intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

45
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên quận Hà Đông - thành phố Hà Nội, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông - thành phố Hà Nội thời gian tới. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  ĐẶNG THỊ HỒNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN Ở QUẬN HÀ ĐÔNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2014
  2. 2 BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  ĐẶNG THỊ HỒNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN Ở QUẬN HÀ ĐÔNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60 31 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS PHẠM ĐỨC NHUẤN HÀ NỘI - 2014
  3. 3 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH, HĐH Hiện đại hoá HĐH Khoa học công nghệ KHCN Doanh nghiệp DN Kinh tế - xã hội KT-XH Xã hội chủ nghĩa XHCN Cao đẳng, Đại học, Trung cấp chuyên nghiệp CĐ, ĐH, TCCN&DN và dạy nghề
  4. 4 MỤC LỤC Tran g MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN Ở QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 12 1.1. Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm 12 1.2. Quan niệm nội dung, sự cần thiết và nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông 22 Chương 2 THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN Ở QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 41 2.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội liên quan đến giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông, TP Hà Nội hiện nay 41 2.2 Thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên quận Hà Đông những năm qua 43 Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN Ở QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI 65 3.1 Phương hướng giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội thời gian tới 65 3.2 Những giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội thời gian tới 69 KẾT LUẬN 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 86 PHỤ LỤC 91
  5. 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việc làm nói chung và việc làm cho thanh niên nói riêng không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia, dân tộc và của toàn nhân loại nói chung. Có thể nói, hiệu quả của việc giải quyết việc làm gắn liền với sự tồn tại bền vững của mọi quốc gia. Đối với Việt Nam, vấn đề giải quyết việc làm cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó, văn kiện Đại hội IX của Đảng đã nhấn mạnh: “giải quyết việc làm là nhân tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân”. Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Thiếu việc làm, không có việc làm hoặc việc làm với năng suất và thu nhập thấp sẽ không thể giúp thanh niên bảo đảm cuộc sống và phát triển bền vững. Giải quyết việc làm cho thanh niên Thành phố là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động đang chiếm tỷ lệ cao và là nguồn lao động trẻ, có trình độ, nhiệt huyết và khả năng sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, góp phần to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương khóa X “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đã chỉ rõ nhiệm vụ: “Nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên” [15]. Thanh niên Việt Nam là một lực lượng lao động đông đảo chiếm 26,9% dân số Việt Nam và chiếm trên 68% trong lực lượng lao động chính của xã hội, họ là những người lao động có sức khỏe, sức trẻ có trình độ kiến thức là “rường cột của nước nhà, là chủ nhân tương lai của đất nước”. Là nguồn nhân lực chủ
  6. 6 yếu cho mọi quốc gia. Thanh niên có vai trò hết sức to lớn trong xây dựng và phát triển đất nước trong mọi thời kỳ, mọi lĩnh vực, thanh niên luôn là lực lượng xung kích đi đầu. Trong những năm qua Đảng và nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến thế hệ trẻ, có nhiều quyết sách hỗ trợ, thúc đẩy thanh niên phấn đấu học tập ra sức tu dưỡng rèn luyện về trình độ cũng như chuyên môn, đặc biệt sự đòi hỏi về việc làm và thu nhập. Hà Đông là một Quận thuộc thủ đô Hà Nội, vốn là một vùng đất giàu truyền thống văn hóa và hiện nay là một trong những địa phương có tốc độ phát triển nhanh nhất của Hà Nội. Đội ngũ thanh niên xung kích của Quận, luôn thể hiện tinh thần hăng hái, xung phong tiến quân vào hoạt động xóa đói giảm nghèo của địa phương được xác định trong Đề án 103, đề án hướng nghiệp và giải quyết việc làm cho đoàn viên, thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn Quận thiếu khả năng tạo việc làm cho người lao động, thu hút rất ít lực lượng là thanh niên; công tác đào tạo, tư vấn hỗ trợ nghề nghiệp và việc làm chưa chú trọng nâng cao chất lượng tư vấn hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp; tổ chức hội chợ việc làm, trung tâm giới thiệu việc làm cho thanh niên chưa đáp ứng kịp nhu cầu lập nghiệp của thanh niên; quỹ vốn vay giải quyết việc làm cho thanh niên còn rất hạn hẹp; cơ chế chính sách về giải quyết việc làm cho người lao động ở Quận Hà Đông còn nhiều vấn đề phải bổ sung, hoàn thiện… những vấn đề trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến giải quyết việc làm cho Thanh niên. Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp có xu hướng gia tăng, điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến tới sự phát triển KT-XH của Quận. Góp phần giải quyết các vấn đề bất cập trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: "Giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội" làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên trong cả nước nói chung và ở Thành phố Hà Nội nói riêng đã thu hút rộng rãi sự quan tâm của nhiều tác giả,
  7. 7 nhiều nhà khoa học nghiên cứu thuộc các lĩnh vực, dưới các hình thức như: đề tài khoa học các cấp, sách chuyên khảo, các bài báo trên các tạp chí v.v… và đã đạt được những kết quả nhất định. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu: * Các sách tham khảo và chuyên khảo viết về thị trường lao động và giải quyết việc làm. Tác giả Nguyễn Quang Hiền với sách: “Thị trường sức lao động - Thực trạng và giải pháp” (1995) đã đưa ra những khái quát về thực trạng và giải pháp thị trường sức lao động ở Việt Nam. Tác giả đưa ra khái niệm thị trường sức lao động, những biểu hiện của thị trường sức lao động; các yếu tố tác động dến thị trường sức lao động ở Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra những đặc thù riêng cho từng loại sức lao động, trong đó có sức lao động ở độ tuổi thanh niên [19]. Các tác giả Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Hữu Hân với sách tham khảo: “Một số vấn đề về phát triển thị trường lao động ở Việt Nam” đã trình bày những vấn đề lý luận về thị trường lao động và một số kinh nghiệm quốc tế, bài học cho Việt Nam. Các tác giả trình bày khá kỹ thực trạng phát triển thị trường lao động ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; về cung cầu lao động, tỷ lệ lao động tham gia vào quan hệ thị trường, vấn đề giá cả sức lao động; việc di chuyển lao động giữa các vùng của Việt Nam, các hình thức và kênh giao dịch trên thị trường lao động; làm sáng tỏ những vấn đề về thể chế, hệ thống chính sách thị trường lao động. Đặc biệt, các tác giả đã nêu bật thành tựu ban đầu và những hạn chế, thách thức, nguyên nhân, hậu quả trong phát triển thị trường lao động ở nước ta. Sách dành dung lượng khá lớn để trình bày một số giải pháp đẩy mạnh phát triển thị trường lao động ở nước ta [1]. Tác giả Đinh Công Tuấn với sách tham khảo “Giải quyết việc làm - Hệ thống an sinh xã hội của một số nước EU giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu”(2013) đã đưa ra những vấn đề tác động đến việc làm và
  8. 8 giải quyết việc làm ở một số nước trên thế giới. Đây là một công trình khá toàn diện khái quát về lý luận giải quyết việc làm và thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động ở các nước EU giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu. Tác giả đã chỉ ra những tác động của giai đoạn hậu khủng hoảng như: Thất nghiệp, đói nghèo, tệ nạn xã hội và ảnh hưởng của những tác động đó đến giải quyết việc làm ở Việt Nam [46]. * Đề tài, luận án, luận văn nghiên cứu về thị trường lao động và giải quyết việc làm. Đề tài cấp Nhà nước 70A – 02 – 02 “Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần” (1994) của Bộ Lao động – Thương Binh và xã hội đã đưa ra những vấn đề khó khăn trong giải quyết việc làm, đặc biệt là thanh niên thành thị. Đề tài đã định hướng những vấn đề lớn về giải quyết việc làm cho người lao động khi nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Đề tài đã đánh giá sự tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ chế ảnh hưởng đến cơ cấu lao động cả về vùng miền, độ tuổi, thành phần. Đề tài đã đề xuất những nhóm giải pháp để sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm cho người lao động, trong đó có thanh niên. Tuy nhiên, đề tài chưa đi sâu nghiên cứu những biện pháp cụ thể để giải quyết việc làm cho thanh niên - lực lượng lao động chủ yếu của nền kinh tế [5]. Đề tài cấp Nhà nước KX – 07.05.05 “Những đặc trưng và xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội nghề nghiệp nước ta trong giai đoạn hiện nay, dự báo và kiến nghị” (1995) do Nguyễn Đình Tấn làm chủ nhiệm đã phân tích khá kỹ về cơ cấu việc làm và tác động của nó đến cơ cấu vùng, lãnh thổ, tạo ra sự khó khăn cho các vùng thành thị. Đề tài khái quát khá kỹ về cơ cấu vùng miền, cơ cấu độ tuổi. Chỉ rõ những đặc điểm tâm lý – sinh lý của các loại cơ cấu này ảnh hưởng đến chính sách an sinh xã hội của đất nước [41].
  9. 9 Tác giả Trần Văn Tuấn với nghiên cứu: “ Quản lý nhà nước về việc làm ở Hà Nội” (1995), luận án tiến sĩ kinh tế đã luận cứ và đưa ra cơ sở đề xuất chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý việc làm cho người lao động di cư từ các vùng về Thủ đô Hà Nội. Tác giả đã làm rõ cấu trúc thành phần về việc làm ở Hà Nội bao gồm cả việc làm đã được đào tạo và việc làm phổ thông để từ đó có những đánh giá cụ thể về các vấn đề việc làm, giải quyết việc làm ở cả cơ cấu nông thôn – thành thị, độ tuổi, trình độ… [47]. Tác giả Đỗ Thị Xuân Phượng với đề tài: “Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm qua thực tế ở Hà Nội” (2005), luận án tiến sĩ kinh tế đã đi từ thực trạng việc làm của lao động ở Hà Nội, các vấn đề nảy sinh để khái quát thành giải pháp, biện pháp khắc phục. Tác giả đã khái quát thực tế từ thị trường sức lao động và việc làm ở Hà Nội để đánh giá về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động ở Hà Nội, bởi lẽ thủ đô Hà Nội là trung tâm văn hóa - kinh tế - chính trị của cả nước, nơi tập trung nhiều lao động từ các tỉnh, thành phố khác nên thị trường sức lao động ở Hà Nội có diễn biến khá phức tạp về số lượng, chất lượng, cơ cấu, thành phần. Tuy nhiên, cơ cấu lao động ở độ tuổi thanh niên chưa được tác giả bàn sâu [32]. Tác giả Nguyễn Hòa Bình với luận văn thạc sĩ kinh tế “Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc” (2002) đã đưa ra một số vấn đề về lý luận và thực tiễn giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh giáp danh Thủ đô Hà Nội. Tác giả đã chỉ ra những đặc điểm cơ bản, những mục tiêu cụ thể, nội dung giải quyết việc làm trên cơ sở đánh giá thực trạng việc làm của Vĩnh Phúc. Luận văn cũng đã đề xuất một số biện pháp cụ thể để giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn Vĩnh Phúc hiện nay. Đề tài là cơ sở lý luận giải quyết việc làm cho người lao động, trong đó có lực lượng thanh niên trên một địa bàn giáp ranh với Thủ đô Hà Nội nên có nhiều đặc điểm truyền thống, tâm lý giống với Thủ đô Hà Nội [3].
  10. 10 Tác giả Hoàng Thanh Nga với luận văn thạc sĩ: “Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội” (2010) đã đưa ra những đặc điểm của thanh niên Thủ đô Hà Nội, đặc biệt vùng ngoại thành tác động đến sức hút của việc làm và cơ chế tạo việc làm cho thanh niên. Đây là luận văn chỉ rõ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội, gần với đối tượng thanh niên quận Hà Đông. Tuy nhiên, tác giả chỉ bàn đến thanh niên ngoại thành, không đa dạng, phức tạp, không có sự biến đổi nhiều. Vùng ngoại thành chủ yếu là các huyện nghèo của Hà Nội và các huyện của Hà Tây (cũ). Vì vậy, luận văn chưa chỉ rõ đặc điểm, tính chất, cách thức giải quyết việc làm cho thanh niên thuộc các quận nội thành [27]. * Các bài báo khoa học, tham luận khoa học đề cập đến thị trường lao động và giải quyết việc là: Tác giả Nguyễn Hữu Dũng với bài báo: “Chiến lược việc làm và đào tạo nghề thời kỳ 2001 – 2010”, Tạp chí Lao động xã hội, số (5), 2011 đã đưa ra những kết quả điều tra cụ thể về lao động và việc làm trong cả nước. Tác giả đã đưa ra phương hướng và các nhóm nhiệm vụ giải pháp để giải quyết việc làm và đào tạo nghề trong cả nước hiện nay. Trong các nhóm giải pháp đó, tác giả đã đưa một giải pháp quan trọng về cân đối cơ cấu độ tuổi trong giải quyết việc làm. Tác giả cũng bàn đến cơ cấu độ tuổi thanh niên, cho rằng đó là lực lượng quan trọng. Tuy nhiên, tác giả chưa phân tích nội dung, cách thức giải quyết cụ thể [11]. Tác giả Trần Mai Trang với bài báo: “Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh – Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số (2) năm 2013 đã khái quát những vấn đề về việc làm và giải quyết việc làm. Bài báo đã tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản về giải quyết việc làm cho người lao động như: Mục tiêu, chủ thể, biện pháp giải quyết việc làm. Tuy nhiên, tác giả chưa phân định rõ giữa nội dung và biện pháp nên nhiều vấn đề chưa được xác định cụ thể những cách thức cần phải thực hiện [45].
  11. 11 Tác giả Trần Thị Thu Hà với nghiên cứu: “Đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động trẻ”, Tạp chí Thanh niên, số (4) năm 2012 đã đưa ra những nhu cầu, nguyện vọng và khát khao trong giải quyết việc làm của thanh niên cả nước hiện nay. Tác giả chỉ ra những đặc điểm về tâm lý, sinh lý, đặc điểm nhu cầu của lao động trẻ để xác định nội dung, yêu cầu, biện pháp giải quyết việc làm cho đối tượng này. Tuy nhiên, tác giả chưa chỉ rõ những cách thức cụ thể trong giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ, một bộ phận đang chiếm tỷ lệ cao trong thị trường lao động hiện nay [17]. Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề này với những cách tiếp cận khác nhau… Có thể thấy rằng, cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào đã công bố, tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông - thành phố Hà Nội. Tuy vậy, nghiên cứu các công trình đã công bố, tôi cũng tham khảo được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn rất có giá trị đối với đề tài của mình. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những vấn đề được nghiên cứu trong các công trình khoa học đó, kết hợp với khảo sát thực tế ở địa bàn quận Hà Đông - thành phố Hà Nội, tôi có thể rút ra và kiến nghị những giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên trên ở quận Hà Đông - thành phố Hà Nội. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luâ ̣n và thực tiễn về giải quyết việc làm, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên quận Hà Đông - thành phố Hà Nội, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông - thành phố Hà Nội thời gian tới. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Luận giải cơ sở lý luận về giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông - thành phố Hà Nội.
  12. 12 - Đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên quận Hà Đông thành phố Hà Nội những năm qua. - Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông - thành phố Hà Nội thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài * Đối tượng nghiên cứu Giải quyết việc làm cho thanh niên. * Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu giải quyết việc làm cho thanh niên (độ tuổi từ 18 đến 35) ở quận Hà Đông - thành phố Hà Nội dưới góc độ kinh tế chính trị. - Phạm vi không gian: Địa bàn quận Hà Đông, TP. Hà - Phạm vi thời gian: Các số liệu khảo sát, đánh giá, các văn bản báo cáo tổng kết của quận Hà Đông từ năm 2009 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài * Phương pháp luận nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và chủ trương của Đảng, chính sách pháp luận của nhà nước, các văn kiện của Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội và Quận ủy, UBND quận Hà Đông về lao động, việc làm và giải quyết việc làm. * Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Tác giả luận văn sử dụng các phương pháp của chuyên ngành kinh tế chính trị học để nghiên cứu như: Trừu tượng hóa khoa học, lôgic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, nghiên cứu các công trình, đề tài có liên quan đã được công bố. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Đề tài sử dụng các phương pháp điều tra, khảo sát, tọa đàm với thanh niên và các cơ quan, doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân sử dụng lao động.
  13. 13 - Phương pháp chuyên gia: Tác giả luận văn xin ý kiến các nhà khoa học chuyên ngành kinh tế chính trị trong Học viện và các nhà lãnh đạo, quản lý quận Hà Đông. - Phương pháp toán học: Xử lý số liệu điều tra, các văn kiện, báo cáo, tổng kết của các cơ quan lãnh đạo, quản lý trên địa bàn quận Hà Đông. 6. Ý nghĩa của đề tài Kết quả nghiên cứu của công trình sẽ góp phần luận giải, phân tích và làm rõ hơn tính khoa học và thực tiễn giải quyết việc làm cho thanh niên, đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết tốt hơn việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông - thành phố Hà Nội. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý, nghiên cứu hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn của quận Hà Đông và cho những ai quan tâm tới vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông – Thành phố Hà Nội. 7. Kết cấu của đề tài Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương, 6 tiết, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
  14. 14 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN Ở QUẬN HÀ ĐÔNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1. Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm 1.1.1. Vấn đề chung về việc làm và giải quyết việc làm * Quan niệm về việc làm Hoạt động lao động sản xuất là hoạt động gắn liền với con người và xã hội loài người. Từ xa xưa con người đã biết làm lụng, tìm kiếm trong thế giới xung quanh những sản phẩm để phục vụ nhu cầu cho bản thân mình. Khi phân công lao động xã hội phát triển, thì mỗi người tham gia lao động sản xuất với một việc làm cụ thể nhằm tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân và đóng góp cho xã hội. Việc làm trước hết là hoạt động lao động sản xuất của con người, là hoạt động lao động cụ thể của mỗi người lao động cụ thể trong quá trình lao động sản xuất của xã hội. Giống như lao động, việc làm cũng phản ánh mối quan hệ giữa người lao động với giới tự nhiên, vì vậy việc làm cũng chịu tác động bởi những qui luật và điều kiện tự nhiên. Mặt khác, khi nói đến việc làm là nói đến tính chủ động, sáng tạo của lao động. Người lao động với kỹ năng của mình, kết hợp với tư liệu sản xuất, hoạt động trong một lĩnh vực nhất định của cơ cấu KT-XH, để tạo ra của cải vật chất (tức là đang làm việc) - họ còn có quan hệ với nhau, quan hệ xã hội. Vì vậy, việc làm cũng chịu tác động của các qui luật kinh tế, xã hội. Như vậy, việc làm và lao động có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc làm là cái vỏ xã hội, là cái khung pháp lý trong đó lao động diễn ra. Nếu lao động là phạm trù vĩnh viễn, thì việc làm không phải như vậy. Xét trên tổng thể có những nơi, những lúc có hiện tượng người lao động không có việc làm trong khi hoạt động lao động sản xuất của con người không bao giờ ngừng lại. Việc làm nói lên mối quan hệ của con người với không gian, trung gian, quan hệ và những giới hạn
  15. 15 xã hội cần thiết mà trong đó một quá trình lao động cụ thể được diễn ra. Nói đến việc làm là nói đến công việc của người lao động với những ngành nghề, công việc cụ thể; là những hoạt động cụ thể của người lao động, đáp ứng nhu cầu xã hội, nhu cầu cá nhân của người lao động nó có tính cụ thể, tường minh. Như vâ ̣y, có thể nói lao động là cái chung và việc làm là cái riêng. Việc làm là phạm trù tổng hợp, liên kết các quá trình KT-XH. Trên khía cạnh xã hội, việc làm phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người trong những giới hạn nhất định, trong đó quá trình lao động được diễn ra, là cơ sở để các mối quan hệ xã hội tồn tại, đan xen, liên kết với nhau phát triển theo hướng lành mạnh. Là một vấn đề KT-XH phức tạp, việc làm gắn cá nhân với xã hội - nó không những đem lại thu nhập cho người lao động để nuôi sống bản thân họ mà còn tạo ra một lượng của cải cho xã hội. C.Mác đã nói: “Với những điều kiện khác không thay đổi thì khối lượng và giá trị của sản phẩm tăng lên tỷ lệ thuận với số lượng lao động được sử dụng” [20, tr.75]. Việc làm là một vần đề có ý nghĩa kinh tế, xã hội và chính trị quan trọng của một quốc gia. Hiện nay đảm bảo an toàn việc làm là một trong những yếu tố cơ bản của sự phát triển bền vững. Thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế thế giới ở nước ta hiện nay đang tạo ra những cơ hội và thách thức về lao động, việc làm cho người lao động. Chính vì vậy nhận thức đúng đắn về việc làm là vấn đề quan trọng tạo cơ sở lý luận để đưa ra những giải pháp tích cực giải quyết việc làm, phát huy nguồn lực lao động của xã hội. Quan niệm về việc làm không cố định mà nó được xét trên nền tảng của một chế độ chính trị, gắn với trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của mỗi quốc gia, mỗi thời đại. Khi trình độ phát triển mọi mặt, đặc biệt là định hướng chính trị của một quốc gia thay đổi, quan niệm về việc làm cũng biến đổi. Trong lịch sử cho thấy việc thay đổi những quan điểm về tương lai trực tiếp ảnh hưởng tới số lượng việc làm chứ không chỉ định hướng việc làm.
  16. 16 Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội, là vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội. Tại Hội nghị Quốc tế lần thứ 13 của Tổ chức Lao động Thế giới (ILO), các nhà thống kê lao động đã đưa ra khái niệm người có việc làm: “Người có việc làm là những người làm việc gì đó có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay thu nhập gia đình không được trả tiền công hoặc hiện vật” [8, tr.15]. Về bản chất, việc làm là quan hệ tích cực, sáng tạo của chủ thể việc làm với hoạt động sống của mình, với ý nghĩa, nội dung và mục đích đặt ra. Tuỳ thuộc vào từng thời điểm, không gian và từng chủ thể có cách tiếp cận vấn đề, đưa ra các khái niệm khác nhau về việc làm. Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân khẩu; nó thuộc loại vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống xã hội. Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng, khái niệm “việc làm” và “thị trường lao động” không hiếm khi bị đồng nhất với nhau. Hệ thống việc làm được đưa thêm hàng loạt chức năng không đúng với tính chất của nó, còn thị trường lao động được tăng thêm tính chất tổng hợp. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không hoàn toàn giống nhau. Việc làm không phải là hoạt động mà là những quan hệ xã hội giữa con người, mà trước hết là những quan hệ kinh tế và pháp lý về việc đưa người lao động vào hợp tác lao động cụ thể trong một chỗ làm việc xác định. Hoạt động lao động, trước hết, đó là một quá trình, còn việc làm là tài sản của chủ thể mà bằng cách nào đấy được đưa vào (hay là loại trừ ra) từ quá trình đó. Về giác độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất. Việc làm gắn với quá trình tăng thu nhập, giảm sự nghèo khổ của người lao động, đồng thời không đi ngược lại với lợi ích cộng đồng mà pháp luật quy
  17. 17 định. Nói cách khác, việc làm là công việc, những hoạt động có ích, không bị pháp luật cấm và mang lại thu nhập cho bản thân hoặc tạo điều kiện để tăng thu nhập cho các thành viên trong gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội. Theo nhà khoa học nổi tiếng về kinh tế lao động người Nga A.Kotlia, đã đưa ra khái niệm việc làm như phạm trù kinh tế nói chung tồn tại ở mọi hình thái xã hội. Đồng thời, việc làm là phạm trù tái sản xuất xã hội, mà không thể đồng nhất với lao động và sử dụng sức lao động. Nó định rõ đặc tính dân số hoạt động kinh tế so với những yếu tố sản xuất vật chất thể hiện quan hệ giữa con người về việc tham gia của họ vào trong sản xuất xã hội. Các nhà khoa học kinh tế Anh thì lại cho rằng “việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả những gì quan hệ đến cách kiếm sống của một con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế” 4, tr.315. Theo quan điểm này thì tất cả những hoạt động tạo ra thu nhập mà không cần phân biệt có được pháp luật thừa nhận hay ngăn cấm đều được gọi là việc làm. Các nhà kinh tế Sônhin và Grincốp của Liên xô lại cho rằng, “việc làm là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong khu vực xã hội hoá của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ, trong kinh tế phụ của các nông trang viên” 4, tr.315. Theo khái niệm này thì những người đang đi học, đang tham gia hoạt động trong các lực lượng vũ trang, những người nội trợ đều coi là người có việc làm. Ngày nay, ở Liên Bang Nga khái niệm này được quy định rõ trong Bộ Luật Việc làm của dân cư Liên bang Nga như sau: “việc làm là hoạt động của công dân nhằm thoả mãn những nhu cầu xã hội và của cá nhân, đem đến cho họ thu nhập và không bị pháp luật Liên bang ngăn cấm”. Theo Điều 9 Bộ luật Lao động được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua ngày 18/6/2012 quy định: “Việc làm là hoạt động lao
  18. 18 động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm” [34]. Theo đó, một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai điều kiện: Một là, việc làm là những hoạt động lao động có ích cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Hai là, người lao động được tự do hành nghề, mà hoạt động hành nghề đó không bị pháp luật cấm – điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm. Hai điều kiện trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ của một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Hiện nay quan niệm phổ biến cho rằng, người có việc làm không nhất thiết phải thuộc biên chế Nhà nước như cách hiểu trong thời kỳ bao cấp trước đổi mới năm 1986. Đồng thời, chỉ rõ: trong nền kinh tế thị trường thì việc làm tồn tại trong tất cả các ngành nghề, các lĩnh vực, các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế mà pháp luật không cấm và đem lại cho người lao động thu nhập nhất định. Việc làm tồn tại trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ; có việc làm thuộc lao động giản đơn hoặc lao động phức tạp; việc làm thuộc lao động chân tay hoặc lao động trí óc… Việc làm là “sự cụ thể hóa” nền sản xuất xã hội – đó chính là quá trình lao động, đặc trưng bản chất của con người. Lao động là cơ sở của đời sống xã hội, là điều kiện để con người và xã hội loài người tồn tại và phát triển không ngừng, không có nền sản xuất xã hội nào là không có việc làm. Tuy nhiên, quy mô, cơ cấu và giá trị việc làm trong một nền sản xuất xã hội cụ thể lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phụ thuộc vào bản chất của quan hệ sản xuất và phụ thuộc vào quan điểm, chính sách của Nhà nước mà nền sản xuất đó tồn tại. Việc đổi mới nhận thức về việc làm như trên, là cơ sở của sự đổi mới về chính sách, biện pháp giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm phát huy mọi nguồn lực nhất là nguồn lực con người để giải phóng sức sản xuất. Điều đáng chú ý trong quan niệm mới hiện nay là đã đặc biệt coi trọng khả năng tự tạo việc làm của người lao động, đã không chỉ
  19. 19 chú ý công tác quản lý và quan tâm tạo nhiều việc làm cho người lao động; mà còn coi trọng nâng cao chất lượng, giá trị việc làm, tiến tới việc làm có năng suất, có thu nhập cao và được tự do lựa chọn. Chất lượng và giá trị việc làm được đánh giá dựa trên các tiêu chí chủ yếu như: chỉ tiêu về năng suất lao động, về hiệu quả sản xuất, về tiền lương (tiền công) và tính ổn định, lâu dài về thu nhập của người lao động… các chỉ tiêu trên càng cao thì chất lượng và giá trị việc làm càng cao. Từ sự phân tích trên, tác giả luận văn quan niệm: “Việc làm là những hoạt động lao động có ích cho bản thân, gia đình và xã hội, tuân thủ các qui định của pháp luật được trả hoặc không được trả công, lợi nhuận (tiền mặt hoặc hiện vật)”. Thực chất việc làm được thể hiện dưới các dạng: (1) Việc làm năng suất hữu ích có nghĩa là việc làm tạo ra những phúc lợi và dịch vụ hữu ích cả cho xã hội và cho từng người lao động. (2) Việc làm hợp lý dự đoán sự phân chia một cách tối ưu người đang làm việc theo các ngành sản xuất và các khu vực lãnh thổ của đất nước với mục đích sản xuất ra những sản phẩm và sử dụng những dịch vụ phục vụ cho nhu cầu. (3) Việc làm hiệu quả là việc làm trong sản xuất sinh lợi nhuận được trang bị kỹ thuật với tổ chức lao động tiên tiến, năng suất lao động cao và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Nó dự đoán sự hiện có những cán bộ và đội ngũ những nhà quản lý có trình độ chuyên nghiệp cao và hướng tới công việc có hiệu quả. Khái niệm việc làm hiệu quả này thường hướng vào sự phát triển toàn diện con người và hoàn toàn chấp nhận được, nhưng nó khá rộng và không có khả năng đo được bằng một chỉ tiêu. Tuy nhiên có thể đưa ra tính chất định lượng để đánh giá qua hệ thống chỉ tiêu như: Mô ̣t là, mức độ việc làm của cư dân bằng lao động chuyên nghiệp trên tổng dân số, thể hiện dưới dạng phần trăm (gọi là hệ số việc làm). Hệ số này cho thấy sự phụ thuộc mức độ việc làm vào yếu tố nhân khẩu, có nghĩa là hệ số
  20. 20 sinh, chết và tốc độ tăng trưởng dân số, được tính toán trên các con số thống kê, hệ số đó là một trong những con số biểu hiện sự phồn vinh của xã hội. Hai là, mức độ việc làm của dân số có khả năng lao động trong nền kinh tế - xã hội. Về quan điểm kinh tế học, mức độ việc làm của dân số có khả năng lao động thể hiện, một mặt là đòi hỏi của KT-XH đối với người lao động, mặt khác là đòi hỏi của người lao động về chỗ làm việc. Nó được tính theo hệ số phần trăm giữa tổng số dân cư đang hoạt động chuyên nghiệp với số lượng toàn bộ dân số có khả năng lao động (nguồn nhân lực). Ba là, tỉ lệ phân chia nguồn lao động xã hội theo lĩnh vực công ích xã hội. Khi tính được hệ số việc làm bằng lao động chuyên nghiệp ta có thể xác định được hệ số việc làm bởi việc học hành cũng như các dạng hoạt động công ích xã hội khác. Điều đó cho phép làm rõ những tỉ lệ cần thiết. Bốn là, cấu trúc phân bố người lao động hợp lý theo ngành và theo khu vực kinh tế. Chỉ tiêu này, thường được gọi là chỉ tiêu hợp lý, tỉ lệ phân chia tiềm năng lao động theo dạng việc làm, ngành, khu vực kinh tế...Năm là, chỉ tiêu gắn với việc tối ưu hoá cấu trúc chuyên môn nghề nghiệp của người lao động, cho phép làm rõ ràng sự phù hợp cấu trúc chuyên môn nghiệp vụ của dân số lao động với cấu trúc chỗ làm việc, đồng thời cũng xác định hệ thống đào tạo cán bộ là phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế. (3) Việc làm hợp lý: là sự thoả mãn nhu cầu làm việc cho bất cứ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân và phù hợp với trình độ, nguyện vọng của họ. * Quan niệm về giải quyết việc làm Vấn đề lao động và việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển KT-XH của các địa phương cũng như cả nước. Những năm qua, các cấp bô ̣ Đảng, chính quyền đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách thiết thực nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ, đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH đất nước. Việc làm cho người lao đô ̣ng là một quá trình thể hiện nhiều mối quan hệ, bao gồm:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2