Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế
lượt xem 8
download
Luận văn khái quát hoá những vấn đề lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh, năng lực cạnh tranh trong ngành Du lịch; nghiên cứu kinh nghiệm một số nước để rút ra bài học cho Việt Nam trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành Du lịch. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ Nguyễn Anh Tuấn Nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế LUẬN VĂN THẠC SỸ Hà nội - 2006
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ Nguyễn Anh Tuấn Nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế Luận văn Thạc sĩ Mã Số: 60 31 01 Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Văn Đính Hà nội - 2006
- 7 PHẦN MỞ ĐẦU I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Du lịch ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế-xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Nhiều nước đang phát triển coi Du lịch là ngành kinh tế trọng yếu, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, tăng thu ngoại tệ, cân bằng cán cân thanh toán, tạo nhiều việc làm và nâng cao mức sống của người dân. Trong những năm gần đây, du lịch trở thành thị trường cạnh tranh cao. Du lịch toàn cầu có nhiều biến chuyển nhanh chóng do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin-viễn thông, khách du lịch có nhiều kinh nghiệm và nhu cầu đa dạng hơn, toàn cầu hoá kinh tế và giới hạn môi trường đối với tăng trưởng. Nhiều điểm đến du lịch mới nổi lên. Các hãng lữ hành và truyền thông ngày càng tăng ảnh hưởng trên thị trường. Khách du lịch quan tâm nhiều hơn tới chất lượng môi trường của các cơ sở dịch vụ và điểm đến du lịch. Điều đó làm tăng áp lực lên các nước quan tâm phát triển du lịch phải nâng cao năng lực cạnh tranh. Nâng cao năng lực cạnh tranh ngày càng trở nên quan trọng đối với các nước thu hút khách du lịch nhằm giành thị phần lớn hơn trên thị trường du lịch toàn cầu. Điều này càng đặc biệt quan trọng đối với những nước phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào ngành Du lịch. Hơn nữa, vai trò của ngành Du lịch ở nhiều nước cũng có xu hướng tăng, làm nổi bật hơn tầm quan trọng của ngành Du lịch trong nền kinh tế. Qua 46 năm hình thành và phát triển, đặc biệt từ năm 1990 đến nay, Du lịch Việt Nam đã phát triển khá nhanh, trở thành ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, góp phần tích cực vào quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước. Du lịch phát triển đã làm tăng vẻ đẹp đô thị, tạo nhiều việc làm, tăng thu ngoại tệ, cải thiện kết cấu hạ tầng và các lĩnh vực căn bản khác của nền kinh tế nước ta. Tài nguyên thiên nhiên, nhân văn phong phú và vị trí địa lý thuận lợi là những nhân tố quan trọng, góp phần vào sự phát triển du lịch của đất nước thời gian qua. Tuy nhiên, là ngành mới phát triển, Du lịch Việt Nam không tránh khỏi những hạn chế. Chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh trên thị trường du lịch thế giới còn thấp. Kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
- 8 chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Công tác thị trường, xúc tiến du lịch chưa được đẩy mạnh. Sản phẩm du lịch chưa đa dạng và chất lượng còn thấp. Ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý và kinh doanh du lịch còn yếu. Nguồn nhân lực du lịch còn hạn chế về trình độ chuyên môn và kỹ năng đón tiếp khách du lịch. Do đó, lượng khách quốc tế vào Việt Nam thời gian qua chưa nhiều, chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của đất nước. Xu thế toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang gia tăng áp lực cạnh tranh đối với ngành Du lịch Việt Nam. Bên cạnh thuận lợi và cơ hội phát triển, Du lịch Việt Nam đã, đang và sẽ phải đối mặt với những thách thức to lớn, đó là tình trạng cạnh tranh quyết liệt trên thị trường du lịch thế giới để thu hút khách quốc tế. Để đứng vững trong cạnh tranh, Du lịch Việt Nam phải tăng cường vị thế và năng lực cạnh tranh, đặc biệt là với các nước trong khu vực để thu hút khách quốc tế. Do đó, nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành Du lịch trở thành yêu cầu cấp thiết, quyết định sự phát triển của Du lịch Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Cho đến nay, ở Việt Nam, có rất ít công trình khoa học nghiên cứu, phân tích và đánh giá về năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch Việt Nam. Trong dự án VIE/89-003 về Kế hoạch chỉ đạo phát triển du lịch Việt Nam do Tổ chức Du lịch thế giới, UNDP và Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch phối hợp xây dựng (năm 1991) có một phần nhỏ phân tích về khả năng cạnh tranh của Du lịch Việt Nam nhưng đã lạc hậu so với sự phát triển du lịch hiện nay. Năm 2003, Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Phạm Hồng Chương có đề cập vài nét tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp lữ hành tại Hà Nội. Trên Tạp chí Du lịch năm 2005 cũng chỉ có một số bài viết về sức cạnh tranh của doanh nghiệp du lịch Hà Nội. Năm 2005, Vụ Thương mại và Dịch vụ, Bộ Kế hoạch Đầu tư chủ trì đề tài“Khả năng cạnh tranh và tác động của tự do hoá ngành Du lịch” do UNDP tài trợ và nhóm tác giả của Khoa Du lịch và Khách sạn, Đại học Kinh tế quốc dân thực hiện và dự kiến nghiệm thu trong năm 2006. Tuy nhiên, qua báo cáo tại hội thảo về đề tài này tháng 6/2006 vừa qua tại Hà Nội cho thấy, đề tài này chủ yếu đề cập tới tác động của tự do hoá ngành Du lịch.
- 9 Trong Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010 chưa có phần nào đề cập tới nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch. Hơn nữa, Tổng cục Du lịch cũng chưa xây dựng Chiến lược cạnh tranh cho Du lịch Việt Nam. III. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 1. Mục đích nghiên cứu: Đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch để thu hút khách quốc tế vào Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là khái quát hoá những vấn đề lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh, năng lực cạnh tranh trong ngành Du lịch; Nghiên cứu kinh nghiệm một số nước để rút ra bài học cho Việt Nam trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành Du lịch. Trên nền tảng lý luận và thực tiễn đó, luận văn phân tích, đánh giá tổng thể thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch Việt Nam, rút ra mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội và thách thức của ngành Du lịch hiện nay, đồng thời phân tích xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển du lịch quốc tế, làm cơ sở đề xuất các giải pháp cơ bản và đồng bộ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Du lịch Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu: Như đã xác định trong tên đề tài, đối tượng nghiên cứu của luận văn là năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. 2. Phạm vi nghiên cứu: 2.1. Phạm vi không gian: - Luận văn giới hạn nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch Việt Nam trong việc thu hút khách du lịch quốc tế so với một số đối thủ cạnh tranh trong khu vực, chủ yếu là với Thái Lan, Malaysia và Singapore; - Luận văn sử dụng kết quả đánh giá năng lực cạnh tranh ngành Du lịch toàn cầu của Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch Việt Nam, không đi sâu phân tích yếu tố cấu thành và cách tính ra các chỉ số năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch; Chỉ tập trung nghiên cứu kinh
- 10 nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch của 3 nước là Thái Lan, Malaysia và Tây Ban Nha; 2.2. Phạm vi thời gian: Khoảng thời gian được nghiên cứu để phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của Du lịch Việt Nam là từ 1993 đến nay, chủ yếu từ năm 2000 đến nay. Thời gian để thực hiện các giải pháp là giai đoạn 2006-2010 và một số giải pháp có thể kéo dài thêm sang một vài năm tiếp theo, phù hợp với Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010 và định hướng tới năm 2020. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Dựa trên phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn vận dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: 1. Phương pháp lịch sử và lô gic; 2. Phương pháp phân tích và tổng hợp; 3. Phương pháp thống kê; 4. Phương pháp so sánh. VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN - Khái quát, hệ thống hoá một số cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh, năng lực cạnh tranh trong ngành Du lịch. Từ nghiên cứu kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch của một số nước, rút ra một số bài học quan trọng, có thể vận dụng để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch Việt Nam; - Đánh giá một cách toàn diện về thực trạng năng lực cạnh tranh của Du lịch Việt Nam, nêu bật mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội và thách thức của Du lịch Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp đồng bộ, có cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút khách du lịch quốc tế của ngành Du lịch Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. Người viết hy vọng sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách về du lịch có được tài liệu tham khảo tin cậy để xây dựng chiến lược cạnh tranh và đưa ra các biện pháp hiệu quả nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch Việt Nam, góp phần thúc đẩy ngành Du lịch Việt Nam phát triển và hội nhập nhanh vào ngành Du lịch toàn cầu. VII. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, khuyến nghị và kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
- 11 Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh trong ngành Du lịch; Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Du lịch Việt Nam; Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Du lịch Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG NGÀNH DU LỊCH 1.1. CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH 1.1.1. Một số quan niệm và quan điểm cơ bản về cạnh tranh: Trong quá trình hình thành và phát triển của sản xuất, trao đổi hàng hoá và sự phát triển của kinh tế thị trường, cạnh tranh xuất hiện. Hoạt động cạnh tranh gắn liền với tác động của các quy luật thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu,… Cùng với quá trình hình thành và biến động của kinh tế thị trường, cạnh tranh trở thành chủ đề lý luận lớn được nhiều học giả kinh tế quan tâm đến. Tuy nhiên, do cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau của mỗi trường phái kinh tế nên trong thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Các học giả thuộc trường phái Tư sản cổ điển cho rằng: “Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên trong thị trường một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so với khả năng của mình”{19, tr3}. Theo Adam Smith, cạnh tranh có thể phối hợp các hoạt động kinh tế một cách nhịp nhàng và có lợi cho xã hội. Vì cạnh tranh, trong quá trình của cải của quốc gia tăng lên, chủ yếu diễn ra thông qua thị trường và giá cả, do đó cạnh tranh có quan hệ chặt chẽ với thị trường. Theo A.Smith, tự do thôi thúc cá nhân thực hiện các công việc một cách tốt nhất và năng suất hơn. Từ đó, cạnh tranh có thể khơi dậy nỗ lực của con người và làm cho của cải của quốc gia tăng lên. Ông chỉ ra rằng, trong điều kiện cạnh tranh, do có nhiều người tham gia nên chẳng những họ phải thường xuyên theo dõi, chú ý tới sự biến động của thị trường mà còn phải chú ý tới biến động cung cầu và áp lực cạnh
- 12 tranh. Bằng tài phán đoán, họ khôn khéo điều chỉnh sản lượng cho thích ứng với tình hình thay đổi cung cầu và áp lực cạnh tranh. Như vậy, cạnh tranh có thể cân bằng cung cầu xã hội. Cạnh tranh còn có tác dụng nâng cao năng lực lao động, điều tiết, phân phối các yếu tố tư bản một cách hợp lý. Mục tiêu của nhà tư bản là theo đuổi lợi nhuận, cạnh tranh đã làm cho tư bản chảy vào ngành có lợi nhuận cao nhất. Theo Mác, sự ra đời và tồn tại của cạnh tranh trước hết dựa vào hai điều kiện cơ bản: phân công xã hội và chủ thể lợi ích đa nguyên. Mác cho rằng “Sự phân công lao động trong xã hội đặt những người sản xuất hàng hoá độc lập đối diện với nhau, những người này không thừa nhận một uy lực nào khác ngoài uy lực cạnh tranh” {7, tr.517}. Trong lý luận cạnh tranh của Mác, có thể thấy nổi bật quan điểm về cạnh tranh giữa những người sản xuất và cạnh tranh đó đã ảnh hưởng tới người tiêu dùng. Cạnh tranh diễn ra ở ba bình diện: cạnh tranh giá thành thông qua nâng cao năng suất lao động giữa các nhà tư bản nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch; cạnh tranh chất lượng thông qua nâng cao giá trị sử dụng hàng hoá; cạnh tranh giữa các ngành thông qua khả năng luân chuyển tư bản để từ đó các nhà tư bản chia nhau giá trị thặng dư {8, 9}. Các nhà kinh tế thuộc trường phái Tân cổ điển đưa ra lý luận cạnh tranh hoàn hảo, cho rằng trong mô hình cạnh tranh hoàn hảo, sản xuất được điều khiển bởi thị hiếu của người tiêu dùng thông qua cơ chế thị trường. Muốn có lợi ích tối đa, doanh nghiệp phải bố trí sản xuất theo nguyên tắc giá thành cận biên ngang bằng với lợi ích cận biên. Cạnh tranh hoàn hảo là mô hình hướng về người tiêu dùng vì nó thúc đẩy các công ty điều chỉnh quy mô sản xuất tới điểm chi phí bình quân thấp nhất, tới giới hạn sản xuất tối ưu. Điều đó làm cho giá cả giảm và sử dụng tài nguyên hiệu quả nhất. Trong lý luận về tổ chức ngành, trường phái Harvard cho rằng, phán đoán tính chất cạnh tranh của một ngành nào đó không thể chỉ căn cứ vào hành vi thị trường (hành vi định giá) hoặc hiệu quả thị trường (có lợi nhuận siêu ngạch), mà phải căn cứ vào cơ cấu thị trường, xem ngành đó do một công ty độc quyền chi phối hay nằm phân tán trong các công ty khác, phải xem có nhiều rào cản ngăn chặn các công ty mới tham gia vào thị trường hay không.
- 13 Schumpeter, học giả thuộc trường phái Áo theo quan điểm sáng tạo và cạnh tranh trong trạng thái động, cho rằng, độc quyền không xoá bỏ cạnh tranh mà chỉ làm thay đổi phương thức cạnh tranh. Có nhiều phương thức cạnh tranh cùng tồn tại như cạnh tranh giá cả, chất lượng, công nghệ mới, nguồn cung ứng mới, phương thức tổ chức và quản lý mới. Sự ra đời của tổ chức độc quyền không có nghĩa là cạnh tranh suy yếu mà làm cho cạnh tranh chuyển sang trạng thái động, đi vào chiều sâu. Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, quan điểm cạnh tranh đã thay đổi. Sự thay đổi đó dựa trên ba tiền đề cơ bản là : Thứ nhất, thế giới đã chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, và toàn cầu hoá kinh tế thì cần phải tìm hiểu các quy định và luật chơi về cạnh tranh trong nền kinh tế tri thức; Thứ hai, xét từ góc nhìn thương mại quốc tế, cạnh tranh dựa vào lợi thế so sánh trước đây đã chuyển sang cạnh tranh dựa vào quy chế; Thứ ba, Tính tất yếu của hợp tác kinh tế để đổi mới quan điểm từ cạnh tranh đối kháng chuyển sang cạnh tranh có tính hợp tác. Quan điểm cạnh tranh có thể nâng cao năng suất và làm cho xã hội được lợi ăn sâu vào toàn bộ lý luận phương Tây. Cạnh tranh được coi là động lực làm giảm giá thành, cải tiến chất lượng và tạo sản phẩm mới. Trong nền kinh tế tri thức, tầm quan trọng của cạnh tranh không thay đổi nhưng so với nền kinh tế công nghiệp, quan niệm về cạnh tranh đã thay đổi. Trong nền kinh tế tri thức, cạnh tranh không đơn giản là thay đổi hàm số sản xuất và mở rộng thị phần mà là mở rộng không gian sinh tồn, tư bản hoá giá trị thời gian của cá nhân người tiêu dùng trong không gian thị trường mới. Không gian này lấy tăng trưởng bền vững, chuyên môn hoá ở trình độ cao và sáng tạo ra hệ thống sinh thái làm mục tiêu phát triển. Như chúng ta biết, lý luận thương mại truyền thống chủ yếu sử dụng lợi thế so sánh để giải thích sự hình thành và phát triển thương mại quốc tế. Điều đó là phù hợp, bởi vì gia nhập thị trường thuận lợi, Chính phủ can thiệp tương đối mềm mỏng. Nhưng trong nền kinh tế toàn cầu hoá, gia nhập thị trường khó khăn, đối thủ cạnh tranh tăng lên và mức độ cạnh tranh gay gắt, không chỉ dựa vào lợi thế lao động rẻ, tài nguyên nhiều để cạnh tranh mà còn dựa vào mức độ can thiệp của Chính phủ mỗi nước và cạnh tranh quốc tế. Cạnh tranh quốc tế chuyển từ lợi thế so sánh
- 14 sang cạnh tranh về các quy chế giữa các quốc gia với nhau, giữa các quốc gia với các khối mậu dịch thông qua hiệp định song phương và đa phương, giữa doanh nghiệp với Chính phủ. Ngày nay, trong thời đại kinh tế tri thức, để kích thích nền kinh tế phát triển, ngoài cơ chế thị trường tự điều tiết, nhà nước can thiệp còn có biện pháp thứ ba là hợp tác, đó là biện pháp tốt nhất hiện nay. Một trong những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường là thực hiện quyết sách phân tán. Phân tán để thích nghi với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tiết kiệm tài nguyên kinh tế, nhưng trong cùng mạng lưới thì có sự hợp tác chặt chẽ. Khi lực lượng sản xuất xã hội phát triển tới trình độ nhất định thì cần có sự hợp tác rộng rãi hơn. Cạnh tranh có tính hợp tác là đặc trưng chủ yếu của tính chất nương tựa lẫn nhau trong trạng thái động. Còn toàn cầu hoá thì đảo lộn đặc trưng đó, kêu gọi sự hợp tác có tính chất cạnh tranh. Nói chung, thời đại ngày nay là thời đại cạnh tranh và hợp tác để cùng tồn tại, có sự phân hoá lớn và sự cộng sinh giữa độc quyền và chống độc quyền. Theo Từ điển kinh doanh của Anh, cạnh tranh được xem là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình” {39, tr.3}. Kế thừa các quan điểm của các nhà nghiên cứu, ta có thể hiểu: cạnh tranh là quan hệ kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Đó là sự ganh đua giữa các chủ thể nhằm giành được những điều kiện thuận lợi nhất để thu lợi nhuận siêu ngạch. Cạnh tranh còn là phương thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường. Tính chất cạnh tranh bị chi phối bởi bản chất kinh tế-xã hội của những chế độ xã hội đó. Với những quan niệm trên, phạm trù cạnh tranh được hiểu là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi {10, tr.9}.
- 15 Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành giật người tiêu dùng. Cạnh tranh kích thích các doanh nghiệp thực hiện tốt nhất việc sản xuất hàng hoá và dịch vụ chất lượng cao với giá cả rẻ nhất. Cạnh tranh khuyến khích hoạt động doanh nhân và gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới qua thoả mãn doanh nghiệp làm ăn hiệu quả và trừng phạt doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Trong điều kiện thị trường lý tưởng, các doanh nghiệp phản ứng linh hoạt và nhanh nhạy đối với thay đổi nhu cầu thị trường và sự gia nhập thường xuyên của các doanh nghiệp mới. Sự gia nhập của doanh nghiệp mới cung cấp tác nhân kích thích cần thiết cho việc điều chỉnh và tốc độ họ thực hiện là thước đo hiệu quả năng lực cạnh tranh của họ. Vì vậy, cạnh tranh là một nhân tố chính của năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, trên hầu hết các thị trường, các điều kiện thị trường hiếm khi đạt tới điều kiện lý tưởng như trong lý thuyết kinh tế. Trên thực tế, nhiều rào cản tồn tại ngăn cản các thị trường cạnh tranh thực sự, vì thế cản trở các doanh nghiệp điều chỉnh đối với sự thay đổi của điều kiện thị trường và ngăn ngừa việc thành lập các doanh nghiệp mới. Những rào cản như vậy có thể bắt nguồn từ tính không đối xứng của thông tin giữa các doanh nghiệp cạnh tranh liên quan tới thị trường và công nghệ, quy định, quy mô kinh tế và sử dụng thủ đoạn chống cạnh tranh của các doanh nghiệp đã gia nhập thị trường rồi nhằm mở rộng kiểm soát của họ đối với các doanh nghiệp khác hoặc chấm dứt gia nhập thị trường của các doanh nghiệp khác. Theo nghĩa rộng nhất, cạnh tranh có nghĩa là “tồn tại vì thích ứng nhất” và vì thế, có thể hiểu rằng cạnh tranh thủ tiêu cạnh tranh. Trong điều kiện cạnh tranh gia tăng và theo đuổi lợi nhuận lớn hơn, những doanh nghiệp tham gia thị trường hiện tại có thể bị lôi cuốn để bóp méo hoặc loại trừ cạnh tranh nhằm giành được hoặc lạm dụng sức mạnh thị trường. Vì vậy, cần thiết phải có sự can thiệp bằng chính sách của Chính phủ nhằm duy trì và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. 1.1.2. Phân loại cạnh tranh: Cạnh tranh được phân thành nhiều loại dựa trên các tiêu thức khác nhau: Thứ nhất, xét theo chủ thể kinh tế tham gia thị trường có cạnh tranh giữa những người sản xuất hay người bán với nhau, cạnh tranh giữa những người mua,
- 16 cạnh tranh giữa người bán và người mua (trong tác phẩm: “Lao động làm thuê và tư bản” của Mác). Thứ hai, xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể tham gia thị trường: có cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. C.Mác dùng cách phân loại này nghiên cứu cơ sở khoa học của các phạm trù giá trị thị trường, giá cả sản xuất và lợi nhuận bình quân. Ở đó, Mác chỉ rõ, trước hết để đạt mục tiêu bán cùng một loại hàng hoá đã xuất hiện cạnh tranh trong nội bộ ngành, kết quả là hình thành giá trị thị trường. Sau nữa, để giành nơi đầu tư có lợi giữa các chủ thể kinh tế đã xuất hiện cạnh tranh giữa các ngành, kết quả là hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Ngày nay, các nhà kinh tế học đã phát triển cách phân loại trên của Mác phân loại cạnh tranh thành hai hình thức là: “cạnh tranh dọc” và “cạnh tranh ngang”. Cạnh tranh dọc là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp nhất khác nhau. Cạnh tranh ngang là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp nhất như nhau. Thứ ba, xét theo hình thái cạnh tranh có hai loại cạnh tranh: Cạnh tranh hoàn hảo: là tình trạng cạnh tranh trong đó giá cả của một loại hàng hoá không thay đổi trong toàn bộ địa danh của thị trường, bởi vì người mua, người bán đều biết tường tận về các điều kiện của thị trường. Trong điều kiện đó không có doanh nghiệp nào có đủ sức mạnh có thể ảnh hưởng đến giá cả sản phẩm của mình trên thị trường; Cạnh tranh không hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực có thể chi phối được giá cả sản phẩm của mình trên thị trường. Cạnh tranh không hoàn hảo có hai loại: độc quyền nhóm và cạnh tranh độc quyền. Thứ tư, xét theo công đoạn của sản xuất - kinh doanh, cạnh tranh có ba loại: cạnh tranh trước bán hàng, cạnh tranh trong quá trình bán hàng và cạnh tranh sau bán hàng. Cuộc cạnh tranh này được thực hiện bằng phương thức thanh toán và dịch vụ. Thứ năm, xét theo tính chất của phương thức cạnh tranh: Trong cạnh tranh, các chủ thể kinh tế sẽ dùng tất cả các biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn, để đạt được mục tiêu kinh tế của mình. Có những biện pháp cạnh tranh hợp pháp hay cạnh
- 17 tranh lành mạnh. Ngược lại, có những thủ đoạn phi pháp, nhằm tiêu diệt đối phương chứ không phải bằng nỗ lực vươn lên của mình, gọi là cạnh tranh không lành mạnh. Thứ sáu, xét theo phạm vi lãnh thổ: cạnh tranh gồm cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế. Cạnh tranh quốc tế có thể diễn ra ở ngay thị trường nội địa, đó là cạnh tranh giữa hàng hoá sản xuất trong nước với hàng ngoại nhập. Ngoài ra, cạnh tranh còn được phân loại dựa trên tiêu chí khác như điều kiện không gian, lợi thế tài nguyên, nhân lực, đặc điểm tập quán sản xuất, tiêu dùng, văn hoá,... ở từng dân tộc, khu vực, quốc gia khác nhau. 1.1.3. Năng lực cạnh tranh: Thuật ngữ năng lực cạnh tranh được sử dụng rộng rãi nhưng vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng cũng như cách thức đo lường năng lực cạnh tranh. Theo Từ điển thuật ngữ kinh tế học, năng lực cạnh tranh là khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp {39, tr.349}. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD định nghĩa năng lực cạnh tranh là “khả năng của các công ty, các ngành, các vùng, các quốc gia hoặc khu vực siêu quốc gia trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế trên cơ sở bền vững”{60, tr.3}. Tương tự, Scott và Lodge (1985) đã định nghĩa “năng lực cạnh tranh quốc gia là khả năng của nhà nước quốc gia để sản xuất, phân phối và phục vụ hàng hoá trong nền kinh tế quốc tế cạnh tranh với hàng hoá và dịch vụ đã sản xuất ở các nước khác, và làm như vậy theo một cách thức nhằm nâng cao mức sống” {60, tr.3}. Tuy nhiên, Krugman (1994) đã bác bỏ khái niệm năng lực cạnh tranh quốc gia vì thể hiện vô nghĩa khi áp dụng đối với nền kinh tế quốc gia và M. Porter (1990) có quan điểm cho rằng chỉ có khái niệm năng lực cạnh tranh duy nhất có ý nghĩa ở cấp quốc gia là năng suất quốc gia {60, tr.3}. Năng lực cạnh tranh có ý nghĩa nhất và không gây tranh cãi khi được áp dụng đối với doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh và được đánh giá là có thể đứng vững cùng các doanh nghiệp khác, khi sản phẩm thay thế hoặc sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn sản phẩm cùng loại; hoặc cung cấp sản phẩm tương tự với đặc tính về chất lượng và dịch vụ ngang bằng hay cao hơn. Nhìn chung, khi xác định năng lực cạnh tranh của một doanh
- 18 nghiệp hay một ngành cần xem xét đến tiềm năng sản xuất kinh doanh hàng hoá hay dịch vụ ở mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải trợ cấp. Theo quan điểm vĩ mô, năng lực cạnh tranh là vấn đề quốc gia và mục tiêu cơ bản là nâng cao thu nhập thực tế cho cộng đồng. Theo quan điểm này, năng lực cạnh tranh là khái niệm rất rộng bao quát tất cả các khía cạnh kinh tế, văn hoá và xã hội, ảnh hưởng đến thành quả của một quốc gia trên thị trường quốc tế. Phản ánh quan điểm vĩ mô này, năng lực cạnh tranh được định nghĩa là mức độ theo đó một quốc gia có thể, trong điều kiện thị trường tự do và bình đẳng, sản xuất hàng hoá và dịch vụ đáp ứng những thử nghiệm của thị trường quốc tế trong khi duy trì và mở rộng một cách tương ứng thu nhập thực tế của người dân nước đó trong dài hạn {52, tr. 371}. Mặt khác, theo quan điểm vi mô, hành vi cụ thể của doanh nghiệp quyết định năng lực cạnh tranh. Hệ thống phân tích cạnh tranh của M.Porter (Porter, 1980) nhấn mạnh sự hấp dẫn ngành và tính chất của nó, như khả năng nâng cao sức mạnh của hãng đối với người mua và người cung cấp, ngăn cản hãng mới gia nhập ngành và loại bỏ đối thủ cạnh tranh, như là những yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh và khả năng lợi nhuận trong dài hạn{52, tr372}. Dựa trên cả quan điểm vi mô và vĩ mô cho thấy, các doanh nghiệp và các quốc gia đối mặt với những thách thức và ưu tiên rất khác nhau vì họ chuyển từ nền kinh tế dựa trên tài nguyên sang nền kinh tế tri thức. Vì vậy, nhân tố chính đóng góp đối với năng lực cạnh tranh toàn cầu, và nhờ đó nâng cao mức sống, sẽ khác với các nền kinh tế ở mức độ phát triển khác nhau (Porter et al., 2001) {52, tr.372}. Không xét đến những định nghĩa cụ thể trên, khái niệm năng lực cạnh tranh xuất hiện là trung tâm đối với phát triển con người, tăng trưởng và nâng cao chất lượng cuộc sống. Đối với doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh có nghĩa là tạo ra những lựa chọn tăng trưởng mới, mang lại giá trị cho các cổ đông. Đối với xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh là tạo ra việc làm mới và điều kiện sống tốt hơn (Diễn đàn kinh tế thế giới, 2001) {52, tr.372}. Tạo ra sự giàu có là động cơ của tăng trưởng kinh tế và động lực chính của đổi mới. Mục tiêu căn bản của năng lực cạnh tranh là duy trì và tăng thu nhập thực tế của công dân, phản ánh mức sống tăng lên của đất nước.
- 19 Toàn cầu hoá và tự do hoá, diễn ra nhờ những tiến bộ công nghệ nhanh chóng, đang tạo ra sự năng động cạnh tranh mới và làm cho những yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh phức tạp hơn nhiều. Như đã đề cập trên, hiệu quả cao hơn là nguồn gốc của năng lực cạnh tranh. Trong thương mại quốc tế, trước đây, năng lực cạnh tranh được xác định qua tỷ giá, chi phí và giá cả. Ngày nay, có sự phân biệt giữa năng lực cạnh tranh tĩnh và năng lực cạnh tranh động. Trước đây, nhấn mạnh chủ yếu vào cạnh tranh giá, nhờ đó các doanh nghiệp cạnh tranh trên cơ sở nguồn lực nhận được như chi phí lao động thấp và nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ. Trong trường hợp này, duy trì năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào việc duy trì hoặc hạ thấp chi phí sản xuất. Đây là cơ sở theo đó nhiều doanh nghiệp của các nước đang phát triển tiến hành cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh động được kết hợp với sự thay đổi bản chất của cạnh tranh. Cạnh tranh đặt phần thưởng không chỉ lên quan hệ giữa giá cả và chi phí mà còn lên khả năng cấp độ doanh nghiệp để nghiên cứu, điều chỉnh nhanh chóng đối với các điều kiện thị trường mới và đổi mới. Thuật ngữ “đổi mới” ở đây có nghĩa là doanh nghiệp không chỉ đổi mới trong phạm vi công nghệ mà còn thay đổi nhanh và liên tục trong lĩnh vực tổ chức đầu tư, tạo ra năng lực sản xuất, xây dựng và nâng cấp khả năng công nghệ hay học cách đối phó với những thay đổi. Do vậy, ở đây, năng lực cạnh tranh được hiểu là khả năng của các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và dịch vụ tham gia vào cuộc thử nghiệm của cạnh tranh quốc tế trong khi nâng cấp khả năng công nghệ. Xuất phát từ thực tiễn ta thấy, lợi thế cạnh tranh được tạo ra trong các ngành chứ không phải trong nền kinh tế nói chung. Ngược lại, lợi thế so sánh không dẫn tới lợi thế cạnh tranh, nó có thể là cơ sở để xây dựng lợi thế cạnh tranh. Như đã đề cập trên, năng lực cạnh tranh là một quá trình đổi mới, nâng cấp và tăng các hoạt động tạo ra giá trị liên tục. Trên thị trường quốc tế và nội địa, áp lực cạnh tranh đóng vai trò căn bản, nhưng những nhân tố trong nước chứ không phải nhân tố toàn cầu là nhân tố quan trọng, quyết định năng lực cạnh tranh. Nói chung, thành công của nâng cao năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa hai lĩnh vực công-tư trong việc xây dựng tầm nhìn chiến lược và kế hoạch hành động. Điều cần thiết là tạo ra đầu vào có mục tiêu kinh tế chung và rộng rãi, khuyến khích tư nhân cung cấp hàng hoá công cộng vì lợi ích chung. 1.1.4. Các cấp độ năng lực cạnh tranh:
- 20 Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành bốn cấp độ: năng lực cạnh tranh cấp quốc gia, năng lực cạnh tranh cấp ngành, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh sản phẩm hàng hoá. Năng lực cạnh tranh ở bốn cấp độ phân biệt trên có mối tương quan mật thiết và phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và đề ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, của ngành Du lịch nói riêng cần thiết phải đặt nó trong mối tương quan chung giữa các cấp độ cạnh tranh nêu trên. Một mặt, toàn bộ năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp của một nước tạo thành năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia đó. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị hạn chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm doanh nghiệp đó đều thấp. Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc gia thể hiện qua môi trường kinh doanh, cạnh tranh quốc tế và trong nước. Trong đó, các cam kết về hợp tác kinh tế quốc tế, các chính sách kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành và của sản phẩm hàng hoá trong quốc gia đó. Vì vậy, cần đề cập tới năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia và của sản phẩm trước khi đề cập đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Còn năng lực cạnh tranh cấp ngành có mối quan hệ và chịu ảnh hưởng của năng lực cạnh tranh quốc gia và của sản phẩm tương tự như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 1.1.4.1. Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia: Tại Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 1997, trong bản Báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể đã định nghĩa: “năng lực cạnh tranh cấp quốc gia là năng lực của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và đặc trưng kinh tế khác” {20, tr.9}. Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể được hiểu là việc xây dựng môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố hiệu quả nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Môi trường cạnh tranh kinh tế chung có ý nghĩa lớn đối với việc thúc đẩy quá trình đầu tư, tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà doanh nghiệp theo tín hiệu thị trường được thông tin đầy đủ. Mặt khác, môi trường cạnh tranh thuận lợi sẽ tạo cơ sở cho Chính phủ đề ra chủ trương và hoạch định chính sách phát triển, cải thiện đầu tư, tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập ngày càng có hiệu quả, sẽ ảnh hưởng quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 1.1.4.2. Năng lực cạnh tranh cấp ngành: là năng lực duy trì hay gia tăng thị phần trên thị trường cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ của ngành. Năng lực cạnh
- 21 tranh của ngành phụ thuộc vào yếu tố do ngành tự quyết định nhưng nó cũng phụ thuộc vào các yếu tố do Chính phủ quyết định. Ngoài ra, nó còn phụ thuộc vào các yếu tố mà cả Chính phủ và ngành chỉ kiểm soát được ở mức độ hạn chế hoặc hoàn toàn không thể quyết định được. Trong thực tế, quá trình điều chỉnh của ngành diễn ra cùng với những biến đổi của năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung. 1.1.4.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: là năng lực tồn tại, duy trì hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trường cạnh tranh sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp du lịch là khả năng quản trị chiến lược tạo ra lợi thế cạnh tranh, duy trì hay gia tăng lợi nhuận trong việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện các sản phẩm và dịch vụ du lịch của doanh nghiệp nhằm đảm bảo tồn tại và phát triển bền vững trên thị trường cạnh tranh quốc tế mà không phải trợ cấp. 1.1.4.4. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá: Một sản phẩm hàng hoá được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì.... hơn hẳn so với những sản phẩm hàng hoá cùng loại. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá lại được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sẽ không có năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá cao khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó thấp. Cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đây là hai phạm trù khác nhau nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có được do năng lực cạnh tranh của chủ thể (doanh nghiệp) tạo ra; nhưng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hoá mà có, mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá có ảnh hưởng lớn và thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 1.2. NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG NGÀNH DU LỊCH 1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh trong ngành Du lịch: Để thành công trên thị trường quốc tế, bất kỳ điểm đến du lịch nào cũng phải đảm bảo rằng tài nguyên du lịch hấp dẫn và toàn bộ sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho khách du lịch phải ngang bằng hoặc vượt hơn nhiều điểm đến thay thế khác.
- 22 Trong ngành Du lịch, đánh giá năng lực cạnh tranh ngày càng thu hút sự quan tâm đáng kể vì nó được coi như nhân tố quyết định thành công của các điểm đến du lịch. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh là một khái niệm phức tạp bởi vì hàng loạt yếu tố tính toán ra nó, cả quan sát được lẫn không quan sát được, có thể khó khăn để đánh giá. Nó là một khái niệm tương đối và đánh giá nó sẽ khác nhau, phụ thuộc vào sự lựa chọn năm cơ sở và/hoặc nước cơ sở. Điều quan trọng nhất cần lưu ý là năng lực cạnh tranh là khái niệm đa chiều (có nghĩa là chất lượng của năng lực cạnh tranh). Hơn nữa, sự phức tạp hơn của năng lực cạnh tranh tăng lên vì đối tượng phân tích và khả năng của nhà phân tích “các nhà chính trị quan tâm tới năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (quốc gia, khu vực và địa phương), các ngành hoặc hiệp hội thương mại giới hạn lợi ích đối với ngành của họ, các chủ kinh doanh và các nhà quản lý lo lắng về khả năng của chính các hãng của họ để cạnh tranh trên thị trường cụ thể” {50, tr.3}. Năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch của một nước hoặc vùng lãnh thổ trong luận văn này được gọi chung là năng lực cạnh tranh điểm đến (coi một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ là một điểm đến du lịch). Năng lực cạnh tranh điểm đến là khả năng của một điểm đến phân phối hàng hoá và dịch vụ du lịch tốt hơn các điểm đến khác. Theo Dwyer, Forsyth and Rao (2000a) “Năng lực cạnh tranh du lịch là khái niệm chung bao hàm những khác biệt về giá kết hợp với sự vận động của tỷ giá, mức độ năng suất của các thành phần khác nhau của ngành Du lịch và nhân tố chất lượng ảnh hưởng tới sự hấp dẫn hoặc các yếu tố khác của điểm đến’’{52, tr.3}. Năng lực cạnh tranh du lịch cũng được định nghĩa là “khả năng của một điểm đến để duy trì vị trí thị trường và thị phần của nó và/hoặc để cải thiện chúng qua thời gian” (d’Harserre 2000 :23). Hassan (2000) định nghĩa năng lực cạnh tranh du lịch là “khả năng của điểm đến tạo ra sự kết hợp các sản phẩm giá trị gia tăng để duy trì nguồn lực trong khi giữ vững vị thế trên thị trường trước đối thủ cạnh tranh” {52, tr.3}. Công trình nghiên cứu cụ thể nhất về năng lực cạnh tranh du lịch tổng thể là của Crouch & Ritchie. Theo Crouch & Ritchie, “Để cạnh tranh, sự phát triển du lịch của điểm đến phải là bền vững, không chỉ bền vững về kinh tế và sinh thái mà còn bền vững về xã hội, văn hoá và chính trị’’{52, tr.3}. Vì vậy, điểm đến cạnh tranh nhất là điểm đến mang lại thịnh vượng bền vững và hiệu quả nhất cho người dân địa phương. Dưới đây là mô hình về năng lực cạnh tranh điểm đến được các nhà nghiên cứu đưa ra. Mô hình này kết hợp các yếu tố chính của năng lực cạnh tranh quốc gia và doanh nghiệp và những yếu tố chính của năng lực cạnh tranh điểm đến do các
- 23 nhà nghiên cứu du lịch, đặc biệt là do Crouch and Ritchie đề xuất. Mô hình 1.1 mô tả các yếu tố chính của năng lực cạnh tranh điểm đến. Điều kiện thực tế Nguồn lực Nguồn lực thừa hưởng sáng tạo Quản lý Điều kiện Nhân tố và nguồn lực hỗ trợ điểm đến cầu Năng lực cạnh Triển vọng tranh điểm đến kinh tế xã hội Chỉ số năng Chỉ số cạnh lực cạnh tranh tranh quốc điểm đến gia/khu vực MÔ HÌNH 1.1. MÔ HÌNH KẾT HỢP NĂNG LỰC CẠNH TRANH ĐIỂM ĐẾN {53, tr 378} Theo Crouch and Ritchie (1999), kể từ khi lữ hành và du lịch có thể thương mại hoàn toàn, lý thuyết về lợi thế so sánh dựa trên khả năng của các nhân tố sản xuất cũng có thể được áp dụng đối với năng lực cạnh tranh điểm đến. Khả năng nhân tố bao gồm cả các nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân tạo và mô hình năng lực cạnh tranh của Crouch and Ritchie nhận ra các loại khả năng nhân tố sau đây: nguồn nhân lực, nguồn lực vật chất, nguồn lực tri thức, nguồn lực vốn, kết cấu hạ tầng, nguồn tài nguyên lịch sử và văn hoá. M.Porter bình luận rằng lợi thế cạnh tranh có ý nghĩa hơn lợi thế so sánh theo nghĩa lợi thế cạnh tranh nhằm xem xét khả năng của đất nước sử dụng hiệu quả các nguồn lực này trong dài hạn. 1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch:
- 24 Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch, trong phạm vi luận văn này, tôi xin đề cập một số yếu tố chính ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch, cụ thể là: 1.2.2.1. Tiếp cận tới thị trường du lịch: Khoảng cách của điểm đến tới thị trường du lịch là yếu tố quyết định của năng lực cạnh tranh điểm đến. Năng lực cạnh tranh của các điểm đến du lịch gần và xa được xem xét trên cơ sở so sánh mức giá, mức hạng lưu trú và mức khoảng cách từ thị trường nguồn tới điểm đến. Thực tiễn chỉ ra rằng, mức giá là chỉ số năng lực cạnh tranh mạnh nhất giữa điểm đến gần và điểm đến xa vì chi phí ở điểm đến xa cao hơn điểm đến gần. 1.2.2.2. Giá cả và chi phí: Co giãn giá của cầu du lịch thường cao. Vì vậy, bất kỳ sự thay đổi phần trăm nào trong giá, trực tiếp khuyến khích hoặc không khuyến khích đi du lịch tới một nơi nhất định. Lãnh đạo chi phí là một trong hai mục tiêu chủ yếu để đạt được năng lực cạnh tranh (Porter , 1985){53, tr.7}. Giá cả tương đối của một điểm đến so với điểm đến khác có ảnh hưởng tới động cơ đi du lịch. Tuy nhiên, giá cả trở thành nhân tố ít ý nghĩa hơn trong quyết định đi du lịch vì co giãn cầu du lịch giảm. Thay vào đó, chất lượng là yếu tố quyết định sự lựa chọn của hầu hết khách du lịch. Vì thế, chất lượng sản phẩm là mục tiêu chính để tăng cường năng lực cạnh tranh. 1.2.2.3. Sử dụng công nghệ thông tin: Năng lực cạnh tranh tương lai của các điểm đến du lịch sẽ phụ thuộc lớn vào việc công nghệ viễn thông mới được ứng dụng như thế nào và mức độ điểm đến tiếp cận tới cơ hội marketing và xúc tiến qua các công nghệ đó. Mặc dù lợi ích của internet là rất lớn, các tổ chức du lịch nhỏ có thể không sử dụng internet. Vì vậy, các tổ chức lớn có thể duy trì sự lãnh đạo của họ bởi lợi thế của các hoạt động marketing trên internet. 1.2.2.4. An toàn, an ninh và rủi ro: Hình ảnh là nhân tố then chốt khi lựa chọn điểm đến cho kỳ nghỉ của khách du lịch. Làm cho khách du lịch cảm thấy an toàn và an ninh trước và trong kỳ nghỉ là cần thiết đối với năng lực cạnh tranh quốc tế của điểm đến. Hình ảnh tiêu cực do thiếu an ninh có thể gây nguy hiểm cho ngành Du lịch bởi vì thông tin truyền miệng tiêu cực về hình ảnh đó không thể tránh được ngay cả khi điểm đến có sức hấp dẫn du lịch chất lượng cao. Những người cảm nhận rủi ro
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 350 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 36 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 20 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 19 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 9 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 11 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 7 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 11 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn