BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ --------
ĐINH MẠNH TRƯỜNG
ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI TẠI CÁC HUYỆN NGHÈO TỈNH ĐIỆN BIÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2014
BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ --------
ĐINH MẠNH TRƯỜNG
ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI TẠI CÁC HUYỆN NGHÈO TỈNH ĐIỆN BIÊN
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS VŨ QUANG LỘC
HÀ NỘI - 2014
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3
Chương 1 ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI – NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN
11 11 22 1.1. Quan niệm về đảm bảo An sinh xã hội 1.2. Nội dung và vai trò của đảm bảo An sinh xã hội
Chương 2 THỰC TRẠNG VIỆC ĐẢM BẢO AN SINH XÃ
HỘI TẠI CÁC HUYỆN NGHÈO TỈNH ĐIỆN
BIÊN THỜI GIAN QUA
31 31 41 70 2.1. Một số đặc điểm các huyện nghèo tỉnh Điện Biên 2.2. Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân 2.3. Những vấn đề đặt ra và cần giải quyết
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN
SINH XÃ HỘI CÁC HUYỆN NGHÈO TỈNH
ĐIỆN BIÊN TRONG THỜI GIAN TỚI 74
3.1. Những quan điểm cơ bản chỉ đạo đảm bảo An sinh xã
hội ở các huyện nghèo tỉnh Điện Biên 74
3.2. Giải pháp thực hiện đảm bảo An sinh xã hội các
huyện nghèo tỉnh Điện Biên 78
KẾT LUẬN 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
PHỤ LỤC 105
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
An sinh xã hội ASXH
Ngân hàng phát triển Châu Á ADB
Bảo hiểm xã hội BHXH
Bảo hiểm y tế BHYT
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN
Cộng hòa dân chủ nhân dân CHDCND
Công nghiệp xây dựng CNXD
Dân tộc nội trú DTNT
Dân tộc thiểu số DTTS
Giao thông nông thôn GTNT
Kế hoạch hóa gia đình KHHGĐ
Kinh tế xã hội KTXH
Mặt trận tổ quốc MTTQ
Ngân hàng thế giới WB
Nông lâm nghiệp NLN
Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc UNICEF
Thể dục thể thao TDTT
Thương mại cổ phần TMCP
Trung học cơ sở THCS
Trung học phổ thông THPT
Trợ giúp xã hội TGXH
Vật liệu xây dựng VLXD
Xã hội chủ nghĩa XHCN
Xóa đói giảm nghèo XĐGN
Xây dựng cơ bản XDCB
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảm bảo an sinh xã hội (ASXH) là một bộ phận trong mô hình phát
triển xã hội để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”. Hoạt động của hệ thống ASXH là nơi thể hiện rõ nhất tính “định
hướng xã hội chủ nghĩa” của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam, trong đó
con người luôn có được, bao gồm cả cảm nhận được, một cuộc sống yên ổn
và an toàn, có khả năng phòng ngừa những cú sốc và có những “chiếc phao
cứu sinh” khi gặp phải những biến cố, rủi ro bất thường. Dưới góc độ của
khoa học kinh tế chính trị ASXH được xem như là một khâu của quá trình tái
sản xuất xã hội: Phân phối lại thu nhập quốc dân để tái sản xuất sức lao động.
Đảm bảo ASXH ở nước ta hiện nay có vị trí, vai trò hết sức quan trọng
trong quá trình xây dựng, phát triển và ổn định đất nước, góp phần hiện thực
hóa các quyền xã hội của mọi người dân; đặc biệt đối với các huyện nghèo
tỉnh Điện Biên đảm bảo ASXH góp phần từng bước nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho đồng bào nghèo, người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa
những người có hoàn cảnh khó khăn… Với những chính sách đảm bảo ASXH
của Chính phủ bằng nhiều nguồn vốn khác nhau từ trung ương các tổ chức kinh
tế - xã hội và các cá nhân đã giúp người dân nơi đây từng bước thoát nghèo và
vươn lên làm giầu trên chính quê hương mình.
Đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên chính là nền tảng của
phát triển kinh tế - xã hội, nhằm điều tiết, phân phối lại thu nhập giữa các vùng
kinh tế và các nhóm dân cư, có thể được coi như là một giá đỡ đảm bảo thu nhập
cho người dân. Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững tại các
huyện nghèo ngang bằng với các huyện khác trong tỉnh Điện Biên.
Điện Biên là một tỉnh mới được thành lập, tách ra từ tỉnh Lai Châu cũ có
tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước. Toàn tỉnh hiện có 5/10 huyện nghèo theo
4
chuẩn mới của Chính phủ. Nhưng với những chủ trương, chính sách đúng đắn,
phát huy tốt nguồn lực tại chỗ và tận dụng tối đa nguồn lực hỗ trợ của Chính
phủ, cũng như các tổ chức kinh tế, tổ chức nhân đạo, từ thiện trong và ngoài
nước, tỉnh Điện Biên trong thời gian qua đã từng bước thực hiện tốt việc đảm
bảo ASXH, đời sống của người dân được đảm bảo, kinh tế, chính trị, xã hội
ngày càng phát triển ổn định…Các chương trình, dự án đảm bảo ASXH ngày
càng đồng bộ và hoàn thiện với số người dân tại các huyện nghèo được giải
quyết việc làm ngày tăng; số người tham gia BHXH ngày càng lớn, diện bao phủ
không ngừng được mở rộng; chính sách trợ giúp xã hội và hỗ trợ giảm nghèo
được triển khai đạt hiệu quả cao, tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo đã giảm
đáng kể; đảm bảo mức tối thiểu một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc
biệt là người nghèo, dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh khó khăn.
Tuy nhiên, trên thực tế việc đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh
Điện Biên hiện còn phân tán, chồng chéo, hiê ̣u quả chưa cao, tạo việc làm và
giảm nghèo chưa bền vững, tỉ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo còn cao; mức trợ cấp
xã hô ̣i còn thấp; giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; công tác
bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ người dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào
vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế; tỉ lệ trẻ em suy
dinh dưỡng còn cao và giảm chậm; tỉ lệ người tham gia Bảo hiểm xã hội
(BHXH), Bảo hiểm y tế (BHYT) còn thấp; đời sống của một bộ phận người
nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số chưa bảo đảm được mức tối thiểu và có sự
chênh lệch giữa miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với mức trung bình
chung của cả huyện.
Những hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là sự thiếu
thống nhất trong nhận thức về nô ̣i dung, vị trí và vai trò của đảm bảo ASXH
trong mô hình phát triển kinh tế - xã hội, nguồn lực tại chỗ của các huyện
nghèo trong thực hiện đảm bảo ASXH còn hạn chế, chủ yếu phải dựa vào
5
nguồn ngân sách của tỉnh, của Trung ương và sự hỗ trợ từ các tổ chức kinh tế,
xã hội khác; chưa khuyến khích người dân và các đối tác xã hội tích cực chủ
động tham gia, bởi vậy hệ thống ASXH chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội tại các địa phương.
Chính vì vậy, đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên nói
riêng, các huyện nghèo trong cả nước nói chung là một sự nghiệp cao cả và
còn phải nỗ lực phấn đấu lâu dài. Để làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn;
thực trạng và những quan điểm, giải pháp trong đảm bảo ASXH đối với các
huyện nghèo, tác giả xin lựa chọn vấn đề: “Đảm bảo An sinh xã hội tại các
huyện nghèo Tỉnh Điện Biên” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học chuyên
ngành kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, cùng với việc tập trung phát triển kinh tế, Đảng và
Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát triển hệ thống ASXH
nhằm bảo đảm quyền lợi của mọi người dân, đặc biệt chú ý đến người nghèo,
người dân tộc, dân cư vùng nông thôn, dân cư vùng sâu, vùng xa. Đầu tư của
Nhà nước cho ASXH ngày càng tăng, quản lý Nhà nước về ASXH từng bước
được tăng cường, sự tham gia của doanh nghiệp, người dân và các tổ chức xã hội
ngày càng nhiều. Nhờ vậy, tỷ lệ nghèo giảm nhanh, đối tượng tham gia và thụ
hưởng các chính sách ASXH ngày càng mở rộng và tăng về số lượng; người
dân, đặc biệt dân cư vùng nông thôn bước đầu đã chủ động phòng ngừa, đối phó,
giảm thiểu và khắc phục có hiệu quả những rủi ro, để ổn định cuộc sống, hoà
nhập tốt hơn vào cộng đồng.
Tuy nhiên, hệ thống ASXH còn nhiều bất cập, thể hiện ở mức độ bao phủ
thấp, đối tượng hưởng lợi còn hạn chế, các khoản tiền trợ cấp ASXH chỉ bảo
6
đảm một phần trong tổng nhu cầu chi tiêu của hộ gia đình. Bởi vậy để làm rõ
hơn kết quả thực hiện công tác ASXH ở nước ta trong thời gian qua đã có các
công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, trong đó đáng chú ý là công trình
của các tác giả sau:
* Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã xây dựng Đề án chiến lược
ASXH giai đoạn 2011-2020. Đề án đã đề cập trên góc độ lý luận về quá trình
thực hiện công tác ASXH như: quan điểm, đối tượng, mục tiêu, định hướng giải
pháp và kinh phí thực hiện ASXH.
Gần đây nhất tháng 1 năm 2014, Viện khoa học Lao động và xã hôi thuộc
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam đã phát hành cuốn sách có nội
dung đặc biệt quan trọng đến hệ thống các chính sách về ASXH của Việt Nam
với tên sau: “Phát triển hệ thống ASXH ở Việt Nam đến năm 2020”. Cuốn sách
đã nêu lên toàn bộ cơ sở lý luận, thực tiễn cũng như những nội dung, chính sách
chủ yếu và thực trạng của hệ thống ASXH ở Việt Nam hiện nay; định hướng
phát triển chính sách ASXH đến năm 2020; cuốn sách đã cung cấp đầy đủ
những nội dung cơ bản về hệ thống ASXH của Việt Nam, nêu lên thực trạng
công tác ASXH trong những năm qua, đồng thời đề ra những mục tiêu cụ thể cả
trước mắt cũng như lâu dài, định hướng chính sách phát triển công tác ASXH
trong thời gian tới. Cuốn sách của PGS.TS, Mai Ngọc Cường chủ biên, Chính
sách xã hội nông thôn: kinh nghiệm CHLB Đức và thực tiễn Việt Nam. NXB lý
luận chính trị, Hà nội 2006; và “Về an sinh xã hô ̣i ở Viê ̣t Nam giai đoạn 2012-
2020 NXB chính trị Quốc gia (năm 2013).
Đề tài cấp Bộ năm 2002 của các tác giả: Bùi Văn Hồng, nghiên cứu mở
rộng đối tượng tham gia BHXH đối với người lao động tự tạo việc làm và thu
7
nhập; Nguyễn Văn Định, tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam trong nền
kinh tế thị trường đề tài cấp Bộ (năm 2000); Nguyễn Tiệp, các giải pháp nhằm
thực hiện xã hội hoá công tác trợ giúp xã hội, đề tài cấp Bộ năm 2002; Đặng
Cảnh Khanh, vấn đề trợ giúp xã hội trong chính sách bảo đảm xã hội ở Việt
nam đề tài KX. 04. 05 (năm 1994);
* Công trình nghiên cứu cấp nhà nước mang mã số KX 04.05: “Luận cứ
khoa học cho việc đổi mới và hoàn thiện các chính sách bảo đảm xã hội trong
điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam”, do Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội thuộc Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội, làm chủ đề tài. Kết quả nghiên cứu của đề
tài đề cập đến một cách khá hệ thống vấn đề bảo đảm xã hội như: đã làm rõ khái
niệm về đảm bảo xã hội; mối quan hệ giữa bảo đảm xã hội với các chính sách xã
hội, vị trí, vai trò và sự cần thiết khách quan của bảo đảm xã hội trong nền kinh
tế thị trường, khẳng định bảo đảm xã hội vừa là nhân tố ổn định, vừa là động lực
cho phát triển kinh tế xã hội. Đề tài đã nghiên cứu khá công phu về các bộ phận
cấu thành quan trọng của bảo đảm xã hội là BHXH, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã
hội; đã đánh giá thực trạng của các bộ phận cấu thành này, chỉ ra những thành
tựu, hạn chế của nó và chỉ ra quan điểm, phương hướng và giải pháp phát triển
trong tương lai của hệ thống bảo đảm xã hội ở nước ta.
* Luận văn Tiến sỹ của tác giả Mai Ngọc Anh – Chuyên ngành quản lý
kinh tế, trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội với tên đề tài: “ASXH đối với
nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam”. Đề tài đã nghiên cứu
làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
ASXH đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường; tổng kết kinh nghiệm
8
về xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông dân ở một số nước trên
thế giới, rút ra những kinh nghiệm có thể vận dụng vào việc xây dựng hệ thống
ASXH đối với nông dân ở nước ta; khái quát thực trạng hệ thống ASXH ở nước
ta hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của hệ
thống ASXH hiện hành đối với nông dân.
* Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Chương Phát – Chuyên ngành
Kinh tế nông nghiệp, Trường đại học Kinh tế - Quản trị kinh doanh, Đại học
Thái Nguyên với đề tài: "Ảnh hưởng của hệ thống ASXH tới vấn đề nghèo đói
của hộ nông dân huyện Văn Chấn - tỉnh Yên Bái". Đề tài có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn, tạo điều kiện cho các cơ quan chính quyền, đoàn thể và nhân dân có
thể nhận diện bức tranh toàn cảnh về ASXH và ảnh hưởng của hệ thống ASXH
tới vùng nông thôn với một mức độ nhất định. Từ đó, giúp cho nhà nước có căn
cứ xây dựng pháp luật, chế độ, chính sách; phương hướng hoạt động phù hợp
nhằm tăng cường ASXH; cải thiện đời sống, xoá đói giảm nghèo và giảm thiểu
rủi ro cho những người bị thiệt thòi trong xã hội; đưa đất nước phát triển bền
vững đi lên trong nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây nhiều nhà khoa học, nhà nghiên
cứu đã có những bài viết, công trình nghiên cứu bàn về hệ thống ASXH, cũng
như đảm bảo ASXH ở nước ta hiện nay. Có thể nêu lên một số công trình nghiên
cứu, bài viết của một số tác giả như sau: Nguyễn Hải Hữu, Phát triển hệ thống
an sinh xã hội phù hợp với bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; Patricia Justino, khuôn khổ xây dựng tổng thể quốc gia về an sinh xã
hội ở Việt Nam (UNDP); PGS, TS Vũ Văn Phúc – Tổng biên tập Tạp chí Cộng
sản, An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn; GS, TS Hoàng
9
Chí Bảo – Hội đồng lý luận Trung ương, An sinh xã hội với ổn định và phát triển
bền vững ở Việt Nam (Tạp chí Tuyên giáo, năm 2014); ThS. Nguyễn Văn Chiều –
khoa Khoa học quản lý, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội, ASXH và định hướng nghiên cứu nhằm nâng cao vai trò của
khoa học xã hội vào quá trình hoạch định chính sách ASXH ở Việt Nam; Cùng tác
giả ThS. Nguyễn Văn Chiều có bài đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản, Quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện an sinh xã hội trong thời kỳ đổi
mới; ThS.Nguyễn Văn Hội, Phó cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội, Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội, tiếp tục thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo và
ASXH vùng đặc biệt khó khăn…
Các nghiên cứu trên tuy đã góp phần cung cấp cơ sở khoa học, lý luận
thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH nói chung ở nước
ta những năm qua. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đảm bảo ASXH dưới góc độ
của môn kinh tế chính trị ở một tỉnh miền núi mới được tách ra có nhiều
huyện nghèo vẫn chưa được giải quyết thấu đáo, còn nhiều vấn đề đặt ra nóng
bỏng, cấp bách cần giải quyết, đặc biệt những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn
tại các huyện nghèo, xã nghèo
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đảm bảo ASXH tại
các huyện nghèo tỉnh Điện Biên hiện nay trên góc độ của khoa học kinh tế chính
trị. Trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm và giải pháp để giải quyết vấn đề
ASXH ở các huyện này trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo
10
tỉnh Điện Biên hiện nay.
- Đánh giá thực trạng của đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh Điện
Biên thời gian qua và những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới.
- Đề xuất Quan điểm và giải pháp đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo
cho thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên theo nghĩa rộng.
* Phạm vi nghiên cứu
Lựa chọn 05 huyện nghèo tỉnh Điện Biên (Mường Nhé, Mường Ảng, Điện
Biên Đông, Tủa Chùa và Nậm Pồ); thời gian nghiên cứu từ năm 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
tái sản xuất sức lao động và nguồn lực con người trong phát triển kinh tế để làm rõ
các vấn đề lý luận đảm bảo ASXH, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt trong tình
hình kinh tế khó khăn, suy giảm.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, đề tài sử dụng phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị Mác - Lênin
(trừu tượng hoá khoa học) và các phương pháp khác như: kết hợp lôgíc và lịch sử,
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về đảm
11
bảo ASXH ở các huyện nghèo nói riêng và cả nước ta nói chung.
- Góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho các cơ quan chức năng và các
huyện nghèo trong lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện công tác đảm bảo ASXH trong
thời gian tới.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy và
học tập môn Kinh tế chính trị ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn kết cấu 3 chương (7 tiết).
12
Chương 1
ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Quan niệm về đảm bảo An sinh xã hội
1.1.1. An sinh xã hội và các nguyên tắc của nó
* Khái niệm về An sinh xã hội
ASXH là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Thực chất đây là
hoạt động thuộc khâu phân phối, cụ thể là sự phân phối lại thu nhập quốc dân
trong quá trình tái sản xuất để nhằm tái sản xuất sức lao động, chính vì vậy trong
tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta” C.Mác đặt vấn để phân phối trong sự liên
hệ với trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội. Mác cho rằng trong giai đoạn
đầu của xã hội cộng sản cũng không thể bỏ được nhà nước và pháp luật và với
sự phát triển của sức sản xuất đòi hỏi xã hội phải thực hiện phân phối “làm theo
năng lực, hưởng theo nhu cầu” mặc dù ở giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản
trình độ kinh tế còn có hạn nhưng con người đã được phát triển tự do, toàn diện
được xã hội quan tâm đến mọi mặt của đời sống. Theo Lê nin, cách phân phối
này là một “bước tiến vĩ đại” vì nó nói lên bọn bóc lột đã bị tiêu diệt, ai nấy
đều tham gia lao động, mọi người đều có quyền làm việc và có quyền hưởng
theo lao động của mình, được hưởng những thành quả của chủ nghĩa xã hôi.
Nhưng khi chuyển sang giai đoạn của xã hội cộng sản, Mác nói rõ thêm: cùng
với sự phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa, sức sản xuất xã hội được phát
triển, trình độ văn hóa được nâng cao; sự đối lập giữa lao động trí óc và lao
động chân tay, giữa thành thị và nông thôn được xóa bỏ, lao động trở thành
nhu cầu cần thiết bậc nhất cho sức sống của mọi người, và do đó, tất nhiên
phải chuyển sang một giai đoạn mới, một nguyên tắc mới là “làm theo năng
lực, hưởng theo nhu cầu”. Đó là lúc xã hội có thể sản xuất ra sản phẩm tiêu
dùng dồi dào đến mức không cần dùng phân phối lợi ích vật chất để kích
thích lao động nữa, con người khi đó được giải phóng một cách triệt để, được
tự do phát triển theo những khả năng của mình.
13
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác -
Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí
Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con
người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là
vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người.
Có thể coi hai câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới đây
mang hàm ý rộng lớn, sâu xa, liên quan đến ASXH: “Tôi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”. Và “Đảng cần có một kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn
hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” [6, tr.23].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ASXH hình thành và phát triển từ rất sớm.
Trong cuốn “Đường cách mệnh” xuất bản năm 1927, nói về công hội Nguyễn
Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã viết: “Lại có bất thường phí như để dành lúc bãi
công hoặc giúp những hội khác bãi công, hoặc giúp đỡ người mất việc làm,
khi ốm đau, tai nạn, hoặc làm những việc công ích”. Đây là ý tưởng manh nha
của BHXH, BHYT, ASXH. Ngay sau khi giành được chính quyền, năm 1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đứng đầu Nhà nước ta xây dựng và ban hành
Hiến pháp, trong đó quy định những người già, hoặc người tàn tật không việc
làm thì được giúp đỡ. Trong giai đoạn từ năm 1947 đến những năm 50 của thế
kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo, ban hành một loạt chính sách,
chế độ liên quan đến cán bộ, công chức, người lao động như chế độ tiền
lương, phụ phí, chế độ trợ cấp BHXH đối với cán bộ, công chức, viên chức;
chế dộ đãi ngộ quân nhân. Trong những năm 60 của thế kỷ XX, khi tổ chức
công đoàn phát triển, chế độ BHXH, chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu, tuất được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
tâm chỉ đạo, ban hành. Đây là những yếu tố nền tảng của ASXH.
14
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm, chăm lo đến toàn bộ các lĩnh
vực đời sống, các giai cấp, tầng lớp với tầm nhân văn, nhân sinh rộng lớn.
Hàng loạt bài nói, viết, chính sách chế độ được ban hành từ rất lâu, nhưng đến
nay vẫn còn nguyên tính chỉ đạo và giá trị thời đại như các tác phẩm, bài báo,
bài nói, các chính sách về lao động, việc làm; về dân số - kế hoạch hóa gia
đình; về y tế giáo dục; về tất cả các đối tượng, giai tầng, nghề nghiệp, các đối
tượng đặc thù, khó khăn trong xã hội [6, tr.24].
Như vậy, theo cách nhìn nhận như trên, chúng ta có thể tìm tòi, khám
phá, phát hiện và nhìn nhận những kía cạnh về ASXH trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Có thể khẳng định rằng cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
như những tư tưởng xuyên suốt, quán xuyến trong tư tưởng của Người là tất
cả vì dân, vì hòa bình, độc lập, tự do, ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Trong
điều kiện hoàn cảnh nước nhà còn nhiều khó khăn, Bác Hồ đã quan tâm đến
ASXH cụ thể: Các chính sách liên quan đến thương binh, bệnh binh, gia đình
liệt sỹ, những người đã phải chịu những hy sinh, mất mát vì nền độc lập,
thống nhất của dân tộc. Bác đã nhiều lần nhắc nhở: “Thương binh, bệnh binh,
gia đình quân nhân, gia đình liệt sỹ là người có công với Tổ quốc với nhân
dân cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu, giúp đỡ
họ, để họ có cuộc sống ổn định, bớt đi những khó khăn của sự mất mát hy
sinh”. Một trong những vẫn đề luôn được Bác quan tâm là vấn đề bảo vệ
quyền và lợi ích của người lao động. Trong bài viết ngày 29/10/1946 Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Công đoàn có nhiệm vụ giữ gìn quyền lợi cho
công nhân và giúp cho Chính phủ xây dựng đất nước. Chính phủ Việt Nam
luôn là Chính phủ dân chủ vì vậy đã ban hành Bộ luật lao động ấn định giờ
làm, tiền công, bảo vệ đàn bà, người già và trẻ em”. Khi nói đến quan điểm
của Người về ASXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một đối tượng được Bác
quan tâm là phụ nữ và vị trí gia đình trong xã hội và tư tưởng Hồ Chí Minh
còn thể hiện, thấm đượm trong việc xây dựng, thực hiện chính sách xã hội đối
15
với nhiều đối tượng trong xã hội như người già, trẻ em, thanh niên, trí thức,
công nhân, nông dân, học sinh, sinh viên, đồng bào các dân tộc thiểu số…
Chăm sóc xây dựng và thực hiện tốt chính sách, chế độ cho mọi đối tượng,
mọi tầng lớp trong xã hội chính là ASXH [6, tr.24-25].
Toàn bộ cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh thắm đượm tư tưởng vì
nhân dân, vì nhân loại. Lý tưởng, mục tiêu phấn đấu của Người là hòa bình,
độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người Việt Nam và nhân dân lao
động trên thế giới. Người quan tâm đến lợi ích thiết thân, hàng ngày của quần
chúng nhân dân, người lao động. Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Hiện nay ASXH là một thuật ngữ được dịch ra từ cụm từ social
security (Tiếng Anh) hoặc từ sécurites sociale (Tiếng Pháp). Đây là thuật
ngữ xuất hiện trong một đạo luật của Mỹ năm 1935. Trong đạo luật này
ASXH được hiểu là sự bảo đảm nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị cá
nhân, đồng thời tạo lập cho mỗi con người một đời sống sung mãn và hữu
ích để phát triển tài năng đến tột độ.
An sinh xã hội có nội dung rất rộng và ngày càng hoàn thiện về nhận thức
và thực tiễn thực hiện trên toàn thế giới. ASXH theo quan điểm của một số tổ
chức quốc tế cũng có mức độ rộng, hẹp và đối tượng hướng tới khác nhau:
Theo Liên hiệp quốc, ASXH tiếp cận trên quyền của người dân (Điều
25, Hiến chương Liên hiệp quốc năm 1948): “…Mọi người dân và hộ gia
đình đều có quyền có mức tối thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã hội bao
gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế (bao gồm cả thai sản), dịch vụ xã hội thiết yếu và
có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, góa
phụ, tuổi già… hoặc các trường hợp bất khả kháng khác…” [40, tr.11].
Theo Ngân hàng thế giới (WB) “ASXH là những biện pháp của chỉnh
phủ nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiền
16
chế được nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và
những bấp bênh thu nhập” [40, tr.11].
Thuật ngữ ASXH cũng được Tổ chức lao động quốc tế ILO ghi nhận:
“ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua
một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và
xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; bảo đảm chăm sóc y tế
và trợ cấp cho các gia đình đông con” [40, tr.11].
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) cũng cho rằng “ASXH là các
chính sách, chương trình giảm nghèo và giảm sự yếu thế bởi sự thúc đẩy có
hiệu quả thị trường lao động giảm thiểu rủi ro của người dân và nâng cao
năng lực của hộ để đối phó với rủi ro và suy giảm hoặc mất thu nhập”. ASXH
có 5 hợp phần: (i) các chính sách và chương trình thị trường lao động; (ii) bảo
hiểm xã hội; (iii) trợ giúp xã hội; (iv) quỹ hỗ trợ phát triển cộng đồng và (v)
bảo vệ trẻ em [40, tr.12].
ASXH là một vấn đề phong phú, phức tạp, là một “khái niệm mở” nên
có thể hiểu theo hai nghĩa: rộng và hẹp.
Theo nghĩa rộng, ASXH bao trùm lên nhiều mặt cuộc sống của con
người. Đó là các quan hệ hình thành trong nhiều lĩnh vực nhằm ổn định đời
sống, nâng cao chất lượng sống của các thành viên xã hội, góp phần ổn định,
phát triển và tiến bộ xã hội.
Theo nghĩa hẹp, ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên
của mình, trước hết và chủ yếu là những trường hợp bị giảm sút thu nhập
đáng kể do gặp những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, tàn tật, mất việc làm, mất người nuôi dưỡng, nghỉ thai sản, về già
cũng như các trường hợp bị thiên tai, dịch họa. Đồng thời, xã hội cũng ưu
đãi những thành viên của mình đã có những hành động xả thân vì nước, vì
dân, có những cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo
vệ tổ quốc.
17
Ở Việt Nam, thuật ngữ ASXH được tiếp cận dưới nhiều tên gọi khác
nhau như: bảo trợ xã hội, bảo tồn xã hội, bảo đảm xã hội, trật tự an toàn xã
hội. Có quan điểm cho rằng ASXH trước hết là sự bảo vệ của xã hội đối với
các thành viên của mình nhờ một loạt các biện pháp công cộng nhằm giúp đỡ
chống lại sự thiếu hụt về kinh tế mà họ có thể gặp phải do mất đi hoặc bị giảm
quá nhiều nguồn thu nhập bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.
Dưới góc độ Kinh tế chính trị: ASXH là một khâu của quá trình tái sản
xuất xã hội (gồm các khâu sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng). Thực chất
đây là hoạt động thuộc khâu phân phối, cụ thể là sự phân phối lại thu nhập quốc
dân (v + m) trong quá trình tái sản xuất để nhằm tái sản xuất sức lao động và
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, thực hiện định
hướng XHCN và mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Tiếp cận dưới góc độ quan hệ sản xuất: Đây là một hệ thống quan hệ
giữa người với người trong quá trình tái sản xuất xã hội. Các quan hệ đó gắn
người lao động cần được đảm bảo ASXH, các chủ thể kinh tế, các tổ chức kinh
tế - xã hội và nhà nước trong quá trình tái sản xuất mà trực tiếp là tái sản xuất
sức lao động thông qua các quan hệ phân phối và phân phối lại. Thu nhập quốc
dân và các nguồn lực khác phục vụ cho đời sống con người, phục vụ cho tái
sản xuất sức lao động, đồng thời thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, thể
hiện bản chất chủ nghĩa xã hội.
Mặc dù diễn đạt khác nhau, các quan niệm về ASXH đều có những
điểm chung sau đây:
Một là, ASXH là sự bảo đảm an toàn thu nhập ở mức tối thiểu thông
qua hệ thống các chính sách can thiệp nhằm quản lý rủi ro tốt hơn, bao gồm
các rủi ro liên quan đến nhu cầu cơ bản nhất của con người: rủi ro về sức
khỏe, thiếu hoặc mất việc làm, tuổi già, trẻ em, tàn tật…dẫn đến không có thu
nhập tạm thời hoặc vĩnh viễn so với mức tối thiểu đủ sống (được luật hóa
hoặc quy định).
18
Hai là, ASXH là các chính sách do Nhà nước tổ chức thực hiện là
chính, ngoài ra còn có sự tham gia của các tổ chức xã hội, cộng đồng và thị
trường trong việc tổ chức thực hiện và cung cấp dịch vụ ASXH. Các chính
sách này hướng đến mọi thành viên trong xã hội, bảo đảm cho mọi thành viên
được bình đẳng về tiếp cận và chất lượng dịch vụ, tuy nhiên, nhấn mạnh đến
nhóm đối tượng yếu thế (lý dó chính để có sự tham gia của nhà nước).
Ba là, ASXH là lưới an toàn cho mọi thành viên trong xã hội. Do đó,
phạm vi của ASXH là bao phủ toàn dân và toàn diện (cơ bản đáp ứng được
nhu cầu ASXH của người dân một cách toàn diện).
* Các nguyên tắc của ASXH
Thứ nhất: Nhà nước quản lý hoạt động ASXH
+ Nhà nước có trách nhiệm tổ chức các biện pháp bảo đảm xã hội đối
với các đối tượng bị giảm hoặc mất thu nhập, ngay từ đầu Nhà nước đã thành
lập Ban chỉ đạo thực hiện các chính sách về ASXH
+ Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý điều
chỉnh các hoạt động của ASXH; việc ban hành các văn bản, các chính sách,
pháp luật về ASXH tạo sự đồng bộ, thống nhất thực hiện từ Trung ương đến
địa phương.
