ở các lĩnh vực

giáo dục, y tế, người nghèo như: khuyến khích hỗ trợ học sinh nghèo, trẻ em mắc

bệnh hiểm nghèo có hoàn cảnh khó khăn… đã thực sự có được những hiệu quả thiết

thực với nhiều đối tượng trong xã hội, góp phần từng bước nâng cấp, cải thiện chất

lượng sống cho người dân. Hàng chục ngàn căn nhà đại đoàn kết đã đem lại mái ấm,

sự ổn định an cư lạc nghiệp cho người dân nghèo ở các vùng quê khó khăn tại các

huyện nghèo, hàng ngàn cặp phao cứu sinh đã giảm thiểu tỷ lệ học sinh đuối nước

tại các vùng quê sông nước, hàng trăm trẻ em mắc bệnh tim bẩm sinh đã được phẫu

thuật, có cuộc sống khỏe mạnh, hòa nhập với cộng đồng…

* Kết quả cụ thể:

Thứ nhất: Chính sách hỗ trợ tạo việc làm, tham gia thị trường lao động

cho lao động nông thôn, đồng bào DTTS có thu nhập ổn định.

Chính sách hỗ trợ tạo việc làm tại các huyện nghèo của tỉnh Điện Biên

trong những năm qua luôn được quan tâm thực hiện có hiệu quả, các chương

45

trình hỗ trợ tạo việc làm cho những người thất nghiệp, mất sinh kế hoặc chưa

có việc làm tại các huyện nghèo, cụ thể:

Trên cơ sở số liệu tại phụ lục 1 thể hiện quy mô việc làm và việc làm mới tăng

thêm hàng năm: toàn tỉnh giải quyết việc làm hằng năm tăng thêm trên 8.500 lao động,

trong đó đã xuất khẩu trung bình hằng năm được 118 lao động.. Tính riêng trong 4 huyện

nghèo với tổng số việc làm thường xuyên hàng năm cũng tăng lên bình quân khoảng

1.100 người/năm ở cả 4 huyện; số lao động có việc làm mới cũng tăng bình quân khoảng

3,5%/năm, đặc biệt năm 2013 tỷ lệ việc làm mới tăng trung bình 13% so với năm 2012,

cụ thể Huyện Điện Biên Đông tăng 13 lao động, huyện Mường nhé tăng 83 lao động;

huyện Tủa Chùa tăng 189 lao dộng và huyện Mường Ảng tăng 289 lao đông.

Hình 2.1. Chỉ số việc làm tại 4 huyện nghèo giai đoạn 2011 – 2013

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [31], [32], [33], [34])

Cơ cấu việc làm tại các huyện nghèo chuyển dịch tích cực theo hướng

tăng tỷ lệ lao động công nghiệp xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ lệ lao động làm

việc trong khu vực nông – lâm - nghiệp: toàn tỉnh lao động nông nghiệp từ

73,1% năm 2010 xuống còn khoảng 70% năm 2013, lao động công nghiệp và

xây dựng tăng từ 9,4% năm 2010 lên 11% năm 2013 và lao động khu vực

46

thương mại - dịch vụ tăng từ 17,5% năm 2010 lên 19% năm 2013; riêng trong

4 huyện nghèo cơ cấu lao động cũng có sự thay đổi theo hướng tăng tỷ lệ lao

động làm việc trong khu vực công nghiệp – xây dựng và thương mại – dịch

vụ, giảm tỷ lệ lao động làm việc trong nông lâm nghiệp, tuy nhiên tỷ lệ lao

động làm việc trong khu vực nông lâm nghiệp vẫn còn cao như: huyện

Mường Nhé, Tủa Chùa đến nay chiếm đến 78% lao động làm việc trong khu

vực nông lâm nghiệp, huyện Điện Biên Đông, Mường Ảng chiếm 76%. Sở dĩ

cơ cấu lao động tại các huyện nghèo có sự chuyển dịch nhanh về các ngành

công nghiệp - xây dựng và dịch vụ - thương mại là do trong những năm gần

đây được Chính phủ, tỉnh và huyện có nhiều chính sách đảm bảo ASXH tập

trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông nông thôn và các dịch vụ

công ích khác nên đã tạo nhiều việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn…

Hình 2.2. Cơ cấu việc làm toàn tỉnh và 5 huyện nghèo năm 2013

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [28], [31], [32], [33], [34])

Nhìn chung công tác giải quyết và tạo việc làm mới tại các huyện nghèo luôn

được tổ chức thực hiện có hiệu quả, coi đây là bước đột phá về chiến lược lao động tại

huyện, từ đó làm động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, cải thiện dần

đời sống tinh thần cho người dân nơi đây. Thực tế tỷ lệ lao động qua đào tạo so với số

lao động trong độ tuổi tại các huyện ngày một tăng từ 21,4% năm 2010 đến nay đã

tăng lên 27%. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số

47

cũng được cải tiện đáng kể nhất là khi có các chính sách, dự án hỗ trợ chăm sóc và

trồng rừng tái sinh, chương trình giải nghèo nhanh và bền vững tại vùng khó khăn...

Công tác đào tạo nghề: hiện đã có 04/05 huyện nghèo thành lập trung

tâm dạy nghề; các cơ sở đào tạo, dạy nghề đã từng bước mở rộng quy mô, đa

dạng hóa hình thức đào tạo, kết hợp giữa đào tạo nghề tập trung và đào tạo nghề

ngắn hạn gắn với nhu cầu sử dụng; Trong 3 năm toàn tỉnh đã dạy nghề cho

27.732 học viên, trong đó: Cao đẳng và trung cấp nghề là 2.528 học viên; dạy

nghề ngắn hạn và sơ cấp là 25.204 học viên (Đào tạo nghề ngắn hạn cho lao

động nông thôn, thanh niên DTTS và người tàn tật; dạy nghề cho người nghèo

thuộc chương trình giảm nghèo; dạy nghề thuộc chương trình 135; tỷ lệ lao động

qua đào tạo nghề tăng thêm năm 2010 đạt 29,5%, tăng 13,1% so với năm 2005

(tăng 3,5% so với mục tiêu Đề án). Tính riêng trong 3 năm 2011-2013 đã tổ

chức dạy nghề ngắn hạn cho 23.226 lao động, kinh phí thực hiện 28.783 triệu

đồng, tăng bình quân hằng năm là 100 lao động [34], [35].

Hình 2.3. Số lao động đào tạo nghề các huyện nghèo giai đoạn 2011 – 2013

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [31], [32], [33], [34])

Chính sách tín dụng đầu tư tạo việc làm: Các chính sách tín dụng tạo việc

làm, hệ thống thông tin thị trường lao động, mạng lưới trung tâm dịch vụ việc làm

48

công lập và doanh nghiệp, các chương trình đào tạo nghề, trợ cấp thất nghiệp và việc

làm công ngày càng phát huy vai trò trong việc kết nối cung cầu lao động. Trong 03

năm (2011-2013), đã được Trung ương bổ sung 13.760 triệu đồng vào quỹ quốc gia

về việc làm của tỉnh; tổ chức cho vay và giải quyết việc làm mới cho 3.290 lao động,

đây chủ yếu là số lao động tại các huyện nghèo, gồm: giải quyết cho vay, tạo việc

làm mới cho 2.190 lao động với kinh phí đến 30/12/2012 là 61.000 triệu đồng; kết

hợp cùng với số vốn thu hồi được trong năm, đã cho vay 760 dự án, với số vốn cho

vay trong năm là 26.101 triệu đồng, đạt 155,7% kế hoạch, trong đó: có 24 dự án cơ

sở sản xuất kinh doanh, với số vốn vay là 2.266 trệu đồng; 736 dự án hộ, nhóm hộ

gia đình với số vốn vay là 23.835 triệu đồng. Thông qua nguồn vốn cho vay quỹ

quốc gia về việc làm đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết việc làm, tạo việc

làm mới cho 1.095 lao động, đạt 101,8% kế hoạch (chiếm khoảng 13% tổng số việc

làm mới được tạo ra trong năm) [31], [32], [33], [34], [36].

Dự án hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài: Công tác xuất

khẩu lao động được đẩy mạnh, số lao động được xuất khẩu trong 5 năm (2005 –

2010) đã tổ chức cho 557 người; 03 năm (2011-2013) toàn tỉnh có 396 lao động đi

xuất khẩu lao động tại các thị trường Malaysia, Hàn quốc, Arapxeut, Nhật bản, Đài

loan. Trong đó, các huyện nghèo có số lao động xuất khẩu lao động còn thấp,

huyện Điện Biên Đông đã có 114 lao động xuất cảnh sang thị trường Malaysia,

Hàn Quốc... tăng bình quân các năm là 0,8%; huyện Mường Ảng đã có 109 lao

động sang làm việc ở nước ngoài, tăng bình quan các năm 0,9%; huyện Mưởng

Nhé đã có 89 lao động sang làm việc ở nước ngoài; huyện Tủa Chùa đã có 83 lao

động sang làm việc ở nước ngoài. Đây cũng chính là nguồn giải quyết việc làm

trước mắt cho các huyện nghèo, tuy nhiên số lượng lao động đi xuất khẩu lao động

hàng năm còn thấp bởi nhiều lý do, như: lao động các huyện nghèo chủ yếu chưa

qua đào tạo nghề, kỹ năng sống, kỹ năng làm việc chưa có nhiều, chủ yếu theo thói

quen lao động nông nghiệp, trồng trọt, làm nương rẫy.... [31], [32], [33], [34], [36].

Tăng cường hỗ trợ lao động di cư: Các chương trình di dân đã đáp ứng

một phần về tái phân bố nguồn lao động, ổn định đời sống cho đồng bào dân tộc

49

thiểu số và bảo vệ an ninh quốc phòng tại các huyện nghèo. Đến hết tháng

12/2013, tổng số hộ đã di chuyển, sắp xếp lại chỗ ở, được giao đất và đang xây

dựng nhà ở cho 4.461 hộ, trong đó:

+ Huyện Tủa Chùa: bố trí cho 310 hộ di chuyển và xây dựng xong nhà ở ổn

đinh, gồm: Khu tái định cư Huổi Lực: 104 hộ (80 hộ tái định cư, 24 hộ sở tại); Tà

Huổi Tráng-Tà Si Láng: 122 hộ (84 hộ tái định cư, 38 hộ sở tại); Huổi Lóng: 84 hộ.

+ Huyện Nậm Pồ đã bố trí nhà ở cho 1.826 hộ, trong đó: tại khu tái định

cư gần 500 hộ; Giao đất và xây dựng nhà hơn 1100 hộ…[34], [35], [36].

+ Huyện Điện Biên Đông đã bố trí, sắp xếp chỗ ở mới cho 221 hộ; đồng

thời cùng với các nguồn vốn hỗ trợ đã sửa chữa, nâng cấp hàng 1000 căn nhà

cho người dân [34], [35], [36].

+ Huyện Mường Ảng xây dựng khu tái định cư cho 200 hộ đã cơ bản ổn

định cuộc sống.

+ Huyện Mường Nhé (Điểm tái định cư Nậm San, xã Mường Nhé):

bố trí chỗ ở cho 37 hộ, được tiếp nhận 21 hộ từ huyện Tủa Chùa và 16 hộ

từ huyện Mường Chà chuyển đến, hiện tại các hộ đã hoàn thành xây dựng

nhà ở [34], [35], [36].

Ngoài ra còn sắp xếp, ổn định dân di cư tự do huyện Mường Nhé: Tổng số

vốn do Trung ương cấp từ năm 2005 - 2012 là 270.000 triệu đồng, đã giải ngân được

163.303 triệu đồng để thực hiện 58 công trình, trong đó có 09 công trình hoàn thành,

21 công trình hoàn thành vào cuối năm 2013 và khởi công mới 25 công trình. Các

huyện nghèo còn tiếp nhận di dân, tái định cư thuỷ điện Sơn La với số hộ di

chuyển là 4.459/4.436 hộ dân khỏi vùng ngập lòng hồ; tổng số hộ được bố trí tại

các khu, điểm tái định cư trên địa bàn là 4.329/4.423 hộ (giảm 94 hộ). Dự án đầu

tư cơ sở hạ tầng có tổng mức đầu tư 3.550.000 triệu đồng đầu tư cho 189 công

trình; đã phân bổ kế hoạch vốn 2.337.806 triệu đồng, giải ngân được 2.030.089

triệu đồng. Đến nay, có 155 công trình đã hoàn thành, còn 34 công trình đang

thực hiện [34, tr.13].

Thứ hai: Chính sách bảo hiểm (BHXH, BHYT, BHTN)

50

Các loại hình bảo hiểm cho người dân tại tỉnh Điện Biên ngày càng được

mở rộng với sản phẩm ngày càng đa dạng. Ðối tượng tham gia BHXH, BHYT

và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) ngày càng tăng và được hưởng các chế độ và

quyền lợi kịp thời, đầy đủ, an toàn, đúng quy định.

Căn cứ vào số liệu tại phụ lục 3, thể hiện tổng số người tham gia BHXH

bắt buộc trong toàn tỉnh từ năm 2011 đến năm 2013 có xu hướng tăng bình quân

5,3%/năm, tuy nhiên số người tham gia BHXH bắt buộc so với số lao động

trong độ tuổi lao động rất thấp trung bình 11% (tính riêng năm 2013 có 35.093

người tham gia BHXH bắt buộc/324.945 lao động trong độ tuổi). Tính chung 5

huyện Nghèo có số người tham gia BHXH bắt buộc hàng năm khoảng 9.800

người chiếm 7,5% số người trong độ tuổi lao động, cụ thể: năm 2011 có 9.034

người, năm 2012 có 9.608 người, năm 2013 có 10.570 người [5], [34].

Kết quả thực hiện BHXH: qua 3 năm thực hiện đã có số người tham gia

BHXH (cả bắt buộc và tự nguyện) tăng bình quân mỗi năm gần 750 người tăng

6,7%/năm, đến hết năm 2013 đạt 10.570 người, trong đó 97,1% tham gia BHXH

bắt buộc. Tỷ lệ bao phủ BHXH (tính bằng số người tham gia/ tổng lực lượng lao

động) đã tăng từ 7,7% lực lượng lao động năm 2011 lên 8,8% năm 2013.

Kết quả thực hiện Bảo hiểm thất nghiệp: Sau 3 năm triển khai, chính sách

bảo hiểm thất nghiệp đã trở thành “chỗ dựa” cho người lao động khi bị mất việc

làm, nhất là trong bối cảnh suy giảm kinh tế. Toàn tỉnh tăng bình quân 410

người/năm, tỷ lệ tăng bình quân 2,7%/năm; tính riêng 5 huyện nghèo tăng bình

quân 350 người/năm, tỷ lệ tăng bình quân 2,5%/năm. Tuy nhiên đây cũng chính là

vấn đề rất khó thực hiện trong các huyện nghèo, tỷ lệ người tham gia bảo hiểm thất

nghiệp thấp, nguyên nhân chủ yếu là do trình độ nhận thức của người dân, phần vì

kinh tế khó khăn (trong khi chi phí tối thiểu sinh hoạt hàng ngày còn chưa đủ...).

Kết quả thực hiện BHYT: Luật BHYT ban hành năm 2008 cho thấy, sự

cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong việc hỗ trợ toàn bộ hoặc một

phần mức đóng BHYT đối với người nghèo, cận nghèo, người DTTS, đối tượng

hưởng chính sách ưu đãi, và đối tượng hưởng trợ giúp xã hội.

51

Phụ lục 4, thể hiện trong 03 năm (2011 - 2013), toàn tỉnh đã hỗ trợ cấp thẻ

BHYT cho 1.011.093 đối tượng người nghèo, cận nghèo và các đối tượng xã hội

khác tại các xã đặc biệt khó khăn với kinh phí mua thẻ BHYT là 462,623 tỷ

đồng, cụ thể: năm 2011 cấp 269.666 thẻ tăng 5% so với năm 2010; năm 2012

cấp 399.860 thẻ tăng 6,7% so với năm 2011 (trong đó 326.123 người nghèo, 654

cựu chiến binh và 73.083 trẻ em dưới 6 tuổi); năm 2013 cấp 411.488 thẻ tăng

9,7% so với năm 2012 (trong đó 336.029 người nghèo, 3.002 hộ cận nghèo và

75.459 trẻ em dưới 6 tuổi); Ngoài ra trong năm 2012 đã thực hiện hỗ trợ đóng

50% thẻ BHYT cho 1.063 người thuộc hộ gia đình cận nghèo, kinh phí thực hiện

140,293 triệu đồng. Trong 5 huyện nghèo đã cấp miễn phí thẻ BHYT chiến tỷ lệ

62% so với số thẻ cấp trong toàn tỉnh mỗi năm [5], [34].

Hình 2.4. Số thẻ BHYT đươc cấp miễn phí trong 3 năm tại huyện nghèo

(Nguồn: Tác giả tổng hợp [5], [34]).

Như vậy, các huyện nghèo đã chủ động thực hiện chính sách hỗ trợ phát

miễn phí thẻ BHYT cho đối tượng người nghèo, cận nghèo và đối tượng xã hội

khác tại các xã đặc biệt khó khăn với số lượng người được hưởng ngày một tăng;

tính trung bình năm 2011 đã có 21.000 thẻ được phát thêm, tăng bình quân

3,54%/ năm 2012, riêng năm 2013 số thẻ được cấp tại các huyện lại giảm vì đã

52

phân bổ cho huyện Nậm Pồ mới thành lập (do nguồn kinh phí chưa kịp cấp bổ

sung cho huyện).

Thứ ba: Chính sách trợ giúp xã hội và hỗ trợ giảm nghèo

Chính sách trợ giúp xã hội và hỗ trợ giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất

quán của Đảng, Nhà nước và là sự nghiệp của toàn dân. Phải huy động nguồn

lực của Nhà nước, của xã hội và của người dân để khai thác có hiệu quả tiềm

năng, lợi thế của huyện nghèo, nhất là sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp để

xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Cùng với sự đầu tư,

hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng xã hội, sự nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát

nghèo của người nghèo, hộ nghèo là nhân tố quyết định thành công của công

cuộc xóa đói giảm nghèo.

Công cuộc giảm nghèo nhanh, bền vững đối với các huyện nghèo của tỉnh

Điện Biên là nhiệm vụ chính trị trọng tâm hàng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp

của cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo sâu sát, cụ thể và đồng bộ của các cấp chính quyền,

sự phối hợp tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đồng thời

phát huy vai trò làm chủ của người dân từ khâu xây dựng kế hoạch đến tổ chức

thực hiện, giám sát, đánh giá hiệu quả của chương trình, dự án đã triển khai.

Cùng với việc tiếp tục thực hiện các chính sách giảm nghèo chung trong

cả nước, tỉnh Điện Biên đã tập trung huy động các nguồn lực để đầu tư, hỗ trợ

giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 05 huyện nghèo, nhất là các huyện có tỷ

lệ đồng bào DTTS sinh sống cao, ba năm qua các chính sách trợ giúp, hỗ trợ đã

đạt được kết quả như sau:

Một là, Chính sách hỗ trợ giáo dục và đào tạo: trong 3 năm 2011 – 2013

các huyện nghèo đã hỗ trợ miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập, hỗ trợ ăn

trưa cho trẻ em mầm non, hỗ trợ cho học sinh các trường bán trú cho 426.802

học sinh với kinh phí thực hiện 175.900,4 triệu đồng, cụ thể: hỗ trợ ăn trưa cho

trẻ em mầm non là 14.737 học sinh với kinh phí thực hiện là 8.159,05 triệu

53

đồng; hỗ trợ học sinh bán trú và trường phổ thông dân tộc bán trú cho 25.020

học sinh với kinh phí hỗ trợ 91.712,88 triệu đồng; hỗ trợ miễn giảm học phí cho

154.522 lượt học sinh với kinh phí hỗ trợ 13.390,17 triệu đồng; hỗ trợ chi phí

học tập cho 220.844 lượt học sinh với kinh phí hỗ trợ 71.472,53 triệu đồng.

Riêng năm 2013 thực hiện hỗ trợ cho học sinh với kinh phí thực hiện là 19.509

triệu đồng [34, tr.9].

Hai là, Thực hiện chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo ở vùng khó

khăn theo Quyết định 102/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Trong 03

năm (2011-2013) các huyện đã hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo đang cư trú tại

vùng khó khăn cho 485.315 lượt người với kinh phí 46.018 triệu đồng, (riêng

năm 2013 hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo đang cư trú tại vùng khó khăn cho

137.713 người với kinh phí đã thực hiện hỗ trợ là 13.341 triệu đồng, chiếm 68%

so với hỗ trợ toàn tỉnh) [34, tr.10].

Ba là, Thực hiện chính sách hỗ trợ tiền điện; theo Quyết định 471/QĐ-

TTg: Trong 03 năm (2011 - 2013), các huyện nghèo đã triển khai thực hiện hỗ

trợ tiền điện, trợ cấp khó khăn cho 71.405 hộ nghèo với tổng kinh phí hỗ trợ

30.408,9 triệu đồng. Ngoài ra còn trợ cấp khó khăn cho 26.297 hộ nghèo với

tổng kinh phí là 6.615,02 triệu đồng.

Bốn là, thực hiện chính sách trợ giúp xã hội, trợ cấp, trợ giúp thường

xuyên cho đối tượng xã hội: Các chính sách đảm bảo ASXH, chăm sóc người có

công, gia đình chính sách được thực hiện kịp thời, đầy đủ, đúng chế độ, chính

sách; đối tượng chính sách xã hội, người nghèo, người tàn tật, trẻ em có hoàn

cảnh khó khăn thường xuyên được sự giúp đỡ của chính quyền, cộng đồng và

các tổ chức xã hội. Trong 03 năm (2011-2013) các huyện thực hiện cứu đói tết

cho 13.136 khẩu với kinh phí thực hiện là 2.657,97 triệu đồng; cứu đói trong dịp

giáp hạt cho 206.181 khẩu với số gạo hỗ trợ là 4.363,81 tấn từ Trung ương cấp,

(chi ngân sách huyện 4.435 tấn); có 15.195 người được hưởng trợ cấp xã hội

54

hàng tháng, kinh phí trợ cấp xã hội hàng tháng cho các đối tượng bảo trợ xã hội

là 35.533,53 triệu đồng; Hỗ trợ đột xuất cho 17.550 hộ với 62.735 nhân khẩu;

ngoài ra còn nuôi dưỡng trẻ em tập trung là 204 người [34, tr.11].

Năm là, thực hiện Chương trình 135: được Chính phủ tổ chức triển khai,

thực hiện Giai đoạn 2005 - 2012 tổng nguồn vốn Trung ương phân bổ 719.145

triệu đồng, đã thực hiện được 686.411 triệu đồng, tuy nhiên giai đoạn này các

huyện đã tổ chức thực hiện và phân bổ nguồn vốn chủ yếu tập trung vào xây

dựng cơ sở hạ tầng; xây dựng trung tâm cụm xã; sắp xếp lại dân cư; đào tạo cán

bộ xã, thôn, bản; dự án phát triển sản xuất... kết quả 5 năm thực hiện phân bổ

529.861 triệu đồng, thực hiện được 506.844 triệu đồng. Trong đó: xây dựng cơ

sở hạ tầng 304.044 triệu đồng; xây dựng trung tâm cụm xã 7.794 triệu đồng; dự

án sắp xếp lại dân cư 540 triệu đồng; đào tạo cán bộ xã, thôn, bản 18.003 triệu

đồng; Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất 68.828 triệu đồng; vốn duy tu, bảo dưỡng

12.445 triệu đồng; chính sách các dịch vụ hỗ trợ 93.519 triệu đồng; chi phí quản

lý 1.671 triệu đồng [34, tr.13].

Kết thúc chương trình, với hiệu quả chương trình mang lại, có ý nghĩa thiết

thực tác động trực tiếp đến đời sống của người dân trên địa bàn các huyện nghèo,

chính vì vậy tỉnh và các huyện nghèo đề xuất Trung ương tiếp tục thực hiện

chương trình giai đoạn 2 (2011 – 2012) với nguồn vốn phân bổ 189.284 triệu

đồng, thực hiện 179.567 triệu đồng, bao gồm: dự án hỗ trợ phát triển sản xuất

22,292 tỷ đồng; dự án phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu 75,805 tỷ đồng; dự án đào

tạo nâng cao năng lực cán bộ xã, bản 4,769 tỷ đồng; duy tu bảo dưỡng công trình

sau đầu tư 4,492 tỷ đồng. Tổng số có 102 công trình được đầu tư trong đó: có 24

công trình giao thông, 23 công trình thủy lợi, 43 công trình nước sinh hoạt, 08

công trình nhà lớp học, 03 công trình nhà sinh hoạt cộng đồng; 01 công trình điện

sinh hoạt, kết quả hoàn thành và bàn giao đưa vào sử dụng 101/102 công trình với

55

tổng giá trị khối lượng thực hiện 71,709 tỷ đồng, đã giải ngân 70,532/78,000 tỷ

đồng, đạt 90,4% so với tổng nguồn vốn được Trung ương giao.

Sáu là, thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ: là một chủ trương, chính

sách lớn của Đảng và Nhà nước, là cơ hội tạo ra nguồn lực đầu tư rất lớn để các

huyện nghèo tỉnh Điện Biên được tăng cường một bước về đầu tư xây dựng kết

cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; xóa đói giảm nghèo, đảm bảo ASXH; qua đó tạo

động lực phát triển kinh tế - xã hội, từng bước cải thiện nâng cao chất lượng đời

sống, tinh thần cho đồng bào nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng

xa. Vì vậy, tỉnh Điện Biên đã triển khai đồng bộ các chủ trương, chính sách, giải

pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết đến từng thôn, bản, cụm dân cư

trong các huyện nghèo. Nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của

các cấp, các ngành, các đoàn thể quần chúng trong việc tổ chức triển khai thực

hiện; tranh thủ sự ủng hộ, hỗ trợ, giúp đỡ của các Tập đoàn kinh tế , các Ngân

hàng và các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh; phát huy ý chí tự lực, tự cường,

nỗ lực phấn đấu vươn lên của hộ nghèo trong việc triển khai thực hiện. Nên kết

quả đạt được là rất lớn, không những từng bước đưa các huyện nghèo thoát

nghèo mà còn phát triển vượt bậc về mọi mặt của đời sống xã hội nơi đây.

Tổng nguồn kinh phí được hỗ trợ 5 huyện nghèo trong 5 năm 2009-2013 là

1.073.418 triệu đồng, trong đó: Trung ương hỗ trợ là 789.075 triệu đồng, nguồn

vốn tập trung đầu tư phát triển: 626.681 triệu đồng, vốn sự nghiệp: 162.394 triệu

đồng; các Tập đoàn, Tổng công ty cam kết hỗ trợ đối với huyện nghèo với kinh

phí là 284.343 triệu đồng, đến 31/12/2013 đã giải ngân 266.228 triệu đồng.

56

Hình 2.5: Tổng nguồn vốn hỗ trợ 5 huyện nghèo giai đoạn 2009 – 2013

(Nguồn: Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện NQ 30a [37, tr.6])

Cụ thể các Tập đoàn, tổng công ty hỗ trợ cho các huyện:

+ Huyện Tủa Chùa được Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn Việt Nam hỗ trợ và giải ngân 60.000 triệu đồng (trong đó: Hỗ trợ xây

dựng 11 nhà nội trú dân nuôi Trung học cơ sở tại 11 xã và 03 trường Trung

học phổ thông với kinh phí: 37.800 triệu đồng; hỗ trợ xây dựng trạm y tế xã

đạt chuẩn quốc gia kinh phí: 2.715 triệu đồng; hỗ trợ làm nhà cho hộ nghèo:

19.485 triệu đồng) [37, tr.6].

+ Huyện Mường Ảng được Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn Việt Nam hỗ trợ 100.000 triệu đồng đã giải ngân 99.928 triệu đồng

(trong đó: Hỗ trợ nhà ở cho 1.131 hộ nghèo, kinh phí 16.893 triệu đồng; hỗ

trợ xây dựng nhà ở nội trú dân nuôi (100 phòng), kinh phí 20.000 triệu đồng;

hỗ trợ xây dựng 04 công trình trạm y tế xã, tổng kinh phí 10.000 triệu đồng;

hỗ trợ xây dựng 07 công trình trường học, tổng kinh phí 53.035 triệu đồng).

+ Huyện Điện Biên Đông được các đơn vị cam kết hỗ trợ 63.000 triệu

đồng gồm: Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam hỗ trợ 30.000

triệu đồng, để thực hiện hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo. Tập đoàn Dầu khí quốc gia

Việt Nam hỗ trợ 33.000 triệu đồng hỗ trợ xây dựng một khu nhà ở cho học sinh

57

bán trú dân nuôi tại xã Phình Giàng đã giải ngân 32.999 triệu đồng (trong đó:

hỗ trợ về nhà ở 26.440 triệu đồng, hỗ trợ giáo dục 6.559 triệu đồng).

+ Huyện Mường Nhé tổng số kinh phí được các đơn vị cam kết, hỗ trợ

61.343 triệu đồng, đã giải ngân 43.300 triệu đồng trong đó: Hỗ trợ để hoàn

thiện nhà ở cho hộ nghèo 28.300 triệu đồng (Ủy ban MTTQ Việt nam 3.000

triệu đồng; Tổng Công ty thăm dò và khai thác dầu khí 10.000 triệu đồng;

Quỹ "Ngày vì người nghèo" tỉnh 1.300 triệu đồng; Tổng công ty Hàng không

Việt Nam 1.000 triệu đồng, Ngân hàng TMCP Đầu tư Phát triển Việt Nam

15.000 triệu đồng, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam 2.000 triệu

đồng, Tổng Công ty gốm sứ Việt Nam 2.000 triệu đồng). Ngoài ra Tổng Công

ty Hàng không Việt Nam hỗ trợ 5.000.000 triệu đồng xây dựng Trường Tiểu

học số 2 Mường Nhé, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam hỗ

trợ xây dựng 100 nhà bán trú dân nuôi với số tiền 10.000 triệu đồng [37, tr.7].

* Kết quả cụ thể thực hiện theo khoản mục tại 05 huyện nghèo cụ thể:

Hỗ trợ chăm sóc, bảo vệ rừng: Trong 05 năm (2009-2013) thực hiện

chăm sóc, khoanh nuôi tái sinh và bảo vệ rừng cho 15.988 hộ với tổng kinh

phí là 41.099,1 triệu đồng; hỗ trợ lần đầu giống cây trồng và gạo cho các hộ

nghèo trồng rừng đạt 68.472,6 ha rừng với kinh phí 38.494,1 trong đó: 4 năm

2009-2012 hỗ trợ 37.594,1 triệu đồng cho 15.909 hộ, để thực hiện chính sách

hỗ trợ chăm sóc, khoán khoanh nuôi tái sinh và bảo vệ rừng; hỗ trợ lần đầu

giống cây trồng; hỗ trợ gạo cho các hộ nghèo trồng rừng đạt 67.422,3 ha rừng

các loại. Riêng năm 2013, các huyện nghèo tiếp tục triển khai khảo sát, lập hồ

sơ giao khoán khoanh nuôi tái sinh, bảo vệ rừng, khoán chăm sóc rừng (huyện

Điện Biên Đông hỗ trợ khoanh nuôi cho 79 hộ, thực hiện 1.050,3 ha với kinh

phí thực hiện 1.300 triệu đồng; huyện Mường Ảng triển khai hỗ trợ trồng

rừng sản xuất 755 triệu đồng, hỗ trợ bảo vệ rừng 300 triệu đồng, hỗ trợ gạo

cho hộ nghèo 1.150 triệu đồng) [37, tr.7-8].

Hỗ trợ sản xuất: các huyện nghèo đã thực hiện hỗ trợ đất sản xuất khai

hoang, phục hóa và tạo ruộng bậc thang cho 3.283 hộ, thực hiện được 1.657,5

58

ha với kinh phí thực hiện 6.009,3 triệu đồng; hỗ trợ phát triển chè Shantuyết:

Riêng huyện Tủa Chùa trong 05 năm (2009-2013) thực hiện trồng mới

206,885 ha chè Shantuyết (đạt 96,3% kế hoạch giao) nâng tổng diện tích chè

toàn huyện lên trên 479,77 ha; hỗ trợ gạo đến nay lên trên 263,1618 tấn.

(Tổng kinh phí hỗ trợ từ nguồn vốn để hỗ trợ gạo và hỗ trợ trồng chè 5.111,22

triệu đồng, đạt 61% vốn giao); hỗ trợ tiền mua giống, phân bón chuyển đổi

cây trồng tại 5 huyện, đối với giống nông nghiệp cây trồng cho hộ 27.353 hộ

dân, với tổng kinh phí 15.994 triệu đồng, trong đó: 4 năm (2009-2012) hỗ trợ

giống nông nghiệp cây trồng cho 26.966 hộ, với tổng kinh phí 13.692,3 triệu

đồng. Ngoài ra huyện Điện Biên Đông đã hỗ trợ giống thủy sản (334.972 con

cá) cho 715 hộ; huyện Tủa Chùa hỗ trợ máy móc công cụ sản xuất bảo quản

chế biến nông sản cho 33 nhóm hộ với kinh phí hỗ trợ 568,6 triệu đồng; riêng

năm 2013 đã hỗ trợ 108 tấn giống cây trồng cho 387 hộ với kinh phí thực hiện

2.301,6 triệu đồng, trong đó: huyện Điện Biên Đông hỗ trợ cho 149 hộ với

kinh phí thực hiện 906 triệu đồng; huyện Mường Nhé hộ trợ cho 238 hộ với

kinh phí thực hiện 895,6 triệu đồng; huyện Mường Ảng 500 triệu đồng; hỗ trợ

chăn nuôi các huyện nghèo đã triển khai hỗ trợ 4.387 con trâu, bò và 333 con

dê với tổng kinh phí đã thực hiện là 51.557,7 triệu đồng. Hỗ trợ làm chuồng

trại chăn nuôi hoặc tạo diện tích nuôi trồng thủy sản cho 2.867 hộ với

2.801,48 triệu đồng; hỗ trợ để tiêm phòng đối với gia súc, gia cầm với kinh

phí thực hiện 41,54 triệu đồng, cụ thể: trong 4 năm (2009-2012): Các huyện

nghèo đã hỗ trợ 3.354 con trâu, bò với kinh phí 36.750,4 triệu đồng. Hỗ trợ

làm chuồng trại chăn nuôi hoặc tạo diện tích nuôi trồng thủy sản cho 2.616 hộ

với 2.752,5 triệu đồng. Hỗ trợ để tiêm phòng đối với gia súc, gia cầm với kinh

phí thực hiện 41,54 triệu đồng; riêng năm 2013, các huyện nghèo đã hỗ trợ

1.033 con trâu, bò cho 1.033 hộ với tổng kinh phí thực hiện 13.472,9 triệu

đồng; huyện Điện Biên Đông hỗ trợ 333 con dê cho 325 hộ với kinh phí thực

hiện 1.334,4 triệu đồng; huyện Tủa Chùa hỗ trợ 251 hộ mua giống cỏ chăn

nuôi gia súc với kinh phí thực hiện 48,98 triệu đồng [37, tr.8-9]..

59

Hỗ trợ vay vốn tín dụng ưu đãi: trong 05 năm (2009-2013), các huyện

nghèo đã cho 13.079 hộ nghèo vay vốn tín dụng ưu đãi với số tiền cho vay

79.280 triệu đồng, cụ thể: Từ năm (2009-2012), đã cho 12.354 hộ nghèo vay

vốn tín dụng ưu đãi (lãi xuất 0%), số kinh phí cho vay 75.655 triệu đồng; năm

2013, huyện Tủa Chùa cho 725 hộ nghèo vay vốn để phát triển chăn nuôi số

tiền cho vay 3.625 triệu đồng.

Hỗ trợ hoạt động khuyến nông, lâm, ngư: trong 05 năm (2009-2013), các

huyện nghèo đã hỗ trợ 3.190 hộ về giống, vật tư, xây dựng mô hình khuyến

nông, khuyến lâm, khuyến ngư, với tổng kinh phí 9.157,41 triệu đồng trong đó:

4 năm (2009-2012) hỗ trợ 2.998 hộ về giống, vật tư, xây dựng mô hình khuyến

nông, khuyến lâm, khuyến ngư, với tổng kinh phí 7.769,2 triệu đồng. Riêng năm

2013, huyện Mường Nhé đã có 44 hộ tham gia xây dựng mô hình trồng cam với

diện tích 14,7 ha, tổng kinh phí: 564,090 triệu đồng. Huyện Điện Biên Đông hỗ

trợ 51,6 ha giống táo mèo cho 148 hộ với tổng kinh phí 824,12 triệu đồng.

Hỗ trợ khác: Trong 05 năm (2009-2013) các huyện còn thực hiện hỗ trợ

một số nội dung khác cho nhân dân, cụ thể: Huyện Mường Ảng: hỗ trợ máy

nông cụ cho các xã ngoài chương trình 135 được 385 hộ với số tiền là 400

triệu đồng gồm: 12 máy tuốt lúa, 06 máy tẽ cà phê; huyện Tủa Chùa hỗ trợ 7

nhóm hộ với kinh phí hỗ trợ 568,6 triệu đồng. Huyện Mường Nhé đã thực

hiện phân bổ 2.900 triệu đồng để thực hiện hỗ trợ gạo cho 913 hộ nghèo ở các

bản giáp biên giới trong thời gian chưa tự túc được lương thực với 4.904 nhân

khẩu (mức hỗ trợ 15kg/khẩu), tổng số gạo đã thực hiện hỗ trợ 73,560 tấn,

kinh phí thực hiện 1.039,84 triệu đồng [37, tr.10].

Như vậy, qua rà soát tất cả các hạng mục đầu tư hỗ trợ tại các huyện

nghèo theo tinh thần Nghị quyết 30a của Chính phủ cho thấy phần lớn nguồn

kinh phí hỗ trợ tập trung vào đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: với tổng số vốn

đầu tư là 626.681 triệu đồng, đầu tư cho 168 công trình, trong đó: y tế 02 công

trình, giáo dục: 13 công trình, giao thông: 45 công trình, thủy lợi: 56 công

trình, điện sinh hoạt: 01 công trình; riêng năm 2013, tổng số vốn giao đầu tư là

60

107.181 triệu đồng, đã giao chi tiết cho 51 danh mục công trình (có 41 dự án

bố trí vốn thanh toán dứt điểm, 10 dự án tiếp chi, không có dự án khởi công

mới). Kết quả các huyện đã giải ngân được 86,448 tỷ đồng, đạt 80,7% kế hoạch

vốn năm 2013 (cao nhất là huyện Tủa Chùa, giải ngân đạt 94,5% kế hoạch;

thấp nhất là huyện Mường Ảng, giải ngân đạt 56,2% kế hoạch).

Hiệu quả triển khai, thực hiện từ các chương trình, dự án tại tỉnh Điện

Biên nói chung và các huyện nghèo nói riêng trong những năm qua đã phát

huy tác dụng, thể hiện rõ nét nhất là tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn các huyện

nghèo giai đoạn 2009 – 2010 đã giảm từ 57,5% xuống còn 47,96% (theo

chuẩn cũ). Trong 03 năm tiếp theo (2011-2013), tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện

nghèo giảm từ 70,44% năm 2010 xuống còn 50,92% năm 2013 (giảm

19,52%) bình quân mỗi năm giảm 6,5% tỷ lệ hộ nghèo. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ

nghèo của các huyện nghèo mới đạt 49,85% so với mục tiêu đến năm 2015

theo Nghị quyết 30a (Mục tiêu đến 2015 các huyện nghèo phải giảm xuống

ngang bằng mức trung bình của tỉnh là 31,29%). Để đạt mục tiêu theo Nghị

quyết 30a các chương trình, dự án triển khai tại các huyện nghèo cần phải

được thực hiện đồng bộ, [37, tr.12-13].

Tám là, Chương trình xây dựng nông thôn mới

Xây dựng nông thôn mới được cấp ủy, chính quyền các cấp tập trung chỉ

đạo theo Nghị quyết của Tỉnh ủy (số 03-NQ/TU, ngày 18-11-2011). Đã triển

khai thực hiện xây dựng quy hoạch nông thôn mới với 98/98 xã, trong đó có

41 xã đã được phê duyệt quy hoạch (huyện Điện Biên 02 xã, Mường Chà 14

xã, Mường Ảng 05 xã, Tuần Giáo 07 xã, Điện Biên Đông 13 xã); có 19 xã

triển khai lập đề án xây dựng nông thôn mới cấp xã. Đến hết năm 2013, 100%

số xã thực hiện xong quy hoạch; tập trung đối với 20 xã được chọn xây dựng

điểm giai đoạn 2011- 2015 và 29 xã thuộc đề án xây dựng nông thôn mới

vùng đồng bào dân tộc ít người khu vực biên giới (huyện Mường Nhé). Đã

chỉ đạo thực hiện lồng ghép các nguồn vốn để xây dựng kết cấu hạ tầng nông

thôn, xác định đây là khâu đột phá trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn

61

các huyện nghèo. Xây dựng nông thôn mới của tỉnh mới đạt kết quả bước đầu

quan trọng, tuy nhiên còn gặp nhiều khó khăn trong lãnh đạo, chỉ đạo thực

hiện chương trình này.

Thứ tư: Kết quả đảm bảo mức tối thiểu một số dịch vụ xã hội cơ bản cho

người dân, đặc biệt là người nghèo, dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh

khó khăn.

Một là, đảm bảo giáo dục tối thiểu: Giai đoạn 2006 - 2010 Cùng với

việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, các chính sách miễn giảm học phí,

trợ cấp sách giáo khoa, giấy, vở viết, trợ cấp học bổng, hỗ trợ học sinh thuộc

hộ nghèo đi học được triển khai đồng bộ; hàng năm có trên 110.000 học sinh

được hỗ trợ với tổng kinh phí hỗ trợ là 129.440 triệu đồng. Trong 2 năm

(2011 - 2012), đã hỗ trợ 129.602 triệu đồng để miễn giảm học phí, hỗ trợ chi

phí học tập, trợ cấp học bổng và hỗ trợ tiền ăn cho học sinh bán trú.

Số học sinh năm học 2013-2014 ước tính 156.360 học sinh, tăng 15.336

học sinh so với năm học 2010- 2011. Tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi ra lớp mẫu giáo

đạt 98,9%, tăng 3,9% so với năm học 2010-2011; tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào

lớp 1 đạt 99,8%, tăng 0,7% so với năm học 2010-2011; trẻ 6-10 tuổi học tiểu

học đạt 99,7% tăng 0,5% so với năm học 2010-2011; Tỷ lệ huy động trẻ 11

tuổi vào lớp 6 đạt 87,6%, tăng 1,6% so với năm học 2010-2011; học sinh 11-

14 tuổi học THCS đạt 88,1%, tăng 3% so với năm học 2010-2011; Tỷ lệ trẻ 15

tuổi vào lớp 10 đạt 51,5%, tăng 0,7% so với năm học 2010-2011 [35, tr.14].

Hai là, đảm bảo y tế tối thiểu: kết quả thực hiện mục tiêu về bảo vệ,

chăm sóc sức khỏe nhân dân được tập trung chỉ đạo, người dân được thụ

hưởng từ nhiều chương trình, dự án về y tế. Đến hết năm 2013 các huyện

nghèo đã có 14,6% số trạm y tế xã đạt bộ tiêu chí quốc gia y tế xã (theo chuẩn

mới), trong đó 24,6% số trạm y tế xã có bác sỹ, tăng 8,5%; tỷ lệ bác sỹ /vạn

dân 8,44, tăng 2,65 so với năm 2010. Các mục tiêu bảo vệ và chăm sóc trẻ em

được triển khai thực hiện đồng bộ và đạt kết quả cao. Các mục tiêu chương

trình y tế quốc gia, các hoạt động phòng chống dịch bệnh ở người, không để

62

xảy ra dịch lớn, đảm bảo các điều kiện và sẵn sàng lực lượng ứng phó với

dịch khi có tình huống khẩn cấp. Chất lượng khám chữa bệnh tại các cơ sở y

tế từng bước được nâng lên. Tổng số lượt khám bệnh trong năm đạt 914,14

ngàn lượt người, đạt 100% kế hoạch, giảm 2,5% so với năm 2012; điều trị nội

trú cho 69,24 ngàn lượt người, đạt 100% kế hoạch, giảm 8,7% so với năm

trước; điều trị ngoại trú cho 5,42 ngàn lượt người, đạt 89,7% kế hoạch, giảm

0,2% so với năm 2012. Công suất sử dụng giường bệnh đạt 90%.

Công tác tuyên truyền về dân số - kế hoạch hóa gia đình được chú trọng,

tập trung ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng có mức sinh cao. Trong năm

2013, đã tổ chức các chiến dịch “Tăng cường đưa dịch vụ chăm sóc sức khỏe

sinh sản đến vùng khó khăn, có mức sinh cao” tại 67 đơn vị xã của các huyện.

Dân số trung bình tỷ lệ tăng tự nhiên 16,8%o, mức giảm tỷ lệ sinh 0,7%o, đạt

mục tiêu kế hoạch đề ra.

Công tác Bảo vệ và chăm sóc trẻ em luôn được các cấp, các ngành và cộng

đồng quan tâm chăm lo. Đến cuối năm 2013 có 25/62 xã, thị trấn đạt tiêu chuẩn

phù hợp với trẻ em, đạt 40% tổng số xã. Công tác khám chữa bê ̣nh cho trẻ em

khuyết tâ ̣t được triển khai tích cực, đã tổ chức khám sàng lọc cho 577 em, trong

đó có 199 em đủ điều kiện phẫu thuật miễn phí. Đã khám điều trị tim bẩm sinh

cho trên 2.000 lượt trẻ em, chỉ định phẫu thuật cho 46 em. Thực hiện tốt nhiệm

vụ chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tại 2 cơ sở là Trung tâm Bảo

trợ xã hội 83 cháu và Làng trẻ em SOS Điện Biên Phủ 127 cháu [35, tr.13].

Ba là, đảm bảo nhà ở tối thiểu: Thực hiện theo Quyết định 167/2008/QĐ-

TTg: đến nay, tổng số hộ nghèo đã được phê duyệt hỗ trợ nhà ở là 13.436 hộ;

số hộ số hộ thực tế phải hỗ trợ là 13.335 hộ, giảm 101 hộ (do không có nhu

cầu) Huyện Mường Nhé 13 hộ không nhận tiền hỗ trợ làm nhà, nguyên nhân là

do chưa ổn định chỗ ở, còn tư tưởng di cư nơi khác; Huyện Mường Ảng 27 hộ

thuộc hộ di dời tái định cư để xây dựng hồ Ẳng Cang; Huyện Điện Biên Đông

61 hộ không nhận tiền làm nhà vì đã nhận hỗ trợ từ các nguồn vốn khác, số hộ

đã được hỗ trợ là 13.251 hộ đạt 99,37%; nguồn vốn huy động hỗ trợ 306,477 tỷ

63

đồng; giải ngân 299,321 tỷ đồng, đạt 97,6%. Trong đó, vốn Nhà nước hỗ trợ

110,884 tỷ đồng; vốn các tổ chức xã hội 97,348 tỷ đồng; vốn ưu đãi từ Ngân

hàng Chính sách xã hôi 98,244 tỷ đồng [34, tr.9]. Đồng thời đã thực hiện hỗ trợ

nhà ở cho hộ nghèo. Các huyện nghèo đã hoàn thành trên 99,35% (số thực tế

cần hỗ trợ), với 8.655 hộ/ 8.711 hộ hoàn thành nhà ở; bao gồm: [37, tr.13]

+ Huyện Điện Biên Đông: 2.644 hộ/2.644 hộ đạt 100%

+ Huyện Tủa Chùa: 1.299 hộ/1.299 hộ đạt 100%

+ Huyện Mường Ảng 1.129 hộ/1.129 hộ đạt 100%

+ Huyện Mường Nhé: 3.583 hộ/3.639 hộ đạt 98,46%

Bốn là, đảm bảo nước sạch: Cải thiện cơ bản tình hình sử dụng nước sạch

của dân cư, đặc biệt là dân nông thôn, vùng dân tộc thiểu số. Giải quyết cơ bản

tình trạng thiếu nước sinh hoạt ở những vùng khó khăn, vùng núi cao. Từ nguồn

vốn JICA (Nhật Bản) trong 5 năm qua đã xây dựng hoàn thành 3 nhà máy cấp

nước ở các huyện Tuần Giáo (công suất 2.500m3/ngày đêm), Tủa Chùa (công

suất 1.500m3/ngđ), Mường Chà (công suất 1.000m3/ngđ); hiện đang triển khai

xây dựng Nhà máy nước thị trấn Điện Biên Đông (công suất 1.000m3/ngđ), Công

trình cấp nước trung tâm huyện lỵ Mường Nhé, Dự án cấp nước cho đô thị

Mường Lay bằng nguồn vốn tái định cư. Các công trình cấp nước sinh hoạt cho

đồng bào vùng cao trong giai đoạn vừa qua tích cực được triển khai bằng nhiều

chương trình, dự án như: Chương trình 134 đầu tư 321 công trình phục vụ cho

8.914 hộ; Chương trình 135 đầu tư 60 công trình, Chương trình phát triển kinh tế -

xã hội vùng cao 132 công trình, chương trình Nước sạch vệ sinh môi trường 79

công trình. Chính nhờ các chương trình, dự án về nước sạch đã đảm bảo cho

người dân nơi đây được sử dụng nguồn nước sạch ngày một tăng, đến nay đã có

90% người dân đươc dùng nước sạch [35, tr.11].

Năm là, đảm bảo thông tin: Phong trào xây dựng gia đình văn hoá, thôn,

bản, tổ dân phố, đơn vị văn hoá triển khai rộng rãi, được nhân dân hưởng ứng.

Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thư viện, báo chí, xuất bản, bảo tàng... đáp ứng

ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Cụ thể năm 2013, tỷ

64

lệ hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa tại các huyện nghèo chiếm 57%, tăng 0,85%

so với năm 2010; tỷ lệ thôn, bản, tổ dân phố đạt tiêu chuẩn văn hóa chiếm 41,7%,

tăng 4,45% so với năm 2010; tỷ lệ cơ quan, đơn vị doanh nghiệp, trường học đạt

tiêu chuẩn văn hóa chiếm 84,95%, tăng 0,18% so với năm 2010. Công tác phát

thanh - truyền hình được mở rộng mạng phủ sóng và tăng thời lượng, đổi mới nội

dung, chương trình phát thanh, truyền hình; tỷ lệ dân cư được sử dụng dịch vụ

tăng lên. Đến hết năm 2013, tỷ lệ hộ dân có máy thu hình và được xem truyền

hình đạt 72%, tăng 07% so với năm 2010; 100% số hộ nghe được Đài tiếng nói

Việt Nam [35, tr.14-15].

Thực hiện đồng bộ các chính sách ASXH trong những năm qua tại các

huyện nghèo tỉnh Điện Biên là sự cố gắng nhất lớn của cả hệ thống chính trị từ

tỉnh đến thôn, bản; cùng với nguồn vốn hỗ trợ của Chính phủ, sự hỗ trợ, giúp đỡ

của các doanh nghiệp, ngân hàng trong nước, tổ chức quốc tế và sự cố gắng thoát

nghèo của người dân. Chính vì vậy, đời sống kinh tế - xã hội của người dân huyện

nghèo được nâng lên từng bước, diện mạo nông thôn ngày một phát triển…

* Nguyên nhân của những thành tựu

Một là, Nhà nước có chủ trương, chính sách kịp thời, phù hợp

Chính phủ đã ban hành hệ thống chính sách về giảm nghèo toàn diện

cho các huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn, hộ nghèo. Một số

chương trình lồng ghép như: Các chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội,

các chính sách hỗ trợ cho hộ nghèo... được triển khai đồng bộ, tập trung, có

hiệu quả.

Hai là, sự lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện kiên quyết, có hiệu quả

Sự chỉ đạo, lãnh đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, triển khai đồng bộ, xây

dựng lộ trình, kế hoạch cụ thể của các cấp, các ngành, thực hiện các chính

sách về ASXH; tăng cường tuyên truyền, vận động, phát huy sức mạnh tổng

hợp của các cấp, các ngành, MTTQ, đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính

trị, xã hội, cùng với sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của hộ nghèo. Đã huy động

5.420,1 tỷ đồng cho chương trình XĐGN; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh

65

tế, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển

kinh tế - xã hội, cải thiện điều kiện sản xuất, tạo việc làm và nâng cao đời

sống cho nhân dân.

Ba là, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân

Luôn phát huy vai trò làm chủ của người dân từ khâu xây dựng kế

hoạch, đến tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá hiệu quả của các Chương

trình ASXH tại các huyện nghèo.

Bốn là, nguồn lực đảm bảo ASXH ngày càng có hiệu quả

Nguồn ngân sách dành cho các chương trình, dự án đảm bảo ASXH tại

các huyện nghèo của tỉnh Điện Biên ngày càng lớn và đạt hiệu quả cao, ngoài

ra không chỉ nguồn ngân sách Nhà nước hỗ trợ mà còn các tổ chức kinh tế

trong nước, các tổ chức nước ngoài như: UNICEF tài trợ dự án Bạn hữu trẻ

em đến trường, Đan Mạch và Liên minh Châu âu tài trợ dự án Các cộng đồng

phát triển kinh tế hợp tác trong xóa đói giảm nghèo, Úc - Đan Mạch – Hà Lan

đồng tài trợ Chương trình nước sach và về sinh moi trường nông thôn… (tính

đến nay toàn tỉnh Điện Biên có 58 chương trình, dự án về ASXH). Có thể nói

đây là nguồn lực vô cùng lớn để Điện Biên thực hiện tốt việc đảm bảo ASXH

trên địa bàn các huyện nghèo trong thời gian qua.

2.2.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

* Tồn tại, hạn chế

Thành tựu đảm bảo ASXH các huyện nghèo tỉnh Điện Biên trong

những năm qua đã góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững và thực hiện công

bằng xã hội được nâng lên một bước. Tuy nhiên, kết quả đảm bảo ASXH

chưa vững chắc, chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa

được thu hẹp, đặc biệt là ở những huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao;

Một là, chính sách về thị trường lao động: Nhận thức của một bộ phận

thanh niên và xã hội về dạy nghề còn thiên lệch, ít coi trọng học nghề để lập

thân, lập nghiệp. Phát triển thị trường lao động tại các huyện nghèo, nhất là các

xã, thôn, bản nghèo còn chưa theo kịp quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ

66

cấu kinh tế. Thiếu đồng bộ, không thống nhất giữa các chính sách tăng trưởng

kinh tế và việc làm, thị trường lao động; các chính sách kinh tế thường thiếu

định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành gắn với nhu cầu lao động và đào tạo lao

động tương ứng .

Nhận thức về phát triển nguồn nhân lực, dạy nghề ở một số địa phương

còn coi nhẹ; việc đào tạo, dạy nghề chưa gắn với nhu cầu sử dụng lao động

trong sản xuất, đặc biệt trong điều kiện các huyện nghèo của tỉnh Điện Biên

chủ yếu người dân tham gia sản xuất nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, ít

tham gia vào hoạt động dịch vụ, sản xuất công nghiệp;

Về cơ bản, thị trường lao động tại tỉnh Điện Biên vẫn là một thị trường

dư thừa lao động, chất lượng cung lao động thấp, phân bố chưa hợp lý và khả

năng di chuyển bị hạn chế. Một bộ phận lao động thiếu việc làm hoặc việc

làm không ổn định, lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp, khu vực

phi kết cấu, trong các nghề giản đơn, lao động không đòi hỏi chuyên môn kỹ

thuật chưa được bảo vệ trong thị trường lao động.

Các chính sách chưa đủ mạnh để tận dụng triệt để mọi nguồn lực cho

đầu tư phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm; nhất là thiếu chính sách khuyến

khích phát triển thị trường lao động như chính sách tiền lương, tiền công chưa

thực sự theo nguyên tắc thị trường và hiệu quả; chưa có chính sách thỏa đáng

trọng dụng nhân tài; cũng như chính sách đầu tư mạnh phát triển hệ thống

giao dịch của thị trường lao động để kết nối cung-cầu lao động.

Chưa gắn quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, nhất là phát triển kinh tế

ngành kỹ thuật, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, phát triển

doanh nghiệp với quy hoạch, kế hoạch đào tạo, dạy nghề, sử dụng lao động tại các

huyện nghèo.

Chưa có nhận thức rõ ràng về xây dựng quan hệ lao động hài hòa tại

doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường. Đặc biệt, chưa thiết lập

được cơ chế đối thoại, thương lượng và thỏa thuận thực chất giữa các bên về

67

quan hệ lao động, giải quyết tranh chấp lao động và đình công đúng với

nguyên tắc thị trường.

Hậu quả là chất lượng lao động quá thấp, thiếu nghiêm trọng lao động

kỹ thuật trình độ cao; chất lượng việc làm và năng suất lao động cũng rất

thấp, tỷ lệ thất nghiệp thanh niên rất cao; vấn đề việc làm và đời sống của lao

động nông nghiệp vùng bị thu hồi đất rất bức xúc, dòng di chuyển lao động

nông thôn-thành thị có xu hướng ngày càng tăng.

Hai là, trong chính sách BHXH: Chưa quán triệt và thực hiện đầy đủ

nguyên tắc đóng-hưởng mà còn gắn chặt việc điều chỉnh lương hưu với tiền

lương tối thiểu và hỗ trợ từ ngân sách nhà nước; nhận thức chưa đúng về sự

khác biệt giữa BHXH khu vực hành chính, sự nghiệp và khu vực thị trường

(doanh nghiệp), nên chưa có sự tách biệt giữa 2 khu vực này.

Vấn đề xây dựng và phát triển quỹ BHXH chưa được vững chắc, có

nguy cơ mất cân đối thu-chi trong dài hạn do mô hình BHXH hiện nay chưa

hoàn chỉnh và phù hợp. Cơ chế quản lý và sử dụng quỹ BHXH chưa đảm bảo

công khai, minh bạch; chưa có đơn vị chịu trách nhiệm hoạt động đầu tư quỹ

BHXH. Cơ quan BHXH hoạt động còn mang tính hành chính, bao cấp, chưa

chuyển mạnh sang đơn vị cung cấp dịch vụ công. Tỷ lệ tham gia BHXH trên

tổng số lực lượng lao động còn thấp(18%); hơn 20% lao động trong diện BHXH

bắt buộc nhưng chưa tham gia; tỷ lệ trốn, nợ đọng BHXH còn lớn (10%).

Ba là, trong chính sách TGXH: Chưa có nhận thức thật đầy đủ về xóa

đói giảm nghèo (XĐGN) bền vững nên chưa gắn tăng trưởng kinh tế bền

vững với giảm nghèo; XĐGN chưa gắn chặt với phát triển cộng đồng và phát

triển nông thôn.

Việc chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Chương trình giảm nghèo nhanh và

bền vững của Trung ương còn chậm, phần nào ảnh hưởng đến việc triển khai

Chương trình tại tỉnh. Công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện các Chương

trình, dự án xóa đói giảm nghèo còn gặp khó khăn, khó điều hành tập trung,

68

thống nhất hoặc tạo nguồn lực tập trung, có mặt còn lúng túng như cơ chế

lồng ghép các nguồn vốn trong một Chương trình, dự án, chính sách cụ thể.

Các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo phần lớn tập trung vào đầu

tư xây dựng cơ sở hạ tầng; việc đầu tư chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi

còn ít, hiệu quả chưa cao. Nhiều mục tiêu, chỉ tiêu thuộc Chương trình giảm

nghèo do Trung ương quy định khó thực hiện hoàn thành, nhiều dự án đầu tư

cơ sở hạ tầng tại các vùng khó khăn do thiếu kinh phí thực hiện nên không

đảm bảo quy mô, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định, ảnh hưởng đến việc phục

vụ trực tiếp nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, giao thương của các hộ nghèo.

Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương liên quan cần sớm sửa đổi, bổ

sung các quy định, hướng dẫn về đầu tư, đấu thầu đảm bảo phù hợp với đặc

thù và năng lực tổ chức thực hiện ở các huyện nghèo; nhưng đến nay chưa

được triển khai thực hiện; dẫn đến các huyện nghèo gặp khó khăn trong quản

lý và thực hiện dự án đầu tư do trình độ, năng lực của cán bộ chuyên môn còn

hạn chế. Một số chính sách như ưu đãi về y tế, giáo dục vẫn chưa có hướng

dẫn cụ thể.

Có nhiều dự án hỗ trợ hộ nghèo phát triển vùng nguyên liệu về trồng

trọt, chăn nuôi, nhưng không đồng bộ với khâu chế biến, tiêu thụ sản phẩm

nên sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, vì vậy nhiều hộ không thoát nghèo

được và gặp khó khăn hơn trong cuộc sống.

Nhiều chính sách hỗ trợ còn bất cập, một số chính sách dẫn đến việc

một bộ phận người nghèo còn trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước,

chưa tự nỗ lực vươn lên thoát nghèo. Các chính sách hỗ trợ sản xuất chưa tạo

chuyển biến trong phát triển kinh tế rừng tại các hộ gia đình, mặc dù đây là

một trong nhiều thế mạnh của hầu hết các địa phương.

Việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các Chương trình, dự án giảm

nghèo tại một số địa phương, cơ sở còn một số mặt hạn chế. Công tác triển khai

một số chính sách hỗ trợ sản xuất theo Nghị quyết 30a ở các huyện nghèo còn

lúng túng như chậm triển khai giao đất, giao rừng cho nhân dân, ảnh hưởng đến

69

việc tổ chức sản xuất của nhân dân trên địa bàn. Nhiều địa phương chưa có giải

pháp phù hợp, chưa tổ chức đánh giá rút kinh nghiệm thường xuyên để thực

hiện có hiệu quả hơn.

Nhận thức của các cấp về TGXH chưa đầy đủ và toàn diện. Khung

pháp lý cho công tác TGXH còn nhiều bất cập và thể chế hóa ở mức thấp

(pháp lệnh); chưa có chính sách khuyến khích chăm sóc đối tượng dựa vào

cộng đồng; chưa có cơ chế thống nhất quản lý quỹ huy động trong dân cho

TGXH, cơ chế tài chính chưa rõ ràng; mức trợ cấp xã hội của Nhà nước còn

thấp, mới đáp ứng được 60% mức sống tối thiểu của đối tượng.

Chưa phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ TGXH phù hợp với cơ chế

thị trường (cung cấp dịch vụ công). Kết quả XĐGN chưa vững chắc, Qua 05

năm triển khai thực hiện Nghị quyết 30a, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn các

huyện nghèo đã giảm từ 57,5% xuống còn 47,96% (theo chuẩn cũ giai đoạn

2009 - 2010). không có huyện nào giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 40% theo

chỉ tiêu Nghị quyết 30a. Theo tiêu chuẩn mới 03 năm (2011-2013), tỷ lệ hộ

nghèo tại các huyện nghèo giảm từ 70,44% năm 2010 xuống còn 50,92%

năm 2013 (giảm 19,52%) bình quân mỗi năm giảm 6,5% tỷ lệ hộ nghèo đạt

162% so với mục tiêu của Nghị quyết 30a (mục tiêu của Nghị quyết giảm

bình quân 4%/năm). Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo của các huyện nghèo mới đạt

49,85% so với mục tiêu đến năm 2015 (Mục tiêu đến 2015 các huyện nghèo

phải giảm xuống ngang bằng mức trung bình của tỉnh là 31,29%) [34, tr13].

* Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

- Nguyên nhân khách quan

Một là, điều kiện tự nhiên, thiên tai khắc nghiệt

Các huyện nghèo tỉnh Điện Biên chủ yêu ở vùng xâu, vùng xa, diện tích

đất tự nhiên cao, được cấu tạo bởi những dãy núi chạy dài, lại cách xa các

trung tâm kinh tế lớn của cả nước; các huyện nghèo chủ yếu có vị trí địa hình

hiểm trở, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt thường xuyên xảy ra các thiên tai,

dịch họa: lũ quét, lũ ống, ngập lụt dẫn đến tình trạng mất mùa, bị lũ cuốn trôi

70

các tài sản, nhà cửa; hiện tượng di dân, di cư tự do, tuyên truyền đạo trái pháp

luật còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị trong đời sống xã hội... chính

vì vậy đã ảnh hưởng rất lớn đến đảm bảo ASXH nơi đây.

Hai là, điều kiện kinh tế

Kinh tế các huyện nghèo của tỉnh Điện Biên có xuất phát điểm thấp, cơ

cấu kinh tế chuyển dịch chưa mạnh, hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ,

các dịch vụ, điều kiện sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu; cơ sở vật chất kỹ

thuật, kết cấu hạ tầng nông thôn chưa bền vững, do đặc thù địa bàn rộng, chủ

yếu là đồi núi chia cắt, kết cấu hạ tầng kỹ thuật còn yếu kém, nên suất đầu tư

cho các công trình tại địa bàn các vùng sâu, vùng cao, biên giới của huyện

thường cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Bên cạnh đó, trong những

năm qua tình hình kinh tế trong nước khó khăn, ngân sách Trung ương phân bổ

cho các Chương trình giảm nghèo chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tế, nên các

công trình cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư đồng bộ, nhất là các công trình giao

thông, điện, thông tin liên lạc... vì vậy chưa tạo ra động lực, cơ hội rõ rệt cho

những huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn phát triển kinh tế - xã hội và giúp các

hộ nghèo vươn lên thoát nghèo.

- Nguyên nhân chủ quan

Một là, một số chủ trương, chính sách chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập

Chính phủ, các Bộ, ngành ở Trung ương ban hành nhiều chủ trương,

chính sách, chương trình về ASXH, tuy nhiên khi triển khai thực hiện tại cơ

sở đã phát sinh nhiều bất cập, như: chưa bao quát toàn diện công tác giảm

nghèo; các chính sách, dự án, chương trình giảm nghèo ban hành nhiều nhưng

lại mang tính ngắn hạn, chồng chéo, chưa tạo sự gắn kết chặt chẽ nên chưa tác

động tích cực vào đời sống; Các Chương trình, dự án, chính sách về giảm

nghèo theo Trung ương quy định điều hành theo cơ chế riêng với nhiều đầu

mối quản lý khác nhau ở các Bộ, ngành Trung ương. Mục tiêu, chỉ tiêu đề ra

trong các Chương trình giảm nghèo cao, nhưng nguồn kinh phí thực hiện do

71

Trung ương phân bổ chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tế, nhất là tại các huyện

nghèo tỉnh Điện Biên có địa hình phức tạp chi phí đầu tư, vận chuyển lớn hơn

so với dự kiến của Trung ương.

Hai là, nguồn lực thực hiện mục tiêu giảm nghèo còn phân tán, dàn

trải, chưa tập trung ưu tiên để giải quyết những vấn đề bức xúc nhất, địa

bàn trọng điểm nhất

Nhiều chính sách hỗ trợ còn bất cập, mang tính bao cấp, mức hỗ trợ

hoặc đối tượng áp dụng chưa phù hợp, chưa ưu tiên đến chính sách hỗ trợ

tiêu thụ sản phẩm các hộ nghèo làm ra tại các vùng khó khăn, điển hình như:

+ Các chính sách hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ con giống, cây trồng, vật nuôi

kéo dài dễ nảy sinh tư tưởng ỷ lại, không muốn nỗ lực phấn đấu vươn lên

thoát nghèo của các hộ nghèo;

+ Chính sách bảo vệ và phát triển rừng nguồn lực huy động còn hạn

chế, mức hỗ trợ đầu tư cho trồng rừng, bảo vệ rừng và khoanh nuôi tái sinh

còn thấp, chưa phù hợp, chưa tạo thu nhập đảm bảo cuộc sống cho người dân;

+ Chính sách miễn, giảm học phí chỉ quy định áp dụng cho đối tượng là

trẻ em học mẫu giáo và học sinh, sinh viên có cha mẹ thường trú tại các xã

biên giới, vùng cao và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;

các đối tượng còn lại cư trú tại các thị trấn vùng cao không được hưởng chính

sách. Việc này dẫn đến bất cập, không đảm bảo tính công bằng, nhất quán

trong thực hiện, vì cùng thuộc một đối tượng nhưng không được hưởng cùng

chính sách do sinh sống tại các vùng, địa bàn có điều kiện khác nhau;

+ Chính sách hỗ trợ một lần để mua con giống, trồng cỏ, làm chuồng

trại cho các hộ nghèo, nhất là người dân tộc thiểu số còn có hạn chế nhất định

về mặt nhận thức do trình độ dân trí thấp, chưa thông thạo tiếng phổ thông,

nhưng năm sau không được tư vấn, hỗ trợ trực tiếp là chưa phù hợp, hạn chế

về hiệu quả thực hiện.

Ba là, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập

72

Cán bộ cơ sở chưa chủ động đề xuất, hướng dẫn cho nhân dân phương

án tổ chức sản xuất có hiệu quả, phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của từng

vùng và nhu cầu thực tế của thị trường; chưa chủ động đề xuất phương án hỗ

trợ tiêu thụ sản phẩm mà người dân làm ra; Chưa chủ động tham mưu cho các

cấp lãnh đạo giải pháp cụ thể tận dụng, phát huy các nguồn vốn theo điều kiện

ngân sách Trung ương cấp hàng năm để tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế -

xã hội tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh nhằm đạt

hiệu quả cao nhất trong xóa đói giảm nghèo. Chưa tham mưu giải pháp hỗ trợ,

bố trí đủ kinh phí cho cấp huyện để tổ chức điều tra, rà soát hộ nghèo hàng

năm, việc này dẫn đến công tác triển khai điều tra, rà soát hộ nghèo tại các địa

phương, cơ sở chất lượng chưa cao.

Bốn là, công tác tuyên truyền, giáo dục còn hạn chế

Công tác tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho người

dân về những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà về công tác ASXH

(các chính sách, chương trình, đề án) về mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền

vững, nhằm khơi dậy được ý thức tự giác vươn lên của người nghèo chưa tích

cực và có hiệu quả. Bên cạnh đó còn nhiều người dân chưa nhận thức hết ý

nghĩa tầm quan trọng của việc xóa đói giảm nghèo nên vẫn còn biểu hiện

trông chờ, ỷ lại, không trung thực khai báo tài sản và các nguồn thu nhập,

chưa quyết tâm vươn lên thoát nghèo; một bộ phận dân cư muốn vào diện hộ

nghèo để thụ hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước.

2.3. Những vấn đề đặt ra và cần giải quyết

2.3.1. Mâu thuẫn giữa nhu cầu rất lớn với khả năng thực tế có hạn

trong đảm bảo An sinh xã hội tại các huyện nghèo

Mức độ bền vững về tài chính, tính liên kết giữa các chế độ, chính sách

ASXH còn nhiều bất cập. Nguồn ngân sách của các huyện nghèo có hạn tuy

nhiên nhu cầu tài chính cho đảm bảo an sinh xã hội rất lớn. Thực tế hiện nay,

khoảng trên 90% ngân sách Trung ương hỗ trợ hàng năm nên việc bố trí kinh

73

phí từ ngân sách tỉnh, ngân sách từ huyện xuống thôn, bản gặp khó khăn,

nguồn kinh phí bố trí còn hạn hẹp, không đáp ứng đủ nhu cầu thực tế trong

triển khai các Chương trình, dự án giảm nghèo trên địa bàn.

Sự phân hóa nhanh, mạnh trong nền kinh tế thị trường đã làm cho các

nhóm xã hội yếu thế trở nên dễ bị tổn thương hơn do hạn chế về khả năng

cạnh tranh, phòng ngừa rủi ro trên thương trường, ngược lại nguồn lực để

thực hiện an sinh xã hội còn hạn chế.

2.3.2. Mâu thuẫn giữa đòi hỏi sự phát triển nhanh chóng của An

sinh xã hội với trình độ năng lực tổ chức, quản lý của cán bộ cơ sở

Các chương trình, dự án đảm bảo ASXH ngày càng phát triển và phong

phú, nhưng năng lực, trình độ của cán bộ cơ sở chỉ đáp ứng được một phần trong

đảm bảo ASXH; theo như kết quả điều tra của Sở kế hoạch đầu tư của tỉnh Điện

Biên và tổ chức UNICEFđến nay tổng số các chương trình, dự án hiện đang thực

hiện 58. Như vậy để tổ chức, thực hiện các chương trình, dự án cần bố trí số lượng

cán bộ có trình độ chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm và đội ngũ cán bộ, quản

lý có đủ năng lực điều hành các bước của chương trình, trong khi đó điều kiện địa

hình và thổ nhưỡng các huyện nghèo vô cùng phức tạp, hiểm trở nên rất khó tổ

chức thực hiện…

Các lĩnh vực đầu tư liên quan đến nhiều lĩnh vực: xây dựng cơ bản, lập dự

toán đầu tư…, trong khi đó thực hiện việc này chủ yếu các cán bộ cơ sở thôn, bản

đều chưa có trình độ chuyên môn sâu, năng lực quản lý điều hành nhiều hạn chế,

một số cán bộ cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong quá trình thực hiện.

2.3.3. Mâu thuẫn giữa chính sách của nhà nước trong công tác An

sinh xã hội với điều kiện thực tế tại các huyện nghèo

Hệ thống chính sách, luật pháp về ASXH hiện nay không theo kịp với

đòi hỏi của nền kinh tế và tiến trình hội nhập quốc tế. Xu hướng già hoá dân

số cũng đang và sẽ đặt ra nhiều khó khăn cho hệ thống ASXH, tạo áp lực lớn

74

lên hệ thống y tế, bảo hiểm xã hội (BHXH), các dịch vụ chăm sóc xã hội cho

người cao tuổi.

Các dòng di chuyển việc làm, di chuyển lao động diễn ra với cường độ

ngày càng mạnh, tạo áp lực lớn cho việc bảo đảm quyền và cơ hội tiếp cận

các dịch vụ xã hội cơ bản, quyền thụ hưởng các chính sách ASXH của các

nhóm dân cư dễ bị tổn thương.

Các Chương trình, dự án, chính sách về giảm nghèo theo Trung ương

quy định điều hành theo cơ chế riêng với nhiều đầu mối quản lý khác nhau ở

các Bộ, ngành Trung ương. Mục tiêu, chỉ tiêu đề ra trong các Chương trình

giảm nghèo cao, nhưng nguồn kinh phí thực hiện do Trung ương phân bổ

chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tế, nhất là tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên

có địa hình phức tạp chi phí đầu tư, vận chuyển lớn hơn so với dự kiến.

2.3.4. Mâu thuẫn giữa các nguồn lực tham gia hỗ trợ với chính bản

thân những đối tượng được thụ hưởng hỗ trợ

Kinh phí của nhà nước và các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng, ngân

hàng tương đối lớn, nhiều chương trình dự án đầu tư các tiện ích công cộng

đáp ứng nhu cầu tối thiểu của người dân nghèo, tuy nhiên sự cố gắng, ý thức

vươn lên thoát nghèo của bộ phận người dân chưa thật sự được nâng cao, còn

ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong nước, cũng

như nước ngoài

Trong bối cảnh nguồn lực tài chính quốc gia còn khó khăn, hạn chế,

cùng với việc cải cách các cơ chế, chính sách về ASXH, vấn đề đảm bảo nguồn

lực tài chính lâu dài, bền vững và cơ chế quản lý tài chính phù hợp cho các hoạt

động ASXH đã và đang trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm cấp

bách đối với nền kinh tế trong những năm tới. Theo kinh nghiệm của các nước

trên thế giới, nhu cầu nguồn lực cho hệ thống ASXH sẽ ngày càng tăng cao

cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là sự gia tăng của tiền

lương, thu nhập và mức sống.

75

*

* *

Tựu chung lại, đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo của tỉnh Điện Biên

trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Các chương trình,

dự án đảm bảo ASXH ngày càng đồng bộ và hoàn thiện với số người dân tại các

huyện nghèo được giải quyết việc làm ngày tăng; số người tham gia BHXH

ngày càng lớn, diện bao phủ không ngừng được mở rộng; chính sách trợ giúp xã

hội và hỗ trợ giảm nghèo được triển khai đạt hiệu quả cao, tỷ lệ hộ nghèo tại các

huyện nghèo đã giảm đáng kể; đảm bảo mức tối thiểu một số dịch vụ xã hội cơ

bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, dân tộc thiểu số và người có hoàn

cảnh khó khăn. Từ những thành tựu trên đời sống vật chất và tinh thần của nhân

dân tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên không ngừng được cải thiện; công tác

ASXH nơi đây đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nghèo và đối tượng dễ

bị tổn thương trong xã hội, góp phần hình thành xã hội không còn nhóm xã hội

bị loại trừ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển toàn diện.

Tuy nhiên việc đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo của tỉnh Điện Biên cũng

còn rất nhiều khó khăn, hạn chế bất cập mà trong thời gian tới phải xác đinh

đúng các vấn đề nóng bỏng, cấp thiết nhưng đồng thời có ý nghĩa cơ bản, lâu

dài, tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức quản lý để thực hiện có hiệu quả

làm cơ sở cho sự phát triển bền vững.

76

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI CÁC

HUYỆN NGHÈO TỈNH ĐIỆN BIÊN TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Những quan điểm cơ bản chỉ đạo đảm bảo An sinh xã hội các

huyện nghèo tỉnh Điện Biên

3.1.1. Phải coi đảm bảo An sinh xã hội các huyện nghèo là trách

nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội

Như đã trình bày, phân tích ở các chương trước đảm bảo ASXH ở nước

ta là một nội dung, nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp đổi mới hiện nay, có

vai trò, ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo

vệ tổ quốc. Bởi vậy đảm bảo ASXH trở thành nhiệm vụ chính trị của Đảng,

Nhà nước, toàn bộ hệ thống chính trị, là sự nghiệp của toàn dân.

Đối với các huyện nghèo của toàn quốc nói chung, cũng như của tỉnh

Điện Biên nói riêng hoạt động này càng có vai trò hết sức đặc biệt bởi vì có

giải quyết thành công những vấn đề nóng bỏng, bức xúc của lĩnh vực đảm bảo

ASXH như: xóa đói, giảm nghèo, phát triển y tế, giáo dục, nâng cao trình độ

văn hóa và dân trí, làm giảm và xóa bỏ các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc hậu

mới tạo nên những tiền đề, điều kiện quan trọng nhất để các huyện nghèo có

thể phát triển nhanh và bền vững, từng bước thu hẹp khoảng cách, tiến tới

theo kịp các địa phương, vùng miền khác trong tỉnh và cả nước. Quan điểm

này phải được nhận thức và quán triệt sâu sắc trước hết ở các cấp ủy Đảng, hệ

thống chính quyền các cấp, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị, xã hội

khác, phải trở thành mối quan tâm hàng đầu trong tổ chức, thực hiện các chủ

trương, chính sách trong hành động của một huyện nghèo, một xã nghèo...

Nhưng điều quan trọng nhất là phải làm cho mỗi người dân hiểu và thấm

nhuần được vai trò của chính họ trong thực hiện đảm bảo ASXH, để khắc

phục thói quen và tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào nhà nước và sự trợ giúp của

các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hôi. Phải cho họ nhận thức được muốn thoát

77

khỏi đói nghèo, dốt nát, lạc hậu phải bằng chính sự phấn đấu, tự lực vươn lên

của bản thân và gia đình, biết sử dụng có hiệu quả nhất các trợ giúp của xã

hội. Bởi vậy cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền bằng nhiều

con đường, hình thức, biện pháp một cách kiên trì, thường xuyên, liên tục và

đến tận nơi dân cư sinh sống, kết hợp việc giáo dục với hướng dẫn trong hoạt

động sản xuất, canh tác của người dân, phải đảm bảo có hiệu quả thực tế các

hoạt động đó để họ tin tưởng làm theo.

Tuy nhiên để thực hiện tốt các nội dung, nhiệm vụ nêu trên, các huyện

nghèo muốn giải quyết triệt để việc đảm bảo ASXH cần phải huy động sự

tham gia đóng góp của toàn thể các lực lượng trong xã hội, hay còn gọi là xã

hội hóa trong công tác đảm bảo ASXH.

3.1.2. Đảm bảo An sinh xã hội các huyện nghèo tỉnh Điện Biên phải

trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa sự nỗ lực của địa phương với sự trợ giúp

của Trung ương và các nguồn lực khác

Kết hợp giữa phát huy nội lực với các yếu tố ngoại lực, trong đó nội lực

giữ vai trò quyết định là một quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng ta trong toàn

bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Quan điểm này phải được quán triệt

xuyên suốt trong các hoạt động đảm bảo ASXH ở các huyện nghèo trong toàn

quốc cũng như ở tỉnh Điện Biên, nội lực ở các huyện nghèo cần được hiểu là

yếu tố lãnh đạo của tổ chức Đảng, vai trò tổ chức quản lý của chính quyền các

cấp, hành động của đồng bào các dân tộc trong việc huy động, sử dụng có

hiệu quả các nguồn lực, tiềm năng của địa phương, mà tiềm năng lớn nhất và

quý nhất là sức lao động. Nếu không tổ chức và phát huy tốt những nhân tố

tạo nên nội lực thì dù cho Nhà nước và các tổ chức kinh tế, xã hội có đầu tư

giúp đỡ bao nhiêu chăng nữa cũng sẽ không thể giải quyết cơ bản tình hình

hiện tại, càng không thể có tương lai phát triển lâu dài, bền vững, sẽ mãi mãi

là huyện nghèo và ngày càng tụt hậu.

78

Tuy nhiên trong sự nghiệp đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo ở Điện

Biên và cả nước hiện nay vai trò của Nhà nước, của các tổ chức kinh tế, xã

hội như các tập đoàn kinh tế, hệ thống Ngân hàng và tổ chức tín dụng, các tổ

chức chính trị xã hội, kể cả các tổ chức từ thiện nhân đạo quốc tế có vai trò rất

quan trọng. Nhưng sự đầu tư giúp đỡ ban đầu có ý nghĩa tạo lập các cơ sở và

điều kiện cần thiết cho các huyện nghèo có thể phát triển vì thực tế có thực

trạng xuất phát điểm còn rất thấp. Nhưng điều quan trọng nhất là chính bản

thân huyện nghèo biết kết hợp đúng đắn, có hiệu quả giữa nội lực của huyện

với những yếu tố bên ngoài. Trên hết huyện phải xác định đúng đắn những chủ

trương, định hướng các linh vực cần tập trung ưu tiên về đảm bảo ASXH, căn

cứ vào đặc điểm, khả năng và điều kiện cụ thể của mình, có kế hoạch và biện

pháp, mở rộng, thu hút sự tham gia của các đối tượng vào cung cấp các dịch vụ

ASXH, trong đó đặc biệt thu hút đầu tư các tổ chức kinh tế như: các tập đoàn

kinh tế, tổng công ty lớn, hệ thống Ngân hàng, các công ty bảo hiểm và tổ chức

quốc tế thông qua sự tư vấn, giúp đỡ của lãnh đạo và cơ quan chuyên môn ở

Trung ương, ở tỉnh. Bằng nhiều hình thức, biện pháp tổ chức để đưa các hộ gia

đình, các cá nhân và người lao động trên địa bàn huyện nghèo tham gia tích

cực vào công cuộc đảm bảo ASXH, vì đó suy cho cùng cũng chính là những

người quyết định sự thành công của đảm bảo ASXH. Trước hết trong những

năm tới cần tập trung sự nỗ lực để thu hút dân cư trong các huyện nghèo tham

gia ngày càng đông vào các hoạt động nóng bỏng, cấp thiết và bức xúc nhất

của công cuộc đảm bảo ASXH. Tuy nhiên với điều kiện, hoàn cảnh khó khăn

của các huyện nghèo cả nước nói chung, cũng như 5 huyện nghèo của tỉnh

Điện Biên nói riêng với sự giúp đỡ ban đầu của Nhà nước có ý nghĩa hết sức

quan trọng, nhất là trong việc đầu tư vào các công trình thuộc hạ tầng kinh tế -

xã hội như: hệ thống giao thông nông thôn, điện, thủy lợi, y tế, giáo dục để tạo

ra các tiền đề cần thiết cho huyện trong đảm bảo ASXH.

79

3.1.3. Đảm bảo An sinh xã hội các huyện nghèo tỉnh Điện Biên cần tập

trung vào giải quyết trước những vấn đề nóng bỏng, then chốt

Đảm bảo ASXH là lĩnh vực hoạt động rộng lớn, phức tạp vì có rất nhiều

khó khăn, đối với các huyện nghèo ở tỉnh miền núi tính chất khó khăn, phức tạp

càng tăng lên bội phần, có cả núi các công việc cần phải làm, trong đó có những

việc rất bức xúc, nóng bỏng. Nhưng vấn đề nổi cộm, cấp thiết nhất trong lĩnh

vực ASXH ở các huyện nghèo tỉnh Điện Biên hiện nay là: tình trạng đói nghèo

còn phổ biến, trình độ dân trí còn thấp, các tệ nạn xã hội, nhất là ma túy ngày

một tăng, hệ thống y tế, giáo dục thiếu đồng bộ, cơ sở vật chất xuống cấp trầm

trọng, năng lực trình độ đội ngũ bác sỹ, y tá và giáo viên còn thấp, chưa theo kịp

với nhịp độ phát triển của xã hội.

Như vậy, chỉ có tập trung mọi nỗi lực để làm thay đổi thực trạng đó một

cách có kết quả thì mới tạo ra những trạng thái mới, những điều kiện và tiền đề

cần thiết để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nói

chung và thực hiện việc đảm bảo ASXH ở các huyện nghèo nói riêng. Để tổ

chức, triển khai có hiệu quả trước hết lãnh đạo tỉnh, huyện cùng với các cơ quan

chức năng phải xác định đúng những vấn đề nóng bỏng, cấp bách; phải căn cứ

vào đặc điểm tình hình và thực trạng của địa phương mình trên cơ sở đó đề ra

những cách thức thực hiện, đặc biệt những vấn đề nóng bỏng, cấp bách nhất cần

tập trung giải quyết và nếu giải quyết thành công thì sẽ có tác động rất lớn đến

các vấn đề khác, như một sự đột phá trong đảm bảo ASXH. Trong điều kiện các

nguồn lực có hạn phải biết phân phối hợp lý và sử dụng có hiệu quả tránh tình

trạng tham nhũng, lãng phí. Trên thực tế đã có rất nhiều sự việc và bài học đã

xảy ra ở một số địa phương về các vấn đề liên quan đến đảm bảo ASXH cần

phải rút kinh nghiệm, vì những việc này đã gây ra sự lãng phí và kém hiệu quả,

ví dụ: các công trình xây dựng phục vụ tái định cư, các chương trình, dự án thủy

lợi, nước sạch, kể cả một số chương trình, dự án sản xuất nông sản, do không

nghiên cứu, điều tra thiếu căn cứ khoa học và thực tiễn hoặc do sự cẩu thả, thiếu

80

trách nhiệm của người lập quy hoạch nên không mang lại kết quả và lãng phí lớn.

Trong tổ chức thực hiện cần huy động được sự tham gia của tất cả các lực lượng

với phương châm lấy chất lượng và hiệu quả làm mục tiêu phấn đấu chứ không

chạy theo số lượng và phong trào. Điều có ý nghĩa quyết định là phải tổ chức cho

chính các đối tượng thụ hưởng các chính sách ASXH chủ động, tích cực tham gia

vào các hoạt động đó. Bởi vậy công tác giáo dục, thuyết phục với đồng bào vùng

dân tộc phải bằng nhiều hình thức kết hợp tiếp xúc trực tiếp để tuyên truyền vận

động với phát huy tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất của người dân, gắn việc

hướng dẫn kỹ thuật sản xuất, chăn nuôi với thuyết phục thực hiện các chủ trương,

nhiệm vụ chính của địa phương và hoạt đông thực tiễn mang tính thuyết phục.

Trong điều kiện các nguồn lực tại chỗ của các huyện nghèo còn đang rất

hạn chế, khó khăn để giải quyết những vấn đề nóng bỏng, bức xúc của đảm bảo

ASXH rất cần sự giúp đỡ, đầu tư, chi viện của hệ thống Nhà nước và các tổ chức

kinh tế - xã hội. Các quyết đinh đầu tư, giúp đỡ của Nhà nước và của các tổ chức

kinh tế - xã hội cũng phải được cân nhắc, tính toán đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả

mà tốt nhất là hình thành các dự án, chương trình với quy mô phù hợp có tác

dụng về lâu dài cả về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng an ninh.

3.2. Giải pháp thực hiện đảm bảo An sinh xã hội các huyện

nghèo tỉnh Điện Biên

3.2.1. Xây dựng và hoàn thiện chương trình mục tiêu An sinh xã hội

các huyện nghèo đến năm 2020

Trong nhiều năm qua trên địa bàn các huyện nghèo Nhà nước đã có nhiều

chủ trương, chính sách, chương trình để đảm bảo ASXH, ưu tiên đầu tư phát

triển kinh tế - xã hội như: Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy

nghề; chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo nhanh và bền vững;

chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo… tuy nhiên để các

chương trình, dự án phát huy hết hiệu quả trong công cuộc giảm nghèo nhanh và

81

bền vững trong thời gian tới, các huyện nghèo cần tập trung tiếp tục xây dựng và

thực hiện cải cách thể chế, đổi mới phương thức hoạt động, xây dựng kế hoạch

cụ thể, chi tiết đến từng hạng mục, nội dung hỗ trợ, khoản mục trợ giúp có như

vậy kết quả đạt được là rất lớn và mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực cho những

đối tượng thụ hưởng, để thực hiện được điều này cần có chính sách phân cấp,

trao quyền cho người dân, cộng đồng tham gia thiết kế, triển khai thực hiện và

giám sát thực hiện các chương trình, dự án để phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng

của nhân dân, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa đặc thù của từng địa

phương, nhất là các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, các dự án thủy lợi, cải tạo đồng

ruộng tại các thôn, bản. Tăng cường hoạt động tập huấn, nâng cao năng lực thiết

kế, thực hiện các chương trình, dự án cho nhân dân, nhất là người dân vùng đồng

bào dân tộc thiểu số, đi đôi với việc tăng cường kiểm tra, giám sát kết quả thực

hiện, cần nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung các chính sách cho phù hợp. Ví dụ: Thí

điểm thực hiện hình thức hỗ trợ trọn gói bằng tiền cho hộ nghèo trong sản xuất

lúa nương, sản xuất cây ngô...

Hình thành cơ quan, tiểu ban quản lý chương trình theo chuyên môn, lĩnh

vực, giảm các đầu mối quản lý (ví dụ: trong chính sách giáo dục và đào tạo nên

chỉ giao cho ngành giáo dục và đào tạo thực hiện, trong chính sách về lao động,

việc làm chỉ giao cho ngành lao động – xã hội thực hiện, các chính sách hỗ trợ

về y tế giao cho ngành y tế thực hiện...); phân công, cử đội ngũ cán bộ chuyên

trách triển khai chương trình đồng bộ từ cấp huyện đến cấp cơ sở thôn, bản.

Một là, đối với việc tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về

việc làm và dạy nghề cần phát triển đồng bộ hơn về các yếu tố thị trường lao

động phù hợp với điều kiện việc làm tại các huyện nghèo, đặc biệt nghiên cứu

mở rộng cơ hội việc làm, thu nhập ổn định thông qua các chương trình thị

82

trường lao động chủ động; hỗ trợ người lao động nhất là thanh niên mới bước

vào thị trường lao động, người lao động bị mất việc làm, lao động trong khu vực

phi chính thức, lao động ở những vùng khó khăn, người khuyết tật, người bị tác

động do cải cách và chuyển đổi cơ cấu kinh tế tiếp cận đào tạo nghề, vốn vay tạo

việc làm, tiếp cận thông tin thị trường lao động để tìm được việc làm và nâng

cao thu nhập.

Tập trung triển khai các Đề án dạy nghề hiện hành theo hướng kết hợp

đào tạo kỹ thuật cao, chuyên sâu với những nghề thông dụng nhằm đáp ứng nhu

cầu đa dạng của thị trường lao động và năng lực của từng nhóm đối tượng. Tập

trung đầu tư và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, đặc biệt nâng cao chất lượng

đào tạo nghề cho người dân trong trồng và bảo vệ rừng tái sinh, nghề thủ công

mỹ nghệ: thêu, dệt thổ cẩm của người Thái, nghề đan lát, rèn, làm yên cương

ngựa, đồ gỗ, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc của người H’Mông... Nâng cao

hiệu quả các chương trình đào tạo đối với lao động nông nghiệp ở vùng lúa trọng

điểm, như các vùng lúa ruộng bậc thang ở huyện Điện Biên Đông, huyện Tủa

Chùa. Xây dựng chính sách hỗ trợ đào tạo nghề kết hợp với bố trí việc làm tại

các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn...

Triển khai các chương trình, dự án di dân, định canh, định cư cho người

dân gắn với điều kiện cụ thể của các vùng, nhằm ổn định cuộc sống cho nhân dân,

tạo điều kiện chuyển đổi nghề, cụ thể: đối với vùng núi cao như Mường Nhé, Tủa

Chùa… tập trung di dân khỏi những vùng có nguy cơ bị lũ quét, lở đất, những

vùng bị thiên tai; đối với vùng gần lòng hồ thủy điện như: Điện Biên Đông,

Mường Ảng chú trọng vào những nơi có nguy cơ bị ngập do nước lòng hồ dâng;

đối với khu vực miền núi giáp biên giới Trung Quốc, Lào cần chú trọng vấn đề di

dân tự do, tuyên truyền đạo trái phép. Bên cạnh đó tăng cường giáo dục, hướng

83

nghiệp tạo việc làm, mở rộng mạng lưới cơ sở dịch vụ việc làm đã phát triển với

hai loại hình Trung tâm giới thiệu việc làm nhà nước và các Doanh nghiệp dịch vụ

việc làm tư nhân thông qua thị trường xuất khẩu lao động ra nước ngoài, hiện nay

có tình trạng một số lao động tại các huyện nghèo của tỉnh Điện Biên đã sang làm

việc ở nước ngoài, tuy nhiên có một số lao động trong quá trình làm việc đã không

đáp ứng được yêu cầu công việc nên phải về nước, từ đây có thể thấy thực trạng

lao động ở những vùng khó khăn, dân tộc thiểu số có trình độ tay nghề thấp, quen

lao động trong môi trường nông nghiệp, trồng nương dãy nên cần phải nâng cao

công tác dạy nghề, bổ trợ các kiến thức cơ bản về việc làm, lao động trong các

ngành công nghiệp…

Bằng những hành động cụ thể, các huyện nghèo cần căn cứ đặc điểm địa

hình, thổ nhưỡng và khí hậu có thể quy hoạch vùng sản xuất nông lâm ngư nghiệp,

xây dựng các vùng chuyên canh tại một số xã, thôn, bản về những loại cây mang

lại hiệu quả kinh tế cao như: Xây dựng vùng chuyên trồng cây cao su, cây cà phê ở

huyện Điện Biên Đông, huyện Mường Ảng, Tủa Chùa...; xây dựng vùng chuyên

canh cây lúa nương, cây ngô, cây sắn; tại những vùng núi cao hay những nơi nhiều

đồng cỏ xây dựng vùng phát triển trăn nuôi gia súc như: trâu, bò, dê…

Tổ chức việc làm tạm thời cho người lao động nông thôn, người thất

nghiệp, thiếu việc làm trong các hộ gia đình nghèo hoặc cận nghèo thông qua các

dự án phát triển cơ sở hạ tầng qui mô nhỏ (đường giao thông, thủy lợi, nạo vét

sông, hồ...), thu gom rác thải và làm vệ sinh môi trường. Người tham gia làm việc

được trả công bằng tiền hoặc hiện vật (suất ăn, lương thực, thực phẩm) hoặc kết

hợp cả hai hình thức trên.

Hai là, Chương trình quốc gia về giảm nghèo nhanh và bền vững thực chất

đã được Trung ương và các địa phương tổ chức triển khai từ lâu, bên cạnh chương

84

trình 135 còn có các chương trình, dự án khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư;

dự án cho vay vốn hộ nghèo; chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tại 63

huyện nghèo theo Nghị quyết 30a; chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo theo

Quyết định 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ...Tuy

nhiên các chương trình, dự án được triển khai tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên

đã thu được kết quả tốt, nhưng vẫn còn nhiều bất cập, nhiều khoản mục hỗ trợ, nội

dung trợ giúp còn chồng chéo, đan xen, thậm trí có nội dung đạt hiệu quả chưa

cao, để khắc phục những tồn tại, hạn chế các huyện nghèo cần phải thực hiện một

số giải pháp để tận dụng tối đa nguồn lực hỗ trở, phát huy tiềm năng lợi thế của

địa phương, nhằm đưa các huyện nghèo ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời

sống người dân ngày được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm ngang bằng với các

huyện trên toàn quốc. Các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo phần lớn tập

trung vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; việc đầu tư chuyển đổi cơ cấu cây trồng,

vật nuôi còn ít, hiệu quả chưa cao. Nhiều mục tiêu, chỉ tiêu thuộc Chương trình

giảm nghèo do Trung ương quy định khó thực hiện hoàn thành, nhiều dự án đầu

tư cơ sở hạ tầng tại các vùng khó khăn do thiếu kinh phí thực hiện nên không đảm

bảo quy mô, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định, ảnh hưởng đến việc phục vụ trực

tiếp nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, giao thương của các hộ nghèo.

Do đó ở các huyện nghèo thời gian tới cần quan tâm ban hành một hệ thống

chính sách giảm nghèo chung, thống nhất, trong đó quy định cụ thể chính sách đối

với người nghèo, người dân tộc thiểu số, người cư trú ở xã đặc biệt khó khăn với

mức, chế độ cụ thể cho từng loại đối tượng được thụ hưởng,... trong một văn bản,

cần phân khai rõ từng khoản mục hỗ trợ, không nên quy định riêng lẻ thành nhiều

chương trình mục tiêu khác nhau như hiện nay, chương trình 135, chương trình

30a, chương trình xây dựng nông thôn mới có một số chính sách trùng lắp, như:

85

chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất cho hộ nghèo dân tộc thiểu số, chính sách cho

vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn…

Chủ trương, chính sách đảm bảo ASXH dù có đúng đắn đến đâu nếu không

có sự đồng thuận của người dân thì khó mà đạt hiệu quả cao, điều quan trọng nhất

các cấp chính quyền địa phương phải làm cho mỗi người dân thấu hiểu và thấm

nhuần được vai trò của chính họ trong thực hiện đảm bảo ASXH, để khắc phục

thói quen và tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước, các tổ

chức kinh tế, không tự vươn lên thoát nghèo, các huyện nghèo cần điều chỉnh, bổ

sung chính sách hỗ trợ giảm nghèo theo hướng sau:

+ Cần tập trung nguồn vốn để hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, giảm

bớt các chính sách trợ cấp toàn bộ đối với hộ nghèo (chỉ duy trì chính sách hỗ trợ

về y tế, giáo dục và đào tạo); còn lại các chính sách khác (hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ

con giống cây trồng, vật nuôi..) chỉ hỗ trợ toàn bộ về cây trồng, vật nuôi có giá trị

nhỏ; nếu giá trị cao thì hỗ trợ theo hình thức đối ứng (hộ tự cân đối, bố trí vốn là

chính từ việc thông qua nguồn vốn vay ưu đãi, Nhà nước chỉ hỗ trợ từ 30 - 50%

kinh phí);

+ Đối với hộ nghèo đồng thời là người có công hoặc đối tượng bảo trợ xã

hội, đối tượng mắc bệnh hiểm nghèo, ốm đau bệnh tật (nhóm nghèo bất khả

kháng) thì cấn có các chính sách hỗ trợ khác về đời sống, sinh kế với mức hỗ trợ

100% giá trị;

+ Đối với hộ nghèo do mắc tệ nạn xã hội hoặc không chịu khó lao động,

nên để mức hỗ trợ chỉ bằng từ 30-50% so với nhóm hộ nghèo do bất khả kháng,

thời gian hỗ trợ từ 1- 2 năm, nếu các hộ trên không quyết tâm khắc phục khó khăn

và vươn lên thoát nghèo sẽ dừng hỗ trợ;

86

Hàng năm các thôn bản, xã cho đến huyện cần tập trung chỉ đạo điều tra,

nắm chắc thực trạng hộ nghèo, người nghèo ở từng địa bàn để xây dựng cụ thể

nhiệm vụ, giải pháp nhằm giảm nghèo nhanh và bền vững cho từng vùng, từng địa

bàn. Đồng thời hoàn thiện cơ chế chính sách về giảm nghèo nhanh và bền vững phù

hợp với điều kiện thực tế của từng vùng; cụ thể hóa và thực hiện tốt cơ chế thu hút

vốn đầu tư, khuyến khích đầu tư, hỗ trợ của các doanh nghiệp, tập thể, cá nhân

tham gia thực hiện chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo trên địa bàn nhằm tạo

việc làm, tăng thu nhập và góp phần đổi mới cơ cấu, chất lượng lao động.

Tập trung cho phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng chủ yếu, tạo cơ hội

cho người nghèo tiếp cận được các dịch vụ công. Việc cơ sở hạ tầng còn yếu

kém, chưa đồng bộ, đặc biệt là tại các xã đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc

miền núi là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến đói nghèo. Vì vậy, việc xây

dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội là một trong những điểm quan trọng để hỗ

trợ các xã nghèo, người nghèo, tạo điều kiện tiếp cận thị trường, mở rộng và

phát triển sản xuất.

Tăng cường kiểm tra, rà soát việc thực hiện chính sách đóng, hỗ trợ

đóng thẻ bảo hiểm y tế cho các hộ nghèo, cận nghèo và các đối tượng xã hội;

củng cố và nâng cao tính chính xác trong quy trình lập, cấp phát thẻ bảo hiểm

y tế. Thông tin, tuyên truyền về kiến thức phòng trừ bệnh, bảo đảm sức khỏe

cho người dân, thực hiện kế hoạch hóa gia đình giảm tỷ lệ sinh ở các vùng

dân tộc thiểu số, vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao.

Thực hiện tốt các chính sách miễn, giảm học phí cho các đối tượng chính

sách và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo

dục quốc dân; thực hiện chính sách hỗ trợ học sinh dân tộc bán trú, trường phổ

thông dân tộc bán trú và trường phổ thông dân tộc nội trú.

Triển khai thực hiện tốt Đề án xây dựng nông thôn mới trên các tiêu chí

quy định: xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và tổ

chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị

theo quy hoạch; xây dựng văn hóa xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn

87

hóa dân tộc, dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh

trật tự được giữ vững; đời sống vật chất tinh thần của người dân nông thôn ngày

càng được nâng cao.

Thực hiện tốt các chính sách ASXH, cứu trợ kịp thời các đối tượng xã

hội bị thiên tai, lũ lụt, mất mùa; thực hiện chương trình mục tiêu ứng phó với

biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh phong trào xã hội hóa công tác đền ơn đáp nghĩa;

công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; phong trào xây dựng Quỹ bảo trợ

trẻ em; quan tâm chăm sóc, giúp đỡ trẻ em mồ côi, người khuyết tật, người

cao tuổi, người thuộc hộ gia đình chính sách.

3.2.2.Tập trung đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng để phục vụ sản xuất

– đời sống và phát triển kinh tế - xã hội lâu dài tại các huyện nghèo

Trước hết, để thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện phát triển kinh tế - xã

hội thay đổi cơ bản diện mạo nông thôn, các huyện cần chủ động đề ra những

chủ trương đúng đắn, xây dựng chương trình, kế hoạch và chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội đồng bộ cho cả trước mắt và lâu dài. Xác định rõ xoá đói giảm

nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước, là sự nghiệp cấp bách

của huyện và của cả hệ thống chính trị ở cơ sở, cũng như của toàn dân.

Huy động tối đa nguồn lực của Nhà nước, của xã hội và của người dân

để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, không ngừng

đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề, điều kiện vật chất, nguồn tài

chính làm bệ đỡ cho việc đảm bảo ASXH, nhất là đầu tư xây dựng đồng bộ hệ

thống giao thông nông thôn, xây dựng hệ thống điểm trường và trường học,

trạm y tế gắn với việc quan tâm nâng cao sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp

để xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Cùng với sự đầu

tư, hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng xã hội, sự nỗ lực phấn đấu vươn lên

thoát nghèo của người nghèo, hộ nghèo là nhân tố quyết định thành công của

công cuộc xoá đói giảm nghèo, chính bản thân các huyện nghèo tự nỗ lực tìm

88

ra những hướng đi đúng đắn để giúp người dân tự thân lập nghiệp, có những

chính sách phù hợp để đảm bảo ASXH tại địa phương.

Ngoài nguồn kinh phí của Trung ương, chính bản thân các huyện nghèo

chủ động từ nguồn kinh phí địa phương tập trung đầu tư hạ tầng cơ sở từ huyện

đến thôn bản, bao gồm: trường dân tộc nội trú huyện (gồm cả nhà ở cho học

sinh) có quy mô đáp ứng nhu cầu học tập của con em đồng bào dân tộc thiểu số

trên địa bàn; cơ sở dạy nghề tổng hợp huyện (bao gồm cả nhà ở cho học viên);

các công trình thủy lợi quy mô cấp huyện, liên xã; đường giao thông từ trung

tâm huyện tới xã, liên xã. Đầu tư các công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu ở tất cả

các xã trên địa bàn huyện, bao gồm: Trường học (lớp học, trường học, kể cả

trường mầm non, lớp mẫu giáo, nhà ở bán trú dân nuôi, nhà ở cho giáo viên);

trạm y tế xã đạt tiêu chuẩn (gồm cả nhà ở cho nhân viên y tế); đường giao thông

liên thôn, bản, đường vào các khu kinh tế, sản xuất tập trung (gồm cả cầu, cống);

thủy lợi phục vụ tưới và tiêu cho sản xuất nông nghiệp (kênh mương nội đồng và

thủy lợi nhỏ); điện phục vụ sản xuất và dân sinh; công trình nước sinh hoạt (tập

trung hoặc phân tán, đào giếng, xây bể). Thực hiện đầu tư, xây dựng đồng bộ hạ

tầng cơ sở huyện nghèo chính là phục vụ đời sống và sinh hoạt của người dân

bền vững, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Cần tập trung hỗ trợ vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao phát triển giao thông,

thông tin liên lạc; lựa chọn cây trồng, vật nuôi, hàng hóa có lợi thế, tiếp cận thị

trường thuận lợi; tăng cường hệ thống khuyến nông, thú y, bảo vệ thực vật, hỗ

trợ nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật để phát triển sản xuất; đầu tư xây dựng

hệ thống thủy lợi, cấp nước sinh hoạt; tạo điều kiện để hộ nghèo tham gia bảo vệ

rừng, trồng rừng, đặc biệt là trồng rừng sản xuất nâng cao thu nhập; có chính

sách hỗ trợ các doanh nghiệp về sản xuất kinh doanh, bao tiêu, tiêu thụ sản phẩm

89

nông nghiệp do chính bà con làm ra ở các xã nghèo, vùng nghèo…Ngoài việc

xây dựng cơ sở hạ tầng, các tuyến đường giao thông huyết mạch kinh tế để

tiêu thụ sản phẩm, các huyện nghèo cần hỗ trợ kinh phí cho các địa phương tu

bổ hệ thống kênh mương, từng bước đáp ứng tốt hơn nước tưới cho sản xuất

nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản; hỗ trợ vốn để bảo hiểm sản vật nông

nghiệp; có chế độ ưu đãi đặc biệt cho các doanh nghiệp xây dựng các cơ sở

chế biến nông sản ở vùng nông thôn để vừa tiêu thụ sản vật, vừa giải quyết

việc làm cho người dân…

Trong thời gian tới nên tập trung bổ sung nguồn lực vào hai chương

trình xây dựng nông thôn mới và xóa đói giảm nghèo; trong đó, bổ sung thêm

các chính sách về giảm nghèo đặc thù đối với vùng dân tộc thiểu số; tập trung

về vấn đề đất đai, tăng đầu tư cho các huyện, xã nghèo xây dựng hoàn chỉnh

kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nhất là giao thông, thủy lợi; bố trí đủ nguồn lực

cho địa phương để hoàn thành các chương trình dự án, tạo điều kiện cho

người nghèo phát triển sản xuất, thoát nghèo bền vững.

3.2.3. Phát huy vai trò của hệ thống ngân hàng và các tổ chức kinh

tế trong đảm bảo An sinh xã hội các huyện nghèo

Xây dựng một hệ thống chính sách tín dụng thương mại thống nhất trên cơ

sở đánh giá kết quả thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi hiện hành đang áp

dụng tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên. Hoàn thiện, bổ sung cơ chế, chính sách

tín dụng đặc thù cho người dân vùng đồng bào nghèo, vùng khó khăn, đặc biệt

cần xây dựng cơ chế tín dụng đặc thù riêng cho vùng dân tộc thiểu số (cho vay

vốn phát triển sản xuất, chồng cây công nghiệp)… Ưu tiên tạo cơ chế thông

thoáng, chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội vay

vốn phát triển sản xuất, kinh doanh, bao tiêu sản phẩm trên địa bàn các huyện

nghèo..

90

Bổ sung đối tượng được vay vốn ưu đãi đối với các cơ sở sản xuất, kinh

doanh, doanh nghiệp tạo nhiều việc làm, sử dụng nhiều lao động thuộc nhóm đối

tượng người dân vùng đồng bào nghèo, vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số;

các cơ sở sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn miền núi,

vùng khó khăn; những đơn vị hoạt động bao tiêu sản phẩm do chính người dân

làm ra được vay vốn ưu đãi…

Theo quy định hiện hành, các khoản tài trợ được ghi nhận vào chi phí

của ngân hàng và doanh nghiệp giới hạn trong bốn nhóm đối tượng chính là:

tài trợ cho giáo dục, tài trợ cho y tế, tài trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo và

tài trợ khắc phục hậu quả thiên tai. Như vậy để phát huy thế mạnh của các

ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong hỗ trợ cho vay tại các huyện nghèo

cần mở rộng các đối tượng, hạng mục tài trợ, đặc biệt tập trung vào một số

đối tượng có hoàn cảnh khó khăn nhưng không thuộc nhóm đối tượng do Nhà

nước quy định.

Các huyện nghèo cần chủ động kêu gọi các tổ chức kinh tế, hệ thống ngân

hàng trên địa bàn tiếp tục ủng hộ, hỗ trợ các khoản mục đã cam kết, đồng thời

tiếp tục hỗ trợ các chương trình mới trọng tâm, trọng điểm giải quyết triệt để

những vấn đề nóng bỏng, bức xúc của từng huyện nghèo, nghiên cứu những nội

dung, mô hình mới về xóa đói, giảm nghèo, với nội dung, cách làm phù hợp với

khả năng của mình. Ngân hàng phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương

để triển khai việc hỗ trợ thiết thực, hiệu quả, phù hợp với đối tượng, yêu cầu và

nguyện vọng của người dân nơi hỗ trợ. Tăng cường các khoản vay ưu đãi hỗ trợ

giải quyết việc làm tại chỗ như: cho vay các dự án trồng và chăm sóc rừng tái

sinh, các cơ sở sản xuất, chế biến sản phẩm tại địa phương, đặc biệt cần quan

tâm hơn và có chính sách đặc thù cho đồng bào dân tộc, người dân vùng khó

khăn tham gia xuất khẩu lao động thị trường nước ngoài, nâng hạn mức, kéo dài

91

thời gian cho vay và ưu đãi lãi xuất đối với người dân vùng sâu, vùng xa, người

nghèo thực sự muốn thoát nghèo; cho vay ưu đãi lãi xuất đối với doanh nghiệp,

tổ chức đào tạo nghề và đưa người đi lao động nước người.

Bên cạnh tín dụng thương mại, hệ thống ngân hàng mà nòng cốt là

Ngân hàng Chính sách xã hội triển khai hàng loạt các chương trình tín dụng

ưu đãi đối với các đối tượng chính sách tại các huyện nghèo như: Cho vay hộ

nghèo; cho vay học sinh, sinh viên; cho vay giải quyết việc làm; cho vay xây

dựng các công trình nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn; cho vay hộ gia

đình sản xuất kinh doanh vùng khó khăn; cho vay người lao động thuộc

huyện nghèo đi xuất khẩu lao động; cho vay hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở; cho

vay thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn; hộ đồng bào

DTTS khó khăn; cho vay hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt

cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn;... Vốn tín dụng chính sách

đã giúp cho hộ nghèo, vùng nghèo và các đối tượng chính sách tiếp cận với

những chương trình hỗ trợ giảm nghèo của Đảng và Nhà nước, tạo thêm

công ăn việc làm, cải thiện cuộc sống, vươn lên thoát nghèo bền vững.

Khuyến khích các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế xây dựng đầu tư hạ

tầng cơ sở, xây dựng các công trình phúc lợi công cộng; tập trung vào xây dựng

các công trình phục vụ lợi ích thiết thực của người dân nơi đây, như: nhà văn

hóa sinh hoạt cộng đồng, khu nhà tạm trú dân nuôi…,Đặc biệt khuyến khích các

doanh nghiệp nghiên cứu xây dựng mô hình liên kết bốn nhà trong sản xuất

nông lâm nghiệp, tập trung đầu tư trồng những cây mang lại nguồn lợi kinh tế

cao như cây cao su, cà phê, sắn; xây dựng các nhà máy chế biến nông sản cho bà

con nông dân vùng cao, vùng đồng bào dân tộc ít người…

Tựu chung lại, trong thời gian qua các ngân hàng, tập đoàn kinh tế đã tài

trợ, hỗ trợ với khối lượng lớn tài chính cũng như hiện vật tại các huyện nghèo,

tuy nhiên đây cũng chỉ là phần rất nhỏ so với nhu cầu rất lớn của việc đảm bảo

92

ASXH tại các huyện nghèo. Để tập trung các nguồn lực hỗ trợ, các huyện nghèo

cần xây dựng một chiến lược tổng thể về các chính sách hỗ trợ, trợ giúp; cần

phân khai theo ngành, theo lĩnh vực, theo nhóm đối tượng để các ngân hàng, tổ

chức kinh tế tập trung hỗ trợ, như: đối với ngân hàng cần phân theo chức năng

hoạt động của từng đơn vị, ví dụ: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông

thôn chỉ tập trung hỗ trợ vay vốn phục vụ vấn đề sản xuất nông nghiệp, cây

trồng vật nuôi; Ngân hàng TMCP Công thương hỗ trợ vay vốn các lĩnh vực liên

quan đến công nghiệp, dịch vụ; Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển chỉ hỗ

trợ vay vốn để phục vụ các chương trình, dự án xây dựng hạ tầng cơ sở…; đối

với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế cũng thực hiện hỗ trợ theo chức năng

nhiệm vụ trong lĩnh vực hoạt động, ví dụ: các doanh nghiệp xây dựng hỗ trợ lĩnh

vực xây dựng các công trình giao thông, nhà ở, trường học bệnh viện; doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, xuất nhập khẩu lương thực, thực phẩm

chỉ tập trung hỗ trợ sản xuất nông lâm nghiệp, tìm đầu ra, bao tiêu sản phẩm cho

bà con nhân dân trên địa bàn các huyện nghèo; các doanh nghiệp hoạt động

trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng hỗ trợ cung cấp vật liệu xây dựng cho

các công trình dân sinh, có cơ chế trả chậm, trả góp cho những sản phẩm của

mình…Để làm được như trên, hệ thống chính trị ở cơ sở phối hợp chặt chẽ với

các ngân hàng, các tổ chức kinh tế cần xác định rõ những nội dung, hạng mục,

tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tổ chức thực hiện, có như vậy công tác

đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo mới đạt được mục tiêu đặt ra, hiệu quả đạt

được sẽ rất lớn, các nguồn hỗ trợ mới đến được tận tay người thụ hưởng, phục

vụ nhu cầu tối thiểu người dân.

93

3.2.4. Tập trung giải quyết tốt vấn đề xóa đói, giảm nghèo yếu tố

quyết định trong đảm bảo An sinh xã hội tại các huyện nghèo.

Cần nhấn mạnh xóa đói giảm nghèo là mục tiêu quan trọng của đảm

bảo ASXH, đồng thời là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước và chỉ có xóa

đói giảm nghèo thì mới phát triển kinh tế – xã hội bền vững trên ba mặt là:

- Bền vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế bền vững là phát triển

nhanh và an toàn, chất lượng, lấy mục tiêu tăng trưởng kinh tế và xoá đói

giảm nghèo làm nhiệm vụ chính của kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế

của huyện trong giai đoạn tới, coi đó là đầu ra cuối cùng cần đạt được trong

thời kỳ kế hoạch. Bảo đảm sự gắn kết giữa hai mục tiêu này với nhau trong hệ

thống mục tiêu kế hoạch. Trong đó mục tiêu XĐGN phải được đặt ra trước

tiên, trên cơ sở đó thiết kế các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế phù hợp với năng

lực tăng trưởng kinh tế của địa phương nhưng mặt khác phải phù hợp với yêu

cầu đặt ra của mục tiêu XĐGN;

- Bền vững về mặt xã hội là công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ

số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội tại các

huyện nghèo, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng lên và tiến

kịp so với bình quân thu nhập của người dân trên địa bàn tỉnh và bằng mức sống

bình quân của những huyện trung bình; trình độ dân trí các xã nghèo ngày càng

được cải thiện và nâng cao, giáo dục – đào tạo ngày càng phát triển, sức khỏe

nâng lên một bước, tuổi thọ trung bình ngày một tăng, mức hưởng thụ về văn

hóa, văn nghệ được cải thiện cả về chất lượng và nội dung.

- Bền vững về sinh thái môi trường cụ thể: khai thác và sử dụng hợp

lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi

trường sống...

Trước mắt cũng như lâu dài các huyện nghèo cần hoàn thiện cơ chế xác

định đối tượng của chương trình giảm nghèo: tách đối tượng nghèo kinh niên

sang hưởng các chính sách ASXH; tập trung hỗ trợ bộ phận người nghèo có việc

94

làm, tăng thu nhập, có khả năng vươn lên thoát nghèo, người mới thoát nghèo có

nguy cơ tái nghèo, người nghèo tạm thời do bị rủi ro về kinh tế, sức khỏe và

thiên tai; tập trung hỗ trợ toàn diện đối với trẻ em nghèo về giáo dục, dinh

dưỡng, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, nước và vệ sinh, giải trí và bảo trợ xã hội.

Tiếp tục thực hiện các chính sách và chương trình giảm nghèo: Các chính

sách và chương trình giảm nghèo tập trung vào việc tạo lập môi trường thể chế,

nâng cao năng lực của hộ nghèo, vùng nghèo; nâng cao vai trò các địa phương, tổ

chức, cá nhân trong việc thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo thông qua việc

thực hiện mạnh mẽ cơ chế phân cấp và đầu tư trọn gói. Ngân sách Nhà nước đảm

bảo thực hiện các mục tiêu kế hoạch được phê duyệt, ưu tiên các địa phương có tỷ

lệ nghèo cao. Thực hiện lồng ghép các nguồn lực giảm nghèo trên địa bàn.

Tăng cường và mở rộng việc theo dõi, giám sát và đánh giá chất lượng

các chương trình giảm nghèo đã triển khai trên địa bàn huyện nghèo: ban hành

hướng dẫn bộ chỉ số theo dõi, giám sát nghèo đói một cách đơn giản, khả thi dễ

thực hiện và hướng dẫn quy trình thu thập thông tin, xử lý thông tin cho cán bộ

cơ sở xã, thôn bản; đảm bảo chia sẻ thông tin giữa các ngành, các cấp; đảm bảo

sự tham gia toàn diện của người dân trong quá trình thực hiện các chương trình

giảm nghèo. Nâng cao năng lực giám sát của người dân vào quá trình xác định

hộ nghèo, thực hiện các chính sách giảm nghèo; hoàn thiện công tác cập nhật đối

tượng hộ nghèo, nghiên cứu thí điểm việc ban hành sổ hộ nghèo thống nhất trên

toàn địa bàn…

Xã hội hóa nguồn lực cho xóa đói giảm nghèo: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế

doanh nghiệp hỗ trợ các địa phương nghèo; mở rộng sự tham gia của các đối tác

xã hội trong việc thực hiện chương trình giảm nghèo. Giải quyết triệt để các vấn

đề liên quan đến nghèo đói tại các huyện nghèo cũng có nghĩa từng bước nâng

95

cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, đồng thời đưa kinh tế - xã hội

tại nơi đây phát triển ổn định, bền vững.

3.2.5. Phát huy vai trò của lực lượng vũ trang trên địa bàn trong

công tác đảm bảo An sinh xã hội

Thực hiện đảm bảo ASXH với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an

ninh nhân dân: phân vùng chiến lược về quốc phòng, an ninh kết hợp với vùng

kinh tế trên cơ sở qui hoạch các vùng dân cư theo nguyên tắc bảo vệ đi đôi với xây

dựng đất nước; đặc biệt những huyện nghèo cần có chính sách tập trung ưu tiên đầu

tư kinh tế xã hội trên tuyến biên giới, đẩy nhanh công tác xóa đói giảm nghèo, xây

dựng tuyến biên giới ổn định hữu nghị, hợp tác và phát triển, trong đó có việc khẩn

trương hoàn thiện tuyến đường tuần tra biên giới để bảo đảm cho các lực lượng

tuần tra biên giới xử lý các vấn đề nhanh, hiệu quả, kịp thời; xây dựng các lực

lượng quốc phòng, an ninh, trọng tâm là bộ đội biên phòng thường xuyên cùng

người dân bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ biên giới quốc gia, giữ gìn trật tự

an toàn xã hội, đồng thời tạo thuận lợi cho người dân nơi đây phát triển sản xuất,

trồng và bảo vệ rừng; lực lượng bộ đội biên phòng vừa là thầy giáo, vừa là thầy

thuốc và vừa là cán bộ nông nghiệp để dạy chữ, khám bệnh, hướng dẫn sản xuất

cho đồng bào; tăng cường cử cán bộ chiến sỹ biên phòng về các làng bản làm thầy

thuốc, dạy học và hướng dẫn dân sản xuất, trực tiếp tham gia xây dựng chính quyền

cơ sở, đóng góp tích cực vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo khu vực biên giới,

vùng sâu, vùng xa để người dân yên tâm bám trụ, cùng quân đội gìn giữ biên cương

Tổ quốc.

Thông qua đảm bảo ASXH xây dựng hậu phương quân đội, tạo chỗ dựa

vững chắc cho thế trận quốc phòng, an ninh; tăng cường sức mạnh về mọi mặt

để đoàn kinh tế quốc phòng 379, các binh đoàn kinh tế vừa làm nhiệm vụ huấn

96

luyện sẵn sàng chiến đấu, xây dựng khu vực phòng thủ gắn với hoạt động sản

xuất, xây dựng hạ tầng giao thông, vừa tạo việc làm mang lại thu nhập ổn định

cho hàng chục nghìn lao động là người dân nơi đóng quân, trong đó chủ yếu là

người dân tộc thiểu số. Điều đó đã tạo ra thế trận quốc phòng, an ninh ở các khu

vực, địa bàn trọng yếu, chiến lược về quốc phòng, an ninh. Nhất là khi các huyện

nghèo tỉnh Điện Biên có đường biên giới với Lào và Trung Quốc, vì vậy cần làm

tốt công tác xây dựng thế trận quốc phòng tại các huyện nghèo tạo chỗ dựa vững

chắc bảo về chủ quyền biên giới của tổ quốc.

Trong thời gian qua, Bộ Quốc phòng đã có Nghị quyết số 150/ĐUQSTW

về việc quân đội tham gia xóa đói giảm nghèo, xây dựng kinh tế ở vùng sâu,

vùng xa với kế hoạch, nội dung triển khai cụ thể đến các đơn vị có liên quan.

Tuy nhiên để các Đoàn kinh tế - quốc phòng trên những địa bàn khó khăn nhất,

dọc biên giới phát huy hết khả năng và lợi thế cần phải tăng cường tiềm lực về

kinh tế, khoa học kỹ thuật và lực lượng để tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng kết

hợp với tổ chức, qui hoạch lại dân cư, giúp dân từng bước tạo dựng nền kinh tế

hàng hóa thị trường; đưa văn hóa y tế về thôn bản, nâng cao đời sống vật chất

và tinh thần cho nhân dân, từ đó xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh;

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về mối quan hệ chặt chẽ giữa quốc

phòng và an ninh với xóa đói, giảm nghèo, từ thực tiễn công tác xóa đói, giảm

nghèo của Quân đội nhân dân Việt Nam, thời gian tới tiếp tục thực hiện mục

tiêu giảm nghèo bền vững giai đoạn 2015 - 2020, Đoàn kinh tế quốc phòng

379 phối hợp với huyện Mường Nhé tiếp tục xây dựng phương án lồng ghép

thực hiện các chương trình, dự án xóa đói, giảm nghèo khu vực biên giới,

vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa với các dự án quốc phòng,

an ninh trên cùng địa bàn.

Triển khai các lực lượng trong thế trận lòng dân, tổ chức phòng thủ dân

sự kết hợp cải tạo địa hình với xây dựng hạ tầng và các công trình phúc lợi tại

97

các địa phương nghèo, bởi vậy cần tăng cường xây dựng các khu kinh tế quốc

phòng tại những xã biên giới, thành lập các vùng sản xuất chuyên canh công

nghiệp từ đó thu hút nguồn lao động của địa phương vào làm việc kết hợp

hình thức khoán vườn cây công nghiệp, giao đất sản xuất cho dân, đồng thời

giúp người dân về kỹ thuật canh tác và bao tiêu sản phẩm họ làm ra, thông

qua đó thực hiện tốt công tác hậu phương quân đội, đặc biệt là lực lượng bộ

đội biên phòng thường xuyên bám sát địa bàn, trực tiếp tham gia giúp bà con

tăng gia, sản xuất; hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, trồng và bảo vệ rừng tái

sinh, cùng người dân phát triển kinh tế hộ ngày một vững chắc hơn; đồng thời

triển khai dự án định canh định cư cho đồng bào ở một số vùng biên giới, tạo

lập cuộc sống ổn định lâu dài và phát triển kinh tế hộ bền vững… Đoàn kinh

tế - quốc phòng (379) tiếp tục xác định rõ: xây dựng khu kinh tế - quốc phòng

trên các địa bàn chiến lược vùng Tây Bắc nói chung, huyện nghèo tỉnh Điện

Biên nói riêng là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đặc

biệt trong tình hình hiện nay lực lượng quân đội mà trực tiếp là cán bộ, chiến sĩ

các đoàn kinh tế - quốc phòng phải phấn đấu là lực lượng nòng cốt giải quyết

các vấn đề quốc phòng - an ninh, kinh tế - xã hội nơi vùng sâu, vùng xa, biên

giới trên địa bàn; tham gia xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc

phòng an ninh, tổ chức cho nhân dân nhất là đồng bào các dân tộc ở địa

phương ổn định sản xuất, đời sống, xoá đói, giảm nghèo, đồng thời tạo điều

kiện cho nhân dân các nơi đến sinh cơ lập nghiệp, bố trí lại dân cư theo quy

hoạch chung của các huyện, xã nghèo, hình thành nên các thôn, bản, làng, xã,

dân cư phát triển trong thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc.

Thực tiễn khu kinh tế quốc phòng được xây dựng trên địa bàn đều là

những nơi, những vùng đất khó khăn về kinh tế, văn hóa xã hội yếu kém, đa

số đồng bào thuộc diện đói nghèo, tình hình an ninh chính trị diễn biến phức

tạp. Đây là những nơi đang đặt ra những yêu cầu bức thiết cả về xây dựng

phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá đồng thời cả củng cố quốc phòng an ninh;

98

tập trung lực lượng giúp dân tổ chức lao động sản xuất, phát triển kinh tế, góp

phần xoá đói, giảm nghèo trước hết là trên địa bàn đứng chân, luôn đề cao

cảnh giác sẵn sàng đập tan mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch

thực hiện chiến lược diễn biến hoà bình. Nhất là khi chúng dùng những chiêu

bài của cái gọi là đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc, chia rẽ

và kích động số đồng bào nhẹ dạ nghe theo chúng, hòng tổ chức lực lượng

chống phá ta ngay trên những địa bàn xung yếu, nơi các đoàn kinh tế - quốc

phòng đứng chân.

Xây dựng khu kinh tế - quốc phòng trên địa bàn các huyện nghèo là quá

trình lâu dài, phức tạp, vì vậy trong công tác chỉ đạo cần đạt tới sự phối hợp

chặt chẽ với các cấp, các ngành của địa phương mà đơn vị đứng chân trên địa

bàn. Đặc biệt là cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân dân trong vùng dự án xây

dựng khu kinh tế - quốc phòng, xây dựng kế hoạch, bước đi tương đối đồng bộ,

phù hợp với khả năng của quân đội và chính quyền địa phương. Cần nhận thức

rõ rằng, xây dựng khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn và trực tiếp tham

gia xoá đói, giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc chính là phục vụ cho công

cuộc phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh ngay tại địa

phương. Do vậy, quá trình xây dựng khu kinh tế - quốc phòng phải gắn kết với

địa phương, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của địa phương. Đây là mối

quan hệ tương hỗ, cộng đồng trách nhiệm để cùng thực hiện các dự án xây

dựng khu kinh tế - quốc phòng. Các đoàn kinh tế - quốc phòng phải phối hợp

chặt chẽ với các địa phương để chủ động tham gia các chương trình phát triển

kinh tế xã hội, nhất là việc xây dựng kết cấu hạ tầng, xoá đói, giảm nghèo, xoá

mù chữ, phòng bệnh giúp dân. Tăng cường các hoạt động văn hoá, bài trừ mê

tín, dị đoan, các tập tục lạc hậu và các tệ nạn xã hội.

Trên cơ sở xây dựng hành lang pháp lý, cơ chế đầu tư, huy động các

nguồn lực và giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với an

ninh - quốc phòng trong quá trình xây dựng khu kinh tế - quốc phòng; cần thận

99

trọng làm tốt công tác chuẩn bị, tiến hành điều tra, nghiên cứu tỉ mỉ, cụ thể

nhằm xây dựng các dự án có tính khả thi cao, phải chủ động phối hợp chặt chẽ

với các cơ quan có liên quan, các đơn vị cùng đứng chân trên địa bàn để rà

soát, bổ xung kế hoạch, điều chỉnh lộ trình phát triển. Nghiên cứu, lồng ghép

các dự án với các chương trình mục tiêu quốc gia trong đảm bảo ASXH nhằm

khai thác các nguồn lực, kết hợp được sức mạnh của đơn vị, của địa phương và

của Nhà nước, tạo nên hiệu quả cao nhất trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ.

Việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - quốc phòng trong vùng dự án

khu kinh tế - quốc phòng cần nghiên cứu quy hoạch một cách khoa học,

phân kỳ đầu tư hợp lý, tập trung đầu tư trọng điểm vào các hạng mục cơ bản

như giao thông nội vùng, thuỷ lợi, điện, đường, trường trạm…. ,xác định

đúng tiềm năng, thế mạnh của từng vùng trong khu kinh tế - quốc phòng mà

bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hợp lý, thích nghi với đặc điểm môi trường,

khí hậu, đất đai. Phát triển sản xuất theo hướng đa sản phẩm nhưng phải biết

tập trung vào những ngành nghề có tính chất quyết định thúc đẩy sự phát triển

của cả trước mắt và lâu dài. Bên cạnh sản phẩm chính, nghề chính lại phải có

sản phẩm phụ, nghề phụ, sản phẩm hỗ trợ, thực hiện phương châm “lấy ngắn

nuôi dài”; kết hợp kinh doanh tổng hợp, mở rộng một số dịch vụ, gắn kinh tế

Nhà nước với phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế vườn…

Cần xác định rõ, một trong những mục tiêu chủ yếu, xuyên xuốt của

quá trình xây dựng khu kinh tế - quốc phòng là xoá được đói, giảm được

nghèo cho dân và được nhân dân đồng tình, hưởng ứng, từ đó đáp ứng mục

tiêu cơ bản và lâu dài là củng cố “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn

dân, an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn. Do vậy ngoài việc giúp đỡ

nhân dân địa phương định canh, định cư, trong việc tổ chức di dân nơi khác

đến lập nghiệp tại khu kinh tế - quốc phòng, cần thực hiện đúng quan điểm,

chủ trương của Đảng, Nhà nước, xác định biện pháp cụ thể, bước đi phù hợp,

thích ứng với đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội từng khu vực.

100

Bằng các biện pháp phù hợp các đoàn kinh tế - quốc phòng phải góp

phần nâng cao đời sống cho nhân dân kể cả các hộ không tham gia sản xuất

tập trung trong khu kinh tế - quốc phòng nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở

địa phương có cuộc sống ổn định vững chắc và được cải thiện một bước đáng

kể. Không những thế các khu kinh tế - quốc phòng phải là “bà đỡ” cho nhân

dân, tổ chức dịch vụ hai đầu cho sản xuất, vừa cung ứng vật tư, kỹ thuật, cây

giống, con giống, vừa bao tiêu sản phẩm hàng hoá để bà con yên tâm phát

triển kinh tế, ổn định đời sống gắn bó lâu dài với khu kinh tế - quốc phòng.

Tiếp tục xây dựng khu kinh tế - quốc phòng Mường Nhé, Mậm Pồ và

Sông Mã đều ở vùng biên giới, vùng xa dân cư, khó làm ăn sinh sống, do vậy

phải có lực lượng nòng cốt biết tổ chức sản xuất kinh doanh, động viên cổ vũ

nhân dân tham gia xây dựng, phát triển kinh tế, đặc biệt là tự nguyện vào sinh

sống trong các khu kinh tế - quốc phòng. Vì vậy quy mô tổ chức lực lượng,

cần đi từ nhỏ đến lớn, sản xuất kinh tế phát triển đến đâu, lực lượng phát triển

đến đó. Phải dựa vào nguồn nội lực, phát huy nội lực, tự vận động đi lên. Vận

dụng mọi phương thức thích hợp để huy động tối đa nguồn nhân lực tại chỗ

cho phát triển kinh tế và xây dựng lực lượng.

Để thực hiện đảm bảo ASXH gắn với công tác quốc phòng toàn dân,

xây dựng thế trận an ninh nhân dân, các cấp chính quyền huyện nghèo cần

làm tốt công tác vận động nhân dân nhận thức rõ vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm

quan trọng của công tác vận động quần chúng trên địa bàn chiến lược, đặc

biệt quan trọng nhưng hết sức khó khăn, phức tạp ở các huyện nghèo tỉnh

Điện Biên nói chung, huyện ủy Mường Nhé nói riêng thực hiện tốt chính sách

pháp luật của Nhà nước, ổn định chính trị tư tưởng cho người dân, thức tỉnh

nhân dân cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của kẻ xấu nhằm tuyên truyền.

Xuất phát từ chức năng nhiệm vụ của Đoàn kinh tế quốc phòng, từ tình hình

đặc thù của địa bàn vùng sâu, vùng cao biên giới đặc biệt khó khăn, mà vận

dụng nhiều hình thức, giải pháp để tăng cường trí thức trẻ tình nguyện cho hệ

101

thống chính trị xã, bản để vừa hỗ trợ công tác củng cố chính quyền địa

phương vừa thực hiện công tác dân vận nhân dân nhận thức về trách nhiệm

của mình cùng với các lực lượng chức năng giữ vững an ninh chính trị, trật tự

xã hội ở khu vực biên giới, nhằm ổn định tình hình chính trị, tư tưởng trong

quần chúng nhân dân.

102

Kết luận chương 3

Như đã trình bầy ở trên, để thực hiện tốt việc đảm bảo ASXH tại các

huyện nghèo tỉnh Điện Biên là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phúc tạp sở dĩ các

huyện nghèo đều có xuất phát điểm về kinh tế - xã hội tương đối thấp, đời

sống người dân còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao chính vì vậy để tiếp

tục tổ chức, triển khai công tác đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo đạt kết

quả cao, cần thực hiện đồng bộ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước về đảm bảo ASXH. Từ quá trình nghiên cứu thực trạng đảm bảo ASXH

tại các huyện nghèo giai đoạn 2011 – 2013, tác giả mạnh dạn nêu lên một số

quan điểm và những giải pháp thực hiện đảm bảo ASXH trong thời gian tới.

Các quan điểm đó thể hiện sự quán triệt các đường lối, chủ trương, chính sách

lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội vào lĩnh vực đảm bảo

ASXH. Bởi vậy các quan điểm đó mang tính chất chỉ đạo cho quá trình tổ

chức, thực hiện năm giải pháp mà tác giả trình bày là các giải pháp chủ yếu,

có quan hệ thống nhất và mật thiết để thực hiện có hiệu quả việc đảm bảo

ASXH ở các huyện nghèo tỉnh Điện Biên đến năm 2020.

103

KẾT LUẬN

Dưới góc độ của khoa học kinh tế chính trị đảm bảo ASXH là một khâu

trong quá trình tái sản xuất xã hội. Thực hiện phân phối lại thu nhập quốc dân,

tạo ra những nguồn lực để phục vụ cho tái sản xuất sức lao động. Do đó đảm

bảo ASXH phản ánh các quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế xã hội của một chế

độ xã hội nhất định và có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế

- xã hội của một quốc gia.

Đảm bảo ASXH ở nước ta là sự phản ánh và thể hiện mục tiêu xây

dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh vì hạnh phúc

của nhân dân. Trong điều kiện kinh tế chưa phát triển, của cải vật chất chưa

dồi dào nhưng Đảng, Nhà nước ta vẫn giành sự quan tâm và ưu tiên hàng đầu

trong việc đảm bảo ASXH đặc biệt là các lĩnh vực y tế, giáo dục, chính sách

với các đối tượng có công với nước, những người có hoàn cảnh khó khăn,

những địa phương nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số…

Là một tỉnh mới được thành lập, có vị trí chiến lược trong sự nghiệp

xây dựng, bảo vệ tổ quốc, có truyền thống lịch sử vẻ vang là chiến thắng Điện

Biên Phủ lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu có tiềm năng để phát triển

nhưng Điện Biên là tỉnh nghèo và còn rất nhiều khó khăn 50% số huyện của

tỉnh là những huyện nghèo. Bởi vậy nhiệm vụ đảm bảo ASXH của Điện Biên

là vấn đề rất cấp bách để nhanh chóng tạo ra những tiền đề, điều kiện cần thiết

cho tỉnh phát triển nhanh và bền vững. Đảm bảo ASXH tại năm huyện nghèo

là mối quan tâm hàng đầu của tỉnh, là nhiệm vụ của tất cả các cấp ủy Đảng,

chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và toàn thể đồng bào các dân tộc

trong tỉnh, cũng như sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương và cả nước.

Bằng sự nỗ lực phấn đấu, phát huy nội lực của chính mình kết hợp với

sự đầu tư, giúp đỡ của Nhà nước, các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội của cả

nước trong những năm qua tỉnh Điện Biên nói chung và năm huyện nghèo nói

riêng đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng, đáng khích lệ trong

thực hiện đảm bảo ASXH trên các mặt xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm,

thực hiện phát triển y tế, giáo dục, bảo hiểm, thực hiện các chính sách với các

104

đối tượng, các dự án, chương trình của Chính phủ với các địa phương nghèo,

vùng sâu, vùng xa… Những kết quả đó đã góp phần cải thiện, nâng cao đời

sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân các huyện nghèo, tạo ra những

tiền đề, điều kiện mới để phát triển nhanh và bền vững trong những năm tới.

Tuy nhiên do điểm xuất phát thấp, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội có nhiều

khó khăn nên việc thực hiện đảm bảo ASXH ở các huyện nghèo còn nhiều tồn

tại, hạn chế cả về kết quả cũng như việc chỉ đạo tổ chức thực hiện.

Để thực hiện đảm bảo ASXH ở các huyện nghèo tỉnh Điện Biên trong

thời gian tới cần quán triệt các quan điểm cơ bản mang tính chỉ đạo: coi đảm

bảo ASXH ở các huyện nghèo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn

xã hội; Đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên phải trên cơ sở kết

hợp chặt chẽ giữa sự nỗ lực của đại phương với sự trợ giúp của Trung ương;

Đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên cần tập trung vào giải quyết

trước những vấn đề nóng bỏng, then chốt . Đồng thời phải thực hiện một thống

những giải pháp chủ yếu: xây dựng và hoàn thiện chương trình mục tiêu ASXH

cho các huyện nghèo đến năm 2020; tập trung đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng

để phục vụ sản xuất – đời sống và phát triển kinh tế - xã hội lâu dài tại các

huyện nghèo; phát huy vai trò của hệ thống ngân hàng và các tổ chức kinh tế

trong đảm bảo ASXH ở các huyện nghèo; tập trung giải quyết tốt vấn đề xóa

đói, giảm nghèo yếu tố quyết định trong đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo;

phát huy vai trò của lực lượng vũ trang trên địa bàn trong công tác đảm bảo

ASXH. Các giải pháp đó là một thể thống nhất, hoàn chỉnh.

Đảm bảo ASXH ở các huyện nghèo tỉnh Điện Biên là một vấn đề còn

hết sức mới mẻ, có nội dung rộng lớn, phức tạp nhất là việc nắm các tư liệu

và tình hình thực tế là hết sức khó khăn. Bởi vậy công trình này của tác giả

mới chỉ là những nét phác thảo ban đầu, chắc chắn còn rất nhiều hạn chế.

Tác giả rất mong được các nhà khoa học, các thầy góp ý, chỉ bảo để tiếp tục

hoàn thiện chất lượng luận văn và phát triển hướng nghiên cứu này sau khi

tốt nghiệp ./.

105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng việt:

1. Mạc Tiến Anh (2004), “Bàn thêm về thuật ngữ an sinh xã hội”, Tạp chí

Bảo hiểm xã hội, Số (1), Hà Nội.

2. Mai Ngọc Anh (2006), “Nghiên cứu hệ thống CSXH nông thôn Cộng hòa

Liên Bang Đức và kiến nghị đối với việc xây dựng hệ thống ASXH cho

nông dân Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số (10), Hà Nội.

3. Mai Ngọc Anh (2008), “Phát triển hệ thống ASXH đối với nông dân Việt

Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số (364), Hà Nội.

4. Mai Ngọc Anh (2009), ASXH đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị

trường ở Việt Nam, Đề tài Khoa học, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

5. Bảo hiểm xã hội tỉnh Điện Biên (2011, 2012, 2013), Báo cáo tổng hợp tình

hình thu BHXH, BHYT trên địa bàn tỉnh Điện Biên.

6. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động

ASXH, Chuyên đề nghiên cứu khoa học, Hà Nội.

7. Nguyễn Kim Bảo (2004), Điều chỉnh một số chính sách kinh tế ở Trung

Quốc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1992), Kỷ yếu hội thảo quốc gia về

Bảo hiểm xã hội, Hà Nội.

9. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Vụ Bảo trợ xã hội (2010, 2011,

2012), Báo cáo tổng kết công tác bảo trợ xã hội, Hà Nội.

10. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2011), Đề án Hệ thống an sinh xã

hội nông thôn giai đoạn 2011-2020, Hà Nội.

11. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012), Đề án chính sách an sinh

xã hội giai đoạn 2012-2020, Hà Nội.

12. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012), Đề án Một số vấn đề về

chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, Hà Nội.

106

13. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2013), Báo cáo đánh giá chính

sách an sinh xã hội và thực hiện chính sách an sinh xã hội giai đoạn

1991- 2013, Hà Nội.

14. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Nghị quyết

Số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 về Chương trình hỗ trợ giảm

nghèo nhanh và bền vững đối với 63 huyện nghèo, Hà Nội.

15. Đỗ Ninh Cương, Mạc Văn Tiến (1996), Góp phần đổi mới và hoàn thiện

chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

16. Ngô Huy Cương (2002), “An ninh xã hội-Một số vấn đề pháp lý”, Tạp chí

Khoa học Kinh tế-Luật, Số (1), Hà Nội.

17. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội lần thứ VI Ban chấp

hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

20. Nhật Linh (2005), “Tổng quan an sinh xã hội và Bảo hiểm xã hội Trung

Quốc”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Số (10), Hà Nội.

21. Từ Nguyễn Linh (2007), “Tổng quan về hệ thống an sinh xã hội và

BHXH Nhật Bản”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Số (5), Hà Nội.

22. Liên hiệp quốc (1999), Dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam: Phân tích chi

ngân sách và viện trợ phát triển chính thức.

23. Liên hiệp quốc (2011), Báo cáo quốc gia về Phát triển con người năm

2011:Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người.

24. Ngân hàng Thế giới (2012), Đánh giá nghèo Việt Nam 2012.

25. Ngân hàng Thế giới (2007), Báo cáo phát triển Việt nam 2008, bảo trợ xã hội.

107

26. Nguyễn Chương Phát (2009), Ảnh hưởng của hệ thống an sinh xã hội tới

vấn đề nghèo đói của hộ nông dân huyện Văn Chấn - tỉnh Yên Bái, Đề tài

Khoa học, Đại học Thái Nguyên.

27. Đặng Đức San (2002), “Về thuật ngữ an sinh xã hội”, Tạp chí khoa học

Kinh tế - Luật, Số (1), Hà Nội.

28. Sở Lao động thương binh và Xã hội tỉnh Điên Biên (2008), Thực trạng và

giảm nghèo bền vững tại tỉnh.

29. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Điện Biên (2012), Báo cáo rà soát các

chương trình, dự án giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số và trẻ

em tỉnh Điện Biên.

30. Tỉnh ủy tỉnh Điện Biên (2013), Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết

Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.

31. Ủy Ban nhân dân huyện Điện Biên Đông (2013, 2014), Báo tình hình

thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo quốc phòng – an

ninh 02 năm (2011 – 2012); kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đảm

bảo quốc phòng – an ninh đến năm 2015.

32. Ủy Ban nhân dân huyện Mường Nhé (2014), Báo cáo sơ kết 05 năm

(2009 – 2013) thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về chương trình

giảm nghèo nhanh và bền vững trên địa bàn huyện.

33. Ủy Ban nhân dân huyện Tủa Chùa (2014), Báo cáo sơ kết 05 năm thực

hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về chương trình giảm nghèo nhanh

và bền vững đối với các huyện nghèo.

34. Ủy Ban nhân dân tỉnh Điện Biên (2014), Báo cáo việc thực hiện chính

sách, pháp luật về giảm nghèo, giai đoạn 2005 – 2012 trên địa bàn

tỉnh Điện Biên.

35. Ủy Ban nhân dân tỉnh Điện Biên (2011 - 2013), Báo cáo việc thực hiện kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh năm

108

2011 - 2013; (năm 2011), kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo

quốc phòng – an ninh 5 năm 2011 - 2015.

36. Ủy Ban nhân dân tỉnh Điện Biên (2011), Báo cáo sơ kết 03 năm triển khai

các dự án, chính sách thuộc Chương trình giảm nghèo nhanh và bền

vững tỉnh Điện Biên giai đoạn năm 2011 – 2015, định hướng năm 2020.

37. Ủy Ban nhân dân tỉnh Điện Biên (2014), Báo cáo sơ kết 05 năm (2008 –

2013) thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về chương trình giảm

nghèo nhanh và bền vững trên địa bàn tỉnh Điện Biên.

38. Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Luận cứ khoa học cho việc đổi mới

và hoàn thiện các chính sách bảo đảm xã hội trong điều kiện nền kinh

tế thị trường, Đề tài KX 04.05, Hà Nội.

39. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2011), Thuật ngữ An sinh xã hội Việt

Nam, Hà Nội.

40. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2013), Phát triển hệ thống ASXH ở

Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội.

Tiếng Anh

41. Margaret S. Malone, Agenda for social security (2001): challenges for the

new congress and the new administration.

42. International labor migration and social security (2004): analysis of the

transition path Doris Geide-Stevenson; Mun S Ho Journal of

Population Economics.

109

Phụ lục 1: chỉ số việc làm các huyện nghèo giai đoạn 2011 - 2013

PHỤ LỤC

Năm Năm stt Đơn vị Năm 2012 2011 2013

1 Toàn tỉnh

- Tổng số việc làm thường xuyên 249.726 267.525 276.000 (người)

- Việc làm mới 8.349 8.450 8.475

2 Huyện Điện Biên Đông

- Tổng số việc làm thường xuyên 34.116 35.669 37.023 (người)

- Việc làm mới (người) 1.253 1.354 1367

3 Huyện Mường Nhé

- Tổng số việc làm thường xuyên 34.169 35.303 36.641 (người)

- Việc làm mới (người) 1.134 1.338 1.421

4 Huyện Tủa Chùa

- Tổng số việc làm thường xuyên 28.605 29.521 30.658 (người)

- Việc làm mới (người) 916 1.137 1.326

5 Huyện Mường Ảng

- Tổng số việc làm thường xuyên 24.817 25.709 26.721 (người)

- Việc làm mới (người) 892 1.012 1.298

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh

Phụ lục 2: Chỉ số đào tạo nghề giai đoạn 2011 - 2013

110

Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013

Số lao

Kinh

Số lao

Kinh

Số lao

Kinh

động qua

phí

động qua

phí

động qua

phí

Tên đơn vị

đào tạo

(Triệu

đào tạo

(Triệu

đào tạo

(Triệu

nghề

đồng)

nghề

đồng)

nghề

đồng)

Toàn tỉnh

(người) 7.501

9.110

(người) 7.580

9.907

(người) 8.145

11.766

5 huyện nghèo 5.130 6.832 5.230 7.430 6.190 8.824

Nguồn: Sở Lao động – Thương binh và xã hội tỉnh

107

Phụ lục 3: Số người tham gia BHXH, BHYT giai đoạn 2011 - 2013

Stt Đơn vị

BHXH Bắt buộc

Năm 2011 BH thất nghiệp

BHXH Bắt buộc

Năm 2012 BH thất nghiệp

BHXH Bắt buộc

Năm 2013 BH thất nghiệp

BHXH Tự nguyệ n

BHYT (cả cấp miễn phí)

BHXH Tự nguyệ n

BHYT (cả cấp miễn phí)

BHXH Tự nguyệ n

BHYT (cả cấp miễn phí)

Toàn tỉnh

32.526

340

24.763

469.248

34.111

460

25.066

507.582

35.093

517

25.584

510.009

1

Mường Nhé

2.821

18

2.271

45,563

3.199

2.389

61.735

1.986

1.462

34.939

29

29

2

Mường Ảng

1.765

61

1.372

43,769

1.839

1.367

44.130

1.824

1.350

44.387

81

70

45,179

3

2.498

9

1.904

2.512

1.835

61.750

2.653

1.922

59.912

8

23

4

Điện Biên Đông Tủa Chùa

1.950

14

1.478

40,772

2.058

1.517

52.142

2.061

1.470

52.010

21

16

5

Nậm Pồ

0

0

0

0

0

0

0

2.046

1.537

46.140

0

0

6

Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Điện Biên

108

Phụ lục 4: Chỉ số thẻ BHYT cấp phát miễn phí 5 huyện nghèo Năm 2012

Năm 2011 Năm 2013

Số thẻ

Kinh phí

Số thẻ

Kinh phí

Số thẻ

Kinh phí

Đơn vị

cấp (thẻ)

cấp (thẻ)

cấp (thẻ)

(triệu đồng)

(triệu

(triệu

đồng)

đồng)

Toàn tỉnh H. Mường Nhé H. Mường Ảng H.Điện BĐ H.Tủa Chùa H.Nậm Pồ

399,860 172.739,520 26.526,700 61,690 25.705,830 59,781 26.063,160 60,612 57,833 24.868,190 0

411,488 51,719 50,389 52,030 53,210 39,548

177.162,816 22.239,170 21.667,270 22.372,900 22.880,300 17.005,640

269,666 116.495,712 19.683,216 45,563 18.908,208 43,769 19.517,328 45,179 40,772 17.613,504 0 Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh

Phụ lục 5: Mức hỗ trợ giảm nghèo trong giai đoạn (2011 – 2013)

Stt

Danh mục hỗ trợ

Giai đoạn 2011 - 2013

Kinh phi hỗ trợ (triệu đồng)

Số người được hỗ trợ (lượt người)

1

Hỗ trợ miễn giảm học phí, chi phí

426.802

175.900,40

học tập, ăn trưa + Hỗ trợ ăn trưa cho trẻ em mầm non + Hỗ trợ học sinh bán trú + Hỗ trợ miễn giảm học phí + Hỗ trợ chi phí học tập Hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo ở vùng

2

14.737 25.020 154.522 220.844 485.315

8.159,05 91.712,88 13.390,17 71.472,53 46.018,02

khó khăn Hỗ trợ tiền điện, trợ cấp khó khăn

3

97.957

37.051,47

cho hộ nghèo + Hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo + Trợ cấp khó khăn cho hộ nghèo

71.660 26.297

30.439,47 6.615,02

Nguồn: Sở lao động – Thương binh và xã hội tỉnh Điện Biên

109

Phụ lục 6: Nguồn vốn đầu tư NQ 30ª tại các huyện nghèo

2009 - 2013

Nguồn vốn

Số TT

Tổng cộng (tr.đồng)

Mường Nhé

Tủa Chùa

Mường Ảng

Nậm Pồ

Điện Biên Đông

A. Nguồn vốn từ ngân sách Trung ương hỗ trợ

Kinh phí giao 02 năm

1.000

1 2 3 4

53.650 8.650 45.000 60.710 6.710 54.000 51.355 9.055 42.300 45.597 16.183 29.414

55.270 10.270 45.000 54.710 6.710 48.000 43.055 9.055 34.000 41.423 14.554 26.869

55.270 10.270 45.000 52.710 6.710 46.000 40.255 9.055 31.200 39.314 16.064 23.250

53.650 8.650 45.000 55.710 6.710 49.000 44.055 9.055 35.000 41.341 14.693 26.648

1.000

217.840 2009-2010 37.840 Vốn sự nghiệp Vốn ĐTPT 180.000 Kinh phí giao năm 2011 223.840 26.840 Vốn sự nghiệp 197.000 Vốn ĐTPT Kinh phí giao năm 2012 178.720 36.220 Vốn sự nghiệp 142.500 Vốn ĐTPT Kinh phí giao năm 2013 168.675 61.494 Vốn sự nghiệp 107.181 Vốn ĐTPT Tổng kinh phí được cấp

1.000

5

đến 31/12/2013 Vốn sự nghiệp Vốn ĐTPT

789.075 162.394 626.681

212.312 40.598 171.714

187.549 42.099 145.450

194.756 39.108 155.648

1.000

196.190 37.371 158.819 B. Nguồn vốn từ các Tập đoàn, Tổng công ty trong nước hỗ trợ

Tổng kinh phí được cấp

1

đến 31/12/2013

266.228

43.300

60.000

99.928

63.000

Nguồn: Sở Lao động – Thương binh và xã hội tỉnh Điện Biên

Phụ lục 7: Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới (Quyết định

số 09/2011/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ)

STT

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Đơn vị

Tổng số hộ nghèo

Tổng số hộ

Tổng số hộ nghèo

110

Chung toàn tỉnh:

1 2

39.426 112 166

35,22% 0,83% 5,63%

TP. Điện Biên Phủ TX. Mường Lay Huyện Mường

46.786 248 212 7.328

43,80% 1,90% 8,04% 67,07%

nghèo 41.800 179 176 7.260

38,24% 1,35% 6,23% 63,19%

3

3.690

54,09%

Nhé Huyện Mường

5.847

60,64%

4.674

46,47%

4 5 6

4.113 5.239 7.425

53,50% 54,88% 45,28%

Chà Huyện Tủa Chùa Huyện Tuần Giáo Huyện Mường

6.179 8.566 5.365

69,52% 54,70% 58,97%

5.210 7.659 4.262

56,54% 47,83% 47,21%

6.420 6.621

25,23% 57,83%

5.398 5.982

20,82% 51,98%

7 8 9 10

Ảng Huyện Điện Biên H. Điện Biên Đông Nậm Pồ

3.978 4.651 5.445 4.607

42,22% 17,64% 47,65% 58,52%

Trong đó:

641

3,17%

Khu vực thành thị Khu vực nông

38.785

42,28%

thôn Chung các huyện

22.714

55,08% 22.959

50,92%

nghèo: