Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Liên kết 4 nhà trong sản xuất và tiêu thụ lúa ở Vùng tứ giác Long Xuyên, Đồng bằng sông Cửu Long
lượt xem 3
download
Luận văn được hoàn thành với mục tiêu nhằm lý luận và thực tiễn của liên kết 4 “nhà” trong sản xuất và tiêu thụ lúa Vùng tứ giác Long Xuyên, Đồng bằng sông Cửu Long, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm, giải pháp về nâng cao tính bền vững mối quan hệ liên kết 4 “nhà” trong sản xuất và tiêu thụ lúa ở khu vực này trong thời gian tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Liên kết 4 nhà trong sản xuất và tiêu thụ lúa ở Vùng tứ giác Long Xuyên, Đồng bằng sông Cửu Long
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ TRỊNH TIẾN HƯNG LIÊN KẾT 4 “NHÀ” TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ LÚA VÙNG TỨ GIÁC LONG XUYÊN, ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2014
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ TRỊNH TIẾN HƯNG LIÊN KẾT 4 “NHÀ” TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ LÚA VÙNG TỨ GIÁC LONG XUYÊN, ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60 31 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS LẠI NGỌC HẢI HÀ NỘI - 2014
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LIÊN KẾT 11 4 “NHÀ” TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ LÚA VÙNG TỨ GIÁC LONG XUYÊN, ĐBSCL. 1.1. Lý luận về liên kết và liên kết trong sản xuất và tiêu thụ 11 lúa. 1.2. Nội dung và nhân tố tác động đến liên kết 4 “nhà” trong 22 sản xuất và tiêu thụ lúa. 1.3. Kinh nghiệm liên kết 4 “nhà” trong sản xuất lúa ở một 34 số địa phương và bài học kinh nghiệm rút ra cho vùng tứ giác Long Xuyên. Chương 2 THỰC TRẠNG LIÊN KẾT 4 “NHÀ” TRONG SẢN 45 XUẤT VÀ TIÊU THỤ LÚA VÙNG TỨ GIÁC LONG XUYÊN, ĐBSCL. 2.1. Tổng quan một số vấn đề liên quan đến sản xuất và tiêu 45 thụ lúa ở Vùng Tứ giác Long Xuyên, ĐBSCL. 2.2. Liên kết 4 “nhà” trong sản xuất và tiêu thụ lúa Vùng Tứ 51 giác Long Xuyên - Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra. Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG 71 LIÊN KẾT 4 “NHÀ” TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ LÚA Ở VÙNG TỨ GIÁC LONG XUYÊN- ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG. 3.1 Quan điểm chỉ đạo tăng cường liên kết 4 “nhà” trong 71 sản xuất và tiêu thụ lúa Vùng Tứ giác Long Xuyên. 3.2 Những giải pháp chủ yếu tăng cường liên kết “4 nhà” 81 trong sản xuất và tiêu thụ lúa Vùng Tứ giác Long Xuyên KẾT LUẬN 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108 PHỤ LỤC 113
- BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ CHỮ VIẾT TẮT Ban chỉ đạo BCĐ Bảo vệ thực vật BVTV Doanh nghiệp DN Đồng bằng Sông Cửu Long ĐBSCL Hợp tác xã HTX Khoa học công nghệ KHCN Phát triển nông thôn PTNT Sinh học ứng dụng SHUD Tiến bộ kỹ thuật TBKT Tổ hợp tác THT Trách nhiệm hữu hạn TNHH Ủy ban nhân dân UBND Tổng sản phẩm quốc nội GDP Tổ chức thương mại thế giới WTO
- 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam, trong đó có Vùng tứ giác Long Xuyên, do những đặc điểm tự nhiên, kinh nghiệm và truyền thống canh tác, lúa là cây trồng chính trong ngành trồng trọt. Sản phẩm của lúa - hạt gạo hiện đang là một trong những vấn đề được thế giới quan tâm nhất do tính đặc thù về giá trị sử dụng của nó - nuôi sống con người. Quá trình tái sản xuất lúa gạo phụ thuộc vào điều kiện khí hậu thời tiết và cách thức tổ chức việc sản xuất đó. Trong điều kiện kinh tế thị trường và sự biến đổi khí hậu trên trái đất hiện nay, vấn đề sản xuất và tiêu thụ lúa trở thành vấn đề được không chỉ các nhà quản lý, người nông dân, mà còn rất nhiều "nhà" khác quan tâm. Do đó, song hành với việc tìm biện pháp ngăn sự nóng lên của trái đất, người ta đi tìm lời giải cho bài toán này từ những giải pháp thuộc về quan hệ xã hội trong sản xuất nông nghiệp. Trong kinh tế thị trường, yêu cầu cơ bản để hạt gạo có sức cạnh tranh là sản phẩm phải sạch, ngon, số lượng lớn, giá rẻ và có chiến lược thị trường tốt. Do đó, gốc rễ của vấn đề là từ khâu quy hoạch, nơi nào trồng là phù hợp, ai đảm trách cung ứng giống tốt, liên kết và hỗ trợ nhau giữa nông dân và doanh nghiệp như thế nào? Một trong những nhân tố đáp ứng yêu cầu đó ở Việt Nam nổi bật lên khoảng hơn một thập kỷ qua là mô hình liên kết 4 “nhà”: Nhà nông - nhà nước - nhà khoa học và nhà doanh nghiệp Tứ giác Long Xuyên là một trong những vùng sản xuất lúa quan trọng của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên khoảng 489.000 hecta, gồm địa bàn ba tỉnh thành Kiên Giang, An Giang và Cần Thơ - những địa phương có sản lượng lúa đứng hàng đầu vùng sản xuất lúa trọng điểm chiến lược về phát triển nông nghiệp của cả nước. Những năm qua, Vùng tứ giác
- 4 Long Xuyên và Đồng bằng sông Cửu Long đã có những đóng góp quan trọng vào những thành tựu chung của sự nghiệp đổi mới. Nơi đây đã xuất hiện nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh rất hiệu quả, trong đó liên kết 4 “nhà” là một trong những mô hình được các nhà lãnh đạo, quản lý, giới chuyên môn và nghiên cứu đánh giá cao, có những khuyến nghị cần được tham khảo và nhân rộng. Có thể nói, liên kết 4 “nhà” là một trong những phương thức tốt nhất cho phép người nông dân tận dụng được nhiều lợi thế trong sản xuất lúa; nhà khoa học có đất để thực hiện năng lực chuyên môn; Nhà doanh nghiệp có cơ hội tìm được những hạt lúa hàng hóa đáp ứng đúng nhu cầu thị trường; Nhà nước có điều kiện thể hiện rõ vai trò của mình với tư cách là người nhạc trưởng. Liên kết 4 “nhà” thực sự đã trở thành phương thức để người nông dân phát triển sản xuất lúa đạt hiệu quả cao, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, giải quyết một trong những nhiệm vụ cơ bản của quá trình xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, cũng tồn tại một thực tiễn khác, đó là thời gian qua, tại nhiều địa phương, cơ sở, việc liên kết 4 “nhà” diễn ra còn lỏng lẻo, hình thức, thiếu tính bền vững đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của cây lúa tại nơi đây. Thực tiễn đó đặt ra nhu cầu khách quan về những nghiên cứu mới góp phần nâng cao tính bền vững trong liên kết 4 nhà đối với quá trình sản xuất lúa trong Vùng. Vì vậy đề tài “Liên kết 4 “nhà” trong sản xuất và tiêu thụ lúa ở Vùng tứ giác Long Xuyên, Đồng bằng sông Cửu Long” được tác giả luận văn lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Mô hình liên kết 4 “nhà” trong sản xuất nông nghiệp nói chung, trong sản xuất và tiêu thụ lúa nói riêng có quan hệ và gắn bó mật thiết với vấn đề tam nông và cơ chế chính sách đối với các thực thể liên quan đến quá trình
- 5 đó, là một trong những chủ đề lớn có vị trí, tầm quan trọng trong chiến lược phát triển nông nghiệp của Đảng và Nhà nước. Liên quan đến vấn đề nông nghiệp, sản xuất và tiêu thụ lúa, hiện có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đề cập. Tính đến thời điểm hiện nay, những công trình có liên quan nhiều đến mô hình liên kết 4 “nhà”, chủ yếu là những bài báo, bài viết khoa học được thể hiện qua các công trình: - Công trình nghiên cứu "Liên kết 4 “nhà” trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo: trường hợp nghiên cứu ở tỉnh An Giang" của nhóm tác giả Nguyễn Duy Cần, Lê Hồng Tú, Nguyễn Văn Sánh, thuộc Viện nghiên cứu phát triển Đồng bằng sông Cửu Long - Tạp chí Khoa học Trường Đại Học Cần Thơ 2011: 20a, 220-229. Website: Sj.ctu.edu.vn. Theo nhóm tác giả, An Giang là một trong những tỉnh đứng đầu Đồng bằng sông Cửu Long trong sản xuất lúa gạo hàng hóa. Tuy nhiên, trong quá trình này người nông dân vẫn còn gặp không ít khó khăn như cạnh tranh gay gắt, lúa gạo đôi khi không tiêu thụ được.... Mô hình liên kết 4 “nhà” được xem là một cứu cánh giúp tháo gỡ đầu ra của sản xuất nhưng nó cũng gặp không ít khó khăn. Từ đó cần nghiên cứu đánh giá các trở ngại, cơ hội của nông dân trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo; phân tích đánh giá các mối quan hệ của mô hình 4 “nhà” và đề xuất những giải pháp làm tăng cường mối quan hệ 4 “nhà”. - Công trình nghiên cứu "Mô hình liên kết 4 “nhà” trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo tại xã Định Hòa, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang", của tác giả Nguyễn Phú Sơn Khoa kinh tế và Quản trị kinh doanh - Đại Học Cần Thơ, đăng trong Tạp chí Khoa học Trường Đại Học cần Thơ, Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 26 (2013): 22-30. Website: Sj.ctu.edu.vn. Theo tác giả: mô hình liên kết 4 “nhà” được xây dựng tại xã Định Hòa, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang (với quy trình 6 bước) dựa trên cơ sở lý thuyết liên