+ Nhà nước thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của ASXH.
Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát là cách ngăn ngừa tốt nhất những vi
phạm, sai sót trong quá trình tổ chức thực hiện công tác ASXH,
+ Nhà nước tăng cường công tác thanh tra, phát hiện và xử lý nghiêm
minh mọi hành vi vi phạm pháp luật về ASXH.
+ Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí để thực hiện hoạt động ASXH
trong phạm vi cả nước.
Thứ hai: Phải bảo đảm xã hội cho mọi người bị giảm hoặc mất khả
năng lao động dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập do bị mất việc làm, do gặp
thiên tai, hoả hoạn hoặc các rủi ro khác.
19
Thứ ba: Thực hiện ASXH trên cơ sở sự đóng góp của các bên và sự trợ
giúp của toàn xã hội, sự chia sẻ của cộng đồng. Cùng với ngân sách nhà nước
và sự tham gia đóng góp của các thành phần trong xã hội và các tổ chức nước
ngoài và bằng chính sự tham gia, đóng góp của người thụ hưởng các chính
sách này.
Thứ tư: ASXH không nhằm mục đích lợi nhuận mà chủ yếu thực hiện
mục đích xã hội vì cộng đồng.
Thứ năm: Mức ASXH nhằm trợ giúp bảo đảm nhu cầu tối thiểu cho
những người thụ hưởng.
1.1.2. Quan niệm về đảm bảo An sinh xã hội
Về thuật ngữ “Đảm bảo an sinh xã hội” mỗi nước lại sử dụng thành
những từ khác nhau, mặc dù nội dung đều hiểu như nhau nhưng do được
dịch từ nhiều ngôn ngữ khác nhau (tiếng Anh: Social Security; tiếng Pháp:
Securite Sociale) nên có tài liệu dùng tên gọi là: Bảo đảm xã hội, An toàn
xã hội, Bảo trợ xã hội hoặc Đảm bảo an sinh xã hội. Để tránh lẫn với cụm
từ “Trật tự an toàn xã hội”, mà ở nước ta hay dùng với một ý nghĩa khác.
Trong bài viết này tác giả sử dụng cụm từ “Đảm bảo an sinh xã hội” cho
nội dung này. Theo nghĩa chung nhất Social Security là sự đảm bảo thực
hiện các quyền của con người được sống trong hoà bình, được tự do làm
ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khuôn khổ luật pháp; được
bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được học tập, được có việc làm, có
nhà ở; được đảm bảo thu nhập để thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết
yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già... Theo nghĩa này thì tầm “bao” của
Social Security rất lớn và vì vậy khi dịch sang tiếng Việt có nhiều nghĩa
như trên cũng là điều dễ hiểu. Theo nghĩa hẹp, Social Security được hiểu là
sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho
người lao động và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm
hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho những người già cả, cô
20
đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người nghèo đói và những người
bị thiên tai, địch hoạ...
Tại Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua, trên cơ sở phát triển kinh tế - xã
hội, cùng với việc không ngừng cải tiến chế độ tiền lương, tiền công và nâng
cao thu nhập cho người lao động, Đảng và Nhà nước rất quan tâm chăm lo đến
ASXH và phúc lợi xã hội cho nhân dân. Những năm sau đó, mặc dù trong điều
kiện còn hết sức khó khăn, thiếu thốn, nhưng Đảng và Nhà nước vẫn luôn dành
sự quan tâm đặc biệt đến công tác bảo đảm ASXH và phúc lợi xã hội.
Nhận thức, quan điểm và cơ chế chính sách phát triển hệ thống ASXH
và phúc lợi xã hội được hoàn thiện dần qua các kỳ đại hội của Đảng. Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: đảm bảo
ASXH là tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có
khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu
thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống.
Tăng tỉ lệ người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm. Đẩy mạnh xã hội
hoá dịch vụ bảo hiểm xã hội, chuyển các loại hình trợ giúp, cứu trợ xã hội
sang cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng. Bảo đảm cho các
đối tượng bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn định, hoà nhập tốt hơn vào cộng
đồng, có cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu. Thanh
tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội, đảm bảo
thực hiện đúng, đầy đủ chế độ quy định đối với mọi đối tượng. Tập trung
triển khai có hiệu quả các chương trình xoá đói, giảm nghèo ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hoá các nguồn lực và phương
thức xoá đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát
triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm để xoá đói, giảm nghèo bền
vững; tạo điều kiện và khuyến khích người đã thoát nghèo vươn lên làm giàu
và giúp đỡ người khác thoát nghèo. Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng
21
với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những
người và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách
người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ
trang, thanh niên xung phong trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến.
Tạo điều kiện, khuyến khích người và gia đình có công tích cực tham gia
phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, có mức sống cao
hơn mức sống trung bình của dân cư tại địa bàn.
Gần đây nhất tác giả PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn – Hiệu trưởng Trường
đại học kinh tế (Đại học quốc gia Hà Nội) trong bài: “ Kinh nghiệm phát triển
kinh tế gắn với đảm bảo an sinh xã hội ở Việt Nam” đăng trên tạp chí Tuyên
giáo số 1/2013 đã nêu khái niệm về đảm bảo ASXH: Đảm bảo ASXH là đảm
bảo cuộc sống an bình, hạnh phúc cho mọi tầng lớp dân cư trong xã hội, tránh
được sự bất hạnh, rủi ro trong cuộc sống của người dân. Hệ thống ASXH theo
quan điểm hiện đại là một cấu trúc thống nhất bao gồm năm yếu tố: Bảo hiểm xã
hội; Bảo hiểm y tế; Bảo hiểm thất nghiệp; Cứu trợ xã hội và trợ giúp; Ưu đãi xã
hội. Trên cơ sở nghiên cứu, kế thừa kết quả những công trình đã được nghiên
cứu, tác giả luận văn đưa ra quan niệm của mình về đảm bảo ASXH như sau:
Đảm bảo An sinh xã hội là tổng thể các hoạt động của toàn xã hội dựa
trên các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
nhằm huy động, hình thành và sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả các
nguồn lực vật chất, tài chính cho các đối tượng được hưởng chính sách
ASXH, để tạo điều kiện cho họ đảm bảo, nâng cao mức sống vật chất, văn
hóa, tinh thần và tái sản xuất sức lao động.
Cần hiểu rằng theo nghĩa đầy đủ hoạt động đảm bảo ASXH là công
việc của toàn xã hội trên một lĩnh vực rất rộng lớn, phức tạp và quan trọng
của toàn bộ đời sống xã hội. Đó là hoạt động mà mục tiêu cao cả của nó là vì
cuộc sống hạnh phúc và các quyền con người trong chế độ ta. Cho nên đảm
bảo ASXH không phải là sự ban phát hay đem đến cho đối tượng nào đó được
22
hưởng thụ những giá trị vật chất mang tính tạm thời giống như một sự cứu trợ
vì lý do của những hoàn cảnh không may mà đây là hoạt động có ý nghĩa kinh
tế, chính trị, xã hội mang tính nhân văn hết sức sâu sắc. Nếu xét trong quá
trình tái sản xuất xã hội thì nó thuộc về quá trình tái sản xuất sức lao động và
tái sản xuất các quan hệ sản xuất xã hội. Rõ ràng đảm bảo ASXH phản ảnh
bản chất của một chế độ kinh tế - xã hội nhất định. Bởi vậy, ở nước ta đảm
bảo ASXH được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của
Nhà nước, là sự nghiệp của toàn dân mà đối tượng được hưởng là mọi công
dân Việt Nam. Tất nhiên tùy theo hoàn cảnh, điều kiện khác nhau việc đảm
bảo ASXH cho tường đối tượng cụ thể sẽ có những nội dung và sự quan tâm
không giống nhau. Để xây dựng hoàn thiện hệ thống các giải pháp về đảm
bảo ASXH, không thể không tiếp cận theo phương pháp trong cách nhìn nhận
đánh giá đảm bảo ASXH về hình thành, vận hành trên nền tảng kinh tế - xã
hội với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, khách quan. Yêu cầu việc đảm bảo ASXH là
xuất phát từ thực tiễn khách quan, tất yếu, tự thân đối với mỗi đất nước, mỗi
cộng đồng nếu muốn hướng tới sự phát triển bền vững. Vì vậy, cần phải xác
định các nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng các chính sách đảm bảo ASXH
hoàn thiện vì mục tiêu lâu dài trong phát triển.
Cần khẳng định rằng điều có ý nghĩa quyết định để thực hiện được mục
tiêu, nhiệm vụ đảm bảo ASXH là việc phải tạo ra được các nguồn lực kinh tế,
vật chất tài chính cần thiết, trong điều kiện nước ta đang phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở những bước đầu tiên. Dù cho khi nền kinh tế
còn đang nghèo hay khi đã phát triển nếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước thì
không bao giờ có thể giải quyết được các yêu cầu lớn lao của đảm bảo ASXH.
Do đó việc xã hội hóa để tạo ta các nguồn lực sẽ là con đường cơ bản để thực
hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đảm bảo ASXH. Nói cách khác phải coi đó
là trách nhiệm, nghĩa vụ của các thành phần và tổ chức kinh tế, của tất các
nguồn lực trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng với các hoạt động của
các tổ chức, cá nhân và các thành phần xã hội khác.
23
1.2. Nội dung và vai trò của đảm bảo An sinh xã hội
1.2.1. Nội dung cơ bản của đảm bảo An sinh xã hội
Ở Việt Nam, việc đảm bảo ASXH là một hệ thống chính sách và giải
pháp được áp dụng rộng rãi để trợ giúp các thành viên trong xã hội đối phó
với những khó khăn khi gặp phải rủi ro dẫn đến mất hoặc suy giảm nghiêm
trọng nguồn thu nhập và cung cấp các dịch vụ chăm sóc về mọi mặt của đời
sống xã hội. Xét về thực chất, hệ thống ASXH là nhằm thực hiện 3 chức năng
chiến lược: Phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro.
Sơ đồ 1.1: Cấu trúc an sinh xã hội truyền thống
CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI
Nhóm chính sách ASXH không đóng góp: Chính sách về trợ giúp xã hội và giảm nghèo
Các quy định của thị trường lao động Chính sách thị trường lao động chủ động
Nhóm chính sách ASXH dựa vào đóng góp: Chính sách về bảo hiểm
Hiện nay tại Việt Nam đang áp dụng phổ biến cấu trúc đảm bảo ASXH
theo 4 nội dung cơ bản sau:
Một là, nhóm thực hiện chính sách thị trường lao động chủ động là các
chính sách về việc làm, giáo dục đào tạo, thông tin việc làm, tín dụng … cho
đối tượng đang có nhu cầu tìm việc làm, thường là người thất nghiệp, thiếu
việc làm và thậm chí là cả những người đang có nhu cầu tìm việc làm tốt hơn
với mục tiêu nâng cao cơ hội tham gia hoặc tái hòa nhập vào thị trường lao
động. Nguồn tài chính dành cho việc thực hiện các chính sách này thường
được lấy từ thuế và từ đóng góp.
24
Chính sách thị trường lao động trọng tâm của nó là trợ giúp tạo việc
làm cho các đối tượng yếu thế trong thị trường lao động và trợ cấp cho số lao
động dôi dư do quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp, cổ phần hoá các doanh
nghiệp. Mục tiêu phát triển thị trường lao động là đảm bảo phân bổ tối ưu các
nguồn lực, thúc đẩy việc làm bền vững thông qua kết nối giữa cung – cầu lao
động, giảm thiểu thất nghiệp, bảo vệ và hỗ trợ cho các đối tượng yếu thế.
Hai là, nhóm thực hiện chính sách BHXH
Bảo hiểm là sự bảo đảm thay thế hay bù đắp một phần thu nhập của
người dân khi họ gặp rủi ro trong đời sống (sức khỏe, tai nạn, mùa màng…)
thông qua việc đóng thường xuyên một khoản tiền (phí bảo hiểm) cho tổ chức
(nhà nước hoặc tư nhân) tương ứng với xác xuất xảy ra và chi phí của rủi ro
liên quan đến chu kỳ sống của người lao động và gia đình họ.
Chính sách bảo hiểm xã hội tốt đóng vai trò tích cực cho sự phát triển
ổn định kinh tế - xã hội, mang đến trạng thái an toàn về tinh thần, giảm bớt sự
lo âu trước rủi ro, bất trắc cho người được bảo hiểm; giảm sức ép đối với hệ
thống phúc lợi xã hội; Chính sách BHXH bao gồm các chế độ hưu trí, mất sức
lao động; ốm đau, thai sản, tại nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và tử tuất. Tuy
nhiên, chế độ ốm đau lại được giải quyết chủ yếu thông qua chính sách bảo
hiểm y tế bắt buộc và số lượng tham gia không lớn, do vậy vẫn có trụ cột thứ
ba là BHYT với phạm vi rộng hơn so với bảo hiểm y tế bắt buộc.
Cấu phần BHXH bao gồm: bảo hiểm y tế; bảo hiểm xã hội tự nguyện;
bảo hiểm xã hội bắt buộc; bảo hiểm thất nghiệp.
Ba là, nhóm thực hiện các chính sách trợ giúp xã hội và hỗ
trợ giảm nghèo
Trợ giúp xã hội là sự trợ giúp bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật của Nhà
nước (lấy từ nguồn thuế, không phải đóng góp của người nhận) nhằm đảm bảo
mức sống tối thiểu cho đối tượng được nhận. Hầu hết các khoản trợ cấp dựa
trên cơ sở đánh giá gia cảnh hoặc mức thu nhập nhất định. Theo quan điểm
hiện đại, trợ giúp xã hội bao gồm 3 loại hình: hỗ trợ thu nhập, trợ cấp gia đình
25
và dịch vụ xã hội. Các chính sách/ chương trình này hướng vào những người
sống trong nghèo cùng cực, nghèo và dễ bị tổn thương, ngăn chặn sự suy giảm
trong thu nhập và năng lực tiêu dùng của những người trong tình huống dễ bị
tổn thương, kết nối và tạo điều kiện tiếp cận các dịch vụ trợ giúp xã hội.
Chính sách giảm nghèo là tập hợp các chính sách, biện pháp và dự án
nhằm thúc đẩy khả năng tiếp cận của người nghèo đến dịch vụ sản xuất và
dịch vụ xã hội, như: chương trình mục tiêu giảm nghèo, chương trình 134,
chương trình 135, và chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tại 63
huyện nghèo trong cả nước (Nghị quyết 30a của Chính phủ). Hỗ trợ giảm
nghèo cho các đối tượng yếu thế (đối tượng bảo trợ xã hội) bao gồm trợ cấp
xã hội hàng tháng cho đối tượng bảo trợ xã hội (trẻ em mồ côi; người già cô
đơn; người 90 tuổi trở lên không có nguồn thu nhập; người tàn tật nặng; gia
đình có từ hai người tàn tật nặng trở lên không có khả năng tự phục vụ; người
có HIV/AIDS nhà nghèo; gia đình, người nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ
em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt); trợ giúp về y tế; giáo dục; dạy
nghề, tạo việc làm; tiếp cận các công trình công cộng; hoạt động văn hoá thể
thao và trợ giúp khẩn cấp mà từ trước đến nay hay gọi là trợ giúp xã hội cho
những người không may gặp rủi ro đột xuất bởi thiên tai.
Bốn là, nhóm thực hiện các chính sách dịch vụ xã hội cơ bản
Dịch vụ xã hội cơ bản là dịch vụ cung cấp cho các đối tượng nhằm đáp
ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, do vậy, có vai trò quan trọng và
quyết định sự thành công của các chính sách ASXH.
Dịch vụ xã hội cơ bản có vai trò rất qua trọng trong hệ thống ASXH.
Các hoạt động giúp người dân tiếp cận hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản là
những hoạt động đầu tiên và ở tầng thấp nhất trong hệ thống ASXH, tạo điều
kiện cho người dân từng bước vươn lên để có cuộc sống tốt hơn.
Các dịch vụ xã hội cơ bản, gồm:
26
* Dịch vụ việc làm: tạo điều kiện cho những người thuộc nhóm thu
nhập thấp có việc làm và tham gia các hoạt động sản xuất tạo thu nhập có thể
đáp ứng được nhu cầu tối thiểu và duy trì được sự độc lập về tài chính.
* Dịch vụ công tác xã hội: trợ giúp những đối tượng khó khăn, không
nơi nương tựa; giúp người tàn tật có khả năng sống độc lập hơn và tham gia
một cách tích cực trong các hoạt động kinh tế cũng như hoạt động cộng đồng;
* Dịch vụ y tế: thúc đẩy việc chăn sóc sức khỏe, chính sách và các
chương trình trợ giúp người nghèo (chính sách và chương trình xóa đói giảm
nghèo). Đây là một hệ thống chính sách, giải pháp mới được hình thành trong
vài thập kỷ gần đây, ở Việt Nam bắt đầu từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX [40, tr20-
27].
Sơ đồ 1.2: Hệ thống an sinh xã hội Việt Nam giai đoạn 2012-2020
27
1.2.2. Vai trò của đảm bảo An sinh xã hội trong xây dựng và bảo vệ
tổ quốc ở nước ta hiện nay
Đảm bảo ASXH là một lĩnh vực hoạt động rất rộng lớn trong toàn bộ
đời sống kinh tế - xã hội lấy con người làm đối tượng của mọi quốc gia nên
nó có ý nghĩa rất quan trọng trên nhiều mặt kinh tế, chính trị, xã hội…Đối với
nước ta ý nghĩa đó càng trở nên đặc biệt trên con đường phát triển theo định
hướng XHCN, vì chính trên lĩnh vực hoạt động này tính ưu việt của chế độ
kinh tế, chính trị, xã hội mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn được thể hiện rất rõ
nét. Vai trò, ý nghĩa của đảm bảo ASXH đối công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ
quốc ở nước ta có thể trình bày trên một số nội dung sau:
Thứ nhất: Đảm bảo ASXH là sự thể hiện rõ nét bản chất ưu việt của
chế độ XHCN, mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh tất cả vì hạnh phúc của con người.
Thuật ngữ ASXH chỉ mới xuất hiện trong những văn kiện, tài liệu, sách
báo ở nước ta thời gian gần đây nhưng những nội dung cơ bản của nó đã được
Bác Hồ khẳng định trong tư tưởng của người và được xác định từ rất lâu trong
các văn kiện, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước theo con đường XHCN
Đảng ta xác định lấy con người làm trung tâm. Con người vừa là mục tiêu vừa
là động lực của toàn bộ sự nghiệp đổi mới. Đảm bảo ASXH đã trở thành một
phần cấu thành trong các hoạt động của toàn xã hội để thực hiện mục tiêu đó,
mặc dù vậy trong điều kiện kinh tế chưa phát triển, của cải vật chất chưa dồi
dào nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn giành sự quan tâm hàng đầu cho các vấn
đề quan trọng và thiết thực của đảm bảo ASXH chứ không chờ đến khi có
trình độ phát triển cao về kinh tế. Đặc biệt là các lĩnh vực y tế, giáo dục, chính
sách với những người có công với nước, có hoàn cảnh khó khăn, nạn nhân
của chiến tranh, chất độc da cam, thiên tai, đồng bào DTTS, những địa
phương nghèo…
28
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước và sự
phấn đấu nỗ lực vượt bậc của toàn dân, đến nay công tác đảm bảo ASXH đã
đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được nhân dân đồng tình, quốc tế đánh giá
cao: số hộ nghèo giảm từ 29% (năm 2002) xuống còn 9,5% (năm 2011); chỉ
số phát triển con người (HDI) tăng từ mức 0,683 (năm 2000) lên mức 0,728
(năm 2011), xếp thứ 128/187 nước, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới;
năm 2011 nước ta đã hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ
(MDGs) do Liên hợp quốc đề ra cho các nước đang phát triển đến năm 2015.
Như vậy, công cuộc xóa đói giảm nghèo, thực hiện bình đẳng giới, nâng cao
chỉ số phát triển con người, nâng cao tuổi thọ trung bình, đẩy mạnh sự nghiệp
giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho toàn dân, Liên hiệp quốc đã coi Việt Nam
như một điểm sáng của việc thực hiện các mục tiêu thiên kỷ.
Thứ hai: Thực hiện đảm bảo ASXH là sự thể hiện kế thừa, phát huy
truyền thống và những tinh hoa tốt đẹp của dân tộc ta, kết hợp những truyền
thống và tinh hoa đó và những mục tiêu cao cả của XHCN, để trở thành
những động lực mới phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong suốt một ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước dân tộc ta có
những truyền thống lịch sử và nền văn hóa với những giá trị hết sức quý giá.
Đó là lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng trong lao động và chiến đấu chống
giặc ngoại xâm, chống thiên tai, cùng với tinh thần đoàn kết cộng đồng, yêu
thương gắn bó, lòng vị tha cao thượng. Những nhân tố đó tạo nên nét văn hóa
Việt Nam với sức mạnh bất diệt để giúp dân tộc ta vượt qua mọi thử thách
đánh thắng mọi kẻ thù, giữ gìn và bảo vệ nền độc lập dân tộc và trường tồn
của tổ quốc Việt Nam. Những truyền thống và tài sản vô giá đó được mang
những nội dung mới và phát huy cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh – thời đại
của độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
29
Đảm bảo ASXH ở nước ta hiện nay mang trong bản chất và nội dung
của nó những mục tiêu cao cả của CNXH kết hợp và phát huy, phát triển lên
tầm cao mới những truyền thống và tinh hoa văn hóa lịch sử tốt đẹp của dân
tộc để trở thành động lực mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Được sống trong độc lập tự do và có một cuộc sống bình đẳng, công bằng,
các quyền của con người được tôn trọng là mơ ước ngàn đời của những người
lao động. Song trong các chế độ dựa trên chế độ tư hữu và tồn tại ách áp bức,
bóc lột, những mơ ước đó mãi mãi chỉ là mơ ước mà thôi. Chỉ có trong xã hôi
XHCN mà chúng ta đang xây dựng và sẽ đi tới, những ước mơ đó mới có các
điều kiện và khả năng để hiện thực hóa. Đảm bảo ASXH chính là cả mục đích
và phương tiện để đạt tới. Bởi vậy đảm bảo ASXH trở thành một trong những
động lực mạnh mẽ để thực hiện thành công mục tiêu xây dựng xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
Thứ ba: Thực hiện đảm bảo ASXH nhằm xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, xây dựng nền tảng chính trị của chế độ XHCN và thế trận quốc
phòng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thực hiện đảm bảo ASXH không chỉ có ý nghĩa trực tiếp về mặt kinh
tế như là một sự đãi ngộ hay trợ giúp đối với những người được hưởng chính
sách mà còn có ý nghĩa chính trị, xã hội hết sức to lớn vì đó là sự thể hiện về
thái độ, quan điểm của chế độ với con người. Bởi vậy cùng với các hoạt động
khác nó là sự giáo dục, truyền bá có hiệu quả các quan điểm, đường lối, chính
sách đến từng người dân và cộng đồng xã hội. Thông qua đó nâng cao trình
độ giác ngộ, lòng yêu nước, yêu chế độ, truyền thống và các giá trị văn hóa
lịch sử làm cho mọi người vững tin ở sự lãnh đạo của Đảng, tính ưu việt của
chế độ XHCN, sự quản lý của Nhà nước, nâng cao nhận thức về thái độ, trách
nhiệm của công dân, nhận rõ những âm mưu thủ đoạn, hành động của các thế
30
lực thù địch tự giác và tích cực xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc bảo
vệ Đảng bảo vệ chế độ.
Thực hiện đảm bảo ASXH trong đó rất nhiều nội dung có quan hệ trực
tiếp đến xây dựng nền quốc phòng toàn dân như chính sách hậu phương quân
đội… Nói rộng ra nó có một vai trò to lớn trong xây dựng thế trận lòng dân
của sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân.
Thứ tư: Đảm bảo ASXH còn có ý nghĩa đối với tham gia hội nhập quốc
tế, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay đảm bảo
ASXH đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, như là một hoạt động tham gia tích
cực vào xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế và các mặt khác của đời sống
quốc tế. Các hoạt động thuộc lĩnh vực ASXH đã trở thành mối quan tâm chung
của cả cộng đồng quốc tế vì con người. Liên hiệp quốc đã có những mục tiêu
và chương trình thiên niên kỷ về chống bênh tật, đói nghèo; các tệ nạn, đối phó
với những biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu với sự tham gia của cộng
đồng các quốc gia trên thế giới. Với tư cách là một quốc gia thành viên của tổ
chức lớn nhất hành tinh và nhiều tổ chức văn hóa, nhân đạo khác lại là nước
chịu nhiều đau thương, hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh việc tích cực,
chủ động tham gia của nước ta và thực hiện tốt các hoạt động ASXH được
cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Liên hiệp quốc và nhiều tổ chức quốc tế coi
Việt Nam như là một tấm gương trong thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ.
Mặt khác thực hiện có hiệu quả ASXH của chúng ta đã góp phần giữ vững ổn
đinh chính trị tạo ra các yếu tố cần thiết, điều kiện và môi trường đầu tư thuận
lợi để mời gọi, thu hút đầu tư từ các nước khác vào Việt Nam, ngày càng nâng
cao úy tín và vị thế của nước ta trong con mắt của bạn bè quốc tế, với những
hoạt động chủ động, tích cực của chúng ta cũng là điều kiện thuận lợi để các
31
nguồn lực từ bên ngoài về vật chất, tài chính, khoa học, thông tin, công nghệ và
sự hợp tác nhiều mặt từ bạn bè quốc tế để thực hiện đảm bảo ASXH.
*
* *
Như vậy, thực hiện việc đảm bảo ASXH là một trong những nhiệm vụ vô
cùng quan trọng và cấp bách của mỗi một quốc gia, dân tộc; nó làm cho đất
nước ngày một phát triển trên mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và văn
hóa, thể hiện tính ưu việt một xã hội phát triển, hội nhập toàn cầu. Thực vậy đảm
bảo ASXH đã trở thành mối quan tâm chung của cả cộng đồng quốc tế vì quyền
con người. Đối với nước ta đảm bảo ASXH còn là lĩnh vực thể hiện rõ rệt nhất
tính chất ưu việt của chế độ XHCN mà Đảng và nhân dân ta lấy làm mục tiêu, lý
tưởng để phấn đấu. Ở lĩnh vực này là sự thể hiện sự kết hợp những mục tiêu cao
cả của thời đại với những tinh hoa, truyền thống tốt đẹp của lịch sử và văn hóa
của dân tộc ta đã kết tinh từ suốt bốn nghìn năm. Nó thực sự trở thành động lực
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
32
Chương 2
THỰC TRẠNG VIỆC ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI TẠI CÁC HUYỆN
NGHÈO TỈNH ĐIỆN BIÊN THỜI GIAN QUA
2.1. Một số đặc điểm các huyện nghèo tỉnh Điện Biên
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
* Vị trí địa lý
Tỉnh Điện Biên gồm 10 đơn vị hành chính trực thuộc, cụ thể: Thanh
phố Điện Biên Phủ, thị xã Mường Lay, các huyện Mường Chà, Điện Biên,
Tuần Giáo và 5 huyện nghèo Mường Nhé, Điện Biên Đông, Mường Ảng, Tủa
Chùa, Nậm Pồ (mới tách ra từ huyện Mường Nhé năm 2012).
Các huyện nghèo được kết nối với thành phố Điện Biên Phủ thông qua
hệ thống các tuyên quốc lộ 6, quốc lộ 12, quốc lộ 729…đường thuỷ là hệ
thống sông Đà, qua Lào Cai có tuyến đường sắt và tuyến hàng không Hà Nội
- Điện Biên.
Huyện Mường Nhé là huyện nằm ở phía tây bắc của tỉnh Điện Biên có
diện tích đất tự nhiên 2.507,90 km2, gồm 16 đơn vị hành chính ( 15 xã, 01 thị
trấn), có đường biên giới dài với nước Lào và Trung Quốc, trong đó: biên giới
với Lào dài 360 km và biên giới với Trung Quốc dài 38,5 km. Trên tuyến biên
giới Việt - Lào ngoài 2 cửa khẩu đã được mở là Huổi Puốc và Tây Trang, còn 3
cặp cửa khẩu phụ khác sắp tới sẽ được mở. Trên tuyến biên giới Việt - Trung
sẽ mở cặp cửa khẩu A Pa Chải - Long Phú thành cửa khẩu Quốc gia sẽ là lợi
thế rất lớn để Điện Biên phát triển kinh tế cửa khẩu, mở rộng giao lưu hợp tác
với các tỉnh Bắc Lào và tỉnh Vân Nam - Trung Quốc. Đặc biệt cửa khẩu Tây
Trang từ lâu đã là cửa khẩu quan trọng của vùng Tây Bắc và cả nước đã được
Chính phủ hai nước thỏa thuận nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế và Khu kinh tế
cửa khẩu đang được xây dựng. Đây là điều kiện và cơ hội rất lớn để huyện
nghèo đẩy mạnh thương mại quốc tế, tiến tới xây dựng khu vực này thành địa
bàn trung chuyển chính trên tuyến đường xuyên Á phía Bắc, nối liền vùng Tây
Bắc Việt Nam với khu vực Bắc Lào - Tây Nam Trung Quốc và Đông Bắc
33
Mianma... huyện có ví trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh đối với
vùng Trung du miền núi Bắc Bộ và cả nước.
Huyện Tủa Chùa là huyện nằm ở phía đông bắc của tỉnh với diện tích đất
tự nhiên 679,41 km2, gồm 13 đơn vị hành chính trực thuộc (11 xã, 01 thị trấn),
nằm ở khu vực đầu nguồn 3 con sông lớn của cả nước là sông Đà, sông Mã và
sông Mê Kông, trong đó riêng lưu vực Sông Đà có diện tích khoảng 5.300
km2, chiếm 55% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, do vậy có vai trò hết sức quan
trọng trong việc phòng hộ đầu nguồn, bảo vệ các công trình thuỷ điện lớn trên
sông Đà và điều tiết dòng chảy cho các khu vực hạ lưu.
Huyện Mường Ảng là huyện nằm phía đông, đông bắc của tỉnh, phía
Đông giáp với huyện Tuần Giáo; phía Tây giáp huyện Điện Biên; phía Nam
giáp huyện Thuận Châu (tỉnh Sơn La) và huyện Điện Biên Đông; phía Bắc
giáp huyện Tuần Giáo và huyện Mường Chà với diện tích đất tự nhiên 443,20
km2, gồm 10 đơn vị hành chính trực thuộc (9 xã, 01 thị trấn), là huyện có vị trí
địa lý quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Huyện Điện Biên Đông nằm phía đông nam của tỉnh, phía Bắc giáp
huyê ̣n Mường Ảng; phía Nam giáp huyê ̣n Điê ̣n Biên và huyê ̣n Sông Mã; phía
Đông giáp huyê ̣n Sông Mã và huyê ̣n Sốp Cô ̣p của tỉnh Sơn La; phía Tây giáp
huyê ̣n Điê ̣n Biên và thành phố Điê ̣n Biên Phủ, với 1.206,39 km2 đất tự nhiên,
gồm 14 đơn vị hành chính trực thuộc (13 xã, 01 thị trấn). Hệ thống sông suối ở
Điện Biên Đông dày đặc, độ dốc lớn nên có tiềm năng phát triển thủy điện và
thủy lợi, đất đai ở Điện Biên Đông thích hợp cho việc trồng các loại cây như:
lúa, ngô, lạc, trầu, bông, chè, gấc và chăn nuôi trâu, bò…
Huyện Nậm Pồ mới được thành lập năm 2012 nằm ở phía tây bắc của
tỉnh, phía Đông giáp huyện Mường Chà, phía Tây giáp huyện Mường Nhé,
phía Nam giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, phía Bắc giáp huyện
Mường Tè, tỉnh Lai Châu, có diện tích tự nhiên gần 150.000 km 2; dân số gần
44.000 nhân khẩu thuộc 10 dân tộc với trên 95% cư dân là đồng bào dân tộc
34
thiểu số trên cơ sở tách 10 xã thuộc huyện Mường Nhé và 5 xã thuộc huyện
Mường Chà; Huyện có 2 tuyến đường từ trung tâm đi các các huyện, thị,
thành phố trong tỉnh: một tuyến từ trung tâm huyện ra Km45, quốc lộ 4H đi
huyện Mường Chà; một tuyến từ trung tâm huyện ra Km70, quốc lộ 4H đi
huyện Mường Nhé, thông ra lối mở A Pa Chải – Long Phú. Khu vực trung
tâm huyện có địa hình tương đối bằng phẳng, 2 bên là triền đồi thoải, có suối
Nậm Pồ chảy qua tạo cảnh quan thoáng đẹp. Việc mở cặp cửa khẩu phụ này
đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân hai bên biên giới; người dân có
cơ hội, điều kiện để qua lại thăm hỏi, thông thương, trao đổi hàng hóa, qua đó
thắt chặt thêm tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa hai nước Việt Nam-Lào,
đây sẽ là điều kiện mang đến những cơ hội trong quan hệ hợp tác phát triển
kinh tế-xã hội, giữ gìn an ninh khu vực biên giới giữa 2 huyện Nậm Pồ -
Mường Mày nói riêng, 2 tỉnh Điện Biên – Phoong Sa Lỳ nói chung.
* Đặc điểm địa hình
Do ảnh hưởng của các hoạt động kiến tạo nên địa hình của các huyện
nghèo tỉnh Điện Biên rất phức tạp, được cấu tạo bởi những dãy núi chạy dài
theo hướng Tây Bắc - Đông Nam với độ cao biến đổi từ 200 m đến hơn 1.800
mét. Địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và nghiêng dần từ Tây sang Đông.
Ở phía Bắc có các điểm cao 1.085 m, 1.162 m và 1.856 m (thuộc Mường
Nhé), cao nhất là đỉnh Pu Đen Đinh cao 1.886 m. Ở phía Tây có các điểm cao
1.127 m, 1.649 m, 1.860 m và dãy điểm cao Mường Phăng kéo xuống Tuần
Giáo. Xen lẫn các dãy núi cao là các thung lũng, sông suối nhỏ hẹp và dốc
phân bố khắp nơi trên địa bàn tỉnh, trong đó đáng kể có thung lũng Mường
Thanh rộng hơn 150 km2, là cánh đồng lớn và nổi tiếng nhất của tỉnh và toàn
vùng Tây Bắc. Núi bị bào mòn mạnh tạo nên những cao nguyên khá rộng như
cao nguyên A Pa Chải (huyện Mường Nhé), cao nguyên Tả Phình - Tủa
Chùa. Ngoài ra còn có các dạng địa hình thung lũng, sông suối, thềm bãi bồi,
nón phóng vật, sườn tích, hang động castơ, mô sụt võng... phân bố rộng khắp
trên địa bàn, nhưng diện tích nhỏ.
35
Nhìn chung địa hình ở các huyện nghèo khá hiểm trở, một số khu vực
thuộc cao nguyên ở Mường Nhé, Tủa Chùa... địa hình tương đối bằng phẳng,
còn hầu hết là địa hình đồi núi dốc, hiểm trở và chia cắt mạnh nên gặp rất
nhiều khó khăn trong việc phát triển sản xuất, xây dựng hạ tầng, nhất là hệ
thống giao thông và tổ chức địa bàn dân cư xã hội.
* Đặc điểm khí hậu, thời tiết
Các huyện nghèo tỉnh Điện Biên có khí hậu thuộc loại nhiệt đới gió
mùa núi cao, mùa đông tương đối lạnh và ít mưa, mùa hè nóng, mưa nhiều
với các đặc tính diễn biến thất thường, phân hoá đa dạng, ít chịu ảnh hưởng
của bão, chịu ảnh hưởng vừa của gió tây khô và nóng.
Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 210 – 230 C, nhiệt độ trung bình thấp
nhất thường vào tháng 12 đến tháng 2 năm sau (từ 140 – 180 C), các tháng có
nhiệt độ trung bình cao nhất từ tháng 4 - 9 (250 C), chỉ xảy ra các khu vực có
độ cao thấp hơn 500m.
Lượng mưa hàng năm trung bình từ 1300 mm đến 2000mm, thường
tập trung theo mùa, mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Độ ẩm
trung bình hàng năm từ 76 - 84%.
* Đặc điểm nguồn nước và thủy năng
Nguồn nước mặt trên địa bàn thuộc 3 hệ thống sông chính:
- Các suối thuộc Mường Chà, Mường Nhé, thị xã Mường Lay và Tủa
Chùa thuộc lưu vực của sông Đà. Dòng chính sông Đà đến Thị xã Mường Lay
là ranh giới giữa hai tỉnh Điện Biên, Lai Châu.
- Nước mặt phân bố ở các huyện Điện Biên, Điện Biên Đông và thành
phố Điện Biên Phủ với diện tích 1.650 km2, được tập trung dồn về sông Nậm
Rốm và là lưu vực của sông Mê Kông.
- Nước mặt phân bố ở các huyện Tuần Giáo và Điện Biên Đông với
diện tích 2.550km2 là lưu vực của sông Mã.
36
Sông suối các huyện dốc, lắm thác nhiều ghềnh, có lượng dòng chảy
lớn. Lượng dòng chảy giảm dần từ phía Bắc đến phía Nam. Các huyện
Mường Chà và phía bắc Tuần Giáo có một dòng chảy từ 30 đến 40 l/s/km2;
huyện Điện Biên và phía nam Tuần Giáo chỉ còn 20 l/s/km2. Sông suối nơi
đây nhiều, nguồn nước tương đối dồi dào, tuy nhiên, do cấu tạo địa chất cộng
với địa hình cao, dốc nên khả năng giữ nước vào mùa khô rất khó.
Về tiềm năng thủy điện: Do nằm ở vùng núi cao, nhiều sông suối, lắm
thác ghềnh, lưu lượng dòng chảy mạnh... nên các huyện nghèo tỉnh Điện Biên
có tiềm năng thuỷ điện rất phong phú và đa dạng về quy mô. Theo khảo sát sơ
bộ, có nhiều điểm có khả năng xây dựng nhà máy thuỷ điện, trong đó đáng
chú ý là các điểm: Thuỷ điện Mùn Chung trên suối Nậm Pay, thuỷ điện
Mường Pồn trên suối Nậm Ty, thuỷ điện Nậm Mức trên sông Nậm Mức, thuỷ
điện Nậm He trên suối Nậm He, thuỷ điện Nậm Pồ, trên suối Nậm Pồ, hệ
thống thuỷ điện trên sông Nậm Rốm, Nậm Khẩu Hu...
Tuy nhiên việc khai thác các tiềm năng này còn ở mức khiêm tốn. Hiện
nay trên địa bàn tỉnh mới có một số nhà máy thuỷ điện như Nà Lơi 9.300
KW, thác Bay 2.400 KW, Thác trắng 6.200 KW, Nậm Mức 44 Mw được xây
dựng và khai thác khá hiệu quả.
* Tài nguyên đất: Điện Biên có tổng diện tích tự nhiên là 955.409ha.
Trong đó hầu hết đất đai có độ dốc lớn, tầng canh tác mỏng; cùng với đặc
điểm trên 5 huyện nghèo đều nằm ở những vùng đất có độ dốc trên 250 0
chiếm hơn 70% quỹ đất, chỉ thích hợp cho phát triển lâm nghiệp, trồng và tái
sinh rừng. Diện tích có độ dốc từ 15 - 250 chiếm 25%. Đất có độ dốc dưới
150 chỉ chiếm 4% quỹ đất, trong đó khoảng 75% có tầng dày trên 50 cm...
- Quỹ đất thích hợp cho gieo trồng lúa nước chỉ chiếm khoảng 1,5%
tổng diện tích tự nhiên, bao gồm các loại đất phân bố ở độ dốc dưới 80; chủ
yếu là nhóm đất phù sa.
- Quỹ đất thích hợp cho cây ngắn ngày khác (lúa nương, hoa màu, cây
công nghiệp ngắn ngày...) chiếm khoảng 1,6% tổng diện tích tự nhiên, bao
37
gồm các loại đất có độ dốc 8 - 150, tầng dày trên 70cm, chủ yếu là nhóm đất
feralit đỏ vàng.
- Quỹ đất thích hợp cho phát triển cây dài ngày theo phương thức nông
lâm kết hợp chiếm khoảng 18% tổng diện tích tự nhiên; gồm các loại đất phân
bố ở độ dốc dưới 150, tầng dày từ 50 - 70cm và ở độ dốc từ 15 - 250, tầng đất
dày trên 70cm. Chủ yếu là nhóm đất feralit đỏ vàng.
- Quỹ đất dành cho phát triển lâm nghiệp chiếm khoảng 75% tổng diện
tích tự nhiên, bao gồm các loại đất nằm ở độ dốc trên 250 và một phần đất ở
độ dốc dưới 250 nhưng có tầng đất dày mỏng, chỉ dưới 50 cm.
Diện tích đất đang sử dụng vào sản xuất nông, lâm nghiệp của Điện
Biên có 479.817ha, chiếm 50,2% diện tích tự nhiên của tỉnh, diện tích đất
đang sử dụng vào sản xuất nông, lâm nghiệp của các huyện nghèo chiếm đến
70% diện tích tự nhiên. Trong đó đất sử dụng vào sản xuất nông nghiệp là
111.749ha, chiếm 11,6% diện tích tự nhiên; đất sử dụng vào sản xuất lâm
nghiệp là 367.398 ha, chiếm 38,5% và mặt nước nuôi trồng thủy sản là 670ha,
chiếm 0,07% diện tích tự nhiên của tỉnh. Đất chưa sử dụng tại các huyện
nghèo rất lớn, tới 326.372ha, chiếm trên 50% tổng diện tích tự nhiên, trong đó
chủ yếu là đất dốc chỉ có khả năng phát triển lâm nghiệp.
* Tài nguyên khoáng sản: Đến nay trên địa bàn tỉnh và các huyện
nghèo đã xác định được 32 điểm quặng sắt và kim loại, 14 điểm mỏ than,
trong đó có 2 điểm đó được đánh giá trữ lượng cấp C1 và nhiều điểm khoáng
sản VLXD, nước khoáng... nhưng chưa được thăm dò đánh giá sâu về trữ
lượng và chất lượng. Sơ bộ cho thấy, các khoáng sản chính ở Điện Biên gồm
có: sắt, chì - kẽm, nhôm, đồng, thủy ngân...
- Sắt có phân bố rải rác ở các huyện Điện Biên, Tuần Giáo và Mường
Chà với quy mô nhỏ, chỉ ở mức điểm quặng và chưa xác định được trữ lượng.
38
- Chì - kẽm phân bố tập trung quanh huyện Điện Biên, Điện Biên
Đông, Tủa Chùa và thành phố Điện Biên Phủ. Hiện nay có điểm quặng chì
kẽm ở khu vực Tuần Giáo đang hoạt động.
- Qua khảo sát sơ bộ phát hiện mỏ đồng ở khu vực Chà Tở huyện
Mường Chà với trữ lượng khá lớn nhưng chưa được thăm dò đánh giá cụ thể.
- Nhôm và nhôm - sắt có triển vọng ở xã Phình Sáng huyện Tuần Giáo
với trữ lượng cấp P khoảng 40 - 50 triệu tấn.
* Tiềm năng du lịch: Ngoài khu di tích lịch sử Điện Biên Phủ, khu chỉ
huy chiến dịch Mường Phăng, Các huyện nghèo còn có tiềm năng văn hóa phi
vật thể, với các dân tộc anh em chung sống, mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa
riêng rất đa dạng, điển hình là dân tộc Thái, dân tộc H'Mông với những nét
văn hoá đặc trưng riêng, gồm cả văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể, rất
thích hợp để phát triển du lịch văn hoá.
Bên cạnh đó có nhiều hang động, nguồn nước khoáng và hồ nước tạo
thành nguồn tài nguyên du lịch thiên nhiên phong phú như: Rừng nguyên sinh
Mường Nhé; các hang động tại Pa Thơm (Điện Biên), Thẩm Púa (Tuần Giáo);
các suối khoáng nóng Hua Pe, U Va; các hồ Pá Khoang, Pe Luông, Huổi Phạ, ...
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội và những thuận lợi, khó khăn của các
huyện nghèo
* Về dân số và lao động: Dân số trung bình tính đến thời điểm 31/12/2012
là: 519.300 người, mật độ dân số bình quân 54 người/ km2, Riêng 5 huyện nghèo
dân số chiếm đến trên 60% dân số toàn tỉnh,, dân số trung bình của 5 huyện nghèo
là 311.599 người với mật độ 45 – 48 người/km2.
Trên địa bàn các huyện nghèo hiện có 21 dân tộc sinh sống, trong đó
dân tộc Thái chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 42,2%, tiếp đến là dân tộc H’Mông
chiếm 27,2%, dân tộc Kinh chiếm 19%, dân tộc Khơ Mú 3,9%, còn lại là các
dân tộc khác như Dao, Hà Nhì, Hoa, Kháng... Các dân tộc nơi đây có những
nét văn hoá đặc trưng của đồng bào khu vực Tây Bắc.
39
Lao động: Số người trong độ tuổi lao động các huyện là 183.843 người,
chiếm 59%/tổng dân số. Hằng năm, duy trì việc làm ổn định cho 147.074 lao
động, giải quyết việc làm mới 5.559 lao động. Hiện nay hầu hết là lao động
nông, lâm nghiệp chiếm tới 75,6% tổng số lao động đang làm việc; lao động
công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 9,5% và lao động khu vực dịch vụ chiếm
14,9%. Số lao động chưa có việc làm hiện còn khá lớn, khoảng 25.810 người,
chiếm 8,6% tổng số lao động có khả năng lao động.
Về chất lượng nguồn nhân lực: Những năm gần đây chất lượng lao động
ở các huyện đã được cải thiện một bước, trình độ văn hoá của lực lượng lao
động ngày được nâng cao. Tỷ lệ lao động không biết chữ và chưa tốt nghiệp
phổ thông giảm, số lao động tốt nghiệp THCS và THPT ngày càng tăng. Số lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật tăng nhanh. Chất lượng nguồn nhân lực
của các huyện hiện nay còn rất thấp so với các địa phương khác trong tỉnh, tỷ lệ
lao động qua đào tạo của các huyện đến năm 2013 chỉ chiếm 21,4% số lao
động trong độ tuổi, hầu hết lao động qua đào tạo đều là cán bộ, công chức làm
việc trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, sự nghiệp và các tổ chức đoàn thể...
tập trung ở các trung tâm thị trấn huyện. Tại các khu vực khác, số lao động có
kỹ thuật tay nghề không đáng kể. Hiện nay chất lượng nguồn nhân lực của các
huyện hiện còn nhiều bất cập cả về số lượng cũng như chất lượng và cơ cấu.
* Tình hình phát triển kinh tế
Các huyện nghèo của tỉnh Điện Biên có nhiều tiềm năng và lợi thế để
phát triển kinh tế, cùng với những chính sách đúng đắn, các chương trình, dự
án hỗ trợ kịp thời đã đưa các huyện nghèo đạt được những thành tựu khá quan
trọng về phát triển kinh tế - xã hội: tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai
đoạn 2011-2013 đạt 9,64%, riêng năm 2013 đạt 8,55% (theo giá so sánh
1994), năm 2013 chưa đạt mục tiêu kế hoạch là 9,72%, tuy nhiên vẫn cao hơn
so với bình quân chung toàn quốc 5,42%; đây là kết quả của sự nỗ lực, phấn
đấu tích cực của cả hệ thống chính trị trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó
khăn, thách thức. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng xác định, tăng dần tỷ
40
trọng công nghiệp- xây dựng, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, cụ
thể: Nông - Lâm - Nghiệp tăng 4,95%; công nghiệp xây dựng tăng 5,56%; các
ngành dịch vụ tăng 11,04% so với năm 2012. GDP bình quân đầu người (theo
giá hiện hành) ước đạt 20,41 triệu đồng/người/năm, tăng 16,2% so với năm
2012. Cơ cấu kinh tế năm 2013, khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản chiếm
25,76%, giảm 1,67%; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 29,52%, giảm
0,82%; khu vực dịch vụ chiếm 44,72%, tăng 2,5% so với năm 2012. Quy mô
GDP theo giá thực tế năm 2010 đạt 5.625 tỷ đồng, gấp 2,37 lần năm 2005,
Thu nhập bình quân đầu người (giá thực tế) tăng từ 4,46 triệu đồng năm 2005
lên 11,15 triệu đồng năm 2010, mức tăng bình quân đạt 20,1% năm [35, tr.1].
Từ khi tách ra và thành lập mới, dựa vào nội lực cùng với sự quan tâm
giúp đỡ của Trung ương, Điện Biên và các huyện nghèo đã xây dựng và phát
triển được hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở, nhất là nâng cấp cải tạo 3 tuyến
quốc lộ 6, quốc lộ 12 và quốc lộ 729, phát triển cơ bản hệ thống giao thông
nông thôn, xây dựng nhiều công trình thủy lợi, phát triển hệ thống điện, xây
dựng hệ thống các trường học, trạm y tế ở các tuyến tỉnh, huyện và cơ sở
đồng bộ, phát triển hệ thống thông tin và truyền thông có độ bao phủ lớn…
đây chính là cơ sở quan trọng cho sự phát triển ổn định và bền vững của tỉnh
cũng như các huyện nghèo.
* Thuận lợi khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội ở các
huyện nghèo
Thuận lợi: Các huyện nghèo có lợi thế lớn về tiềm năng đất đai, đặc
biệt là diện tích đất chưa sử dụng còn rất lớn ( chiếm 55% tổng diện tích tự
nhiên). Đây chính là tiềm năng lợi thế lớn để các huyện đầu tư phát triển lâm
nghiệp, trồng cây công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, trồng rừng… nếu được
đầu tư thoả đáng và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật thì sẽ trở thành nơi sản
xuất lúa gạo chất lượng cao để xuất khẩu. Tại các vùng Mường Nhé, Si Pa
Thìn, có rất nhiều thuận lợi để tập trung phát triển chăn nuôi các loại gia súc
theo hướng kinh tế trang trại.
41
Ngoài những tiềm năng trên, các huyện nghèo còn có đường biên giới
chung với nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào và Trung Quốc. Tại đây có
các cửa khẩu Tây Trang (đang đề nghị được nâng cấp thành cửa khẩu quốc
tế), cửa khẩu Pa Thơm, cửa khẩu Mường Lói, cửa khẩu A Pa Chải… Đây là
những cửa khẩu quan trọng để tỉnh Điện Biên mở mang phát triển kinh tế và
giao lưu với các nước. Đồng thời còn có nhiều tiềm năng để phát triển thuỷ
điện và các nguồn điện năng khác.
Khó khăn: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa thực sự vững chắc, chất
lượng của tăng trưởng kinh tế còn thấp, thiếu bền vững: sự tăng trưởng đạt
được phụ thuộc rất lớn vào chi tiêu từ nguồn ngân sách nhà nước, việc khai
thác các tiềm năng lợi thế của địa phương đóng góp cho tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu chưa nhiều; Tăng trưởng kinh tế mới chỉ diễn ra theo
chiều rộng, chưa theo chiều sâu, tốc độ tăng trưởng có được chủ yếu nhờ mở
rộng quy mô sản xuất, phụ thuộc vào yếu tố vốn đầu tư và lao động trình độ
thấp, hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm sản xuất chiếm tỷ trọng
nhỏ, sản phẩm sản xuất có quy mô nhỏ, sức cạnh tranh thấp, nhiều sản phẩm
có mức tăng không ổn định.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chưa vững chắc, cơ cấu thành phần kinh tế
đã chuyển dịch theo hướng xác định nhưng chưa mạnh mẽ, việc thực hiện
chính sách phát triển các thành phần kinh tế còn hạn chế, kinh tế cá thể quy
mô nhỏ manh mún còn chiếm tỷ trọng lớn, hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp Nhà nước của địa phương còn thấp.
Sản xuất nông lâm nghiệp tuy đã đạt được những kết quả khích lệ
nhưng quy mô vẫn còn nhỏ bé, tiềm năng về rừng và đất rừng chưa được khai
thác hiệu quả, tỷ lệ che phủ của rừng tăng thấp (37,4%).
Công nghiệp tăng trưởng chưa ổn định, quy mô ngành công nghiệp
nhỏ, mức đóng góp vào nền kinh tế còn thấp.
42
Các thành phần kinh tế phát triển còn nhiều hạn chế, kinh tế quốc doanh
địa phương mặc dù đã được sắp xếp, đổi mới nhưng vẫn có nhiều doanh nghiệp
làm ăn kém hiệu quả làm suy giảm phần vốn đầu tư của Nhà nước. Các thành
phần kinh tế phát triển nhưng chưa bền vững, chủ yếu tập trung ở lĩnh vực dịch
vụ; lĩnh vực sản xuất và trồng rừng bước đầu có sự đầu tư của một số doanh
nghiệp lớn nhưng đa số đang ở giai đoạn đầu tư kiến thiết ban đầu.
Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã có những bước phát triển tích cực so
với giai đoạn trước, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, cụ thể: vẫn còn
30/112 xã ô tô không đi lại được vào mùa mưa; 10/112 xã chưa có điện lưới
quốc gia, 24,5% số hộ chưa được sử dụng điện; 2.543 phòng học tạm và thiếu
khoảng 1.141 phòng ở cho học sinh bán trú dân nuôi; 9 xã chưa có nhà trạm y
tế và 31 trạm y tế xã hiện đã xuống cấp nghiêm trọng; 96 xã và 1.551 thôn,
bản chưa có nhà văn hóa.
Thu ngân sách trên địa bàn chiếm tỷ trọng thấp, nguồn thu không ổn
định: Nguồn thu còn phụ thuộc nhiều vào các công trình xây dựng từ ngân
sách Nhà nước, thu từ các hoạt động sản xuất kinh doanh còn ít, thu ngân sách
trên địa bàn mới chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu chi của địa phương.
Tỷ lệ huy động ngân sách trong GDP mặc dù đã được cải thiện song vẫn còn
có khoảng cách khá xa so với bình quân chung toàn quốc (4,8% so với 22%).
Công tác xoá đói, giảm nghèo chưa bền vững (chưa đạt mục tiêu NQ): tỷ lệ
hộ đói nghèo cao, số hộ cận nghèo nhiều, chênh lệch về mức sống giữa các vùng
còn lớn, công tác điều tra, rà soát hộ nghèo của cấp huyện còn nhiều bất cập nên
một số huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao nhưng không được hưởng chính sách đầu tư,
hỗ trợ theo Nghị quyết 30a như huyện Mường Chà, huyện Điện Biên...
Sự nghiệp giáo dục, y tế được quan tâm phát triển song vẫn còn nhiều
khó khăn: Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, chưa đồng
đều giữa các vùng, miền trong tỉnh. Tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại
học còn ở mức thấp; đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục còn bất cập
về cơ cấu, vùng miền. Số giáo viên, cán bộ quản lý giỏi phân bố không đều,
chiếm tỷ lệ cao ở các vùng đô thị; thiếu ở vùng sâu, vùng xa.
43
Nhân lực ngành y tế còn bất cập cả về thành phần và cơ cấu cán bộ; nhân
lực y tế dự phòng còn thiếu so với nhu cầu; thiếu bác sĩ và dược sĩ đại học, đặc
biệt ở tuyến huyện, xã. Chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa
gia đinh còn nhiều hạn chế, tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ sơ sinh còn cao. Một số chỉ
tiêu về chăm sóc sức khỏe trẻ em đến năm 2010 không đạt mục tiêu đề ra. Các
nguy cơ dịch bệnh như: sốt rét, thương hàn và các dịch bệnh nguy hiểm khác
như cúm A(H5N1, H1N1), dịch tả… còn tiềm ẩn diễn biến phức tạp, có thể
bùng phát dịch, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Bức xúc xã hội vẫn diễn biến phức tạp: Số đối tượng nghiện ma túy, lây
nhiễm HIV/AIDS có chiều hướng gia tăng, hiệu quả cai nghiện ma túy thấp,
tỷ lệ tái nghiện chiếm tới trên 96%; số hộ thoát nghèo hàng năm giảm thấp, tỷ
lệ hộ nghèo còn cao.
Công tác cải cách hành chính có tâ ̣p trung thực hiê ̣n nhưng mô ̣t số nơi
còn chưa đáp ứng yêu cầu. Sự phối kết hợp giữa các cấp, các ngành trong
công tác quản lý còn chưa chặt chẽ làm giảm hiệu lực, hiệu quả công tác quản
lý Nhà nước; Trình độ đội ngũ cán bộ, công chức chưa đồng đều, một số cán
bộ cơ sở cấp xã còn bất cập về trình độ học vấn và chuyên môn, nghiệp vụ.
Quốc phòng an ninh trật tự xã hội còn diễn biến phức tạp như lợi dụng
tự do tín ngưỡng tôn giáo, truyền đạo trái pháp luật, di dịch cư tự do,… tiềm
ẩn những nguy cơ gây mất ổn định chưa được giải quyết triệt để; tai nạn giao
thông và vi phạm trật tự an toàn giao thông trên địa bàn vẫn còn ở mức cao.
Các tệ nạn xã hội như: buôn bán và sử dụng chất ma túy, tệ nạn mại dâm, mê
tín dị đoan, trộm cắp... vẫn còn tồn tại ở một số nơi và chưa có biện pháp xóa
bỏ triệt để.
2.2. Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
2.2.1. Những thành tựu đạt được trong những năm qua
Đảm bảo ASXH là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về
trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư.
44
Thành tựu đạt được tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên trong những năm qua
đã góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững và thực hiện công bằng xã hội,
được cộng đồng quốc tế đánh giá cao; đặc biệt để tiếp tục khẳng định tình
cảm, trách nhiệm và tính nhân văn, tính đoàn kết cộng đồng “lá lành đùm lá
rách” trong con người Việt Nam.
Khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân
trong các huyện nghèo tỉnh Điện Biên ngày càng được cải thiện cũng là một điểm
nhấn quan trọng trong đảm bảo ASXH, nổi bật như: “chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới”; chương trình “Hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền
vững” theo tinh thần Nghị quyết 30a của Chính phủ… Những chương trình hỗ trợ
của Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội và mọi người dân đã thực sự đem lại hiệu
quả đối với nhiều đối tượng trong xã hội. Trong số 58 chương trình, dự án giảm
nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số và trẻ em tỉnh Điện Biên nổi bật là các chương
trình 134, 135 giai đoạn 2; chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững; các Dự án
cho vay ngành dệt may, nuôi trồng, chăm sóc và chế biến cây công nghiệp … Bên
cạnh đó, những chương trình hướng tới từng đối tượng trong xã hội ở các lĩnh vực
giáo dục, y tế, người nghèo như: khuyến khích hỗ trợ học sinh nghèo, trẻ em mắc
bệnh hiểm nghèo có hoàn cảnh khó khăn… đã thực sự có được những hiệu quả thiết
thực với nhiều đối tượng trong xã hội, góp phần từng bước nâng cấp, cải thiện chất
lượng sống cho người dân. Hàng chục ngàn căn nhà đại đoàn kết đã đem lại mái ấm,
sự ổn định an cư lạc nghiệp cho người dân nghèo ở các vùng quê khó khăn tại các
huyện nghèo, hàng ngàn cặp phao cứu sinh đã giảm thiểu tỷ lệ học sinh đuối nước
tại các vùng quê sông nước, hàng trăm trẻ em mắc bệnh tim bẩm sinh đã được phẫu
thuật, có cuộc sống khỏe mạnh, hòa nhập với cộng đồng…
* Kết quả cụ thể:
Thứ nhất: Chính sách hỗ trợ tạo việc làm, tham gia thị trường lao động
cho lao động nông thôn, đồng bào DTTS có thu nhập ổn định.
Chính sách hỗ trợ tạo việc làm tại các huyện nghèo của tỉnh Điện Biên
trong những năm qua luôn được quan tâm thực hiện có hiệu quả, các chương
45
trình hỗ trợ tạo việc làm cho những người thất nghiệp, mất sinh kế hoặc chưa
có việc làm tại các huyện nghèo, cụ thể:
Trên cơ sở số liệu tại phụ lục 1 thể hiện quy mô việc làm và việc làm mới tăng
thêm hàng năm: toàn tỉnh giải quyết việc làm hằng năm tăng thêm trên 8.500 lao động,
trong đó đã xuất khẩu trung bình hằng năm được 118 lao động.. Tính riêng trong 4 huyện
nghèo với tổng số việc làm thường xuyên hàng năm cũng tăng lên bình quân khoảng
1.100 người/năm ở cả 4 huyện; số lao động có việc làm mới cũng tăng bình quân khoảng
3,5%/năm, đặc biệt năm 2013 tỷ lệ việc làm mới tăng trung bình 13% so với năm 2012,
cụ thể Huyện Điện Biên Đông tăng 13 lao động, huyện Mường nhé tăng 83 lao động;
huyện Tủa Chùa tăng 189 lao dộng và huyện Mường Ảng tăng 289 lao đông.
Hình 2.1. Chỉ số việc làm tại 4 huyện nghèo giai đoạn 2011 – 2013
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [31], [32], [33], [34])
Cơ cấu việc làm tại các huyện nghèo chuyển dịch tích cực theo hướng
tăng tỷ lệ lao động công nghiệp xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ lệ lao động làm
việc trong khu vực nông – lâm - nghiệp: toàn tỉnh lao động nông nghiệp từ
73,1% năm 2010 xuống còn khoảng 70% năm 2013, lao động công nghiệp và
xây dựng tăng từ 9,4% năm 2010 lên 11% năm 2013 và lao động khu vực
46
thương mại - dịch vụ tăng từ 17,5% năm 2010 lên 19% năm 2013; riêng trong
4 huyện nghèo cơ cấu lao động cũng có sự thay đổi theo hướng tăng tỷ lệ lao
động làm việc trong khu vực công nghiệp – xây dựng và thương mại – dịch
vụ, giảm tỷ lệ lao động làm việc trong nông lâm nghiệp, tuy nhiên tỷ lệ lao
động làm việc trong khu vực nông lâm nghiệp vẫn còn cao như: huyện
Mường Nhé, Tủa Chùa đến nay chiếm đến 78% lao động làm việc trong khu
vực nông lâm nghiệp, huyện Điện Biên Đông, Mường Ảng chiếm 76%. Sở dĩ
cơ cấu lao động tại các huyện nghèo có sự chuyển dịch nhanh về các ngành
công nghiệp - xây dựng và dịch vụ - thương mại là do trong những năm gần
đây được Chính phủ, tỉnh và huyện có nhiều chính sách đảm bảo ASXH tập
trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông nông thôn và các dịch vụ
công ích khác nên đã tạo nhiều việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn…
Hình 2.2. Cơ cấu việc làm toàn tỉnh và 5 huyện nghèo năm 2013
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [28], [31], [32], [33], [34])
Nhìn chung công tác giải quyết và tạo việc làm mới tại các huyện nghèo luôn
được tổ chức thực hiện có hiệu quả, coi đây là bước đột phá về chiến lược lao động tại
huyện, từ đó làm động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, cải thiện dần
đời sống tinh thần cho người dân nơi đây. Thực tế tỷ lệ lao động qua đào tạo so với số
lao động trong độ tuổi tại các huyện ngày một tăng từ 21,4% năm 2010 đến nay đã
tăng lên 27%. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số
47
cũng được cải tiện đáng kể nhất là khi có các chính sách, dự án hỗ trợ chăm sóc và
trồng rừng tái sinh, chương trình giải nghèo nhanh và bền vững tại vùng khó khăn...
Công tác đào tạo nghề: hiện đã có 04/05 huyện nghèo thành lập trung
tâm dạy nghề; các cơ sở đào tạo, dạy nghề đã từng bước mở rộng quy mô, đa
dạng hóa hình thức đào tạo, kết hợp giữa đào tạo nghề tập trung và đào tạo nghề
ngắn hạn gắn với nhu cầu sử dụng; Trong 3 năm toàn tỉnh đã dạy nghề cho
27.732 học viên, trong đó: Cao đẳng và trung cấp nghề là 2.528 học viên; dạy
nghề ngắn hạn và sơ cấp là 25.204 học viên (Đào tạo nghề ngắn hạn cho lao
động nông thôn, thanh niên DTTS và người tàn tật; dạy nghề cho người nghèo
thuộc chương trình giảm nghèo; dạy nghề thuộc chương trình 135; tỷ lệ lao động
qua đào tạo nghề tăng thêm năm 2010 đạt 29,5%, tăng 13,1% so với năm 2005
(tăng 3,5% so với mục tiêu Đề án). Tính riêng trong 3 năm 2011-2013 đã tổ
chức dạy nghề ngắn hạn cho 23.226 lao động, kinh phí thực hiện 28.783 triệu
đồng, tăng bình quân hằng năm là 100 lao động [34], [35].
Hình 2.3. Số lao động đào tạo nghề các huyện nghèo giai đoạn 2011 – 2013
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ [31], [32], [33], [34])
Chính sách tín dụng đầu tư tạo việc làm: Các chính sách tín dụng tạo việc
làm, hệ thống thông tin thị trường lao động, mạng lưới trung tâm dịch vụ việc làm
48
công lập và doanh nghiệp, các chương trình đào tạo nghề, trợ cấp thất nghiệp và việc
làm công ngày càng phát huy vai trò trong việc kết nối cung cầu lao động. Trong 03
năm (2011-2013), đã được Trung ương bổ sung 13.760 triệu đồng vào quỹ quốc gia
về việc làm của tỉnh; tổ chức cho vay và giải quyết việc làm mới cho 3.290 lao động,
đây chủ yếu là số lao động tại các huyện nghèo, gồm: giải quyết cho vay, tạo việc
làm mới cho 2.190 lao động với kinh phí đến 30/12/2012 là 61.000 triệu đồng; kết
hợp cùng với số vốn thu hồi được trong năm, đã cho vay 760 dự án, với số vốn cho
vay trong năm là 26.101 triệu đồng, đạt 155,7% kế hoạch, trong đó: có 24 dự án cơ
sở sản xuất kinh doanh, với số vốn vay là 2.266 trệu đồng; 736 dự án hộ, nhóm hộ
gia đình với số vốn vay là 23.835 triệu đồng. Thông qua nguồn vốn cho vay quỹ
quốc gia về việc làm đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết việc làm, tạo việc
làm mới cho 1.095 lao động, đạt 101,8% kế hoạch (chiếm khoảng 13% tổng số việc
làm mới được tạo ra trong năm) [31], [32], [33], [34], [36].
Dự án hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài: Công tác xuất
khẩu lao động được đẩy mạnh, số lao động được xuất khẩu trong 5 năm (2005 –
2010) đã tổ chức cho 557 người; 03 năm (2011-2013) toàn tỉnh có 396 lao động đi
xuất khẩu lao động tại các thị trường Malaysia, Hàn quốc, Arapxeut, Nhật bản, Đài
loan. Trong đó, các huyện nghèo có số lao động xuất khẩu lao động còn thấp,
huyện Điện Biên Đông đã có 114 lao động xuất cảnh sang thị trường Malaysia,
Hàn Quốc... tăng bình quân các năm là 0,8%; huyện Mường Ảng đã có 109 lao
động sang làm việc ở nước ngoài, tăng bình quan các năm 0,9%; huyện Mưởng
Nhé đã có 89 lao động sang làm việc ở nước ngoài; huyện Tủa Chùa đã có 83 lao
động sang làm việc ở nước ngoài. Đây cũng chính là nguồn giải quyết việc làm
trước mắt cho các huyện nghèo, tuy nhiên số lượng lao động đi xuất khẩu lao động
hàng năm còn thấp bởi nhiều lý do, như: lao động các huyện nghèo chủ yếu chưa
qua đào tạo nghề, kỹ năng sống, kỹ năng làm việc chưa có nhiều, chủ yếu theo thói
quen lao động nông nghiệp, trồng trọt, làm nương rẫy.... [31], [32], [33], [34], [36].
Tăng cường hỗ trợ lao động di cư: Các chương trình di dân đã đáp ứng
một phần về tái phân bố nguồn lao động, ổn định đời sống cho đồng bào dân tộc
49
thiểu số và bảo vệ an ninh quốc phòng tại các huyện nghèo. Đến hết tháng
12/2013, tổng số hộ đã di chuyển, sắp xếp lại chỗ ở, được giao đất và đang xây
dựng nhà ở cho 4.461 hộ, trong đó:
+ Huyện Tủa Chùa: bố trí cho 310 hộ di chuyển và xây dựng xong nhà ở ổn
đinh, gồm: Khu tái định cư Huổi Lực: 104 hộ (80 hộ tái định cư, 24 hộ sở tại); Tà
Huổi Tráng-Tà Si Láng: 122 hộ (84 hộ tái định cư, 38 hộ sở tại); Huổi Lóng: 84 hộ.
+ Huyện Nậm Pồ đã bố trí nhà ở cho 1.826 hộ, trong đó: tại khu tái định
cư gần 500 hộ; Giao đất và xây dựng nhà hơn 1100 hộ…[34], [35], [36].
+ Huyện Điện Biên Đông đã bố trí, sắp xếp chỗ ở mới cho 221 hộ; đồng
thời cùng với các nguồn vốn hỗ trợ đã sửa chữa, nâng cấp hàng 1000 căn nhà
cho người dân [34], [35], [36].
+ Huyện Mường Ảng xây dựng khu tái định cư cho 200 hộ đã cơ bản ổn
định cuộc sống.
+ Huyện Mường Nhé (Điểm tái định cư Nậm San, xã Mường Nhé):
bố trí chỗ ở cho 37 hộ, được tiếp nhận 21 hộ từ huyện Tủa Chùa và 16 hộ
từ huyện Mường Chà chuyển đến, hiện tại các hộ đã hoàn thành xây dựng
nhà ở [34], [35], [36].
Ngoài ra còn sắp xếp, ổn định dân di cư tự do huyện Mường Nhé: Tổng số
vốn do Trung ương cấp từ năm 2005 - 2012 là 270.000 triệu đồng, đã giải ngân được
163.303 triệu đồng để thực hiện 58 công trình, trong đó có 09 công trình hoàn thành,
21 công trình hoàn thành vào cuối năm 2013 và khởi công mới 25 công trình. Các
huyện nghèo còn tiếp nhận di dân, tái định cư thuỷ điện Sơn La với số hộ di
chuyển là 4.459/4.436 hộ dân khỏi vùng ngập lòng hồ; tổng số hộ được bố trí tại
các khu, điểm tái định cư trên địa bàn là 4.329/4.423 hộ (giảm 94 hộ). Dự án đầu
tư cơ sở hạ tầng có tổng mức đầu tư 3.550.000 triệu đồng đầu tư cho 189 công
trình; đã phân bổ kế hoạch vốn 2.337.806 triệu đồng, giải ngân được 2.030.089
triệu đồng. Đến nay, có 155 công trình đã hoàn thành, còn 34 công trình đang
thực hiện [34, tr.13].
Thứ hai: Chính sách bảo hiểm (BHXH, BHYT, BHTN)
50
Các loại hình bảo hiểm cho người dân tại tỉnh Điện Biên ngày càng được
mở rộng với sản phẩm ngày càng đa dạng. Ðối tượng tham gia BHXH, BHYT
và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) ngày càng tăng và được hưởng các chế độ và
quyền lợi kịp thời, đầy đủ, an toàn, đúng quy định.
Căn cứ vào số liệu tại phụ lục 3, thể hiện tổng số người tham gia BHXH
bắt buộc trong toàn tỉnh từ năm 2011 đến năm 2013 có xu hướng tăng bình quân
5,3%/năm, tuy nhiên số người tham gia BHXH bắt buộc so với số lao động
trong độ tuổi lao động rất thấp trung bình 11% (tính riêng năm 2013 có 35.093
người tham gia BHXH bắt buộc/324.945 lao động trong độ tuổi). Tính chung 5
huyện Nghèo có số người tham gia BHXH bắt buộc hàng năm khoảng 9.800
người chiếm 7,5% số người trong độ tuổi lao động, cụ thể: năm 2011 có 9.034
người, năm 2012 có 9.608 người, năm 2013 có 10.570 người [5], [34].
Kết quả thực hiện BHXH: qua 3 năm thực hiện đã có số người tham gia
BHXH (cả bắt buộc và tự nguyện) tăng bình quân mỗi năm gần 750 người tăng
6,7%/năm, đến hết năm 2013 đạt 10.570 người, trong đó 97,1% tham gia BHXH
bắt buộc. Tỷ lệ bao phủ BHXH (tính bằng số người tham gia/ tổng lực lượng lao
động) đã tăng từ 7,7% lực lượng lao động năm 2011 lên 8,8% năm 2013.
Kết quả thực hiện Bảo hiểm thất nghiệp: Sau 3 năm triển khai, chính sách
bảo hiểm thất nghiệp đã trở thành “chỗ dựa” cho người lao động khi bị mất việc
làm, nhất là trong bối cảnh suy giảm kinh tế. Toàn tỉnh tăng bình quân 410
người/năm, tỷ lệ tăng bình quân 2,7%/năm; tính riêng 5 huyện nghèo tăng bình
quân 350 người/năm, tỷ lệ tăng bình quân 2,5%/năm. Tuy nhiên đây cũng chính là
vấn đề rất khó thực hiện trong các huyện nghèo, tỷ lệ người tham gia bảo hiểm thất
nghiệp thấp, nguyên nhân chủ yếu là do trình độ nhận thức của người dân, phần vì
kinh tế khó khăn (trong khi chi phí tối thiểu sinh hoạt hàng ngày còn chưa đủ...).
Kết quả thực hiện BHYT: Luật BHYT ban hành năm 2008 cho thấy, sự
cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong việc hỗ trợ toàn bộ hoặc một
phần mức đóng BHYT đối với người nghèo, cận nghèo, người DTTS, đối tượng
hưởng chính sách ưu đãi, và đối tượng hưởng trợ giúp xã hội.
51
Phụ lục 4, thể hiện trong 03 năm (2011 - 2013), toàn tỉnh đã hỗ trợ cấp thẻ
BHYT cho 1.011.093 đối tượng người nghèo, cận nghèo và các đối tượng xã hội
khác tại các xã đặc biệt khó khăn với kinh phí mua thẻ BHYT là 462,623 tỷ
đồng, cụ thể: năm 2011 cấp 269.666 thẻ tăng 5% so với năm 2010; năm 2012
cấp 399.860 thẻ tăng 6,7% so với năm 2011 (trong đó 326.123 người nghèo, 654
cựu chiến binh và 73.083 trẻ em dưới 6 tuổi); năm 2013 cấp 411.488 thẻ tăng
9,7% so với năm 2012 (trong đó 336.029 người nghèo, 3.002 hộ cận nghèo và
75.459 trẻ em dưới 6 tuổi); Ngoài ra trong năm 2012 đã thực hiện hỗ trợ đóng
50% thẻ BHYT cho 1.063 người thuộc hộ gia đình cận nghèo, kinh phí thực hiện
140,293 triệu đồng. Trong 5 huyện nghèo đã cấp miễn phí thẻ BHYT chiến tỷ lệ
62% so với số thẻ cấp trong toàn tỉnh mỗi năm [5], [34].
Hình 2.4. Số thẻ BHYT đươc cấp miễn phí trong 3 năm tại huyện nghèo
(Nguồn: Tác giả tổng hợp [5], [34]).
Như vậy, các huyện nghèo đã chủ động thực hiện chính sách hỗ trợ phát
miễn phí thẻ BHYT cho đối tượng người nghèo, cận nghèo và đối tượng xã hội
khác tại các xã đặc biệt khó khăn với số lượng người được hưởng ngày một tăng;
tính trung bình năm 2011 đã có 21.000 thẻ được phát thêm, tăng bình quân
3,54%/ năm 2012, riêng năm 2013 số thẻ được cấp tại các huyện lại giảm vì đã
52
phân bổ cho huyện Nậm Pồ mới thành lập (do nguồn kinh phí chưa kịp cấp bổ
sung cho huyện).
Thứ ba: Chính sách trợ giúp xã hội và hỗ trợ giảm nghèo
Chính sách trợ giúp xã hội và hỗ trợ giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất
quán của Đảng, Nhà nước và là sự nghiệp của toàn dân. Phải huy động nguồn
lực của Nhà nước, của xã hội và của người dân để khai thác có hiệu quả tiềm
năng, lợi thế của huyện nghèo, nhất là sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp để
xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Cùng với sự đầu tư,
hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng xã hội, sự nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát
nghèo của người nghèo, hộ nghèo là nhân tố quyết định thành công của công
cuộc xóa đói giảm nghèo.
Công cuộc giảm nghèo nhanh, bền vững đối với các huyện nghèo của tỉnh
Điện Biên là nhiệm vụ chính trị trọng tâm hàng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo sâu sát, cụ thể và đồng bộ của các cấp chính quyền,
sự phối hợp tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đồng thời
phát huy vai trò làm chủ của người dân từ khâu xây dựng kế hoạch đến tổ chức
thực hiện, giám sát, đánh giá hiệu quả của chương trình, dự án đã triển khai.
Cùng với việc tiếp tục thực hiện các chính sách giảm nghèo chung trong
cả nước, tỉnh Điện Biên đã tập trung huy động các nguồn lực để đầu tư, hỗ trợ
giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 05 huyện nghèo, nhất là các huyện có tỷ
lệ đồng bào DTTS sinh sống cao, ba năm qua các chính sách trợ giúp, hỗ trợ đã
đạt được kết quả như sau:
Một là, Chính sách hỗ trợ giáo dục và đào tạo: trong 3 năm 2011 – 2013
các huyện nghèo đã hỗ trợ miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập, hỗ trợ ăn
trưa cho trẻ em mầm non, hỗ trợ cho học sinh các trường bán trú cho 426.802
học sinh với kinh phí thực hiện 175.900,4 triệu đồng, cụ thể: hỗ trợ ăn trưa cho
trẻ em mầm non là 14.737 học sinh với kinh phí thực hiện là 8.159,05 triệu
53
đồng; hỗ trợ học sinh bán trú và trường phổ thông dân tộc bán trú cho 25.020
học sinh với kinh phí hỗ trợ 91.712,88 triệu đồng; hỗ trợ miễn giảm học phí cho
154.522 lượt học sinh với kinh phí hỗ trợ 13.390,17 triệu đồng; hỗ trợ chi phí
học tập cho 220.844 lượt học sinh với kinh phí hỗ trợ 71.472,53 triệu đồng.
Riêng năm 2013 thực hiện hỗ trợ cho học sinh với kinh phí thực hiện là 19.509
triệu đồng [34, tr.9].
Hai là, Thực hiện chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo ở vùng khó
khăn theo Quyết định 102/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Trong 03
năm (2011-2013) các huyện đã hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo đang cư trú tại
vùng khó khăn cho 485.315 lượt người với kinh phí 46.018 triệu đồng, (riêng
năm 2013 hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo đang cư trú tại vùng khó khăn cho
137.713 người với kinh phí đã thực hiện hỗ trợ là 13.341 triệu đồng, chiếm 68%
so với hỗ trợ toàn tỉnh) [34, tr.10].
Ba là, Thực hiện chính sách hỗ trợ tiền điện; theo Quyết định 471/QĐ-
TTg: Trong 03 năm (2011 - 2013), các huyện nghèo đã triển khai thực hiện hỗ
trợ tiền điện, trợ cấp khó khăn cho 71.405 hộ nghèo với tổng kinh phí hỗ trợ
30.408,9 triệu đồng. Ngoài ra còn trợ cấp khó khăn cho 26.297 hộ nghèo với
tổng kinh phí là 6.615,02 triệu đồng.
Bốn là, thực hiện chính sách trợ giúp xã hội, trợ cấp, trợ giúp thường
xuyên cho đối tượng xã hội: Các chính sách đảm bảo ASXH, chăm sóc người có
công, gia đình chính sách được thực hiện kịp thời, đầy đủ, đúng chế độ, chính
sách; đối tượng chính sách xã hội, người nghèo, người tàn tật, trẻ em có hoàn
cảnh khó khăn thường xuyên được sự giúp đỡ của chính quyền, cộng đồng và
các tổ chức xã hội. Trong 03 năm (2011-2013) các huyện thực hiện cứu đói tết
cho 13.136 khẩu với kinh phí thực hiện là 2.657,97 triệu đồng; cứu đói trong dịp
giáp hạt cho 206.181 khẩu với số gạo hỗ trợ là 4.363,81 tấn từ Trung ương cấp,
(chi ngân sách huyện 4.435 tấn); có 15.195 người được hưởng trợ cấp xã hội
54
hàng tháng, kinh phí trợ cấp xã hội hàng tháng cho các đối tượng bảo trợ xã hội
là 35.533,53 triệu đồng; Hỗ trợ đột xuất cho 17.550 hộ với 62.735 nhân khẩu;
ngoài ra còn nuôi dưỡng trẻ em tập trung là 204 người [34, tr.11].
Năm là, thực hiện Chương trình 135: được Chính phủ tổ chức triển khai,
thực hiện Giai đoạn 2005 - 2012 tổng nguồn vốn Trung ương phân bổ 719.145
triệu đồng, đã thực hiện được 686.411 triệu đồng, tuy nhiên giai đoạn này các
huyện đã tổ chức thực hiện và phân bổ nguồn vốn chủ yếu tập trung vào xây
dựng cơ sở hạ tầng; xây dựng trung tâm cụm xã; sắp xếp lại dân cư; đào tạo cán
bộ xã, thôn, bản; dự án phát triển sản xuất... kết quả 5 năm thực hiện phân bổ
529.861 triệu đồng, thực hiện được 506.844 triệu đồng. Trong đó: xây dựng cơ
sở hạ tầng 304.044 triệu đồng; xây dựng trung tâm cụm xã 7.794 triệu đồng; dự
án sắp xếp lại dân cư 540 triệu đồng; đào tạo cán bộ xã, thôn, bản 18.003 triệu
đồng; Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất 68.828 triệu đồng; vốn duy tu, bảo dưỡng
12.445 triệu đồng; chính sách các dịch vụ hỗ trợ 93.519 triệu đồng; chi phí quản
lý 1.671 triệu đồng [34, tr.13].
Kết thúc chương trình, với hiệu quả chương trình mang lại, có ý nghĩa thiết
thực tác động trực tiếp đến đời sống của người dân trên địa bàn các huyện nghèo,
chính vì vậy tỉnh và các huyện nghèo đề xuất Trung ương tiếp tục thực hiện
chương trình giai đoạn 2 (2011 – 2012) với nguồn vốn phân bổ 189.284 triệu
đồng, thực hiện 179.567 triệu đồng, bao gồm: dự án hỗ trợ phát triển sản xuất
22,292 tỷ đồng; dự án phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu 75,805 tỷ đồng; dự án đào
tạo nâng cao năng lực cán bộ xã, bản 4,769 tỷ đồng; duy tu bảo dưỡng công trình
sau đầu tư 4,492 tỷ đồng. Tổng số có 102 công trình được đầu tư trong đó: có 24
công trình giao thông, 23 công trình thủy lợi, 43 công trình nước sinh hoạt, 08
công trình nhà lớp học, 03 công trình nhà sinh hoạt cộng đồng; 01 công trình điện
sinh hoạt, kết quả hoàn thành và bàn giao đưa vào sử dụng 101/102 công trình với
55
tổng giá trị khối lượng thực hiện 71,709 tỷ đồng, đã giải ngân 70,532/78,000 tỷ
đồng, đạt 90,4% so với tổng nguồn vốn được Trung ương giao.
Sáu là, thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ: là một chủ trương, chính
sách lớn của Đảng và Nhà nước, là cơ hội tạo ra nguồn lực đầu tư rất lớn để các
huyện nghèo tỉnh Điện Biên được tăng cường một bước về đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; xóa đói giảm nghèo, đảm bảo ASXH; qua đó tạo
động lực phát triển kinh tế - xã hội, từng bước cải thiện nâng cao chất lượng đời
sống, tinh thần cho đồng bào nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng
xa. Vì vậy, tỉnh Điện Biên đã triển khai đồng bộ các chủ trương, chính sách, giải
pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết đến từng thôn, bản, cụm dân cư
trong các huyện nghèo. Nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của
các cấp, các ngành, các đoàn thể quần chúng trong việc tổ chức triển khai thực
hiện; tranh thủ sự ủng hộ, hỗ trợ, giúp đỡ của các Tập đoàn kinh tế , các Ngân
hàng và các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh; phát huy ý chí tự lực, tự cường,
nỗ lực phấn đấu vươn lên của hộ nghèo trong việc triển khai thực hiện. Nên kết
quả đạt được là rất lớn, không những từng bước đưa các huyện nghèo thoát
nghèo mà còn phát triển vượt bậc về mọi mặt của đời sống xã hội nơi đây.
Tổng nguồn kinh phí được hỗ trợ 5 huyện nghèo trong 5 năm 2009-2013 là
1.073.418 triệu đồng, trong đó: Trung ương hỗ trợ là 789.075 triệu đồng, nguồn
vốn tập trung đầu tư phát triển: 626.681 triệu đồng, vốn sự nghiệp: 162.394 triệu
đồng; các Tập đoàn, Tổng công ty cam kết hỗ trợ đối với huyện nghèo với kinh
phí là 284.343 triệu đồng, đến 31/12/2013 đã giải ngân 266.228 triệu đồng.
56
Hình 2.5: Tổng nguồn vốn hỗ trợ 5 huyện nghèo giai đoạn 2009 – 2013
(Nguồn: Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện NQ 30a [37, tr.6])
Cụ thể các Tập đoàn, tổng công ty hỗ trợ cho các huyện:
+ Huyện Tủa Chùa được Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam hỗ trợ và giải ngân 60.000 triệu đồng (trong đó: Hỗ trợ xây
dựng 11 nhà nội trú dân nuôi Trung học cơ sở tại 11 xã và 03 trường Trung
học phổ thông với kinh phí: 37.800 triệu đồng; hỗ trợ xây dựng trạm y tế xã
đạt chuẩn quốc gia kinh phí: 2.715 triệu đồng; hỗ trợ làm nhà cho hộ nghèo:
19.485 triệu đồng) [37, tr.6].
+ Huyện Mường Ảng được Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam hỗ trợ 100.000 triệu đồng đã giải ngân 99.928 triệu đồng
(trong đó: Hỗ trợ nhà ở cho 1.131 hộ nghèo, kinh phí 16.893 triệu đồng; hỗ
trợ xây dựng nhà ở nội trú dân nuôi (100 phòng), kinh phí 20.000 triệu đồng;
hỗ trợ xây dựng 04 công trình trạm y tế xã, tổng kinh phí 10.000 triệu đồng;
hỗ trợ xây dựng 07 công trình trường học, tổng kinh phí 53.035 triệu đồng).
+ Huyện Điện Biên Đông được các đơn vị cam kết hỗ trợ 63.000 triệu
đồng gồm: Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam hỗ trợ 30.000
triệu đồng, để thực hiện hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo. Tập đoàn Dầu khí quốc gia
Việt Nam hỗ trợ 33.000 triệu đồng hỗ trợ xây dựng một khu nhà ở cho học sinh
57
bán trú dân nuôi tại xã Phình Giàng đã giải ngân 32.999 triệu đồng (trong đó:
hỗ trợ về nhà ở 26.440 triệu đồng, hỗ trợ giáo dục 6.559 triệu đồng).
+ Huyện Mường Nhé tổng số kinh phí được các đơn vị cam kết, hỗ trợ
61.343 triệu đồng, đã giải ngân 43.300 triệu đồng trong đó: Hỗ trợ để hoàn
thiện nhà ở cho hộ nghèo 28.300 triệu đồng (Ủy ban MTTQ Việt nam 3.000
triệu đồng; Tổng Công ty thăm dò và khai thác dầu khí 10.000 triệu đồng;
Quỹ "Ngày vì người nghèo" tỉnh 1.300 triệu đồng; Tổng công ty Hàng không
Việt Nam 1.000 triệu đồng, Ngân hàng TMCP Đầu tư Phát triển Việt Nam
15.000 triệu đồng, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam 2.000 triệu
đồng, Tổng Công ty gốm sứ Việt Nam 2.000 triệu đồng). Ngoài ra Tổng Công
ty Hàng không Việt Nam hỗ trợ 5.000.000 triệu đồng xây dựng Trường Tiểu
học số 2 Mường Nhé, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam hỗ
trợ xây dựng 100 nhà bán trú dân nuôi với số tiền 10.000 triệu đồng [37, tr.7].
* Kết quả cụ thể thực hiện theo khoản mục tại 05 huyện nghèo cụ thể:
Hỗ trợ chăm sóc, bảo vệ rừng: Trong 05 năm (2009-2013) thực hiện
chăm sóc, khoanh nuôi tái sinh và bảo vệ rừng cho 15.988 hộ với tổng kinh
phí là 41.099,1 triệu đồng; hỗ trợ lần đầu giống cây trồng và gạo cho các hộ
nghèo trồng rừng đạt 68.472,6 ha rừng với kinh phí 38.494,1 trong đó: 4 năm
2009-2012 hỗ trợ 37.594,1 triệu đồng cho 15.909 hộ, để thực hiện chính sách
hỗ trợ chăm sóc, khoán khoanh nuôi tái sinh và bảo vệ rừng; hỗ trợ lần đầu
giống cây trồng; hỗ trợ gạo cho các hộ nghèo trồng rừng đạt 67.422,3 ha rừng
các loại. Riêng năm 2013, các huyện nghèo tiếp tục triển khai khảo sát, lập hồ
sơ giao khoán khoanh nuôi tái sinh, bảo vệ rừng, khoán chăm sóc rừng (huyện
Điện Biên Đông hỗ trợ khoanh nuôi cho 79 hộ, thực hiện 1.050,3 ha với kinh
phí thực hiện 1.300 triệu đồng; huyện Mường Ảng triển khai hỗ trợ trồng
rừng sản xuất 755 triệu đồng, hỗ trợ bảo vệ rừng 300 triệu đồng, hỗ trợ gạo
cho hộ nghèo 1.150 triệu đồng) [37, tr.7-8].
Hỗ trợ sản xuất: các huyện nghèo đã thực hiện hỗ trợ đất sản xuất khai
hoang, phục hóa và tạo ruộng bậc thang cho 3.283 hộ, thực hiện được 1.657,5
58
ha với kinh phí thực hiện 6.009,3 triệu đồng; hỗ trợ phát triển chè Shantuyết:
Riêng huyện Tủa Chùa trong 05 năm (2009-2013) thực hiện trồng mới
206,885 ha chè Shantuyết (đạt 96,3% kế hoạch giao) nâng tổng diện tích chè
toàn huyện lên trên 479,77 ha; hỗ trợ gạo đến nay lên trên 263,1618 tấn.
(Tổng kinh phí hỗ trợ từ nguồn vốn để hỗ trợ gạo và hỗ trợ trồng chè 5.111,22
triệu đồng, đạt 61% vốn giao); hỗ trợ tiền mua giống, phân bón chuyển đổi
cây trồng tại 5 huyện, đối với giống nông nghiệp cây trồng cho hộ 27.353 hộ
dân, với tổng kinh phí 15.994 triệu đồng, trong đó: 4 năm (2009-2012) hỗ trợ
giống nông nghiệp cây trồng cho 26.966 hộ, với tổng kinh phí 13.692,3 triệu
đồng. Ngoài ra huyện Điện Biên Đông đã hỗ trợ giống thủy sản (334.972 con
cá) cho 715 hộ; huyện Tủa Chùa hỗ trợ máy móc công cụ sản xuất bảo quản
chế biến nông sản cho 33 nhóm hộ với kinh phí hỗ trợ 568,6 triệu đồng; riêng
năm 2013 đã hỗ trợ 108 tấn giống cây trồng cho 387 hộ với kinh phí thực hiện
2.301,6 triệu đồng, trong đó: huyện Điện Biên Đông hỗ trợ cho 149 hộ với
kinh phí thực hiện 906 triệu đồng; huyện Mường Nhé hộ trợ cho 238 hộ với
kinh phí thực hiện 895,6 triệu đồng; huyện Mường Ảng 500 triệu đồng; hỗ trợ
chăn nuôi các huyện nghèo đã triển khai hỗ trợ 4.387 con trâu, bò và 333 con
dê với tổng kinh phí đã thực hiện là 51.557,7 triệu đồng. Hỗ trợ làm chuồng
trại chăn nuôi hoặc tạo diện tích nuôi trồng thủy sản cho 2.867 hộ với
2.801,48 triệu đồng; hỗ trợ để tiêm phòng đối với gia súc, gia cầm với kinh
phí thực hiện 41,54 triệu đồng, cụ thể: trong 4 năm (2009-2012): Các huyện
nghèo đã hỗ trợ 3.354 con trâu, bò với kinh phí 36.750,4 triệu đồng. Hỗ trợ
làm chuồng trại chăn nuôi hoặc tạo diện tích nuôi trồng thủy sản cho 2.616 hộ
với 2.752,5 triệu đồng. Hỗ trợ để tiêm phòng đối với gia súc, gia cầm với kinh
phí thực hiện 41,54 triệu đồng; riêng năm 2013, các huyện nghèo đã hỗ trợ
1.033 con trâu, bò cho 1.033 hộ với tổng kinh phí thực hiện 13.472,9 triệu
đồng; huyện Điện Biên Đông hỗ trợ 333 con dê cho 325 hộ với kinh phí thực
hiện 1.334,4 triệu đồng; huyện Tủa Chùa hỗ trợ 251 hộ mua giống cỏ chăn
nuôi gia súc với kinh phí thực hiện 48,98 triệu đồng [37, tr.8-9]..
59
Hỗ trợ vay vốn tín dụng ưu đãi: trong 05 năm (2009-2013), các huyện
nghèo đã cho 13.079 hộ nghèo vay vốn tín dụng ưu đãi với số tiền cho vay
79.280 triệu đồng, cụ thể: Từ năm (2009-2012), đã cho 12.354 hộ nghèo vay
vốn tín dụng ưu đãi (lãi xuất 0%), số kinh phí cho vay 75.655 triệu đồng; năm
2013, huyện Tủa Chùa cho 725 hộ nghèo vay vốn để phát triển chăn nuôi số
tiền cho vay 3.625 triệu đồng.
Hỗ trợ hoạt động khuyến nông, lâm, ngư: trong 05 năm (2009-2013), các
huyện nghèo đã hỗ trợ 3.190 hộ về giống, vật tư, xây dựng mô hình khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư, với tổng kinh phí 9.157,41 triệu đồng trong đó:
4 năm (2009-2012) hỗ trợ 2.998 hộ về giống, vật tư, xây dựng mô hình khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư, với tổng kinh phí 7.769,2 triệu đồng. Riêng năm
2013, huyện Mường Nhé đã có 44 hộ tham gia xây dựng mô hình trồng cam với
diện tích 14,7 ha, tổng kinh phí: 564,090 triệu đồng. Huyện Điện Biên Đông hỗ
trợ 51,6 ha giống táo mèo cho 148 hộ với tổng kinh phí 824,12 triệu đồng.
Hỗ trợ khác: Trong 05 năm (2009-2013) các huyện còn thực hiện hỗ trợ
một số nội dung khác cho nhân dân, cụ thể: Huyện Mường Ảng: hỗ trợ máy
nông cụ cho các xã ngoài chương trình 135 được 385 hộ với số tiền là 400
triệu đồng gồm: 12 máy tuốt lúa, 06 máy tẽ cà phê; huyện Tủa Chùa hỗ trợ 7
nhóm hộ với kinh phí hỗ trợ 568,6 triệu đồng. Huyện Mường Nhé đã thực
hiện phân bổ 2.900 triệu đồng để thực hiện hỗ trợ gạo cho 913 hộ nghèo ở các
bản giáp biên giới trong thời gian chưa tự túc được lương thực với 4.904 nhân
khẩu (mức hỗ trợ 15kg/khẩu), tổng số gạo đã thực hiện hỗ trợ 73,560 tấn,
kinh phí thực hiện 1.039,84 triệu đồng [37, tr.10].
Như vậy, qua rà soát tất cả các hạng mục đầu tư hỗ trợ tại các huyện
nghèo theo tinh thần Nghị quyết 30a của Chính phủ cho thấy phần lớn nguồn
kinh phí hỗ trợ tập trung vào đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: với tổng số vốn
đầu tư là 626.681 triệu đồng, đầu tư cho 168 công trình, trong đó: y tế 02 công
trình, giáo dục: 13 công trình, giao thông: 45 công trình, thủy lợi: 56 công
trình, điện sinh hoạt: 01 công trình; riêng năm 2013, tổng số vốn giao đầu tư là
60
107.181 triệu đồng, đã giao chi tiết cho 51 danh mục công trình (có 41 dự án
bố trí vốn thanh toán dứt điểm, 10 dự án tiếp chi, không có dự án khởi công
mới). Kết quả các huyện đã giải ngân được 86,448 tỷ đồng, đạt 80,7% kế hoạch
vốn năm 2013 (cao nhất là huyện Tủa Chùa, giải ngân đạt 94,5% kế hoạch;
thấp nhất là huyện Mường Ảng, giải ngân đạt 56,2% kế hoạch).
Hiệu quả triển khai, thực hiện từ các chương trình, dự án tại tỉnh Điện
Biên nói chung và các huyện nghèo nói riêng trong những năm qua đã phát
huy tác dụng, thể hiện rõ nét nhất là tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn các huyện
nghèo giai đoạn 2009 – 2010 đã giảm từ 57,5% xuống còn 47,96% (theo
chuẩn cũ). Trong 03 năm tiếp theo (2011-2013), tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện
nghèo giảm từ 70,44% năm 2010 xuống còn 50,92% năm 2013 (giảm
19,52%) bình quân mỗi năm giảm 6,5% tỷ lệ hộ nghèo. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ
nghèo của các huyện nghèo mới đạt 49,85% so với mục tiêu đến năm 2015
theo Nghị quyết 30a (Mục tiêu đến 2015 các huyện nghèo phải giảm xuống
ngang bằng mức trung bình của tỉnh là 31,29%). Để đạt mục tiêu theo Nghị
quyết 30a các chương trình, dự án triển khai tại các huyện nghèo cần phải
được thực hiện đồng bộ, [37, tr.12-13].
Tám là, Chương trình xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới được cấp ủy, chính quyền các cấp tập trung chỉ
đạo theo Nghị quyết của Tỉnh ủy (số 03-NQ/TU, ngày 18-11-2011). Đã triển
khai thực hiện xây dựng quy hoạch nông thôn mới với 98/98 xã, trong đó có
41 xã đã được phê duyệt quy hoạch (huyện Điện Biên 02 xã, Mường Chà 14
xã, Mường Ảng 05 xã, Tuần Giáo 07 xã, Điện Biên Đông 13 xã); có 19 xã
triển khai lập đề án xây dựng nông thôn mới cấp xã. Đến hết năm 2013, 100%
số xã thực hiện xong quy hoạch; tập trung đối với 20 xã được chọn xây dựng
điểm giai đoạn 2011- 2015 và 29 xã thuộc đề án xây dựng nông thôn mới
vùng đồng bào dân tộc ít người khu vực biên giới (huyện Mường Nhé). Đã
chỉ đạo thực hiện lồng ghép các nguồn vốn để xây dựng kết cấu hạ tầng nông
thôn, xác định đây là khâu đột phá trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
61
các huyện nghèo. Xây dựng nông thôn mới của tỉnh mới đạt kết quả bước đầu
quan trọng, tuy nhiên còn gặp nhiều khó khăn trong lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện chương trình này.
Thứ tư: Kết quả đảm bảo mức tối thiểu một số dịch vụ xã hội cơ bản cho
người dân, đặc biệt là người nghèo, dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh
khó khăn.
Một là, đảm bảo giáo dục tối thiểu: Giai đoạn 2006 - 2010 Cùng với
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, các chính sách miễn giảm học phí,
trợ cấp sách giáo khoa, giấy, vở viết, trợ cấp học bổng, hỗ trợ học sinh thuộc
hộ nghèo đi học được triển khai đồng bộ; hàng năm có trên 110.000 học sinh
được hỗ trợ với tổng kinh phí hỗ trợ là 129.440 triệu đồng. Trong 2 năm
(2011 - 2012), đã hỗ trợ 129.602 triệu đồng để miễn giảm học phí, hỗ trợ chi
phí học tập, trợ cấp học bổng và hỗ trợ tiền ăn cho học sinh bán trú.
Số học sinh năm học 2013-2014 ước tính 156.360 học sinh, tăng 15.336
học sinh so với năm học 2010- 2011. Tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi ra lớp mẫu giáo
đạt 98,9%, tăng 3,9% so với năm học 2010-2011; tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào
lớp 1 đạt 99,8%, tăng 0,7% so với năm học 2010-2011; trẻ 6-10 tuổi học tiểu
học đạt 99,7% tăng 0,5% so với năm học 2010-2011; Tỷ lệ huy động trẻ 11
tuổi vào lớp 6 đạt 87,6%, tăng 1,6% so với năm học 2010-2011; học sinh 11-
14 tuổi học THCS đạt 88,1%, tăng 3% so với năm học 2010-2011; Tỷ lệ trẻ 15
tuổi vào lớp 10 đạt 51,5%, tăng 0,7% so với năm học 2010-2011 [35, tr.14].
Hai là, đảm bảo y tế tối thiểu: kết quả thực hiện mục tiêu về bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe nhân dân được tập trung chỉ đạo, người dân được thụ
hưởng từ nhiều chương trình, dự án về y tế. Đến hết năm 2013 các huyện
nghèo đã có 14,6% số trạm y tế xã đạt bộ tiêu chí quốc gia y tế xã (theo chuẩn
mới), trong đó 24,6% số trạm y tế xã có bác sỹ, tăng 8,5%; tỷ lệ bác sỹ /vạn
dân 8,44, tăng 2,65 so với năm 2010. Các mục tiêu bảo vệ và chăm sóc trẻ em
được triển khai thực hiện đồng bộ và đạt kết quả cao. Các mục tiêu chương
trình y tế quốc gia, các hoạt động phòng chống dịch bệnh ở người, không để
62
xảy ra dịch lớn, đảm bảo các điều kiện và sẵn sàng lực lượng ứng phó với
dịch khi có tình huống khẩn cấp. Chất lượng khám chữa bệnh tại các cơ sở y
tế từng bước được nâng lên. Tổng số lượt khám bệnh trong năm đạt 914,14
ngàn lượt người, đạt 100% kế hoạch, giảm 2,5% so với năm 2012; điều trị nội
trú cho 69,24 ngàn lượt người, đạt 100% kế hoạch, giảm 8,7% so với năm
trước; điều trị ngoại trú cho 5,42 ngàn lượt người, đạt 89,7% kế hoạch, giảm
0,2% so với năm 2012. Công suất sử dụng giường bệnh đạt 90%.
Công tác tuyên truyền về dân số - kế hoạch hóa gia đình được chú trọng,
tập trung ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng có mức sinh cao. Trong năm
2013, đã tổ chức các chiến dịch “Tăng cường đưa dịch vụ chăm sóc sức khỏe
sinh sản đến vùng khó khăn, có mức sinh cao” tại 67 đơn vị xã của các huyện.
Dân số trung bình tỷ lệ tăng tự nhiên 16,8%o, mức giảm tỷ lệ sinh 0,7%o, đạt
mục tiêu kế hoạch đề ra.
Công tác Bảo vệ và chăm sóc trẻ em luôn được các cấp, các ngành và cộng
đồng quan tâm chăm lo. Đến cuối năm 2013 có 25/62 xã, thị trấn đạt tiêu chuẩn
phù hợp với trẻ em, đạt 40% tổng số xã. Công tác khám chữa bê ̣nh cho trẻ em
khuyết tâ ̣t được triển khai tích cực, đã tổ chức khám sàng lọc cho 577 em, trong
đó có 199 em đủ điều kiện phẫu thuật miễn phí. Đã khám điều trị tim bẩm sinh
cho trên 2.000 lượt trẻ em, chỉ định phẫu thuật cho 46 em. Thực hiện tốt nhiệm
vụ chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tại 2 cơ sở là Trung tâm Bảo
trợ xã hội 83 cháu và Làng trẻ em SOS Điện Biên Phủ 127 cháu [35, tr.13].
Ba là, đảm bảo nhà ở tối thiểu: Thực hiện theo Quyết định 167/2008/QĐ-
TTg: đến nay, tổng số hộ nghèo đã được phê duyệt hỗ trợ nhà ở là 13.436 hộ;
số hộ số hộ thực tế phải hỗ trợ là 13.335 hộ, giảm 101 hộ (do không có nhu
cầu) Huyện Mường Nhé 13 hộ không nhận tiền hỗ trợ làm nhà, nguyên nhân là
do chưa ổn định chỗ ở, còn tư tưởng di cư nơi khác; Huyện Mường Ảng 27 hộ
thuộc hộ di dời tái định cư để xây dựng hồ Ẳng Cang; Huyện Điện Biên Đông
61 hộ không nhận tiền làm nhà vì đã nhận hỗ trợ từ các nguồn vốn khác, số hộ
đã được hỗ trợ là 13.251 hộ đạt 99,37%; nguồn vốn huy động hỗ trợ 306,477 tỷ
63
đồng; giải ngân 299,321 tỷ đồng, đạt 97,6%. Trong đó, vốn Nhà nước hỗ trợ
110,884 tỷ đồng; vốn các tổ chức xã hội 97,348 tỷ đồng; vốn ưu đãi từ Ngân
hàng Chính sách xã hôi 98,244 tỷ đồng [34, tr.9]. Đồng thời đã thực hiện hỗ trợ
nhà ở cho hộ nghèo. Các huyện nghèo đã hoàn thành trên 99,35% (số thực tế
cần hỗ trợ), với 8.655 hộ/ 8.711 hộ hoàn thành nhà ở; bao gồm: [37, tr.13]
+ Huyện Điện Biên Đông: 2.644 hộ/2.644 hộ đạt 100%
+ Huyện Tủa Chùa: 1.299 hộ/1.299 hộ đạt 100%
+ Huyện Mường Ảng 1.129 hộ/1.129 hộ đạt 100%
+ Huyện Mường Nhé: 3.583 hộ/3.639 hộ đạt 98,46%
Bốn là, đảm bảo nước sạch: Cải thiện cơ bản tình hình sử dụng nước sạch
của dân cư, đặc biệt là dân nông thôn, vùng dân tộc thiểu số. Giải quyết cơ bản
tình trạng thiếu nước sinh hoạt ở những vùng khó khăn, vùng núi cao. Từ nguồn
vốn JICA (Nhật Bản) trong 5 năm qua đã xây dựng hoàn thành 3 nhà máy cấp
nước ở các huyện Tuần Giáo (công suất 2.500m3/ngày đêm), Tủa Chùa (công
suất 1.500m3/ngđ), Mường Chà (công suất 1.000m3/ngđ); hiện đang triển khai
xây dựng Nhà máy nước thị trấn Điện Biên Đông (công suất 1.000m3/ngđ), Công
trình cấp nước trung tâm huyện lỵ Mường Nhé, Dự án cấp nước cho đô thị
Mường Lay bằng nguồn vốn tái định cư. Các công trình cấp nước sinh hoạt cho
đồng bào vùng cao trong giai đoạn vừa qua tích cực được triển khai bằng nhiều
chương trình, dự án như: Chương trình 134 đầu tư 321 công trình phục vụ cho
8.914 hộ; Chương trình 135 đầu tư 60 công trình, Chương trình phát triển kinh tế -
xã hội vùng cao 132 công trình, chương trình Nước sạch vệ sinh môi trường 79
công trình. Chính nhờ các chương trình, dự án về nước sạch đã đảm bảo cho
người dân nơi đây được sử dụng nguồn nước sạch ngày một tăng, đến nay đã có
90% người dân đươc dùng nước sạch [35, tr.11].
Năm là, đảm bảo thông tin: Phong trào xây dựng gia đình văn hoá, thôn,
bản, tổ dân phố, đơn vị văn hoá triển khai rộng rãi, được nhân dân hưởng ứng.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thư viện, báo chí, xuất bản, bảo tàng... đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Cụ thể năm 2013, tỷ
64
lệ hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa tại các huyện nghèo chiếm 57%, tăng 0,85%
so với năm 2010; tỷ lệ thôn, bản, tổ dân phố đạt tiêu chuẩn văn hóa chiếm 41,7%,
tăng 4,45% so với năm 2010; tỷ lệ cơ quan, đơn vị doanh nghiệp, trường học đạt
tiêu chuẩn văn hóa chiếm 84,95%, tăng 0,18% so với năm 2010. Công tác phát
thanh - truyền hình được mở rộng mạng phủ sóng và tăng thời lượng, đổi mới nội
dung, chương trình phát thanh, truyền hình; tỷ lệ dân cư được sử dụng dịch vụ
tăng lên. Đến hết năm 2013, tỷ lệ hộ dân có máy thu hình và được xem truyền
hình đạt 72%, tăng 07% so với năm 2010; 100% số hộ nghe được Đài tiếng nói
Việt Nam [35, tr.14-15].
Thực hiện đồng bộ các chính sách ASXH trong những năm qua tại các
huyện nghèo tỉnh Điện Biên là sự cố gắng nhất lớn của cả hệ thống chính trị từ
tỉnh đến thôn, bản; cùng với nguồn vốn hỗ trợ của Chính phủ, sự hỗ trợ, giúp đỡ
của các doanh nghiệp, ngân hàng trong nước, tổ chức quốc tế và sự cố gắng thoát
nghèo của người dân. Chính vì vậy, đời sống kinh tế - xã hội của người dân huyện
nghèo được nâng lên từng bước, diện mạo nông thôn ngày một phát triển…
* Nguyên nhân của những thành tựu
Một là, Nhà nước có chủ trương, chính sách kịp thời, phù hợp
Chính phủ đã ban hành hệ thống chính sách về giảm nghèo toàn diện
cho các huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn, hộ nghèo. Một số
chương trình lồng ghép như: Các chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội,
các chính sách hỗ trợ cho hộ nghèo... được triển khai đồng bộ, tập trung, có
hiệu quả.
Hai là, sự lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện kiên quyết, có hiệu quả
Sự chỉ đạo, lãnh đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, triển khai đồng bộ, xây
dựng lộ trình, kế hoạch cụ thể của các cấp, các ngành, thực hiện các chính
sách về ASXH; tăng cường tuyên truyền, vận động, phát huy sức mạnh tổng
hợp của các cấp, các ngành, MTTQ, đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính
trị, xã hội, cùng với sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của hộ nghèo. Đã huy động
5.420,1 tỷ đồng cho chương trình XĐGN; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
65
tế, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội, cải thiện điều kiện sản xuất, tạo việc làm và nâng cao đời
sống cho nhân dân.
Ba là, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
Luôn phát huy vai trò làm chủ của người dân từ khâu xây dựng kế
hoạch, đến tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá hiệu quả của các Chương
trình ASXH tại các huyện nghèo.
Bốn là, nguồn lực đảm bảo ASXH ngày càng có hiệu quả
Nguồn ngân sách dành cho các chương trình, dự án đảm bảo ASXH tại
các huyện nghèo của tỉnh Điện Biên ngày càng lớn và đạt hiệu quả cao, ngoài
ra không chỉ nguồn ngân sách Nhà nước hỗ trợ mà còn các tổ chức kinh tế
trong nước, các tổ chức nước ngoài như: UNICEF tài trợ dự án Bạn hữu trẻ
em đến trường, Đan Mạch và Liên minh Châu âu tài trợ dự án Các cộng đồng
phát triển kinh tế hợp tác trong xóa đói giảm nghèo, Úc - Đan Mạch – Hà Lan
đồng tài trợ Chương trình nước sach và về sinh moi trường nông thôn… (tính
đến nay toàn tỉnh Điện Biên có 58 chương trình, dự án về ASXH). Có thể nói
đây là nguồn lực vô cùng lớn để Điện Biên thực hiện tốt việc đảm bảo ASXH
trên địa bàn các huyện nghèo trong thời gian qua.
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
* Tồn tại, hạn chế
Thành tựu đảm bảo ASXH các huyện nghèo tỉnh Điện Biên trong
những năm qua đã góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững và thực hiện công
bằng xã hội được nâng lên một bước. Tuy nhiên, kết quả đảm bảo ASXH
chưa vững chắc, chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa
được thu hẹp, đặc biệt là ở những huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao;
Một là, chính sách về thị trường lao động: Nhận thức của một bộ phận
thanh niên và xã hội về dạy nghề còn thiên lệch, ít coi trọng học nghề để lập
thân, lập nghiệp. Phát triển thị trường lao động tại các huyện nghèo, nhất là các
xã, thôn, bản nghèo còn chưa theo kịp quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ
66
cấu kinh tế. Thiếu đồng bộ, không thống nhất giữa các chính sách tăng trưởng
kinh tế và việc làm, thị trường lao động; các chính sách kinh tế thường thiếu
định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành gắn với nhu cầu lao động và đào tạo lao
động tương ứng .
Nhận thức về phát triển nguồn nhân lực, dạy nghề ở một số địa phương
còn coi nhẹ; việc đào tạo, dạy nghề chưa gắn với nhu cầu sử dụng lao động
trong sản xuất, đặc biệt trong điều kiện các huyện nghèo của tỉnh Điện Biên
chủ yếu người dân tham gia sản xuất nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, ít
tham gia vào hoạt động dịch vụ, sản xuất công nghiệp;
Về cơ bản, thị trường lao động tại tỉnh Điện Biên vẫn là một thị trường
dư thừa lao động, chất lượng cung lao động thấp, phân bố chưa hợp lý và khả
năng di chuyển bị hạn chế. Một bộ phận lao động thiếu việc làm hoặc việc
làm không ổn định, lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp, khu vực
phi kết cấu, trong các nghề giản đơn, lao động không đòi hỏi chuyên môn kỹ
thuật chưa được bảo vệ trong thị trường lao động.
Các chính sách chưa đủ mạnh để tận dụng triệt để mọi nguồn lực cho
đầu tư phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm; nhất là thiếu chính sách khuyến
khích phát triển thị trường lao động như chính sách tiền lương, tiền công chưa
thực sự theo nguyên tắc thị trường và hiệu quả; chưa có chính sách thỏa đáng
trọng dụng nhân tài; cũng như chính sách đầu tư mạnh phát triển hệ thống
giao dịch của thị trường lao động để kết nối cung-cầu lao động.
Chưa gắn quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, nhất là phát triển kinh tế
ngành kỹ thuật, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, phát triển
doanh nghiệp với quy hoạch, kế hoạch đào tạo, dạy nghề, sử dụng lao động tại các
huyện nghèo.
Chưa có nhận thức rõ ràng về xây dựng quan hệ lao động hài hòa tại
doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường. Đặc biệt, chưa thiết lập
được cơ chế đối thoại, thương lượng và thỏa thuận thực chất giữa các bên về
67
quan hệ lao động, giải quyết tranh chấp lao động và đình công đúng với
nguyên tắc thị trường.
Hậu quả là chất lượng lao động quá thấp, thiếu nghiêm trọng lao động
kỹ thuật trình độ cao; chất lượng việc làm và năng suất lao động cũng rất
thấp, tỷ lệ thất nghiệp thanh niên rất cao; vấn đề việc làm và đời sống của lao
động nông nghiệp vùng bị thu hồi đất rất bức xúc, dòng di chuyển lao động
nông thôn-thành thị có xu hướng ngày càng tăng.
Hai là, trong chính sách BHXH: Chưa quán triệt và thực hiện đầy đủ
nguyên tắc đóng-hưởng mà còn gắn chặt việc điều chỉnh lương hưu với tiền
lương tối thiểu và hỗ trợ từ ngân sách nhà nước; nhận thức chưa đúng về sự
khác biệt giữa BHXH khu vực hành chính, sự nghiệp và khu vực thị trường
(doanh nghiệp), nên chưa có sự tách biệt giữa 2 khu vực này.
Vấn đề xây dựng và phát triển quỹ BHXH chưa được vững chắc, có
nguy cơ mất cân đối thu-chi trong dài hạn do mô hình BHXH hiện nay chưa
hoàn chỉnh và phù hợp. Cơ chế quản lý và sử dụng quỹ BHXH chưa đảm bảo
công khai, minh bạch; chưa có đơn vị chịu trách nhiệm hoạt động đầu tư quỹ
BHXH. Cơ quan BHXH hoạt động còn mang tính hành chính, bao cấp, chưa
chuyển mạnh sang đơn vị cung cấp dịch vụ công. Tỷ lệ tham gia BHXH trên
tổng số lực lượng lao động còn thấp(18%); hơn 20% lao động trong diện BHXH
bắt buộc nhưng chưa tham gia; tỷ lệ trốn, nợ đọng BHXH còn lớn (10%).
Ba là, trong chính sách TGXH: Chưa có nhận thức thật đầy đủ về xóa
đói giảm nghèo (XĐGN) bền vững nên chưa gắn tăng trưởng kinh tế bền
vững với giảm nghèo; XĐGN chưa gắn chặt với phát triển cộng đồng và phát
triển nông thôn.
Việc chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Chương trình giảm nghèo nhanh và
bền vững của Trung ương còn chậm, phần nào ảnh hưởng đến việc triển khai
Chương trình tại tỉnh. Công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện các Chương
trình, dự án xóa đói giảm nghèo còn gặp khó khăn, khó điều hành tập trung,
68
thống nhất hoặc tạo nguồn lực tập trung, có mặt còn lúng túng như cơ chế
lồng ghép các nguồn vốn trong một Chương trình, dự án, chính sách cụ thể.
Các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo phần lớn tập trung vào đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng; việc đầu tư chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi
còn ít, hiệu quả chưa cao. Nhiều mục tiêu, chỉ tiêu thuộc Chương trình giảm
nghèo do Trung ương quy định khó thực hiện hoàn thành, nhiều dự án đầu tư
cơ sở hạ tầng tại các vùng khó khăn do thiếu kinh phí thực hiện nên không
đảm bảo quy mô, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định, ảnh hưởng đến việc phục
vụ trực tiếp nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, giao thương của các hộ nghèo.
Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương liên quan cần sớm sửa đổi, bổ
sung các quy định, hướng dẫn về đầu tư, đấu thầu đảm bảo phù hợp với đặc
thù và năng lực tổ chức thực hiện ở các huyện nghèo; nhưng đến nay chưa
được triển khai thực hiện; dẫn đến các huyện nghèo gặp khó khăn trong quản
lý và thực hiện dự án đầu tư do trình độ, năng lực của cán bộ chuyên môn còn
hạn chế. Một số chính sách như ưu đãi về y tế, giáo dục vẫn chưa có hướng
dẫn cụ thể.
Có nhiều dự án hỗ trợ hộ nghèo phát triển vùng nguyên liệu về trồng
trọt, chăn nuôi, nhưng không đồng bộ với khâu chế biến, tiêu thụ sản phẩm
nên sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, vì vậy nhiều hộ không thoát nghèo
được và gặp khó khăn hơn trong cuộc sống.
Nhiều chính sách hỗ trợ còn bất cập, một số chính sách dẫn đến việc
một bộ phận người nghèo còn trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước,
chưa tự nỗ lực vươn lên thoát nghèo. Các chính sách hỗ trợ sản xuất chưa tạo
chuyển biến trong phát triển kinh tế rừng tại các hộ gia đình, mặc dù đây là
một trong nhiều thế mạnh của hầu hết các địa phương.
Việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các Chương trình, dự án giảm
nghèo tại một số địa phương, cơ sở còn một số mặt hạn chế. Công tác triển khai
một số chính sách hỗ trợ sản xuất theo Nghị quyết 30a ở các huyện nghèo còn
lúng túng như chậm triển khai giao đất, giao rừng cho nhân dân, ảnh hưởng đến
69
việc tổ chức sản xuất của nhân dân trên địa bàn. Nhiều địa phương chưa có giải
pháp phù hợp, chưa tổ chức đánh giá rút kinh nghiệm thường xuyên để thực
hiện có hiệu quả hơn.
Nhận thức của các cấp về TGXH chưa đầy đủ và toàn diện. Khung
pháp lý cho công tác TGXH còn nhiều bất cập và thể chế hóa ở mức thấp
(pháp lệnh); chưa có chính sách khuyến khích chăm sóc đối tượng dựa vào
cộng đồng; chưa có cơ chế thống nhất quản lý quỹ huy động trong dân cho
TGXH, cơ chế tài chính chưa rõ ràng; mức trợ cấp xã hội của Nhà nước còn
thấp, mới đáp ứng được 60% mức sống tối thiểu của đối tượng.
Chưa phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ TGXH phù hợp với cơ chế
thị trường (cung cấp dịch vụ công). Kết quả XĐGN chưa vững chắc, Qua 05
năm triển khai thực hiện Nghị quyết 30a, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn các
huyện nghèo đã giảm từ 57,5% xuống còn 47,96% (theo chuẩn cũ giai đoạn
2009 - 2010). không có huyện nào giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 40% theo
chỉ tiêu Nghị quyết 30a. Theo tiêu chuẩn mới 03 năm (2011-2013), tỷ lệ hộ
nghèo tại các huyện nghèo giảm từ 70,44% năm 2010 xuống còn 50,92%
năm 2013 (giảm 19,52%) bình quân mỗi năm giảm 6,5% tỷ lệ hộ nghèo đạt
162% so với mục tiêu của Nghị quyết 30a (mục tiêu của Nghị quyết giảm
bình quân 4%/năm). Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo của các huyện nghèo mới đạt
49,85% so với mục tiêu đến năm 2015 (Mục tiêu đến 2015 các huyện nghèo
phải giảm xuống ngang bằng mức trung bình của tỉnh là 31,29%) [34, tr13].
* Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
- Nguyên nhân khách quan
Một là, điều kiện tự nhiên, thiên tai khắc nghiệt
Các huyện nghèo tỉnh Điện Biên chủ yêu ở vùng xâu, vùng xa, diện tích
đất tự nhiên cao, được cấu tạo bởi những dãy núi chạy dài, lại cách xa các
trung tâm kinh tế lớn của cả nước; các huyện nghèo chủ yếu có vị trí địa hình
hiểm trở, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt thường xuyên xảy ra các thiên tai,
dịch họa: lũ quét, lũ ống, ngập lụt dẫn đến tình trạng mất mùa, bị lũ cuốn trôi
70
các tài sản, nhà cửa; hiện tượng di dân, di cư tự do, tuyên truyền đạo trái pháp
luật còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị trong đời sống xã hội... chính
vì vậy đã ảnh hưởng rất lớn đến đảm bảo ASXH nơi đây.
Hai là, điều kiện kinh tế
Kinh tế các huyện nghèo của tỉnh Điện Biên có xuất phát điểm thấp, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch chưa mạnh, hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ,
các dịch vụ, điều kiện sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu; cơ sở vật chất kỹ
thuật, kết cấu hạ tầng nông thôn chưa bền vững, do đặc thù địa bàn rộng, chủ
yếu là đồi núi chia cắt, kết cấu hạ tầng kỹ thuật còn yếu kém, nên suất đầu tư
cho các công trình tại địa bàn các vùng sâu, vùng cao, biên giới của huyện
thường cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Bên cạnh đó, trong những
năm qua tình hình kinh tế trong nước khó khăn, ngân sách Trung ương phân bổ
cho các Chương trình giảm nghèo chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tế, nên các
công trình cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư đồng bộ, nhất là các công trình giao
thông, điện, thông tin liên lạc... vì vậy chưa tạo ra động lực, cơ hội rõ rệt cho
những huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn phát triển kinh tế - xã hội và giúp các
hộ nghèo vươn lên thoát nghèo.
- Nguyên nhân chủ quan
Một là, một số chủ trương, chính sách chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập
Chính phủ, các Bộ, ngành ở Trung ương ban hành nhiều chủ trương,
chính sách, chương trình về ASXH, tuy nhiên khi triển khai thực hiện tại cơ
sở đã phát sinh nhiều bất cập, như: chưa bao quát toàn diện công tác giảm
nghèo; các chính sách, dự án, chương trình giảm nghèo ban hành nhiều nhưng
lại mang tính ngắn hạn, chồng chéo, chưa tạo sự gắn kết chặt chẽ nên chưa tác
động tích cực vào đời sống; Các Chương trình, dự án, chính sách về giảm
nghèo theo Trung ương quy định điều hành theo cơ chế riêng với nhiều đầu
mối quản lý khác nhau ở các Bộ, ngành Trung ương. Mục tiêu, chỉ tiêu đề ra
trong các Chương trình giảm nghèo cao, nhưng nguồn kinh phí thực hiện do
71
Trung ương phân bổ chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tế, nhất là tại các huyện
nghèo tỉnh Điện Biên có địa hình phức tạp chi phí đầu tư, vận chuyển lớn hơn
so với dự kiến của Trung ương.
Hai là, nguồn lực thực hiện mục tiêu giảm nghèo còn phân tán, dàn
trải, chưa tập trung ưu tiên để giải quyết những vấn đề bức xúc nhất, địa
bàn trọng điểm nhất
Nhiều chính sách hỗ trợ còn bất cập, mang tính bao cấp, mức hỗ trợ
hoặc đối tượng áp dụng chưa phù hợp, chưa ưu tiên đến chính sách hỗ trợ
tiêu thụ sản phẩm các hộ nghèo làm ra tại các vùng khó khăn, điển hình như:
+ Các chính sách hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ con giống, cây trồng, vật nuôi
kéo dài dễ nảy sinh tư tưởng ỷ lại, không muốn nỗ lực phấn đấu vươn lên
thoát nghèo của các hộ nghèo;
+ Chính sách bảo vệ và phát triển rừng nguồn lực huy động còn hạn
chế, mức hỗ trợ đầu tư cho trồng rừng, bảo vệ rừng và khoanh nuôi tái sinh
còn thấp, chưa phù hợp, chưa tạo thu nhập đảm bảo cuộc sống cho người dân;
+ Chính sách miễn, giảm học phí chỉ quy định áp dụng cho đối tượng là
trẻ em học mẫu giáo và học sinh, sinh viên có cha mẹ thường trú tại các xã
biên giới, vùng cao và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
các đối tượng còn lại cư trú tại các thị trấn vùng cao không được hưởng chính
sách. Việc này dẫn đến bất cập, không đảm bảo tính công bằng, nhất quán
trong thực hiện, vì cùng thuộc một đối tượng nhưng không được hưởng cùng
chính sách do sinh sống tại các vùng, địa bàn có điều kiện khác nhau;
+ Chính sách hỗ trợ một lần để mua con giống, trồng cỏ, làm chuồng
trại cho các hộ nghèo, nhất là người dân tộc thiểu số còn có hạn chế nhất định
về mặt nhận thức do trình độ dân trí thấp, chưa thông thạo tiếng phổ thông,
nhưng năm sau không được tư vấn, hỗ trợ trực tiếp là chưa phù hợp, hạn chế
về hiệu quả thực hiện.
Ba là, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập
72
Cán bộ cơ sở chưa chủ động đề xuất, hướng dẫn cho nhân dân phương
án tổ chức sản xuất có hiệu quả, phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của từng
vùng và nhu cầu thực tế của thị trường; chưa chủ động đề xuất phương án hỗ
trợ tiêu thụ sản phẩm mà người dân làm ra; Chưa chủ động tham mưu cho các
cấp lãnh đạo giải pháp cụ thể tận dụng, phát huy các nguồn vốn theo điều kiện
ngân sách Trung ương cấp hàng năm để tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế -
xã hội tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh nhằm đạt
hiệu quả cao nhất trong xóa đói giảm nghèo. Chưa tham mưu giải pháp hỗ trợ,
bố trí đủ kinh phí cho cấp huyện để tổ chức điều tra, rà soát hộ nghèo hàng
năm, việc này dẫn đến công tác triển khai điều tra, rà soát hộ nghèo tại các địa
phương, cơ sở chất lượng chưa cao.
Bốn là, công tác tuyên truyền, giáo dục còn hạn chế
Công tác tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho người
dân về những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà về công tác ASXH
(các chính sách, chương trình, đề án) về mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền
vững, nhằm khơi dậy được ý thức tự giác vươn lên của người nghèo chưa tích
cực và có hiệu quả. Bên cạnh đó còn nhiều người dân chưa nhận thức hết ý
nghĩa tầm quan trọng của việc xóa đói giảm nghèo nên vẫn còn biểu hiện
trông chờ, ỷ lại, không trung thực khai báo tài sản và các nguồn thu nhập,
chưa quyết tâm vươn lên thoát nghèo; một bộ phận dân cư muốn vào diện hộ
nghèo để thụ hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước.
2.3. Những vấn đề đặt ra và cần giải quyết
2.3.1. Mâu thuẫn giữa nhu cầu rất lớn với khả năng thực tế có hạn
trong đảm bảo An sinh xã hội tại các huyện nghèo
Mức độ bền vững về tài chính, tính liên kết giữa các chế độ, chính sách
ASXH còn nhiều bất cập. Nguồn ngân sách của các huyện nghèo có hạn tuy
nhiên nhu cầu tài chính cho đảm bảo an sinh xã hội rất lớn. Thực tế hiện nay,
khoảng trên 90% ngân sách Trung ương hỗ trợ hàng năm nên việc bố trí kinh
73
phí từ ngân sách tỉnh, ngân sách từ huyện xuống thôn, bản gặp khó khăn,
nguồn kinh phí bố trí còn hạn hẹp, không đáp ứng đủ nhu cầu thực tế trong
triển khai các Chương trình, dự án giảm nghèo trên địa bàn.
Sự phân hóa nhanh, mạnh trong nền kinh tế thị trường đã làm cho các
nhóm xã hội yếu thế trở nên dễ bị tổn thương hơn do hạn chế về khả năng
cạnh tranh, phòng ngừa rủi ro trên thương trường, ngược lại nguồn lực để
thực hiện an sinh xã hội còn hạn chế.
2.3.2. Mâu thuẫn giữa đòi hỏi sự phát triển nhanh chóng của An
sinh xã hội với trình độ năng lực tổ chức, quản lý của cán bộ cơ sở
Các chương trình, dự án đảm bảo ASXH ngày càng phát triển và phong
phú, nhưng năng lực, trình độ của cán bộ cơ sở chỉ đáp ứng được một phần trong
đảm bảo ASXH; theo như kết quả điều tra của Sở kế hoạch đầu tư của tỉnh Điện
Biên và tổ chức UNICEFđến nay tổng số các chương trình, dự án hiện đang thực
hiện 58. Như vậy để tổ chức, thực hiện các chương trình, dự án cần bố trí số lượng
cán bộ có trình độ chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm và đội ngũ cán bộ, quản
lý có đủ năng lực điều hành các bước của chương trình, trong khi đó điều kiện địa
hình và thổ nhưỡng các huyện nghèo vô cùng phức tạp, hiểm trở nên rất khó tổ
chức thực hiện…
Các lĩnh vực đầu tư liên quan đến nhiều lĩnh vực: xây dựng cơ bản, lập dự
toán đầu tư…, trong khi đó thực hiện việc này chủ yếu các cán bộ cơ sở thôn, bản
đều chưa có trình độ chuyên môn sâu, năng lực quản lý điều hành nhiều hạn chế,
một số cán bộ cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong quá trình thực hiện.
2.3.3. Mâu thuẫn giữa chính sách của nhà nước trong công tác An
sinh xã hội với điều kiện thực tế tại các huyện nghèo
Hệ thống chính sách, luật pháp về ASXH hiện nay không theo kịp với
đòi hỏi của nền kinh tế và tiến trình hội nhập quốc tế. Xu hướng già hoá dân
số cũng đang và sẽ đặt ra nhiều khó khăn cho hệ thống ASXH, tạo áp lực lớn
74
lên hệ thống y tế, bảo hiểm xã hội (BHXH), các dịch vụ chăm sóc xã hội cho
người cao tuổi.
Các dòng di chuyển việc làm, di chuyển lao động diễn ra với cường độ
ngày càng mạnh, tạo áp lực lớn cho việc bảo đảm quyền và cơ hội tiếp cận
các dịch vụ xã hội cơ bản, quyền thụ hưởng các chính sách ASXH của các
nhóm dân cư dễ bị tổn thương.
Các Chương trình, dự án, chính sách về giảm nghèo theo Trung ương
quy định điều hành theo cơ chế riêng với nhiều đầu mối quản lý khác nhau ở
các Bộ, ngành Trung ương. Mục tiêu, chỉ tiêu đề ra trong các Chương trình
giảm nghèo cao, nhưng nguồn kinh phí thực hiện do Trung ương phân bổ
chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tế, nhất là tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên
có địa hình phức tạp chi phí đầu tư, vận chuyển lớn hơn so với dự kiến.
2.3.4. Mâu thuẫn giữa các nguồn lực tham gia hỗ trợ với chính bản
thân những đối tượng được thụ hưởng hỗ trợ
Kinh phí của nhà nước và các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng, ngân
hàng tương đối lớn, nhiều chương trình dự án đầu tư các tiện ích công cộng
đáp ứng nhu cầu tối thiểu của người dân nghèo, tuy nhiên sự cố gắng, ý thức
vươn lên thoát nghèo của bộ phận người dân chưa thật sự được nâng cao, còn
ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong nước, cũng
như nước ngoài
Trong bối cảnh nguồn lực tài chính quốc gia còn khó khăn, hạn chế,
cùng với việc cải cách các cơ chế, chính sách về ASXH, vấn đề đảm bảo nguồn
lực tài chính lâu dài, bền vững và cơ chế quản lý tài chính phù hợp cho các hoạt
động ASXH đã và đang trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm cấp
bách đối với nền kinh tế trong những năm tới. Theo kinh nghiệm của các nước
trên thế giới, nhu cầu nguồn lực cho hệ thống ASXH sẽ ngày càng tăng cao
cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là sự gia tăng của tiền
lương, thu nhập và mức sống.
75
*
* *
Tựu chung lại, đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo của tỉnh Điện Biên
trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Các chương trình,
dự án đảm bảo ASXH ngày càng đồng bộ và hoàn thiện với số người dân tại các
huyện nghèo được giải quyết việc làm ngày tăng; số người tham gia BHXH
ngày càng lớn, diện bao phủ không ngừng được mở rộng; chính sách trợ giúp xã
hội và hỗ trợ giảm nghèo được triển khai đạt hiệu quả cao, tỷ lệ hộ nghèo tại các
huyện nghèo đã giảm đáng kể; đảm bảo mức tối thiểu một số dịch vụ xã hội cơ
bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, dân tộc thiểu số và người có hoàn
cảnh khó khăn. Từ những thành tựu trên đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên không ngừng được cải thiện; công tác
ASXH nơi đây đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nghèo và đối tượng dễ
bị tổn thương trong xã hội, góp phần hình thành xã hội không còn nhóm xã hội
bị loại trừ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển toàn diện.
Tuy nhiên việc đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo của tỉnh Điện Biên cũng
còn rất nhiều khó khăn, hạn chế bất cập mà trong thời gian tới phải xác đinh
đúng các vấn đề nóng bỏng, cấp thiết nhưng đồng thời có ý nghĩa cơ bản, lâu
dài, tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức quản lý để thực hiện có hiệu quả
làm cơ sở cho sự phát triển bền vững.
76
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI CÁC
HUYỆN NGHÈO TỈNH ĐIỆN BIÊN TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Những quan điểm cơ bản chỉ đạo đảm bảo An sinh xã hội các
huyện nghèo tỉnh Điện Biên
3.1.1. Phải coi đảm bảo An sinh xã hội các huyện nghèo là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội
Như đã trình bày, phân tích ở các chương trước đảm bảo ASXH ở nước
ta là một nội dung, nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp đổi mới hiện nay, có
vai trò, ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo
vệ tổ quốc. Bởi vậy đảm bảo ASXH trở thành nhiệm vụ chính trị của Đảng,
Nhà nước, toàn bộ hệ thống chính trị, là sự nghiệp của toàn dân.
Đối với các huyện nghèo của toàn quốc nói chung, cũng như của tỉnh
Điện Biên nói riêng hoạt động này càng có vai trò hết sức đặc biệt bởi vì có
giải quyết thành công những vấn đề nóng bỏng, bức xúc của lĩnh vực đảm bảo
ASXH như: xóa đói, giảm nghèo, phát triển y tế, giáo dục, nâng cao trình độ
văn hóa và dân trí, làm giảm và xóa bỏ các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc hậu
mới tạo nên những tiền đề, điều kiện quan trọng nhất để các huyện nghèo có
thể phát triển nhanh và bền vững, từng bước thu hẹp khoảng cách, tiến tới
theo kịp các địa phương, vùng miền khác trong tỉnh và cả nước. Quan điểm
này phải được nhận thức và quán triệt sâu sắc trước hết ở các cấp ủy Đảng, hệ
thống chính quyền các cấp, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị, xã hội
khác, phải trở thành mối quan tâm hàng đầu trong tổ chức, thực hiện các chủ
trương, chính sách trong hành động của một huyện nghèo, một xã nghèo...
Nhưng điều quan trọng nhất là phải làm cho mỗi người dân hiểu và thấm
nhuần được vai trò của chính họ trong thực hiện đảm bảo ASXH, để khắc
phục thói quen và tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào nhà nước và sự trợ giúp của
các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hôi. Phải cho họ nhận thức được muốn thoát
77
khỏi đói nghèo, dốt nát, lạc hậu phải bằng chính sự phấn đấu, tự lực vươn lên
của bản thân và gia đình, biết sử dụng có hiệu quả nhất các trợ giúp của xã
hội. Bởi vậy cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền bằng nhiều
con đường, hình thức, biện pháp một cách kiên trì, thường xuyên, liên tục và
đến tận nơi dân cư sinh sống, kết hợp việc giáo dục với hướng dẫn trong hoạt
động sản xuất, canh tác của người dân, phải đảm bảo có hiệu quả thực tế các
hoạt động đó để họ tin tưởng làm theo.
Tuy nhiên để thực hiện tốt các nội dung, nhiệm vụ nêu trên, các huyện
nghèo muốn giải quyết triệt để việc đảm bảo ASXH cần phải huy động sự
tham gia đóng góp của toàn thể các lực lượng trong xã hội, hay còn gọi là xã
hội hóa trong công tác đảm bảo ASXH.
3.1.2. Đảm bảo An sinh xã hội các huyện nghèo tỉnh Điện Biên phải
trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa sự nỗ lực của địa phương với sự trợ giúp
của Trung ương và các nguồn lực khác
Kết hợp giữa phát huy nội lực với các yếu tố ngoại lực, trong đó nội lực
giữ vai trò quyết định là một quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng ta trong toàn
bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Quan điểm này phải được quán triệt
xuyên suốt trong các hoạt động đảm bảo ASXH ở các huyện nghèo trong toàn
quốc cũng như ở tỉnh Điện Biên, nội lực ở các huyện nghèo cần được hiểu là
yếu tố lãnh đạo của tổ chức Đảng, vai trò tổ chức quản lý của chính quyền các
cấp, hành động của đồng bào các dân tộc trong việc huy động, sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực, tiềm năng của địa phương, mà tiềm năng lớn nhất và
quý nhất là sức lao động. Nếu không tổ chức và phát huy tốt những nhân tố
tạo nên nội lực thì dù cho Nhà nước và các tổ chức kinh tế, xã hội có đầu tư
giúp đỡ bao nhiêu chăng nữa cũng sẽ không thể giải quyết cơ bản tình hình
hiện tại, càng không thể có tương lai phát triển lâu dài, bền vững, sẽ mãi mãi
là huyện nghèo và ngày càng tụt hậu.
78
Tuy nhiên trong sự nghiệp đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo ở Điện
Biên và cả nước hiện nay vai trò của Nhà nước, của các tổ chức kinh tế, xã
hội như các tập đoàn kinh tế, hệ thống Ngân hàng và tổ chức tín dụng, các tổ
chức chính trị xã hội, kể cả các tổ chức từ thiện nhân đạo quốc tế có vai trò rất
quan trọng. Nhưng sự đầu tư giúp đỡ ban đầu có ý nghĩa tạo lập các cơ sở và
điều kiện cần thiết cho các huyện nghèo có thể phát triển vì thực tế có thực
trạng xuất phát điểm còn rất thấp. Nhưng điều quan trọng nhất là chính bản
thân huyện nghèo biết kết hợp đúng đắn, có hiệu quả giữa nội lực của huyện
với những yếu tố bên ngoài. Trên hết huyện phải xác định đúng đắn những chủ
trương, định hướng các linh vực cần tập trung ưu tiên về đảm bảo ASXH, căn
cứ vào đặc điểm, khả năng và điều kiện cụ thể của mình, có kế hoạch và biện
pháp, mở rộng, thu hút sự tham gia của các đối tượng vào cung cấp các dịch vụ
ASXH, trong đó đặc biệt thu hút đầu tư các tổ chức kinh tế như: các tập đoàn
kinh tế, tổng công ty lớn, hệ thống Ngân hàng, các công ty bảo hiểm và tổ chức
quốc tế thông qua sự tư vấn, giúp đỡ của lãnh đạo và cơ quan chuyên môn ở
Trung ương, ở tỉnh. Bằng nhiều hình thức, biện pháp tổ chức để đưa các hộ gia
đình, các cá nhân và người lao động trên địa bàn huyện nghèo tham gia tích
cực vào công cuộc đảm bảo ASXH, vì đó suy cho cùng cũng chính là những
người quyết định sự thành công của đảm bảo ASXH. Trước hết trong những
năm tới cần tập trung sự nỗ lực để thu hút dân cư trong các huyện nghèo tham
gia ngày càng đông vào các hoạt động nóng bỏng, cấp thiết và bức xúc nhất
của công cuộc đảm bảo ASXH. Tuy nhiên với điều kiện, hoàn cảnh khó khăn
của các huyện nghèo cả nước nói chung, cũng như 5 huyện nghèo của tỉnh
Điện Biên nói riêng với sự giúp đỡ ban đầu của Nhà nước có ý nghĩa hết sức
quan trọng, nhất là trong việc đầu tư vào các công trình thuộc hạ tầng kinh tế -
xã hội như: hệ thống giao thông nông thôn, điện, thủy lợi, y tế, giáo dục để tạo
ra các tiền đề cần thiết cho huyện trong đảm bảo ASXH.
79
3.1.3. Đảm bảo An sinh xã hội các huyện nghèo tỉnh Điện Biên cần tập
trung vào giải quyết trước những vấn đề nóng bỏng, then chốt
Đảm bảo ASXH là lĩnh vực hoạt động rộng lớn, phức tạp vì có rất nhiều
khó khăn, đối với các huyện nghèo ở tỉnh miền núi tính chất khó khăn, phức tạp
càng tăng lên bội phần, có cả núi các công việc cần phải làm, trong đó có những
việc rất bức xúc, nóng bỏng. Nhưng vấn đề nổi cộm, cấp thiết nhất trong lĩnh
vực ASXH ở các huyện nghèo tỉnh Điện Biên hiện nay là: tình trạng đói nghèo
còn phổ biến, trình độ dân trí còn thấp, các tệ nạn xã hội, nhất là ma túy ngày
một tăng, hệ thống y tế, giáo dục thiếu đồng bộ, cơ sở vật chất xuống cấp trầm
trọng, năng lực trình độ đội ngũ bác sỹ, y tá và giáo viên còn thấp, chưa theo kịp
với nhịp độ phát triển của xã hội.
Như vậy, chỉ có tập trung mọi nỗi lực để làm thay đổi thực trạng đó một
cách có kết quả thì mới tạo ra những trạng thái mới, những điều kiện và tiền đề
cần thiết để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nói
chung và thực hiện việc đảm bảo ASXH ở các huyện nghèo nói riêng. Để tổ
chức, triển khai có hiệu quả trước hết lãnh đạo tỉnh, huyện cùng với các cơ quan
chức năng phải xác định đúng những vấn đề nóng bỏng, cấp bách; phải căn cứ
vào đặc điểm tình hình và thực trạng của địa phương mình trên cơ sở đó đề ra
những cách thức thực hiện, đặc biệt những vấn đề nóng bỏng, cấp bách nhất cần
tập trung giải quyết và nếu giải quyết thành công thì sẽ có tác động rất lớn đến
các vấn đề khác, như một sự đột phá trong đảm bảo ASXH. Trong điều kiện các
nguồn lực có hạn phải biết phân phối hợp lý và sử dụng có hiệu quả tránh tình
trạng tham nhũng, lãng phí. Trên thực tế đã có rất nhiều sự việc và bài học đã
xảy ra ở một số địa phương về các vấn đề liên quan đến đảm bảo ASXH cần
phải rút kinh nghiệm, vì những việc này đã gây ra sự lãng phí và kém hiệu quả,
ví dụ: các công trình xây dựng phục vụ tái định cư, các chương trình, dự án thủy
lợi, nước sạch, kể cả một số chương trình, dự án sản xuất nông sản, do không
nghiên cứu, điều tra thiếu căn cứ khoa học và thực tiễn hoặc do sự cẩu thả, thiếu
80
trách nhiệm của người lập quy hoạch nên không mang lại kết quả và lãng phí lớn.
Trong tổ chức thực hiện cần huy động được sự tham gia của tất cả các lực lượng
với phương châm lấy chất lượng và hiệu quả làm mục tiêu phấn đấu chứ không
chạy theo số lượng và phong trào. Điều có ý nghĩa quyết định là phải tổ chức cho
chính các đối tượng thụ hưởng các chính sách ASXH chủ động, tích cực tham gia
vào các hoạt động đó. Bởi vậy công tác giáo dục, thuyết phục với đồng bào vùng
dân tộc phải bằng nhiều hình thức kết hợp tiếp xúc trực tiếp để tuyên truyền vận
động với phát huy tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất của người dân, gắn việc
hướng dẫn kỹ thuật sản xuất, chăn nuôi với thuyết phục thực hiện các chủ trương,
nhiệm vụ chính của địa phương và hoạt đông thực tiễn mang tính thuyết phục.
Trong điều kiện các nguồn lực tại chỗ của các huyện nghèo còn đang rất
hạn chế, khó khăn để giải quyết những vấn đề nóng bỏng, bức xúc của đảm bảo
ASXH rất cần sự giúp đỡ, đầu tư, chi viện của hệ thống Nhà nước và các tổ chức
kinh tế - xã hội. Các quyết đinh đầu tư, giúp đỡ của Nhà nước và của các tổ chức
kinh tế - xã hội cũng phải được cân nhắc, tính toán đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả
mà tốt nhất là hình thành các dự án, chương trình với quy mô phù hợp có tác
dụng về lâu dài cả về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng an ninh.
3.2. Giải pháp thực hiện đảm bảo An sinh xã hội các huyện
nghèo tỉnh Điện Biên
3.2.1. Xây dựng và hoàn thiện chương trình mục tiêu An sinh xã hội
các huyện nghèo đến năm 2020
Trong nhiều năm qua trên địa bàn các huyện nghèo Nhà nước đã có nhiều
chủ trương, chính sách, chương trình để đảm bảo ASXH, ưu tiên đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội như: Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy
nghề; chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo nhanh và bền vững;
chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo… tuy nhiên để các
chương trình, dự án phát huy hết hiệu quả trong công cuộc giảm nghèo nhanh và
81
bền vững trong thời gian tới, các huyện nghèo cần tập trung tiếp tục xây dựng và
thực hiện cải cách thể chế, đổi mới phương thức hoạt động, xây dựng kế hoạch
cụ thể, chi tiết đến từng hạng mục, nội dung hỗ trợ, khoản mục trợ giúp có như
vậy kết quả đạt được là rất lớn và mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực cho những
đối tượng thụ hưởng, để thực hiện được điều này cần có chính sách phân cấp,
trao quyền cho người dân, cộng đồng tham gia thiết kế, triển khai thực hiện và
giám sát thực hiện các chương trình, dự án để phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng
của nhân dân, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa đặc thù của từng địa
phương, nhất là các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, các dự án thủy lợi, cải tạo đồng
ruộng tại các thôn, bản. Tăng cường hoạt động tập huấn, nâng cao năng lực thiết
kế, thực hiện các chương trình, dự án cho nhân dân, nhất là người dân vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, đi đôi với việc tăng cường kiểm tra, giám sát kết quả thực
hiện, cần nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung các chính sách cho phù hợp. Ví dụ: Thí
điểm thực hiện hình thức hỗ trợ trọn gói bằng tiền cho hộ nghèo trong sản xuất
lúa nương, sản xuất cây ngô...
Hình thành cơ quan, tiểu ban quản lý chương trình theo chuyên môn, lĩnh
vực, giảm các đầu mối quản lý (ví dụ: trong chính sách giáo dục và đào tạo nên
chỉ giao cho ngành giáo dục và đào tạo thực hiện, trong chính sách về lao động,
việc làm chỉ giao cho ngành lao động – xã hội thực hiện, các chính sách hỗ trợ
về y tế giao cho ngành y tế thực hiện...); phân công, cử đội ngũ cán bộ chuyên
trách triển khai chương trình đồng bộ từ cấp huyện đến cấp cơ sở thôn, bản.
Một là, đối với việc tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về
việc làm và dạy nghề cần phát triển đồng bộ hơn về các yếu tố thị trường lao
động phù hợp với điều kiện việc làm tại các huyện nghèo, đặc biệt nghiên cứu
mở rộng cơ hội việc làm, thu nhập ổn định thông qua các chương trình thị
82
trường lao động chủ động; hỗ trợ người lao động nhất là thanh niên mới bước
vào thị trường lao động, người lao động bị mất việc làm, lao động trong khu vực
phi chính thức, lao động ở những vùng khó khăn, người khuyết tật, người bị tác
động do cải cách và chuyển đổi cơ cấu kinh tế tiếp cận đào tạo nghề, vốn vay tạo
việc làm, tiếp cận thông tin thị trường lao động để tìm được việc làm và nâng
cao thu nhập.
Tập trung triển khai các Đề án dạy nghề hiện hành theo hướng kết hợp
đào tạo kỹ thuật cao, chuyên sâu với những nghề thông dụng nhằm đáp ứng nhu
cầu đa dạng của thị trường lao động và năng lực của từng nhóm đối tượng. Tập
trung đầu tư và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, đặc biệt nâng cao chất lượng
đào tạo nghề cho người dân trong trồng và bảo vệ rừng tái sinh, nghề thủ công
mỹ nghệ: thêu, dệt thổ cẩm của người Thái, nghề đan lát, rèn, làm yên cương
ngựa, đồ gỗ, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc của người H’Mông... Nâng cao
hiệu quả các chương trình đào tạo đối với lao động nông nghiệp ở vùng lúa trọng
điểm, như các vùng lúa ruộng bậc thang ở huyện Điện Biên Đông, huyện Tủa
Chùa. Xây dựng chính sách hỗ trợ đào tạo nghề kết hợp với bố trí việc làm tại
các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn...
Triển khai các chương trình, dự án di dân, định canh, định cư cho người
dân gắn với điều kiện cụ thể của các vùng, nhằm ổn định cuộc sống cho nhân dân,
tạo điều kiện chuyển đổi nghề, cụ thể: đối với vùng núi cao như Mường Nhé, Tủa
Chùa… tập trung di dân khỏi những vùng có nguy cơ bị lũ quét, lở đất, những
vùng bị thiên tai; đối với vùng gần lòng hồ thủy điện như: Điện Biên Đông,
Mường Ảng chú trọng vào những nơi có nguy cơ bị ngập do nước lòng hồ dâng;
đối với khu vực miền núi giáp biên giới Trung Quốc, Lào cần chú trọng vấn đề di
dân tự do, tuyên truyền đạo trái phép. Bên cạnh đó tăng cường giáo dục, hướng
83
nghiệp tạo việc làm, mở rộng mạng lưới cơ sở dịch vụ việc làm đã phát triển với
hai loại hình Trung tâm giới thiệu việc làm nhà nước và các Doanh nghiệp dịch vụ
việc làm tư nhân thông qua thị trường xuất khẩu lao động ra nước ngoài, hiện nay
có tình trạng một số lao động tại các huyện nghèo của tỉnh Điện Biên đã sang làm
việc ở nước ngoài, tuy nhiên có một số lao động trong quá trình làm việc đã không
đáp ứng được yêu cầu công việc nên phải về nước, từ đây có thể thấy thực trạng
lao động ở những vùng khó khăn, dân tộc thiểu số có trình độ tay nghề thấp, quen
lao động trong môi trường nông nghiệp, trồng nương dãy nên cần phải nâng cao
công tác dạy nghề, bổ trợ các kiến thức cơ bản về việc làm, lao động trong các
ngành công nghiệp…
Bằng những hành động cụ thể, các huyện nghèo cần căn cứ đặc điểm địa
hình, thổ nhưỡng và khí hậu có thể quy hoạch vùng sản xuất nông lâm ngư nghiệp,
xây dựng các vùng chuyên canh tại một số xã, thôn, bản về những loại cây mang
lại hiệu quả kinh tế cao như: Xây dựng vùng chuyên trồng cây cao su, cây cà phê ở
huyện Điện Biên Đông, huyện Mường Ảng, Tủa Chùa...; xây dựng vùng chuyên
canh cây lúa nương, cây ngô, cây sắn; tại những vùng núi cao hay những nơi nhiều
đồng cỏ xây dựng vùng phát triển trăn nuôi gia súc như: trâu, bò, dê…
Tổ chức việc làm tạm thời cho người lao động nông thôn, người thất
nghiệp, thiếu việc làm trong các hộ gia đình nghèo hoặc cận nghèo thông qua các
dự án phát triển cơ sở hạ tầng qui mô nhỏ (đường giao thông, thủy lợi, nạo vét
sông, hồ...), thu gom rác thải và làm vệ sinh môi trường. Người tham gia làm việc
được trả công bằng tiền hoặc hiện vật (suất ăn, lương thực, thực phẩm) hoặc kết
hợp cả hai hình thức trên.
Hai là, Chương trình quốc gia về giảm nghèo nhanh và bền vững thực chất
đã được Trung ương và các địa phương tổ chức triển khai từ lâu, bên cạnh chương
84
trình 135 còn có các chương trình, dự án khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư;
dự án cho vay vốn hộ nghèo; chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tại 63
huyện nghèo theo Nghị quyết 30a; chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo theo
Quyết định 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ...Tuy
nhiên các chương trình, dự án được triển khai tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên
đã thu được kết quả tốt, nhưng vẫn còn nhiều bất cập, nhiều khoản mục hỗ trợ, nội
dung trợ giúp còn chồng chéo, đan xen, thậm trí có nội dung đạt hiệu quả chưa
cao, để khắc phục những tồn tại, hạn chế các huyện nghèo cần phải thực hiện một
số giải pháp để tận dụng tối đa nguồn lực hỗ trở, phát huy tiềm năng lợi thế của
địa phương, nhằm đưa các huyện nghèo ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời
sống người dân ngày được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm ngang bằng với các
huyện trên toàn quốc. Các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo phần lớn tập
trung vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; việc đầu tư chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi còn ít, hiệu quả chưa cao. Nhiều mục tiêu, chỉ tiêu thuộc Chương trình
giảm nghèo do Trung ương quy định khó thực hiện hoàn thành, nhiều dự án đầu
tư cơ sở hạ tầng tại các vùng khó khăn do thiếu kinh phí thực hiện nên không đảm
bảo quy mô, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định, ảnh hưởng đến việc phục vụ trực
tiếp nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, giao thương của các hộ nghèo.
Do đó ở các huyện nghèo thời gian tới cần quan tâm ban hành một hệ thống
chính sách giảm nghèo chung, thống nhất, trong đó quy định cụ thể chính sách đối
với người nghèo, người dân tộc thiểu số, người cư trú ở xã đặc biệt khó khăn với
mức, chế độ cụ thể cho từng loại đối tượng được thụ hưởng,... trong một văn bản,
cần phân khai rõ từng khoản mục hỗ trợ, không nên quy định riêng lẻ thành nhiều
chương trình mục tiêu khác nhau như hiện nay, chương trình 135, chương trình
30a, chương trình xây dựng nông thôn mới có một số chính sách trùng lắp, như:
85
chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất cho hộ nghèo dân tộc thiểu số, chính sách cho
vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn…
Chủ trương, chính sách đảm bảo ASXH dù có đúng đắn đến đâu nếu không
có sự đồng thuận của người dân thì khó mà đạt hiệu quả cao, điều quan trọng nhất
các cấp chính quyền địa phương phải làm cho mỗi người dân thấu hiểu và thấm
nhuần được vai trò của chính họ trong thực hiện đảm bảo ASXH, để khắc phục
thói quen và tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước, các tổ
chức kinh tế, không tự vươn lên thoát nghèo, các huyện nghèo cần điều chỉnh, bổ
sung chính sách hỗ trợ giảm nghèo theo hướng sau:
+ Cần tập trung nguồn vốn để hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, giảm
bớt các chính sách trợ cấp toàn bộ đối với hộ nghèo (chỉ duy trì chính sách hỗ trợ
về y tế, giáo dục và đào tạo); còn lại các chính sách khác (hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ
con giống cây trồng, vật nuôi..) chỉ hỗ trợ toàn bộ về cây trồng, vật nuôi có giá trị
nhỏ; nếu giá trị cao thì hỗ trợ theo hình thức đối ứng (hộ tự cân đối, bố trí vốn là
chính từ việc thông qua nguồn vốn vay ưu đãi, Nhà nước chỉ hỗ trợ từ 30 - 50%
kinh phí);
+ Đối với hộ nghèo đồng thời là người có công hoặc đối tượng bảo trợ xã
hội, đối tượng mắc bệnh hiểm nghèo, ốm đau bệnh tật (nhóm nghèo bất khả
kháng) thì cấn có các chính sách hỗ trợ khác về đời sống, sinh kế với mức hỗ trợ
100% giá trị;
+ Đối với hộ nghèo do mắc tệ nạn xã hội hoặc không chịu khó lao động,
nên để mức hỗ trợ chỉ bằng từ 30-50% so với nhóm hộ nghèo do bất khả kháng,
thời gian hỗ trợ từ 1- 2 năm, nếu các hộ trên không quyết tâm khắc phục khó khăn
và vươn lên thoát nghèo sẽ dừng hỗ trợ;
86
Hàng năm các thôn bản, xã cho đến huyện cần tập trung chỉ đạo điều tra,
nắm chắc thực trạng hộ nghèo, người nghèo ở từng địa bàn để xây dựng cụ thể
nhiệm vụ, giải pháp nhằm giảm nghèo nhanh và bền vững cho từng vùng, từng địa
bàn. Đồng thời hoàn thiện cơ chế chính sách về giảm nghèo nhanh và bền vững phù
hợp với điều kiện thực tế của từng vùng; cụ thể hóa và thực hiện tốt cơ chế thu hút
vốn đầu tư, khuyến khích đầu tư, hỗ trợ của các doanh nghiệp, tập thể, cá nhân
tham gia thực hiện chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo trên địa bàn nhằm tạo
việc làm, tăng thu nhập và góp phần đổi mới cơ cấu, chất lượng lao động.
Tập trung cho phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng chủ yếu, tạo cơ hội
cho người nghèo tiếp cận được các dịch vụ công. Việc cơ sở hạ tầng còn yếu
kém, chưa đồng bộ, đặc biệt là tại các xã đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc
miền núi là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến đói nghèo. Vì vậy, việc xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội là một trong những điểm quan trọng để hỗ
trợ các xã nghèo, người nghèo, tạo điều kiện tiếp cận thị trường, mở rộng và
phát triển sản xuất.
Tăng cường kiểm tra, rà soát việc thực hiện chính sách đóng, hỗ trợ
đóng thẻ bảo hiểm y tế cho các hộ nghèo, cận nghèo và các đối tượng xã hội;
củng cố và nâng cao tính chính xác trong quy trình lập, cấp phát thẻ bảo hiểm
y tế. Thông tin, tuyên truyền về kiến thức phòng trừ bệnh, bảo đảm sức khỏe
cho người dân, thực hiện kế hoạch hóa gia đình giảm tỷ lệ sinh ở các vùng
dân tộc thiểu số, vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao.
Thực hiện tốt các chính sách miễn, giảm học phí cho các đối tượng chính
sách và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân; thực hiện chính sách hỗ trợ học sinh dân tộc bán trú, trường phổ
thông dân tộc bán trú và trường phổ thông dân tộc nội trú.
Triển khai thực hiện tốt Đề án xây dựng nông thôn mới trên các tiêu chí
quy định: xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và tổ
chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị
theo quy hoạch; xây dựng văn hóa xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn
87
hóa dân tộc, dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh
trật tự được giữ vững; đời sống vật chất tinh thần của người dân nông thôn ngày
càng được nâng cao.
Thực hiện tốt các chính sách ASXH, cứu trợ kịp thời các đối tượng xã
hội bị thiên tai, lũ lụt, mất mùa; thực hiện chương trình mục tiêu ứng phó với
biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh phong trào xã hội hóa công tác đền ơn đáp nghĩa;
công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; phong trào xây dựng Quỹ bảo trợ
trẻ em; quan tâm chăm sóc, giúp đỡ trẻ em mồ côi, người khuyết tật, người
cao tuổi, người thuộc hộ gia đình chính sách.
3.2.2.Tập trung đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng để phục vụ sản xuất
– đời sống và phát triển kinh tế - xã hội lâu dài tại các huyện nghèo
Trước hết, để thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện phát triển kinh tế - xã
hội thay đổi cơ bản diện mạo nông thôn, các huyện cần chủ động đề ra những
chủ trương đúng đắn, xây dựng chương trình, kế hoạch và chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội đồng bộ cho cả trước mắt và lâu dài. Xác định rõ xoá đói giảm
nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước, là sự nghiệp cấp bách
của huyện và của cả hệ thống chính trị ở cơ sở, cũng như của toàn dân.
Huy động tối đa nguồn lực của Nhà nước, của xã hội và của người dân
để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, không ngừng
đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề, điều kiện vật chất, nguồn tài
chính làm bệ đỡ cho việc đảm bảo ASXH, nhất là đầu tư xây dựng đồng bộ hệ
thống giao thông nông thôn, xây dựng hệ thống điểm trường và trường học,
trạm y tế gắn với việc quan tâm nâng cao sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp
để xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Cùng với sự đầu
tư, hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng xã hội, sự nỗ lực phấn đấu vươn lên
thoát nghèo của người nghèo, hộ nghèo là nhân tố quyết định thành công của
công cuộc xoá đói giảm nghèo, chính bản thân các huyện nghèo tự nỗ lực tìm
88
ra những hướng đi đúng đắn để giúp người dân tự thân lập nghiệp, có những
chính sách phù hợp để đảm bảo ASXH tại địa phương.
Ngoài nguồn kinh phí của Trung ương, chính bản thân các huyện nghèo
chủ động từ nguồn kinh phí địa phương tập trung đầu tư hạ tầng cơ sở từ huyện
đến thôn bản, bao gồm: trường dân tộc nội trú huyện (gồm cả nhà ở cho học
sinh) có quy mô đáp ứng nhu cầu học tập của con em đồng bào dân tộc thiểu số
trên địa bàn; cơ sở dạy nghề tổng hợp huyện (bao gồm cả nhà ở cho học viên);
các công trình thủy lợi quy mô cấp huyện, liên xã; đường giao thông từ trung
tâm huyện tới xã, liên xã. Đầu tư các công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu ở tất cả
các xã trên địa bàn huyện, bao gồm: Trường học (lớp học, trường học, kể cả
trường mầm non, lớp mẫu giáo, nhà ở bán trú dân nuôi, nhà ở cho giáo viên);
trạm y tế xã đạt tiêu chuẩn (gồm cả nhà ở cho nhân viên y tế); đường giao thông
liên thôn, bản, đường vào các khu kinh tế, sản xuất tập trung (gồm cả cầu, cống);
thủy lợi phục vụ tưới và tiêu cho sản xuất nông nghiệp (kênh mương nội đồng và
thủy lợi nhỏ); điện phục vụ sản xuất và dân sinh; công trình nước sinh hoạt (tập
trung hoặc phân tán, đào giếng, xây bể). Thực hiện đầu tư, xây dựng đồng bộ hạ
tầng cơ sở huyện nghèo chính là phục vụ đời sống và sinh hoạt của người dân
bền vững, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Cần tập trung hỗ trợ vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao phát triển giao thông,
thông tin liên lạc; lựa chọn cây trồng, vật nuôi, hàng hóa có lợi thế, tiếp cận thị
trường thuận lợi; tăng cường hệ thống khuyến nông, thú y, bảo vệ thực vật, hỗ
trợ nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật để phát triển sản xuất; đầu tư xây dựng
hệ thống thủy lợi, cấp nước sinh hoạt; tạo điều kiện để hộ nghèo tham gia bảo vệ
rừng, trồng rừng, đặc biệt là trồng rừng sản xuất nâng cao thu nhập; có chính
sách hỗ trợ các doanh nghiệp về sản xuất kinh doanh, bao tiêu, tiêu thụ sản phẩm
89
nông nghiệp do chính bà con làm ra ở các xã nghèo, vùng nghèo…Ngoài việc
xây dựng cơ sở hạ tầng, các tuyến đường giao thông huyết mạch kinh tế để
tiêu thụ sản phẩm, các huyện nghèo cần hỗ trợ kinh phí cho các địa phương tu
bổ hệ thống kênh mương, từng bước đáp ứng tốt hơn nước tưới cho sản xuất
nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản; hỗ trợ vốn để bảo hiểm sản vật nông
nghiệp; có chế độ ưu đãi đặc biệt cho các doanh nghiệp xây dựng các cơ sở
chế biến nông sản ở vùng nông thôn để vừa tiêu thụ sản vật, vừa giải quyết
việc làm cho người dân…
Trong thời gian tới nên tập trung bổ sung nguồn lực vào hai chương
trình xây dựng nông thôn mới và xóa đói giảm nghèo; trong đó, bổ sung thêm
các chính sách về giảm nghèo đặc thù đối với vùng dân tộc thiểu số; tập trung
về vấn đề đất đai, tăng đầu tư cho các huyện, xã nghèo xây dựng hoàn chỉnh
kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nhất là giao thông, thủy lợi; bố trí đủ nguồn lực
cho địa phương để hoàn thành các chương trình dự án, tạo điều kiện cho
người nghèo phát triển sản xuất, thoát nghèo bền vững.
3.2.3. Phát huy vai trò của hệ thống ngân hàng và các tổ chức kinh
tế trong đảm bảo An sinh xã hội các huyện nghèo
Xây dựng một hệ thống chính sách tín dụng thương mại thống nhất trên cơ
sở đánh giá kết quả thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi hiện hành đang áp
dụng tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên. Hoàn thiện, bổ sung cơ chế, chính sách
tín dụng đặc thù cho người dân vùng đồng bào nghèo, vùng khó khăn, đặc biệt
cần xây dựng cơ chế tín dụng đặc thù riêng cho vùng dân tộc thiểu số (cho vay
vốn phát triển sản xuất, chồng cây công nghiệp)… Ưu tiên tạo cơ chế thông
thoáng, chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội vay
vốn phát triển sản xuất, kinh doanh, bao tiêu sản phẩm trên địa bàn các huyện
nghèo..
90
Bổ sung đối tượng được vay vốn ưu đãi đối với các cơ sở sản xuất, kinh
doanh, doanh nghiệp tạo nhiều việc làm, sử dụng nhiều lao động thuộc nhóm đối
tượng người dân vùng đồng bào nghèo, vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số;
các cơ sở sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn miền núi,
vùng khó khăn; những đơn vị hoạt động bao tiêu sản phẩm do chính người dân
làm ra được vay vốn ưu đãi…
Theo quy định hiện hành, các khoản tài trợ được ghi nhận vào chi phí
của ngân hàng và doanh nghiệp giới hạn trong bốn nhóm đối tượng chính là:
tài trợ cho giáo dục, tài trợ cho y tế, tài trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo và
tài trợ khắc phục hậu quả thiên tai. Như vậy để phát huy thế mạnh của các
ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong hỗ trợ cho vay tại các huyện nghèo
cần mở rộng các đối tượng, hạng mục tài trợ, đặc biệt tập trung vào một số
đối tượng có hoàn cảnh khó khăn nhưng không thuộc nhóm đối tượng do Nhà
nước quy định.
Các huyện nghèo cần chủ động kêu gọi các tổ chức kinh tế, hệ thống ngân
hàng trên địa bàn tiếp tục ủng hộ, hỗ trợ các khoản mục đã cam kết, đồng thời
tiếp tục hỗ trợ các chương trình mới trọng tâm, trọng điểm giải quyết triệt để
những vấn đề nóng bỏng, bức xúc của từng huyện nghèo, nghiên cứu những nội
dung, mô hình mới về xóa đói, giảm nghèo, với nội dung, cách làm phù hợp với
khả năng của mình. Ngân hàng phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương
để triển khai việc hỗ trợ thiết thực, hiệu quả, phù hợp với đối tượng, yêu cầu và
nguyện vọng của người dân nơi hỗ trợ. Tăng cường các khoản vay ưu đãi hỗ trợ
giải quyết việc làm tại chỗ như: cho vay các dự án trồng và chăm sóc rừng tái
sinh, các cơ sở sản xuất, chế biến sản phẩm tại địa phương, đặc biệt cần quan
tâm hơn và có chính sách đặc thù cho đồng bào dân tộc, người dân vùng khó
khăn tham gia xuất khẩu lao động thị trường nước ngoài, nâng hạn mức, kéo dài
91
thời gian cho vay và ưu đãi lãi xuất đối với người dân vùng sâu, vùng xa, người
nghèo thực sự muốn thoát nghèo; cho vay ưu đãi lãi xuất đối với doanh nghiệp,
tổ chức đào tạo nghề và đưa người đi lao động nước người.
Bên cạnh tín dụng thương mại, hệ thống ngân hàng mà nòng cốt là
Ngân hàng Chính sách xã hội triển khai hàng loạt các chương trình tín dụng
ưu đãi đối với các đối tượng chính sách tại các huyện nghèo như: Cho vay hộ
nghèo; cho vay học sinh, sinh viên; cho vay giải quyết việc làm; cho vay xây
dựng các công trình nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn; cho vay hộ gia
đình sản xuất kinh doanh vùng khó khăn; cho vay người lao động thuộc
huyện nghèo đi xuất khẩu lao động; cho vay hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở; cho
vay thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn; hộ đồng bào
DTTS khó khăn; cho vay hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt
cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn;... Vốn tín dụng chính sách
đã giúp cho hộ nghèo, vùng nghèo và các đối tượng chính sách tiếp cận với
những chương trình hỗ trợ giảm nghèo của Đảng và Nhà nước, tạo thêm
công ăn việc làm, cải thiện cuộc sống, vươn lên thoát nghèo bền vững.
Khuyến khích các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế xây dựng đầu tư hạ
tầng cơ sở, xây dựng các công trình phúc lợi công cộng; tập trung vào xây dựng
các công trình phục vụ lợi ích thiết thực của người dân nơi đây, như: nhà văn
hóa sinh hoạt cộng đồng, khu nhà tạm trú dân nuôi…,Đặc biệt khuyến khích các
doanh nghiệp nghiên cứu xây dựng mô hình liên kết bốn nhà trong sản xuất
nông lâm nghiệp, tập trung đầu tư trồng những cây mang lại nguồn lợi kinh tế
cao như cây cao su, cà phê, sắn; xây dựng các nhà máy chế biến nông sản cho bà
con nông dân vùng cao, vùng đồng bào dân tộc ít người…
Tựu chung lại, trong thời gian qua các ngân hàng, tập đoàn kinh tế đã tài
trợ, hỗ trợ với khối lượng lớn tài chính cũng như hiện vật tại các huyện nghèo,
tuy nhiên đây cũng chỉ là phần rất nhỏ so với nhu cầu rất lớn của việc đảm bảo
92
ASXH tại các huyện nghèo. Để tập trung các nguồn lực hỗ trợ, các huyện nghèo
cần xây dựng một chiến lược tổng thể về các chính sách hỗ trợ, trợ giúp; cần
phân khai theo ngành, theo lĩnh vực, theo nhóm đối tượng để các ngân hàng, tổ
chức kinh tế tập trung hỗ trợ, như: đối với ngân hàng cần phân theo chức năng
hoạt động của từng đơn vị, ví dụ: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn chỉ tập trung hỗ trợ vay vốn phục vụ vấn đề sản xuất nông nghiệp, cây
trồng vật nuôi; Ngân hàng TMCP Công thương hỗ trợ vay vốn các lĩnh vực liên
quan đến công nghiệp, dịch vụ; Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển chỉ hỗ
trợ vay vốn để phục vụ các chương trình, dự án xây dựng hạ tầng cơ sở…; đối
với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế cũng thực hiện hỗ trợ theo chức năng
nhiệm vụ trong lĩnh vực hoạt động, ví dụ: các doanh nghiệp xây dựng hỗ trợ lĩnh
vực xây dựng các công trình giao thông, nhà ở, trường học bệnh viện; doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, xuất nhập khẩu lương thực, thực phẩm
chỉ tập trung hỗ trợ sản xuất nông lâm nghiệp, tìm đầu ra, bao tiêu sản phẩm cho
bà con nhân dân trên địa bàn các huyện nghèo; các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng hỗ trợ cung cấp vật liệu xây dựng cho
các công trình dân sinh, có cơ chế trả chậm, trả góp cho những sản phẩm của
mình…Để làm được như trên, hệ thống chính trị ở cơ sở phối hợp chặt chẽ với
các ngân hàng, các tổ chức kinh tế cần xác định rõ những nội dung, hạng mục,
tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tổ chức thực hiện, có như vậy công tác
đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo mới đạt được mục tiêu đặt ra, hiệu quả đạt
được sẽ rất lớn, các nguồn hỗ trợ mới đến được tận tay người thụ hưởng, phục
vụ nhu cầu tối thiểu người dân.
93
3.2.4. Tập trung giải quyết tốt vấn đề xóa đói, giảm nghèo yếu tố
quyết định trong đảm bảo An sinh xã hội tại các huyện nghèo.
Cần nhấn mạnh xóa đói giảm nghèo là mục tiêu quan trọng của đảm
bảo ASXH, đồng thời là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước và chỉ có xóa
đói giảm nghèo thì mới phát triển kinh tế – xã hội bền vững trên ba mặt là:
- Bền vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế bền vững là phát triển
nhanh và an toàn, chất lượng, lấy mục tiêu tăng trưởng kinh tế và xoá đói
giảm nghèo làm nhiệm vụ chính của kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế
của huyện trong giai đoạn tới, coi đó là đầu ra cuối cùng cần đạt được trong
thời kỳ kế hoạch. Bảo đảm sự gắn kết giữa hai mục tiêu này với nhau trong hệ
thống mục tiêu kế hoạch. Trong đó mục tiêu XĐGN phải được đặt ra trước
tiên, trên cơ sở đó thiết kế các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế phù hợp với năng
lực tăng trưởng kinh tế của địa phương nhưng mặt khác phải phù hợp với yêu
cầu đặt ra của mục tiêu XĐGN;
- Bền vững về mặt xã hội là công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ
số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội tại các
huyện nghèo, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng lên và tiến
kịp so với bình quân thu nhập của người dân trên địa bàn tỉnh và bằng mức sống
bình quân của những huyện trung bình; trình độ dân trí các xã nghèo ngày càng
được cải thiện và nâng cao, giáo dục – đào tạo ngày càng phát triển, sức khỏe
nâng lên một bước, tuổi thọ trung bình ngày một tăng, mức hưởng thụ về văn
hóa, văn nghệ được cải thiện cả về chất lượng và nội dung.
- Bền vững về sinh thái môi trường cụ thể: khai thác và sử dụng hợp
lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi
trường sống...
Trước mắt cũng như lâu dài các huyện nghèo cần hoàn thiện cơ chế xác
định đối tượng của chương trình giảm nghèo: tách đối tượng nghèo kinh niên
sang hưởng các chính sách ASXH; tập trung hỗ trợ bộ phận người nghèo có việc
94
làm, tăng thu nhập, có khả năng vươn lên thoát nghèo, người mới thoát nghèo có
nguy cơ tái nghèo, người nghèo tạm thời do bị rủi ro về kinh tế, sức khỏe và
thiên tai; tập trung hỗ trợ toàn diện đối với trẻ em nghèo về giáo dục, dinh
dưỡng, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, nước và vệ sinh, giải trí và bảo trợ xã hội.
Tiếp tục thực hiện các chính sách và chương trình giảm nghèo: Các chính
sách và chương trình giảm nghèo tập trung vào việc tạo lập môi trường thể chế,
nâng cao năng lực của hộ nghèo, vùng nghèo; nâng cao vai trò các địa phương, tổ
chức, cá nhân trong việc thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo thông qua việc
thực hiện mạnh mẽ cơ chế phân cấp và đầu tư trọn gói. Ngân sách Nhà nước đảm
bảo thực hiện các mục tiêu kế hoạch được phê duyệt, ưu tiên các địa phương có tỷ
lệ nghèo cao. Thực hiện lồng ghép các nguồn lực giảm nghèo trên địa bàn.
Tăng cường và mở rộng việc theo dõi, giám sát và đánh giá chất lượng
các chương trình giảm nghèo đã triển khai trên địa bàn huyện nghèo: ban hành
hướng dẫn bộ chỉ số theo dõi, giám sát nghèo đói một cách đơn giản, khả thi dễ
thực hiện và hướng dẫn quy trình thu thập thông tin, xử lý thông tin cho cán bộ
cơ sở xã, thôn bản; đảm bảo chia sẻ thông tin giữa các ngành, các cấp; đảm bảo
sự tham gia toàn diện của người dân trong quá trình thực hiện các chương trình
giảm nghèo. Nâng cao năng lực giám sát của người dân vào quá trình xác định
hộ nghèo, thực hiện các chính sách giảm nghèo; hoàn thiện công tác cập nhật đối
tượng hộ nghèo, nghiên cứu thí điểm việc ban hành sổ hộ nghèo thống nhất trên
toàn địa bàn…
Xã hội hóa nguồn lực cho xóa đói giảm nghèo: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế
doanh nghiệp hỗ trợ các địa phương nghèo; mở rộng sự tham gia của các đối tác
xã hội trong việc thực hiện chương trình giảm nghèo. Giải quyết triệt để các vấn
đề liên quan đến nghèo đói tại các huyện nghèo cũng có nghĩa từng bước nâng
95
cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, đồng thời đưa kinh tế - xã hội
tại nơi đây phát triển ổn định, bền vững.
3.2.5. Phát huy vai trò của lực lượng vũ trang trên địa bàn trong
công tác đảm bảo An sinh xã hội
Thực hiện đảm bảo ASXH với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân: phân vùng chiến lược về quốc phòng, an ninh kết hợp với vùng
kinh tế trên cơ sở qui hoạch các vùng dân cư theo nguyên tắc bảo vệ đi đôi với xây
dựng đất nước; đặc biệt những huyện nghèo cần có chính sách tập trung ưu tiên đầu
tư kinh tế xã hội trên tuyến biên giới, đẩy nhanh công tác xóa đói giảm nghèo, xây
dựng tuyến biên giới ổn định hữu nghị, hợp tác và phát triển, trong đó có việc khẩn
trương hoàn thiện tuyến đường tuần tra biên giới để bảo đảm cho các lực lượng
tuần tra biên giới xử lý các vấn đề nhanh, hiệu quả, kịp thời; xây dựng các lực
lượng quốc phòng, an ninh, trọng tâm là bộ đội biên phòng thường xuyên cùng
người dân bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ biên giới quốc gia, giữ gìn trật tự
an toàn xã hội, đồng thời tạo thuận lợi cho người dân nơi đây phát triển sản xuất,
trồng và bảo vệ rừng; lực lượng bộ đội biên phòng vừa là thầy giáo, vừa là thầy
thuốc và vừa là cán bộ nông nghiệp để dạy chữ, khám bệnh, hướng dẫn sản xuất
cho đồng bào; tăng cường cử cán bộ chiến sỹ biên phòng về các làng bản làm thầy
thuốc, dạy học và hướng dẫn dân sản xuất, trực tiếp tham gia xây dựng chính quyền
cơ sở, đóng góp tích cực vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo khu vực biên giới,
vùng sâu, vùng xa để người dân yên tâm bám trụ, cùng quân đội gìn giữ biên cương
Tổ quốc.
Thông qua đảm bảo ASXH xây dựng hậu phương quân đội, tạo chỗ dựa
vững chắc cho thế trận quốc phòng, an ninh; tăng cường sức mạnh về mọi mặt
để đoàn kinh tế quốc phòng 379, các binh đoàn kinh tế vừa làm nhiệm vụ huấn
96
luyện sẵn sàng chiến đấu, xây dựng khu vực phòng thủ gắn với hoạt động sản
xuất, xây dựng hạ tầng giao thông, vừa tạo việc làm mang lại thu nhập ổn định
cho hàng chục nghìn lao động là người dân nơi đóng quân, trong đó chủ yếu là
người dân tộc thiểu số. Điều đó đã tạo ra thế trận quốc phòng, an ninh ở các khu
vực, địa bàn trọng yếu, chiến lược về quốc phòng, an ninh. Nhất là khi các huyện
nghèo tỉnh Điện Biên có đường biên giới với Lào và Trung Quốc, vì vậy cần làm
tốt công tác xây dựng thế trận quốc phòng tại các huyện nghèo tạo chỗ dựa vững
chắc bảo về chủ quyền biên giới của tổ quốc.
Trong thời gian qua, Bộ Quốc phòng đã có Nghị quyết số 150/ĐUQSTW
về việc quân đội tham gia xóa đói giảm nghèo, xây dựng kinh tế ở vùng sâu,
vùng xa với kế hoạch, nội dung triển khai cụ thể đến các đơn vị có liên quan.
Tuy nhiên để các Đoàn kinh tế - quốc phòng trên những địa bàn khó khăn nhất,
dọc biên giới phát huy hết khả năng và lợi thế cần phải tăng cường tiềm lực về
kinh tế, khoa học kỹ thuật và lực lượng để tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng kết
hợp với tổ chức, qui hoạch lại dân cư, giúp dân từng bước tạo dựng nền kinh tế
hàng hóa thị trường; đưa văn hóa y tế về thôn bản, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân, từ đó xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh;
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về mối quan hệ chặt chẽ giữa quốc
phòng và an ninh với xóa đói, giảm nghèo, từ thực tiễn công tác xóa đói, giảm
nghèo của Quân đội nhân dân Việt Nam, thời gian tới tiếp tục thực hiện mục
tiêu giảm nghèo bền vững giai đoạn 2015 - 2020, Đoàn kinh tế quốc phòng
379 phối hợp với huyện Mường Nhé tiếp tục xây dựng phương án lồng ghép
thực hiện các chương trình, dự án xóa đói, giảm nghèo khu vực biên giới,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa với các dự án quốc phòng,
an ninh trên cùng địa bàn.
Triển khai các lực lượng trong thế trận lòng dân, tổ chức phòng thủ dân
sự kết hợp cải tạo địa hình với xây dựng hạ tầng và các công trình phúc lợi tại
97
các địa phương nghèo, bởi vậy cần tăng cường xây dựng các khu kinh tế quốc
phòng tại những xã biên giới, thành lập các vùng sản xuất chuyên canh công
nghiệp từ đó thu hút nguồn lao động của địa phương vào làm việc kết hợp
hình thức khoán vườn cây công nghiệp, giao đất sản xuất cho dân, đồng thời
giúp người dân về kỹ thuật canh tác và bao tiêu sản phẩm họ làm ra, thông
qua đó thực hiện tốt công tác hậu phương quân đội, đặc biệt là lực lượng bộ
đội biên phòng thường xuyên bám sát địa bàn, trực tiếp tham gia giúp bà con
tăng gia, sản xuất; hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, trồng và bảo vệ rừng tái
sinh, cùng người dân phát triển kinh tế hộ ngày một vững chắc hơn; đồng thời
triển khai dự án định canh định cư cho đồng bào ở một số vùng biên giới, tạo
lập cuộc sống ổn định lâu dài và phát triển kinh tế hộ bền vững… Đoàn kinh
tế - quốc phòng (379) tiếp tục xác định rõ: xây dựng khu kinh tế - quốc phòng
trên các địa bàn chiến lược vùng Tây Bắc nói chung, huyện nghèo tỉnh Điện
Biên nói riêng là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đặc
biệt trong tình hình hiện nay lực lượng quân đội mà trực tiếp là cán bộ, chiến sĩ
các đoàn kinh tế - quốc phòng phải phấn đấu là lực lượng nòng cốt giải quyết
các vấn đề quốc phòng - an ninh, kinh tế - xã hội nơi vùng sâu, vùng xa, biên
giới trên địa bàn; tham gia xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng an ninh, tổ chức cho nhân dân nhất là đồng bào các dân tộc ở địa
phương ổn định sản xuất, đời sống, xoá đói, giảm nghèo, đồng thời tạo điều
kiện cho nhân dân các nơi đến sinh cơ lập nghiệp, bố trí lại dân cư theo quy
hoạch chung của các huyện, xã nghèo, hình thành nên các thôn, bản, làng, xã,
dân cư phát triển trong thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn khu kinh tế quốc phòng được xây dựng trên địa bàn đều là
những nơi, những vùng đất khó khăn về kinh tế, văn hóa xã hội yếu kém, đa
số đồng bào thuộc diện đói nghèo, tình hình an ninh chính trị diễn biến phức
tạp. Đây là những nơi đang đặt ra những yêu cầu bức thiết cả về xây dựng
phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá đồng thời cả củng cố quốc phòng an ninh;
98
tập trung lực lượng giúp dân tổ chức lao động sản xuất, phát triển kinh tế, góp
phần xoá đói, giảm nghèo trước hết là trên địa bàn đứng chân, luôn đề cao
cảnh giác sẵn sàng đập tan mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch
thực hiện chiến lược diễn biến hoà bình. Nhất là khi chúng dùng những chiêu
bài của cái gọi là đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc, chia rẽ
và kích động số đồng bào nhẹ dạ nghe theo chúng, hòng tổ chức lực lượng
chống phá ta ngay trên những địa bàn xung yếu, nơi các đoàn kinh tế - quốc
phòng đứng chân.
Xây dựng khu kinh tế - quốc phòng trên địa bàn các huyện nghèo là quá
trình lâu dài, phức tạp, vì vậy trong công tác chỉ đạo cần đạt tới sự phối hợp
chặt chẽ với các cấp, các ngành của địa phương mà đơn vị đứng chân trên địa
bàn. Đặc biệt là cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân dân trong vùng dự án xây
dựng khu kinh tế - quốc phòng, xây dựng kế hoạch, bước đi tương đối đồng bộ,
phù hợp với khả năng của quân đội và chính quyền địa phương. Cần nhận thức
rõ rằng, xây dựng khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn và trực tiếp tham
gia xoá đói, giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc chính là phục vụ cho công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh ngay tại địa
phương. Do vậy, quá trình xây dựng khu kinh tế - quốc phòng phải gắn kết với
địa phương, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của địa phương. Đây là mối
quan hệ tương hỗ, cộng đồng trách nhiệm để cùng thực hiện các dự án xây
dựng khu kinh tế - quốc phòng. Các đoàn kinh tế - quốc phòng phải phối hợp
chặt chẽ với các địa phương để chủ động tham gia các chương trình phát triển
kinh tế xã hội, nhất là việc xây dựng kết cấu hạ tầng, xoá đói, giảm nghèo, xoá
mù chữ, phòng bệnh giúp dân. Tăng cường các hoạt động văn hoá, bài trừ mê
tín, dị đoan, các tập tục lạc hậu và các tệ nạn xã hội.
Trên cơ sở xây dựng hành lang pháp lý, cơ chế đầu tư, huy động các
nguồn lực và giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với an
ninh - quốc phòng trong quá trình xây dựng khu kinh tế - quốc phòng; cần thận
99
trọng làm tốt công tác chuẩn bị, tiến hành điều tra, nghiên cứu tỉ mỉ, cụ thể
nhằm xây dựng các dự án có tính khả thi cao, phải chủ động phối hợp chặt chẽ
với các cơ quan có liên quan, các đơn vị cùng đứng chân trên địa bàn để rà
soát, bổ xung kế hoạch, điều chỉnh lộ trình phát triển. Nghiên cứu, lồng ghép
các dự án với các chương trình mục tiêu quốc gia trong đảm bảo ASXH nhằm
khai thác các nguồn lực, kết hợp được sức mạnh của đơn vị, của địa phương và
của Nhà nước, tạo nên hiệu quả cao nhất trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - quốc phòng trong vùng dự án
khu kinh tế - quốc phòng cần nghiên cứu quy hoạch một cách khoa học,
phân kỳ đầu tư hợp lý, tập trung đầu tư trọng điểm vào các hạng mục cơ bản
như giao thông nội vùng, thuỷ lợi, điện, đường, trường trạm…. ,xác định
đúng tiềm năng, thế mạnh của từng vùng trong khu kinh tế - quốc phòng mà
bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hợp lý, thích nghi với đặc điểm môi trường,
khí hậu, đất đai. Phát triển sản xuất theo hướng đa sản phẩm nhưng phải biết
tập trung vào những ngành nghề có tính chất quyết định thúc đẩy sự phát triển
của cả trước mắt và lâu dài. Bên cạnh sản phẩm chính, nghề chính lại phải có
sản phẩm phụ, nghề phụ, sản phẩm hỗ trợ, thực hiện phương châm “lấy ngắn
nuôi dài”; kết hợp kinh doanh tổng hợp, mở rộng một số dịch vụ, gắn kinh tế
Nhà nước với phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế vườn…
Cần xác định rõ, một trong những mục tiêu chủ yếu, xuyên xuốt của
quá trình xây dựng khu kinh tế - quốc phòng là xoá được đói, giảm được
nghèo cho dân và được nhân dân đồng tình, hưởng ứng, từ đó đáp ứng mục
tiêu cơ bản và lâu dài là củng cố “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn. Do vậy ngoài việc giúp đỡ
nhân dân địa phương định canh, định cư, trong việc tổ chức di dân nơi khác
đến lập nghiệp tại khu kinh tế - quốc phòng, cần thực hiện đúng quan điểm,
chủ trương của Đảng, Nhà nước, xác định biện pháp cụ thể, bước đi phù hợp,
thích ứng với đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội từng khu vực.
100
Bằng các biện pháp phù hợp các đoàn kinh tế - quốc phòng phải góp
phần nâng cao đời sống cho nhân dân kể cả các hộ không tham gia sản xuất
tập trung trong khu kinh tế - quốc phòng nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở
địa phương có cuộc sống ổn định vững chắc và được cải thiện một bước đáng
kể. Không những thế các khu kinh tế - quốc phòng phải là “bà đỡ” cho nhân
dân, tổ chức dịch vụ hai đầu cho sản xuất, vừa cung ứng vật tư, kỹ thuật, cây
giống, con giống, vừa bao tiêu sản phẩm hàng hoá để bà con yên tâm phát
triển kinh tế, ổn định đời sống gắn bó lâu dài với khu kinh tế - quốc phòng.
Tiếp tục xây dựng khu kinh tế - quốc phòng Mường Nhé, Mậm Pồ và
Sông Mã đều ở vùng biên giới, vùng xa dân cư, khó làm ăn sinh sống, do vậy
phải có lực lượng nòng cốt biết tổ chức sản xuất kinh doanh, động viên cổ vũ
nhân dân tham gia xây dựng, phát triển kinh tế, đặc biệt là tự nguyện vào sinh
sống trong các khu kinh tế - quốc phòng. Vì vậy quy mô tổ chức lực lượng,
cần đi từ nhỏ đến lớn, sản xuất kinh tế phát triển đến đâu, lực lượng phát triển
đến đó. Phải dựa vào nguồn nội lực, phát huy nội lực, tự vận động đi lên. Vận
dụng mọi phương thức thích hợp để huy động tối đa nguồn nhân lực tại chỗ
cho phát triển kinh tế và xây dựng lực lượng.
Để thực hiện đảm bảo ASXH gắn với công tác quốc phòng toàn dân,
xây dựng thế trận an ninh nhân dân, các cấp chính quyền huyện nghèo cần
làm tốt công tác vận động nhân dân nhận thức rõ vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm
quan trọng của công tác vận động quần chúng trên địa bàn chiến lược, đặc
biệt quan trọng nhưng hết sức khó khăn, phức tạp ở các huyện nghèo tỉnh
Điện Biên nói chung, huyện ủy Mường Nhé nói riêng thực hiện tốt chính sách
pháp luật của Nhà nước, ổn định chính trị tư tưởng cho người dân, thức tỉnh
nhân dân cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của kẻ xấu nhằm tuyên truyền.
Xuất phát từ chức năng nhiệm vụ của Đoàn kinh tế quốc phòng, từ tình hình
đặc thù của địa bàn vùng sâu, vùng cao biên giới đặc biệt khó khăn, mà vận
dụng nhiều hình thức, giải pháp để tăng cường trí thức trẻ tình nguyện cho hệ
101
thống chính trị xã, bản để vừa hỗ trợ công tác củng cố chính quyền địa
phương vừa thực hiện công tác dân vận nhân dân nhận thức về trách nhiệm
của mình cùng với các lực lượng chức năng giữ vững an ninh chính trị, trật tự
xã hội ở khu vực biên giới, nhằm ổn định tình hình chính trị, tư tưởng trong
quần chúng nhân dân.
102
Kết luận chương 3
Như đã trình bầy ở trên, để thực hiện tốt việc đảm bảo ASXH tại các
huyện nghèo tỉnh Điện Biên là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phúc tạp sở dĩ các
huyện nghèo đều có xuất phát điểm về kinh tế - xã hội tương đối thấp, đời
sống người dân còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao chính vì vậy để tiếp
tục tổ chức, triển khai công tác đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo đạt kết
quả cao, cần thực hiện đồng bộ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về đảm bảo ASXH. Từ quá trình nghiên cứu thực trạng đảm bảo ASXH
tại các huyện nghèo giai đoạn 2011 – 2013, tác giả mạnh dạn nêu lên một số
quan điểm và những giải pháp thực hiện đảm bảo ASXH trong thời gian tới.
Các quan điểm đó thể hiện sự quán triệt các đường lối, chủ trương, chính sách
lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội vào lĩnh vực đảm bảo
ASXH. Bởi vậy các quan điểm đó mang tính chất chỉ đạo cho quá trình tổ
chức, thực hiện năm giải pháp mà tác giả trình bày là các giải pháp chủ yếu,
có quan hệ thống nhất và mật thiết để thực hiện có hiệu quả việc đảm bảo
ASXH ở các huyện nghèo tỉnh Điện Biên đến năm 2020.
103
KẾT LUẬN
Dưới góc độ của khoa học kinh tế chính trị đảm bảo ASXH là một khâu
trong quá trình tái sản xuất xã hội. Thực hiện phân phối lại thu nhập quốc dân,
tạo ra những nguồn lực để phục vụ cho tái sản xuất sức lao động. Do đó đảm
bảo ASXH phản ánh các quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế xã hội của một chế
độ xã hội nhất định và có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế
- xã hội của một quốc gia.
Đảm bảo ASXH ở nước ta là sự phản ánh và thể hiện mục tiêu xây
dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh vì hạnh phúc
của nhân dân. Trong điều kiện kinh tế chưa phát triển, của cải vật chất chưa
dồi dào nhưng Đảng, Nhà nước ta vẫn giành sự quan tâm và ưu tiên hàng đầu
trong việc đảm bảo ASXH đặc biệt là các lĩnh vực y tế, giáo dục, chính sách
với các đối tượng có công với nước, những người có hoàn cảnh khó khăn,
những địa phương nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số…
Là một tỉnh mới được thành lập, có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ tổ quốc, có truyền thống lịch sử vẻ vang là chiến thắng Điện
Biên Phủ lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu có tiềm năng để phát triển
nhưng Điện Biên là tỉnh nghèo và còn rất nhiều khó khăn 50% số huyện của
tỉnh là những huyện nghèo. Bởi vậy nhiệm vụ đảm bảo ASXH của Điện Biên
là vấn đề rất cấp bách để nhanh chóng tạo ra những tiền đề, điều kiện cần thiết
cho tỉnh phát triển nhanh và bền vững. Đảm bảo ASXH tại năm huyện nghèo
là mối quan tâm hàng đầu của tỉnh, là nhiệm vụ của tất cả các cấp ủy Đảng,
chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và toàn thể đồng bào các dân tộc
trong tỉnh, cũng như sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương và cả nước.
Bằng sự nỗ lực phấn đấu, phát huy nội lực của chính mình kết hợp với
sự đầu tư, giúp đỡ của Nhà nước, các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội của cả
nước trong những năm qua tỉnh Điện Biên nói chung và năm huyện nghèo nói
riêng đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng, đáng khích lệ trong
thực hiện đảm bảo ASXH trên các mặt xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm,
thực hiện phát triển y tế, giáo dục, bảo hiểm, thực hiện các chính sách với các
104
đối tượng, các dự án, chương trình của Chính phủ với các địa phương nghèo,
vùng sâu, vùng xa… Những kết quả đó đã góp phần cải thiện, nâng cao đời
sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân các huyện nghèo, tạo ra những
tiền đề, điều kiện mới để phát triển nhanh và bền vững trong những năm tới.
Tuy nhiên do điểm xuất phát thấp, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội có nhiều
khó khăn nên việc thực hiện đảm bảo ASXH ở các huyện nghèo còn nhiều tồn
tại, hạn chế cả về kết quả cũng như việc chỉ đạo tổ chức thực hiện.
Để thực hiện đảm bảo ASXH ở các huyện nghèo tỉnh Điện Biên trong
thời gian tới cần quán triệt các quan điểm cơ bản mang tính chỉ đạo: coi đảm
bảo ASXH ở các huyện nghèo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn
xã hội; Đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên phải trên cơ sở kết
hợp chặt chẽ giữa sự nỗ lực của đại phương với sự trợ giúp của Trung ương;
Đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo tỉnh Điện Biên cần tập trung vào giải quyết
trước những vấn đề nóng bỏng, then chốt . Đồng thời phải thực hiện một thống
những giải pháp chủ yếu: xây dựng và hoàn thiện chương trình mục tiêu ASXH
cho các huyện nghèo đến năm 2020; tập trung đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng
để phục vụ sản xuất – đời sống và phát triển kinh tế - xã hội lâu dài tại các
huyện nghèo; phát huy vai trò của hệ thống ngân hàng và các tổ chức kinh tế
trong đảm bảo ASXH ở các huyện nghèo; tập trung giải quyết tốt vấn đề xóa
đói, giảm nghèo yếu tố quyết định trong đảm bảo ASXH tại các huyện nghèo;
phát huy vai trò của lực lượng vũ trang trên địa bàn trong công tác đảm bảo
ASXH. Các giải pháp đó là một thể thống nhất, hoàn chỉnh.
Đảm bảo ASXH ở các huyện nghèo tỉnh Điện Biên là một vấn đề còn
hết sức mới mẻ, có nội dung rộng lớn, phức tạp nhất là việc nắm các tư liệu
và tình hình thực tế là hết sức khó khăn. Bởi vậy công trình này của tác giả
mới chỉ là những nét phác thảo ban đầu, chắc chắn còn rất nhiều hạn chế.
Tác giả rất mong được các nhà khoa học, các thầy góp ý, chỉ bảo để tiếp tục
hoàn thiện chất lượng luận văn và phát triển hướng nghiên cứu này sau khi
tốt nghiệp ./.
105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng việt:
1. Mạc Tiến Anh (2004), “Bàn thêm về thuật ngữ an sinh xã hội”, Tạp chí
Bảo hiểm xã hội, Số (1), Hà Nội.
2. Mai Ngọc Anh (2006), “Nghiên cứu hệ thống CSXH nông thôn Cộng hòa
Liên Bang Đức và kiến nghị đối với việc xây dựng hệ thống ASXH cho
nông dân Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số (10), Hà Nội.
3. Mai Ngọc Anh (2008), “Phát triển hệ thống ASXH đối với nông dân Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số (364), Hà Nội.
4. Mai Ngọc Anh (2009), ASXH đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam, Đề tài Khoa học, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
5. Bảo hiểm xã hội tỉnh Điện Biên (2011, 2012, 2013), Báo cáo tổng hợp tình
hình thu BHXH, BHYT trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
6. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động
ASXH, Chuyên đề nghiên cứu khoa học, Hà Nội.
7. Nguyễn Kim Bảo (2004), Điều chỉnh một số chính sách kinh tế ở Trung
Quốc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1992), Kỷ yếu hội thảo quốc gia về
Bảo hiểm xã hội, Hà Nội.
9. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Vụ Bảo trợ xã hội (2010, 2011,
2012), Báo cáo tổng kết công tác bảo trợ xã hội, Hà Nội.
10. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2011), Đề án Hệ thống an sinh xã
hội nông thôn giai đoạn 2011-2020, Hà Nội.
11. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012), Đề án chính sách an sinh
xã hội giai đoạn 2012-2020, Hà Nội.
12. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012), Đề án Một số vấn đề về
chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, Hà Nội.
106
13. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2013), Báo cáo đánh giá chính
sách an sinh xã hội và thực hiện chính sách an sinh xã hội giai đoạn
1991- 2013, Hà Nội.
14. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Nghị quyết
Số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 về Chương trình hỗ trợ giảm
nghèo nhanh và bền vững đối với 63 huyện nghèo, Hà Nội.
15. Đỗ Ninh Cương, Mạc Văn Tiến (1996), Góp phần đổi mới và hoàn thiện
chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
16. Ngô Huy Cương (2002), “An ninh xã hội-Một số vấn đề pháp lý”, Tạp chí
Khoa học Kinh tế-Luật, Số (1), Hà Nội.
17. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội lần thứ VI Ban chấp
hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Nhật Linh (2005), “Tổng quan an sinh xã hội và Bảo hiểm xã hội Trung
Quốc”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Số (10), Hà Nội.
21. Từ Nguyễn Linh (2007), “Tổng quan về hệ thống an sinh xã hội và
BHXH Nhật Bản”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Số (5), Hà Nội.
22. Liên hiệp quốc (1999), Dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam: Phân tích chi
ngân sách và viện trợ phát triển chính thức.
23. Liên hiệp quốc (2011), Báo cáo quốc gia về Phát triển con người năm
2011:Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người.
24. Ngân hàng Thế giới (2012), Đánh giá nghèo Việt Nam 2012.
25. Ngân hàng Thế giới (2007), Báo cáo phát triển Việt nam 2008, bảo trợ xã hội.
107
26. Nguyễn Chương Phát (2009), Ảnh hưởng của hệ thống an sinh xã hội tới
vấn đề nghèo đói của hộ nông dân huyện Văn Chấn - tỉnh Yên Bái, Đề tài
Khoa học, Đại học Thái Nguyên.
27. Đặng Đức San (2002), “Về thuật ngữ an sinh xã hội”, Tạp chí khoa học
Kinh tế - Luật, Số (1), Hà Nội.
28. Sở Lao động thương binh và Xã hội tỉnh Điên Biên (2008), Thực trạng và
giảm nghèo bền vững tại tỉnh.
29. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Điện Biên (2012), Báo cáo rà soát các
chương trình, dự án giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số và trẻ
em tỉnh Điện Biên.
30. Tỉnh ủy tỉnh Điện Biên (2013), Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
31. Ủy Ban nhân dân huyện Điện Biên Đông (2013, 2014), Báo tình hình
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo quốc phòng – an
ninh 02 năm (2011 – 2012); kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đảm
bảo quốc phòng – an ninh đến năm 2015.
32. Ủy Ban nhân dân huyện Mường Nhé (2014), Báo cáo sơ kết 05 năm
(2009 – 2013) thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về chương trình
giảm nghèo nhanh và bền vững trên địa bàn huyện.
33. Ủy Ban nhân dân huyện Tủa Chùa (2014), Báo cáo sơ kết 05 năm thực
hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về chương trình giảm nghèo nhanh
và bền vững đối với các huyện nghèo.
34. Ủy Ban nhân dân tỉnh Điện Biên (2014), Báo cáo việc thực hiện chính
sách, pháp luật về giảm nghèo, giai đoạn 2005 – 2012 trên địa bàn
tỉnh Điện Biên.
35. Ủy Ban nhân dân tỉnh Điện Biên (2011 - 2013), Báo cáo việc thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh năm
108
2011 - 2013; (năm 2011), kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo
quốc phòng – an ninh 5 năm 2011 - 2015.
36. Ủy Ban nhân dân tỉnh Điện Biên (2011), Báo cáo sơ kết 03 năm triển khai
các dự án, chính sách thuộc Chương trình giảm nghèo nhanh và bền
vững tỉnh Điện Biên giai đoạn năm 2011 – 2015, định hướng năm 2020.
37. Ủy Ban nhân dân tỉnh Điện Biên (2014), Báo cáo sơ kết 05 năm (2008 –
2013) thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về chương trình giảm
nghèo nhanh và bền vững trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
38. Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Luận cứ khoa học cho việc đổi mới
và hoàn thiện các chính sách bảo đảm xã hội trong điều kiện nền kinh
tế thị trường, Đề tài KX 04.05, Hà Nội.
39. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2011), Thuật ngữ An sinh xã hội Việt
Nam, Hà Nội.
40. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2013), Phát triển hệ thống ASXH ở
Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội.
Tiếng Anh
41. Margaret S. Malone, Agenda for social security (2001): challenges for the
new congress and the new administration.
42. International labor migration and social security (2004): analysis of the
transition path Doris Geide-Stevenson; Mun S Ho Journal of
Population Economics.
109
Phụ lục 1: chỉ số việc làm các huyện nghèo giai đoạn 2011 - 2013
PHỤ LỤC
Năm Năm stt Đơn vị Năm 2012 2011 2013
1 Toàn tỉnh
- Tổng số việc làm thường xuyên 249.726 267.525 276.000 (người)
- Việc làm mới 8.349 8.450 8.475
2 Huyện Điện Biên Đông
- Tổng số việc làm thường xuyên 34.116 35.669 37.023 (người)
- Việc làm mới (người) 1.253 1.354 1367
3 Huyện Mường Nhé
- Tổng số việc làm thường xuyên 34.169 35.303 36.641 (người)
- Việc làm mới (người) 1.134 1.338 1.421
4 Huyện Tủa Chùa
- Tổng số việc làm thường xuyên 28.605 29.521 30.658 (người)
- Việc làm mới (người) 916 1.137 1.326
5 Huyện Mường Ảng
- Tổng số việc làm thường xuyên 24.817 25.709 26.721 (người)
- Việc làm mới (người) 892 1.012 1.298
Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh
Phụ lục 2: Chỉ số đào tạo nghề giai đoạn 2011 - 2013
110
Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
Số lao
Kinh
Số lao
Kinh
Số lao
Kinh
động qua
phí
động qua
phí
động qua
phí
Tên đơn vị
đào tạo
(Triệu
đào tạo
(Triệu
đào tạo
(Triệu
nghề
đồng)
nghề
đồng)
nghề
đồng)
Toàn tỉnh
(người) 7.501
9.110
(người) 7.580
9.907
(người) 8.145
11.766
5 huyện nghèo 5.130 6.832 5.230 7.430 6.190 8.824
Nguồn: Sở Lao động – Thương binh và xã hội tỉnh
107
Phụ lục 3: Số người tham gia BHXH, BHYT giai đoạn 2011 - 2013
Stt Đơn vị
BHXH Bắt buộc
Năm 2011 BH thất nghiệp
BHXH Bắt buộc
Năm 2012 BH thất nghiệp
BHXH Bắt buộc
Năm 2013 BH thất nghiệp
BHXH Tự nguyệ n
BHYT (cả cấp miễn phí)
BHXH Tự nguyệ n
BHYT (cả cấp miễn phí)
BHXH Tự nguyệ n
BHYT (cả cấp miễn phí)
Toàn tỉnh
32.526
340
24.763
469.248
34.111
460
25.066
507.582
35.093
517
25.584
510.009
1
Mường Nhé
2.821
18
2.271
45,563
3.199
2.389
61.735
1.986
1.462
34.939
29
29
2
Mường Ảng
1.765
61
1.372
43,769
1.839
1.367
44.130
1.824
1.350
44.387
81
70
45,179
3
2.498
9
1.904
2.512
1.835
61.750
2.653
1.922
59.912
8
23
4
Điện Biên Đông Tủa Chùa
1.950
14
1.478
40,772
2.058
1.517
52.142
2.061
1.470
52.010
21
16
5
Nậm Pồ
0
0
0
0
0
0
0
2.046
1.537
46.140
0
0
6
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Điện Biên
108
Phụ lục 4: Chỉ số thẻ BHYT cấp phát miễn phí 5 huyện nghèo Năm 2012
Năm 2011 Năm 2013
Số thẻ
Kinh phí
Số thẻ
Kinh phí
Số thẻ
Kinh phí
Đơn vị
cấp (thẻ)
cấp (thẻ)
cấp (thẻ)
(triệu đồng)
(triệu
(triệu
đồng)
đồng)
Toàn tỉnh H. Mường Nhé H. Mường Ảng H.Điện BĐ H.Tủa Chùa H.Nậm Pồ
399,860 172.739,520 26.526,700 61,690 25.705,830 59,781 26.063,160 60,612 57,833 24.868,190 0
411,488 51,719 50,389 52,030 53,210 39,548
177.162,816 22.239,170 21.667,270 22.372,900 22.880,300 17.005,640
269,666 116.495,712 19.683,216 45,563 18.908,208 43,769 19.517,328 45,179 40,772 17.613,504 0 Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh
Phụ lục 5: Mức hỗ trợ giảm nghèo trong giai đoạn (2011 – 2013)
Stt
Danh mục hỗ trợ
Giai đoạn 2011 - 2013
Kinh phi hỗ trợ (triệu đồng)
Số người được hỗ trợ (lượt người)
1
Hỗ trợ miễn giảm học phí, chi phí
426.802
175.900,40
học tập, ăn trưa + Hỗ trợ ăn trưa cho trẻ em mầm non + Hỗ trợ học sinh bán trú + Hỗ trợ miễn giảm học phí + Hỗ trợ chi phí học tập Hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo ở vùng
2
14.737 25.020 154.522 220.844 485.315
8.159,05 91.712,88 13.390,17 71.472,53 46.018,02
khó khăn Hỗ trợ tiền điện, trợ cấp khó khăn
3
97.957
37.051,47
cho hộ nghèo + Hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo + Trợ cấp khó khăn cho hộ nghèo
71.660 26.297
30.439,47 6.615,02
Nguồn: Sở lao động – Thương binh và xã hội tỉnh Điện Biên
109
Phụ lục 6: Nguồn vốn đầu tư NQ 30ª tại các huyện nghèo
2009 - 2013
Nguồn vốn
Số TT
Tổng cộng (tr.đồng)
Mường Nhé
Tủa Chùa
Mường Ảng
Nậm Pồ
Điện Biên Đông
A. Nguồn vốn từ ngân sách Trung ương hỗ trợ
Kinh phí giao 02 năm
1.000
1 2 3 4
53.650 8.650 45.000 60.710 6.710 54.000 51.355 9.055 42.300 45.597 16.183 29.414
55.270 10.270 45.000 54.710 6.710 48.000 43.055 9.055 34.000 41.423 14.554 26.869
55.270 10.270 45.000 52.710 6.710 46.000 40.255 9.055 31.200 39.314 16.064 23.250
53.650 8.650 45.000 55.710 6.710 49.000 44.055 9.055 35.000 41.341 14.693 26.648
1.000
217.840 2009-2010 37.840 Vốn sự nghiệp Vốn ĐTPT 180.000 Kinh phí giao năm 2011 223.840 26.840 Vốn sự nghiệp 197.000 Vốn ĐTPT Kinh phí giao năm 2012 178.720 36.220 Vốn sự nghiệp 142.500 Vốn ĐTPT Kinh phí giao năm 2013 168.675 61.494 Vốn sự nghiệp 107.181 Vốn ĐTPT Tổng kinh phí được cấp
1.000
5
đến 31/12/2013 Vốn sự nghiệp Vốn ĐTPT
789.075 162.394 626.681
212.312 40.598 171.714
187.549 42.099 145.450
194.756 39.108 155.648
1.000
196.190 37.371 158.819 B. Nguồn vốn từ các Tập đoàn, Tổng công ty trong nước hỗ trợ
Tổng kinh phí được cấp
1
đến 31/12/2013
266.228
43.300
60.000
99.928
63.000
Nguồn: Sở Lao động – Thương binh và xã hội tỉnh Điện Biên
Phụ lục 7: Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới (Quyết định
số 09/2011/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ)
STT
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Đơn vị
Tổng số hộ nghèo
Tổng số hộ
Tổng số hộ nghèo
110
Chung toàn tỉnh:
1 2
39.426 112 166
35,22% 0,83% 5,63%
TP. Điện Biên Phủ TX. Mường Lay Huyện Mường
46.786 248 212 7.328
43,80% 1,90% 8,04% 67,07%
nghèo 41.800 179 176 7.260
38,24% 1,35% 6,23% 63,19%
3
3.690
54,09%
Nhé Huyện Mường
5.847
60,64%
4.674
46,47%
4 5 6
4.113 5.239 7.425
53,50% 54,88% 45,28%
Chà Huyện Tủa Chùa Huyện Tuần Giáo Huyện Mường
6.179 8.566 5.365
69,52% 54,70% 58,97%
5.210 7.659 4.262
56,54% 47,83% 47,21%
6.420 6.621
25,23% 57,83%
5.398 5.982
20,82% 51,98%
7 8 9 10
Ảng Huyện Điện Biên H. Điện Biên Đông Nậm Pồ
3.978 4.651 5.445 4.607
42,22% 17,64% 47,65% 58,52%
Trong đó:
641
3,17%
Khu vực thành thị Khu vực nông
38.785
42,28%
thôn Chung các huyện
22.714
55,08% 22.959
50,92%