- 6 kết dọc trong chuỗi giá trị giữa hợp tác xã Hòa Tiến và Công ty Gentraco, với sự hỗ trợ và thúc đẩy của Ủy ban nhân dân xã Định Hòa và nhóm tư vấn Trường Đại Học Cần Thơ và chỉ rõ những kết quả mà mô hình đó đem lại đối với từng "nhà". Có thể coi đó như kinh nghiệm, như mô hình “mẫu” để nhân rộng tại các địa phương khác có điều kiện tương tự. - Tác giả Phạm Xuân Phú, Đại Học An Giang, có bài "Thực trạng và giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững thông qua mô hình liên kết bốn “nhà” ở tỉnh An Giang". Trong công trình này, các tác giả đã đề cập đến phát triển nông nghiệp bền vững. Thực trạng phát triển nông nghiệp bền vững thông qua mô hình liên kết 4 “nhà” ở tỉnh An Giang, theo đó chỉ rõ vai trò của mỗi "nhà” trong phát triển nông nghiệp bền vững ở An Giang; chỉ ra những thuận lợi, khó khăn trong phát triển nông nghiệp bền vững thông qua mô hình liên kết bốn nhà ở tỉnh An Giang và đề xuất các giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững thông qua mô hình liên kết bốn nhà ở tỉnh An Giang. - Tác giả Trần Thành, với đề tài: 1). "Phát triển nông nghiệp vùng tứ giác Long Xuyên gắn với củng cố các khu vực phòng thủ biên giới Tây Nam trên địa bàn Quân khu 9 hiện nay", Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quân sự 2001. Tác giả luận văn đã khái quát tổng quan vùng nông nghiệp tứ giác Long Xuyên và vai trò của nó trong chiến lược bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Phân tích việc phát triển nông nghiệp vùng tứ giác Long Xuyên gắn với củng cố các khu vực phòng thủ biên giới Tây Nam trên địa bàn Quân khu 9 là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời nêu ra phương hướng và đề xuất một số giải pháp quan trọng để phát triển nông nghiệp vùng tứ giác Long Xuyên gắn với củng cố các khu vực phòng thủ biên giới Tây Nam trên địa bàn Quân khu 9 hiện nay. - Tác giả Đặng Phong Vũ, Trường Chính trị Tôn Đức Thắng, có bài Liên kết 4 “nhà” trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo ở An Giang - thực trạng và giải
- 7 pháp, Tạp chí Cộng sản điện tử 169/9/2001. Theo tác giả bài viết, để ổn định sản xuất nông nghiệp và đời sống của hơn 1,5 triệu nông dân, dân cư nông thôn, khi bắt tay vào thực hiện công cuộc đổi mới đất nước theo chủ trương của Đảng, An Giang đã chủ động xây dựng mô hình liên kết 4 “nhà” trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo ở tỉnh từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX và mô hình này được đẩy mạnh sau khi có Quyết định số 80/TTg của Chính phủ, ban hành ngày 24/6/2002 về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng. Tiến sĩ Nguyễn Công Thành, Viện nghiên cứu lúa Đồng bằng sông Cửu Long có bài "Một vài suy nghĩ về liên kết 4 “nhà” trong sản xuất nông nghiệp", tác giả đi sâu phân tích về lợi ích của liên kết “4 nhà”, theo đó cho rằng liên kết 4 “nhà” sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp do nhận được sự giúp đỡ lẫn nhau thông qua liên kết, sản xuất mang tính quy mô cao, hiện đại, hạn chế rủi ro và hiệu quả cao; đồng thời chỉ ra những thành công trong liên kết 4 “nhà” ở An Giang, Tiền Giang, Sóc Trăng... và những bài học thất bại của liên kết “4 nhà” ở một số địa phương để các địa phương lấy đó làm bài học kinh nghiệm. - Tác giả Thanh Hà có bài "Để nâng hiệu quả sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long", đăng trên Website Cục Bảo vệ thực vật - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày 11/10/2013. Bài viết đề cập đến nâng cao vai trò của nhà nước trong chuỗi liên kết mới hình thành trong sản xuất nông nghiệp như một giải pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập của người trồng lúa trong thời gian tới. - Một số bài viết, chủ yếu là những bài được đăng tải trên các diễn đàn khuyến nông @ nông nghiệp của Trung tâm khuyến nông Quốc gia, Trung tâm xúc tiến thương mại nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Các bài viết thường tập trung tuyên truyền cho phát triển sản xuất lúa theo hướng hàng hóa, mô hình sản xuất trong đó có cánh đồng liên kết tại các tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn mang tính đơn lẻ, chưa có hệ thống học thuật, chưa mang tính tổng kết
- 8 kinh nghiệm để nhân rộng mô hình xây dựng cánh đồng lớn... Cùng với những bài viết là ý kiến tham luận của các nhà khoa học trong một số cuộc hội thảo chuyên đề. Về mảng này có thể kể đến: - “Hội thảo khoa học liên kết 4 “nhà” - giải pháp cơ bản góp phần xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long”. Các tham luận tại Hội thảo về liên kết 4 “nhà” là nền tảng thúc đẩy phát triển nông nghiệp nông dân và nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long của tiến sĩ Nguyễn Văn Sánh (Viện nghiên cứu phát triển Đồng bằng sông Cửu Long); “Liên kết bốn nhà” khó khăn và thách thức bên cạnh lợi điểm và cơ hội của Tiến sĩ Nguyễn Phú Sơn (Viện nghiên cứu phát triển Đồng bằng sông Cửu Long); “Liên kết bốn nhà” để phát triển kinh tế xã hội Đồng bằng sông Cửu Long bền vững của PGS.TS Phương Ngọc Thạch (Phó chủ tịch Hội khoa học kinh tế và quản lý Thành phố Hồ chí Minh); Tổ chức sản xuất theo hợp đồng và liên kết 4 “nhà” trong sản xuất nông nghiệp của PGS.TS Vũ Trọng Khải, đều đã được trình bày. - Hội thảo khoa học “Mô hình tổ chức sản xuất, quản lý mới trong nông nghiệp, nông thôn tại Cần Thơ (4 và 5/6/2013), do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trung ương hội Nông dân Việt Nam tổ chức”, đã chỉ rõ mô hình sản xuất nông nghiệp mới cần được theo dõi tổng kết và nhân rộng: “Mô hình chuỗi sản xuất, thương mại, chế biến và phân phối sản phẩm khép kín”; “Mô hình nông dân góp cổ phần với doanh nghiệp bằng giá trị quyền sử dụng đất” như một dạng thức phát sinh từ mô hình liên kết 4 “nhà”... đã được đề cập. Liên kết 4 “nhà” trong nông nghiệp, trong sản xuất và tiêu thụ lúa đã được nghiên cứu khá nhiều, song liên kết 4 “nhà” trong sản xuất và tiêu thụ lúa ở Vùng tứ giác Long Xuyên, Đồng bằng sông Cửu Long" là một đề tài đi vào một khía cạnh cụ thể, hẹp và sâu, thực sự là vấn đề có ý nghĩa thiết thực và có tính cấp thiết vẫn đang còn là mảng trống.
- 9 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu: Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn của liên kết 4 “nhà” trong sản xuất và tiêu thụ lúa Vùng tứ giác Long Xuyên, Đồng bằng sông Cửu Long, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm, giải pháp về nâng cao tính bền vững mối quan hệ liên kết 4 “nhà” trong sản xuất và tiêu thụ lúa ở khu vực này trong thời gian tới. * Nhiệm vụ nghiên cứu: Thực hiện mục đích trên đề tài có nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận của mối quan hệ liên kết 4 “nhà” bền vững trong sản xuất và tiêu thụ lúa Vùng tứ giác Long Xuyên. - Phân tích thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần giải quyết để nâng cao tính bền vững của mối quan hệ kinh tế liên kết 4 “nhà” trong sản xuất và tiêu thụ lúa Vùng tứ giác Long Xuyên - Đồng bằng sông Cửu Long. - Đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao tính bền vững liên kết 4 "nhà" trong sản xuất và tiêu thụ lúa ở Vùng tứ giác Long Xuyên - Đồng bằng sông Cửu Long. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu của đề tài. Liên kết 4 “nhà” trong sản xuất và tiêu thụ lúa vùng tứ giác Long Xuyên – Đồng bằng sông Cửu Long. * Giới hạn và phạm vi nghiên cứu. - Sản xuất và tiêu thụ lúa tại Vùng tứ giác Long Xuyên trong thời gian khoảng 5 năm trở lại đây. - Phạm vi nghiên cứu: Vùng tứ giác Long Xuyên khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Gồm 3 tỉnh An Giang, Kiên Giang và TP Cần Thơ. Tuy nhiên, do diện tích của vùng tập trung chủ yếu thuộc địa phận của 2 tỉnh An Giang, Kiên Giang, trong đó, khoảng 52% thuộc tỉnh An Giang, khoảng 46% thuộc tỉnh Kiên Giang [14], phần còn lại (chỉ chiếm 2% diện tích toàn Vùng) Bắc
- 10 kênh Cái Sắn, thuộc huyện Vĩnh Thạnh, Thành phố Cần Thơ. Do đó phần thực trạng chủ yếu sử dụng tư liệu của hai địa phương An Giang và Kiên Giang. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận. Cơ sở lý luận của đề tài luận văn là các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về tam nông, về phát triển nông nghiệp, sản xuất và tiêu thụ lúa gạo và giải quyết các mối liên hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình đó để thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ lúa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. * Phương pháp nghiên cứu. Đề tài luận văn được thực hiện trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được lựa chọn là phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị: trừu tượng hóa khoa học, kết hợp logic - lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra... và một số phương pháp khác có liên quan. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu Đề tài luận văn được thực hiện thành công sẽ có ý nghĩa nhất định trong tham khảo của các địa phương thuộc khu vực nghiên cứu nhằm thúc đẩy tính bền vững của mối liên kết bốn nhà trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo. Đề tài cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy kinh tế chính trị về các vấn đề liên quan tại các trường đại học trong cả nước. 7. Kết cấu chung của đề tài nghiên cứu Ngoài mở đầu, kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
- 11 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LIÊN KẾT 4 “NHÀ” TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ LÚA VÙNG TỨ GIÁC LONG XUYÊN, ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 1.1 Lý luận về liên kết và liên kết trong sản xuất và tiêu thụ lúa 1.1.1. Liên kết kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng, liên kết là hiện tượng kinh tế khách quan phản ánh bản chất của các quá trình kinh tế của tái sản xuất xã hội, nảy sinh trên cơ sở sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự phân công lao động xã hội và nhu cầu quản lý nền sản xuất xã hội cũng như các quá trình kinh tế. Nhu cầu quản lý đó do tính chất xã hội của lao động quy định. Khi nghiên cứu quá trình phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã coi sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công xã hội là nguồn gốc dẫn đến sự ra đời của kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường hiện đại. Theo C.Mác, sự phân chia thành những nghề nghiệp khác nhau trong nền sản xuất xã hội dần tiến tới sự phân công là điểm xuất phát của phân công lao động xã hội. Theo đó, có phân công chung (phân công giữa các ngành), phân công đặc thù (phân công nội bộ ngành) và phân công cá biệt (phân công trong cơ sở sản xuất). C.Mác viết: “Nếu người ta chỉ xét riêng bản thân lao động thôi, thì người ta có thể gọi sự phân chia nền sản xuất xã hội thành những ngành lớn như nông nghiệp, công nghiệp, v.v. là sự phân công lao động chung [im Allgemeinen], và sự phân chia những ngành sản xuất ấy thành loại và thứ - là sự phân công lao động đặc thù [im Besondren], còn sự phân công lao động trong xưởng thợ là sự phân công lao động cá biệt [im Einzelnen]” [31, tr.510].
- 12 Sự phân công chuyên môn hóa càng sâu, càng đòi hỏi sự hợp tác liên kết trong sản xuất và lưu thông. Chính sự phát triển của phân công và hợp tác dẫn đến sự xuất hiện các mô hình tổ chức sản xuất thể hiện tính liên kết (các công ty cổ phần, và cao hơn nữa là các tập đoàn kinh tế lớn các công ty đa quốc gia). Bên cạnh mô hình liên kết đó là mô hình liên kết của các chủ thể kinh tế độc lập với nhau như dạng các chủ hộ kinh tế độc lập, các tập thể người lao động, các doanh nghiệp hoặc các cơ sở nghiên cứu, phục vụ sản xuất (các trạm trại viện nghiên cứu…) liên kết với nhau trong sản xuất, trong tiêu thụ, trong ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, bảo quản, giảm thiểu rủi ro, thất thu sản phẩm…. Sau này, trên cơ sở những nguyên lý lý luận của C.Mác và vận dụng phương pháp biện chứng, V.I.Lênin cũng đã có những nghiên cứu sâu sắc về phân công lao động dẫn đến sự xuất hiện của những quan hệ kinh tế mới giữa các chủ thể trong nền kinh tế Nga (nông dân, chúa đất, công nhân và chủ xưởng) khi những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bắt đầu xuất hiện trong nền kinh tế Nga mang nặng tính tiểu nông và lạc hậu. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng do kết quả của sự phân công xã hội ngày càng tăng, nền kinh tế tự nhiên của những người sản xuất nhỏ dần dần biến thành nền kinh tế hàng hoá [30, tr.106]. Sản xuất hàng hóa phát triển, tức là sự phân công lao động xã hội ngày càng diễn ra phổ biến và ở một trình độ ngày càng cao đã biến thành nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Đó là một quá trình kinh tế tất yếu, chứa đựng trong đó là mối quan hệ vận động khăng khít giữa phân công và hiệp tác [20, tr.106]. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin tuy không đề cập đến mối quan hệ giữa phân công và hiệp tác (theo hàm nghĩa sự liên kết) nhưng thông qua lý luận phân công lao động có thể thấy, trong bản chất của nó - sự phân công, đã nói lên rằng sự phân công khách quan chứa đựng nhu cầu phải liên kết. Phân công là tách nền sản xuất thành các ngành, các bộ phận
- 13 độc lập với nhau, biến chúng thành thị trường tiêu thụ của nhau. Rõ ràng, bản thân quá trình đó đòi hỏi chúng phải làm tiền đề, điều kiện cho nhau để quá trình tái sản xuất diễn ra trót lọt. Như thế sự phân công đòi hỏi có sự hợp tác, liên kết. Phân công lao động làm cho (biến) các chủ thể kinh tế thành những nhà sản xuất, và tiêu thụ đứng đối diện với nhau trên thị trường. Những chủ thể đó có lợi ích tuy khác nhau nhưng có điểm chung là muốn thực hiện được các lợi ích đó họ phải bằng cách nào đó hợp tác, liên kết với nhau theo những cách thức nhất định. Nhưng để liên kết được với nhau, các chủ thể đó cần một nhân tố khách quan khác làm “bà đỡ” cho họ - sự quản lý với tính cách một chức năng xã hội. Phân công làm cho lao động mang tính xã hội, khi tính chất xã hội của lao động xuất hiện sẽ làm nảy sinh nhu cầu quản lý. Nói cách khác phân công làm nảy sinh nhu cầu hợp tác, đến lượt nó lao động hiệp tác (trong đó có hàm nghĩa liên kết), đòi hỏi phải có sự quản lý. C.Mác viết: “Tất cả lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên một quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm thì tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [31, tr.180]. Những vấn đề trên tuy được C.Mác và V.Lênin đề cập từ cuối thế kỷ XIX, song vẫn giữ nguyên giá trị khi vận dụng xem xét chúng đối với các hiện tượng, các quá trình kinh tế hiện nay, trong đó có mô hình liên kết kinh tế 4 “nhà” trong sản xuất và tiêu thụ lúa - vấn đề đang được bàn luận sôi nổi ở nước ta hiện nay. Ngày nay, do yêu cầu của thực tiễn đặt ra, liên kết kinh tế được các nhà
- 14 khoa học nghiên cứu từ nhiều khía cạnh. Trong ngôn ngữ gốc Latin, cụm từ "integration" hay "integratio" được hiểu nghĩa là kết hợp, hoà hợp, hội nhập, hợp nhất, khi dịch ra tiếng Việt có nghĩa rất gần với thuật ngữ liên kết trong kinh tế. Nhiều nhà nghiên cứu nước ta cũng cho rằng các thuật ngữ đó có cùng bản chất với thuật ngữ liên kết trong kinh tế. Theo đó, liên kết kinh tế được hiểu là một hiện tượng kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa các thực thể kinh tế (các tổ chức, các ngành, các địa phương và các đơn vị với nhau) đó là những quan hệ phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác. Theo đó liên kết kinh tế được hiểu vừa là hình thức tổ chức sản xuất vừa là cơ chế quản lý. Hoặc đã coi liên kết kinh tế là những hình thức quan hệ kinh tế thông thường như: mua bán trao đổi hàng hoá thông thường, thuê mướn đất đai, nhà xưởng, địa điểm kinh doanh, cho vay vốn. Trong từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam liên kết kinh tế được định nghĩa là hình thức hợp tác và phối hợp thường xuyên các hoạt động do các đơn vị tự nguyện tiến hành để cùng đề ra và thực hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất kinh doanh của các bên tham gia, nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển theo hướng có lợi nhất. Được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi thông qua hợp đồng kinh tế ký kết giữa các bên tham gia và trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước [35]. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, khi nói về liên kết kinh tế trong sản xuất, lưu thông, dịch vụ của nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã khẳng định liên kết kinh tế là những hình thức phối hợp hoạt động, do các đơn vị kinh tế tự nguyên tiến hành để cùng nhau bàn bạc và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất, kinh doanh của mình, nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển theo hướng có lợi nhất.
- 15 Ở nước ngoài, các nhà nghiên cứu khẳng định bản chất của liên kết kinh tế là thể chế kinh tế (institution) và trên cơ sở đó họ đi tìm sự khác biệt giữa nó với hai thể chế còn lại đối lập nhau như hai cực đó là thị trường mở và thứ bậc (kế hoạch mệnh lệnh). Trong sự khác biệt đó họ đặt liên kết kinh tế như là một thể chế kinh tế trung gian giữa hai cơ chế cơ bản nêu trên với nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Do tính phong phú của nó, liên kết kinh tế có nhiều cách tiếp cận và nhận thức có những sự khác nhau ở những khía cạnh nhất định. (1) Xem liên kết kinh tế là một cơ chế kinh tế; (2) xem liên kết kinh tế là một hình thức tổ chức sản xuất; (3) Xem liên kết kinh tế vừa là cơ chế kinh tế vừa là hình thức tổ chức sản xuất và điều này đồng nghĩa với việc xem liên kết kinh tế là một thể chế kinh tế; (4) xem liên kết kinh tế là một quá trình kinh tế. Tuy nhiên, trên cơ sở những dấu hiệu chung phản ánh tính bản chất của hiện tượng kinh tế này và dưới góc độ của kinh tế chính trị, luận văn này lựa chọn cách tiếp cận tổng hòa của bốn vấn đề nói trên: xem liên kết kinh tế là một trong những con đường biện pháp giải quyết hài hòa các quan hệ kinh tế của các thực thể trong chuỗi liên kết để nâng cao tính bền vững của liên kết, góp phần thúc đẩy sự phát triển theo hướng bền vững trong sản xuất và tiêu thụ lúa Vùng tứ giác Long Xuyên. 1.1.2. Đặc trưng cơ bản của liên kết kinh tế Liên kết kinh tế với tính cách là một phạm trù của kinh tế chính trị chứa đựng trong lòng nó những đặc trưng cơ bản sau đây. Một là, liên kết kinh tế là một trong những hình thức phối hợp hoạt động giữa các chủ thể kinh tế độc lập trong điều kiện nền kinh tế đã có sự phân công. Cả lý luận và thực tiễn lịch sử của sự phát triển kinh tế nhân loại đều cho thấy, với tính cách là nhân tố cấu thành lực lượng sản xuất, lao động sáng tạo của
- 16 con người trong quá trình tạo ra của cải đã giúp con người ngày càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm. Sự sáng tạo trong lao động và sáng tạo trong chế tác công cụ sản xuất của con người đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển không ngừng, quá trình đó đã thúc đẩy phân công xã hội ngày càng phát triển. Cùng với nhu cầu liên kết với nhau để chinh phục, cải tạo tự nhiên, phân công lao động tự bản thân nó đã đặt ra nhu cầu tất yếu phải có sự phối hợp các hoạt động với nhau (hay là sự liên kết nhau lại) theo những cách thức nhất định. Mỗi mô hình tổ chức kinh tế xã hội có một kiểu - cơ chế liên kết riêng. Cơ chế kinh tế thị trường có sự phối hợp liên kết riêng của nó. Sự liên kết đó do những tất yếu kinh tế quy định. Lúc đầu là ngẫu nhiên, tự phát, dần mang tính chủ động. Các chủ thể kinh tế tìm đến nhau, liên kết phối hợp với nhau trong một hay nhiều quá trình kinh tế cụ thể. Trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với tính cách là người "nhạc trưởng" nhà nước (cả cấp Trung ương, cả cấp địa phương) có vai trò quan trọng trong thúc đẩy, hoặc trực tiếp tham gia vào các quá trình liên kết. Nhà nước vừa là tác nhân, vừa là một trong những chủ thể tham gia các quá trình liên kết. Nhà nước không chỉ giúp các chủ thể liên kết với nhau, mà còn tạo "sân chơi" giúp các chủ thể liên kết với nhau một cách có lợi nhất cho mỗi chủ thể và xã hội, giúp các chủ thể đạt được tính hiệu quả cao cho các hoạt động sản xuất - kinh tế của mình. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sự phối hợp đó mang tính định trước theo kế hoạch và sự chỉ huy điều tiết chung của một trung tâm quản lý thống nhất trong phạm vi một doanh nghiệp hoặc trong toàn bộ nền kinh tế. Khác với cơ chế kế hoạch hóa tập trung, trong kinh tế thị trường nhà nước chỉ đóng vai trò “bà đỡ”. Liên kết kinh tế trong cơ chế thị trường, cơ chế phối hợp liên kết diễn ra mang tính tự nguyện, trên cơ sở sự tự nguyện đó, các kế hoạch phối hợp liên kết được vạch ra, dựa trên những thỏa thuận trước khi tiến hành, trên cơ sở bàn bạc dân chủ, thống nhất giữa các chủ thể bảo đảm lợi
- 17 ích của các bên tham gia liên kết. Lợi ích xã hội cũng sẽ đạt được khi lợi ích của các bên được thực hiện. Hai là, liên kết kinh tế là một dạng thức quan hệ kinh tế, ở đó diễn ra mối liên hệ kinh tế giữa hai hoặc nhiều chủ thể kinh tế độc lập, có quyền tự chủ về kinh tế, quyền sở hữu, hoặc quyền sử dụng tài sản của mình. Trong hệ thống các quan hệ kinh tế cấu thành quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Tuy nhiên, các quan hệ quản lý và phân phối cũng có tính độc lập tương đối của nó, tác động lại quan hệ sở hữu và tác động lẫn nhau. Trong tính tổng hòa của các quan hệ kinh tế đó, quan hệ về tổ chức quản lý với tính đa dạng phong phú có vai trò hết sức quan trọng trong khai thác, sử dụng và phát huy tính hiệu quả của các tư liệu sản xuất hiện có. Những quan hệ về liên kết kinh tế giữa các chủ thể trong sản xuất kinh doanh là một trong những dạng thức cụ thể của quan hệ tổ chức quản lý. Những kiểu quan hệ kinh tế lấy sự phối hợp hoạt động, liên kết với nhau trong sản xuất - kinh doanh giữa các chủ thể dựa trên nguyên tắc tự nguyện, thỏa thuận, cùng có lợi và tin tưởng lẫn nhau làm quan hệ chủ đạo là một dạng thức cụ thể của quan hệ tổ chức quản lý, phản ánh một cách tập trung đặc trưng của kinh tế thị trường - mô hình tổ chức kinh tế xã hội dựa trên cơ sở các quy luật sản xuất và lưu thông hàng hóa. Trong kinh tế thị trường để có được tính hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh, kiểu liên kết kinh tế dựa trên sự phối hợp hoạt động, hợp tác với nhau trong sản xuất - kinh doanh giữa các chủ thể dựa trên nguyên tắc tự nguyện, thỏa thuận, cùng có lợi và tin tưởng lẫn nhau cần đòi hỏi phải được thượng tôn. Ba là, liên kết kinh tế là một quan hệ thể hiện mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ lẫn nhau giữa các chủ thể theo những chương trình, kế hoạch, hoặc giao kèo mang tính dài hạn, hoặc thường xuyên được xác định trước.
- 18 Tính định trước trong tương lai là một dạng thức của các hoạt động kinh tế hiện đại. Đặc trưng này có cả trong thể chế của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cả trong kinh tế thị trường hiện đại. Mặc dù tính định trước trong tương lai tự nó không nhất thiết phải là quan hệ thường xuyên, theo đó một quan hệ giao dịch dù chỉ xảy ra một lần giữa hai đối tác độc lập một cách tự nguyện, cùng có lợi và được định trước diễn ra trong một thời gian nhất định vẫn là một liên kết kinh tế. Ngược lại đã là một quan hệ giao dịch thường xuyên lâu dài thì tất yếu phải mang tính định trước. Trong các hoạt động kinh tế, những chương trình, kế hoạch, hoặc giao kèo mang tính dài hạn, hoặc thường xuyên được xác định trước khi được tôn trọng trong quá trình thực hiện, được điều chỉnh hợp lý trên cơ sở thống nhất giữa các bên sẽ là cơ sở đảm bảo cho các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể đạt được kết quả cao. Bốn là, liên kết kinh tế là một kiểu quan hệ kinh tế gắn liền với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh cụ thể mang tính đặc thù của các lĩnh vực hoạt động kinh tế cụ thể. Tính phong phú trong hợp tác, liên kết kinh tế cho thấy liên kết kinh tế có nhiều cấp độ. Có cấp độ quốc tế, cấp độ quốc gia, cấp độ vùng lãnh thổ và cấp độ thấp hơn nữa, tùy thuộc ở vấn đề và lĩnh vực hợp tác kinh tế đó và cấp độ các chủ thể tham gia vào chuỗi liên kết đó. Giới hạn của liên kết kinh tế thuộc vấn đề đang được bàn luận ở đây nằm trong khuôn khổ các dạng thức liên kết đặc thù, nghĩa là nó luôn gắn liền với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh cụ thể. Chẳng hạn như liên kết kinh tế trong chế biến sản phẩm, trong sản xuất kinh doanh thủy sản, trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo v.v… Tuy nhiên, dù ở cấp độ nào thì liên kết kinh tế cũng có những dấu hiệu chung để có thể đều được gọi chung là liên kết kinh tế. Năm là, mục tiêu và cũng là tác dụng của liên kết kinh tế là bảo đảm
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 26 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 10 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 10 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn