intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Nguồn nhân lực trong Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Giang

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:96

17
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực trong Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Giang, trên cơ sở đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp phát triển và bảo đảm nguồn nhân lực trong Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Giang hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Nguồn nhân lực trong Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Giang

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  ĐỖ THỊ AN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở HÀ GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2013
  2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  ĐỖ THỊ AN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở HÀ GIANG Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị Mã số: 60 31 01 02 Người hướng dẫn khoa học: TS ĐỖ HUY HÀ HÀ NỘI - 2013
  3. KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt Chủ nghĩa xã hội CNXH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH Giáo dục và đào tạo GD&ĐT Khoa học công nghệ KHCN Kinh tế - xã hội KT-XH Nguồn nhân lực NNL Nhà Xuất bản Nxb Ủy ban nhân dân UBND Xã hội chủ nghĩa XHCN Ngân hàng thương mại NHTM
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN 9 NHÂN LỰC TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở HÀ GIANG 1.1. Những vấn đề chung về nguồn nhân lực trong công 9 nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Giang 1.2. Thực trạng nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện 23 đại hóa ở Hà Giang Chương 2 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN 46 NHÂN LỰC TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở HÀ GIANG THỜI GIAN TỚI 2.1. Một số quan điểm phát triển nguồn nhân lực trong công 46 nghiệp hóa ở Hà Giang thời gian tới 2.2. Giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực trong công 58 nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Giang thời gian tới KẾT LUẬN 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79 PHỤ LỤC 83
  5. 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử nhân loại đã minh chứng cho vai trò quyết định của nhân tố con người đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên đă ̣c biê ̣t”, một nguồn lực quan trọng. Thật vậy phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề trọng tâm trong hệ thống các nguồn lực. Bài học kinh nghiệm phát triển của các nước trên thế giới và cả ở Việt Nam trong những năm qua, đã giúp chúng ta khẳng định vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Viê ̣t Nam là quốc gia đang trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, nhằm mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiê ̣p theo hướng hiê ̣n đại. Sự nghiệp CNH, HĐH đòi hỏi NNL với chất lượng ngày càng cao. Vận mệnh của đất nước, khả năng phát triển và đi lên của Việt Nam phụ thuộc chính vào nội lực của con người Việt Nam. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng ta đã xác định lấy viê ̣c phát huy NNL, nhân tố con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Mô ̣t NNL đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, đồng bô ̣ về cơ cấu ngành nghề và được sử dụng có hiê ̣u quả là cơ sở chủ yếu đảm bảo cho CNH, HĐH thành công. Phát triển NNL là quá trình biến đổi nhân lực cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu nhằm phát huy, khơi dậy những tiềm năng con người, phát triển toàn bộ nhân cách và từng bộ phận trong cấu trúc nhân cách, phát triển cả năng lực vật chất và năng lực tinh thần, tạo dựng và ngày càng nâng cao, hoàn thiện cả về đạo đức và tay nghề, cả về tâm hồn và hành vi từ trình độ chất lượng này lên trình độ chất lượng khác cao hơn, toàn diện hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp phát triển đất nước. Phát triển NNL là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của chiến lược phát triển KT-XH đối với mọi quốc gia và được các nước đang phát triển quan tâm đặc biệt quan tâm nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển. Nâng cao chất lượng dân số và phát triển nhân lực là một trong những trọng điểm của chiến lược phát triển, là chính sách xã hội cơ bản, hướng ưu
  6. 4 tiên hàng đầu trong toàn bộ chính sách KT-XH của Đảng, Nhà nước ta nói chung và của tỉnh Hà Giang nói riêng khi chuyển sang thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập vào xu thế toàn cầu hóa. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, coi việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc CNH, HĐH. Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới cực bắc Tổ quốc, có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh, về môi trường sinh thái đối với các tỉnh hạ lưu sông Lô, sông Gâm, các tỉnh Đồng Bằng sông Hồng và Thủ đô Hà Nội, về hợp tác, giao lưu kinh tế - văn hoá giữa Việt Nam với Trung Quốc, có nguồn tài nguyên phong phú… song cho đến nay vẫn còn là một tỉnh nghèo, địa hình hiểm trở, KT-XH khó khăn, kém phát triển. Để khai thác có hiệu quả các lợi thế và nguồn lực sẵn có cũng như tận dụng được các cơ hội và điều kiện thuận lợi trong hoàn cảnh mới, vượt qua khó khăn và thách thức, phát triển NNL được coi là nhiệm vụ trọng tâm để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh trong giai đoạn 2011-2020. Với ý nghĩa đó, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài “Nguồn nhân lực trong CNH, HĐH ở Hà Giang” làm luâ ̣n văn thạc sĩ – chuyên ngành Kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Từ trước đến nay, có nhiều đề tài nghiên cứu về con người nói chung và nguồn nhân lực nói riêng trong sự nghiê ̣p CNH, HĐH đất nước. Chẳng hạn, công trình “Phát triển con người, tạo nguồn nhân lực cho sự nghiê ̣p CNH, HĐH ở nước ta” (Tạp chí cô ̣ng sản, số 19 -1998), tác giả Nguyễn Duy Quý nhấn mạnh sự cần thiết phát triển con người và cho rằng: Phát triển con người về thực chất là phát triển và hoàn thiện nhân cách con người theo yêu cầu của thời kỳ CNH, HĐH. Bên cạnh đó, khi phân tích vị trí nguồn nhân lực trong quan hê ̣ với các nguồn nhân lực khác, tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, “Nguồn nhân lực trong CNH, HĐH”, (tạp chí Triết học, số 3/1994) đã khẳng định nguồn lực quan trọng nhất là con người. Từ đó, tác giả để câ ̣p đến mô ̣t số yếu tố
  7. 5 cần thiết để kích thích tính tích cực của con người. “Vai trò đô ̣ng lực của dân chủ đối với sự hoạt đô ̣ng và sáng tạo của con người”, (tạp chí Triết học, số 5- 1996). Tác giả Phạm Văn Đức “Mô ̣t số giải pháp nhằm khai thác có hiê ̣u quả nguồn nhân lực con người”, (tạp chí Triết học, số 6/1996). cho rằng, để khai thác có hiê ̣u quả nguồn lực con người phải thực hiê ̣n nhiều giải pháp khác nhau. Tác giả Lưu Đình Mạc “Phát triển giáo dục đại học là điều kiê ̣n đảm bảo CNH, HĐH”, (tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiê ̣p, số 4/1995), khi bàn về yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho CNH, HĐH, đã khẳng định vai trò to lớn của giáo dục trong viê ̣c xây dựng NNL. Bàn về Phát triển NNL cho sự nghiê ̣p CNH, HĐH của Tác giả Lê Văn Thanh cũng đã làm rõ vai trò, tầm quan trọng hàng đầu của NNL. Mô ̣t số ấn phẩm dưới dạng sách tham khảo như: Vấn đề con người trong sự nghiê ̣p CNH, HĐH của Phạm Minh Hạc (Chủ biên – 1996). Đây là mô ̣t công trình lớn về con người và phát triển con người ở nước ta. Công trình Về đô ̣ng lực phát triển kinh tế - xã hô ̣i – 1997 của GS.TS Lê Hữu Tầng đã đưa ra và lý giải các đô ̣ng lực của sự phát triển KT-XH, trong đó đă ̣c biê ̣t nhấn mạnh tới NNL với tư cách là đô ̣ng lực của sự phát triển. Cùng với nó, công trình Phát triển NNL phục vụ CNH, HĐH ở Thành phố Đà Nẵng , năm 2012 của TS. Dương Anh Hoàng cho rằng: Nguồn nhân lực là tổng hợp những phẩm chất, năng lực, sức mạnh hiê ̣n có thực tế và tiềm năng của lực lượng người, mà trước hết là lực lượng lao đô ̣ng đang và sẵn sàng tham gia vào quá trình phát triển KT-XH của đất nước. TS. Vũ Bá Thể với cuốn Phát huy nguồn lực con người để CNH, HĐH, Nxb Lao động - xã hội, H, 2005. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm phát triển NNL của một số nước trên thế giới và thực trạng NNL ở nước ta qua đó tác giả đã đưa ra những quan điểm về NNL và phát triển NNL, qua đó khẳng định vai trò của NNL đối với sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. TS Nguyễn Thanh với công trình Phát triển NNL phục vụ CNH, HĐH đất nước (Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2002), đã đề cập có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển NNL ở nước ta, đồng thời chỉ rõ thực trạng NNL.
  8. 6 Qua đó đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng NNL nhằm đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH. Trong đó tác giả tập trung tìm hiểu, phân tích vai trò của giáo dục đối với việc phát triển NNL. Con người và nguồn lực con người trong phát triển (Nhiều tác giả) do Trung tâm khoa học xã hội nhân văn quốc gia phát hành 1995. Cuốn sách đã tập hợp các bài viết, công trình nghiên cứu của nhiều tác giả trên thế giới bàn về vấn đề con người theo các góc độ khác nhau; về động cơ hoạt động của con người; mô hình mới về sử dựng nguồn lực con người; trí tuệ hoá lao động và đạo tạo chuyên môn; tiếp cận mới đối với chính sách việc làm, con người và môi trường. TS.Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm với cuốn Phát triển NNL - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta , ấn hành1998. Cuốn sách đã khái quát những kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực của các nước trên thế giới, trong đó tập trung vào lĩnh vực GD&ĐT - yếu tố quyết định phát triển nguồn nhân lực. Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển NNL, Viện phát triển giáo dục, H. 2002. Cuốn sách này đã tập hợp kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học và các nhà quản lý ở nhiều lĩnh vực khoa học kinh tế và xã hội khác nhau với mục tiêu thống nhất quan điểm, chính sách về phát triển NNL. Đồng thời, các tác giả đề xuất một khung chính sách phát triển NNL nhằm triển khai thành công các mục tiêu đề ra trong chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo. Ngoài những ấn phẩm trên, thì còn có rất nhiều những công trình nghiên cứu về NNL dưới dạng luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ, như: Luận án tiến sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị của tác giả Lê Thị Ngân: Nâng cao chất lượng NNL tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam (Học viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, 2005) tập trung vào nghiên cứu thực trạng NNL chất lượng cao trên cơ sở tiếp cận kinh tế tri thức; tác giả đã chỉ ra nền kinh tế tri thức chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở một NNL chất lượng cao. Qua đó luận án cũng đưa ra những quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao NNL. Tác giả Lê Văn Thanh với luận án Phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH ở Tây Nguyên, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2007. Luận án đã tập trung nghiên cứu vai trò của NNL trong sự nghiệp CNH, HĐH
  9. 7 ở Tây Nguyên. Đồng thời phân tích thực trạng NNL ở Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay. Qua đó đề ra những giải pháp cho sự phát triển NNL đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH ở Tây Nguyên. Lê Văn Kỳ với luận văn thạc sĩ Phát triển NNL và giải quyết việc làm ở Thanh Hóa, chuyên ngành kinh tế chính trị, học việc Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, 2004. Luận văn đã phân tích rõ thực trạng phát triển NNL ở Thanh Hóa và mối quan hệ giữa NNL với giải quyết việc làm. Từ đó luận văn đưa ra những phương hướng và giải pháp gắn phát triển NNL với giải quyết việc làm của tỉnh Thanh Hóa… Mặc dù có rất nhiều các công trình nghiên cứu, cũng như các tác phẩm của nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu về nguồn nhân lực ở dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào đi sâu vào vấn đề: Nguồn nhân lực trong CNH, HĐH ở một tỉnh vùng núi khó khăn như Hà Giang. Trong phạm vi của luâ ̣n văn này, tác giả sẽ hê ̣ thống lại, và tìm ra những mă ̣t mạnh, yếu của nguồn nhân lực của địa phương, để từ đó tìm ra những giải pháp phát triển, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực mô ̣t cách hợp lý, đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH ở Hà Giang. 3. Mục đích và nhiê ̣m vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về NNL trong CNH, HĐH ở Hà Giang, trên cơ sở đó đề xuất mô ̣t số quan điểm và giải pháp phát triển và bảo đảm NNL trong CNH, HĐH ở Hà Giang hiện nay. Nhiê ̣m vụ nghiên cứu: - Làm rõ những vấn đề lý luận chung về NNL và NNL trong CNH, HĐH ở một địa phương miền núi là tỉnh Hà Giang. - Phân tích, đánh giá thực trạng NNL trong CNH, HĐH ở Hà Giang thời gian qua. - Đề xuất mô ̣t số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát triển NNL trong CNH, HĐH ở Hà Giang trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là NNL trong CNH, HĐH ở Hà Giang hiện nay.
  10. 8 Phạm vi nghiên cứu của đề tài về không gian là những vấn đề về phát triển và và bảo đảm NNL cho CNH, HĐH ở tỉnh Hà Giang; thời gian tiến hành khảo sát từ năm 2000 đến nay. 5. Cơ sở lý luâ ̣n và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luâ ̣n của đề tài luâ ̣n văn là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách phát triển KT-XH, GD&ĐT của Đảng Cô ̣ng sản Việt Nam và Nhà nước về phát triển NNL trong CNH, HĐH. Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luâ ̣n biê ̣n chứng duy vâ ̣t, duy vật lịch sử và kế thừa các kết quả nghiên cứu có liên quan, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp khái quát hóa và trừu tượng hóa, phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, so sánh… các phương pháp nghiên cứu thống kê tư liệu, báo cáo tổng kết, phương pháp chuyên gia… được sử dụng rộng rãi trong khoa học kinh tế chính trị. 6. Ý nghĩa của luâ ̣n văn Kết quả nghiên cứu của luâ ̣n văn là tài liê ̣u tham khảo cho công tác nghiên cứu giảng dạy trong các trường học đại học, cao đẳng; đồng thời thời cung cấp cứ liê ̣u khoa học có ý nghĩa tham khảo và khuyến nghị đối với Đảng bộ, Chính quyền, các cơ quan quản lý của tỉnh Hà Giang trong hoạch định chủ trương, chính sách, biện pháp phát triển NNL phục vụ CNH, HĐH của tỉnh Hà Giang những năm tới. 7. Kết cấu của luận văn Luâ ̣n văn gồm phần mở đầu, 2 chương và 4 tiết, kết luâ ̣n, danh mục tài liê ̣u tham khảo và phụ lục.
  11. 9 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở HÀ GIANG 1.1. Những vấn đề chung về nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Giang 1.1.1. Khái niêm ̣ nguồn nhân lực trong CNH, HĐH ở Hà Giang * Quan niệm NNL Hiê ̣n nay có nhiều quan niê ̣m về nguồn nhân lực dưới các góc độ tiếp cận khác nhau theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, có thể dẫn ra một số quan niệm: Liên hợp quốc quan niệm NNL là tất cả những kiến thức, các kỹ năng, năng lực và tính sáng tạo có quan hệ với sự phát triển của đất nước. Có thể nói đây là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố đầu vào sản xuất của một quốc gia. GS Phạm Minh Hạc trong chương trình KHCN mang mã số KX-07, cho rằng: NNL con người được hiểu là số dân và chất lượng con người bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuê ̣, năng lực và phẩm chất. Theo lý thuyết phát triển NNL thì, theo nghĩa rô ̣ng NNL là tổng thể các tiềm năng (lao đô ̣ng) của con người của mô ̣t quốc gia, mô ̣t vùng lãnh thổ, mô ̣t địa phương đã được chuẩn bị ở mức đô ̣ nào đó khả năng huy đô ̣ng vào quá trình phát triển KT-XH của đất nước hoă ̣c mô ̣t vùng, mô ̣t địa phương. Theo nghĩa hẹp, NNL là mô ̣t bô ̣ phâ ̣n dân số, bao gồm những người trong đô ̣ tuổi quy định có khả năng lao đô ̣ng. NNL nói chung không phải sản sinh ra để đáp ứng yêu cầu kinh tế, mà chủ yếu do các nhân tố xã hô ̣i và sinh học quy định. Tuy nhiên sự phát triển của NNL có tác đô ̣ng mạnh mẽ đến sự phát triển KT- XH và ngược lại. Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng: NNL là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp,… mà mỗi cá nhân sở hữu. Như vậy, nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên… Do đó đầu tư cho con người là đầu tư quan trọng nhất trong các loại đầu tư và được coi là cơ sở vững chắc cho sự phát triển bền vững.
  12. 10 Như vâ ̣y, NNL có nô ̣i hàm rô ̣ng lớn và phong phú, không chỉ đơn thuần là nguồn lao đô ̣ng, mà còn bao gồm nhiều yếu tố vâ ̣t chất và tinh thần của con người và cả cô ̣ng đồng người. Điều đó đòi hỏi quá trình khai thác sử dụng, phát triển NNL cần phải chú ý toàn bô ̣ những yếu tố vâ ̣t chất và tinh thần ở từng người, cũng như cả cô ̣ng đồng xã hô ̣i. Khi bàn đến NNL, chúng ta không thể không nghiên cứu số lượng, chất lượng và cơ cấu của nó: Số lượng NNL được xác định trên quy mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính và sự phân bố dân cư theo khu vực và lãnh thổ. Chất lượng NNL là mô ̣t khái niê ̣m tổng hợp bao gồm những nét đă ̣c trưng về trạng thái thể lực, trí lực, kỹ năng, phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần của NNL. Cơ cấu NNL thể hiện quan hệ giữa các thành tố cấu thành hệ thống của NNL như: cơ cấu về trình độ đào tạo, cơ cấu về ngành nghề, lĩnh vực lao động, về độ tuổi, giới tính, dân tộc… Trong tất cả các nguồn lực thì nguồn lực con người được xem xét với tư cách là nguồn lực quan trọng nhất trong đối với sự phát triển KT-XH nói chung và sự nghiê ̣p CNH, HĐH nói riêng. Từ những vấn đề trình bày trên, có thể khái quát: NNL là tổng thể các chỉ số phát triển về thể lực và trí lực mà con người có được nhờ sự tương tác, trợ giúp của cô ̣ng đồng xã hô ̣i và sự nỗ lực của bản thân; là tập hợp số lượng dân và chất lượng con người; là tổng thể sức mạnh thể lực, trí lực, kinh nghiê ̣m sống, nhân cách, đạo đức, lý tưởng, chất lượng, văn hóa, năng lực chuyên môn và tính năng đô ̣ng trong công viê ̣c mà bản thân con người và xã hô ̣i có thể huy đô ̣ng vào cuô ̣c sống lao đô ̣ng sáng tạo vì sự phát triển và tiến bô ̣ xã hô ̣i. * Quan niệm về NNL trong CNH, HĐH ở Hà Giang: Để có quan niệm riêng về NNL trong CNH, HĐH ở Hà Giang, cần phải dựa vào những đặc điểm chủ yếu của NNL gắn với yêu cầu CNH, HĐH của tỉnh. Trên cấp độ quốc gia, hiện nay chúng ta đang đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức để phấn đấu đến năm 2020 biến nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, quá trình này không diễn ra đồng nhất về quy mô, trình độ, tốc độ… trên cấp độ địa phương do những đặc điểm riêng chi phối. Do vậy, có những địa phương về đích trước
  13. 11 hoặc sau so với tiến trình CNH, HĐH chung của cả nước và nội dung CNH, HĐH ở mỗi địa phương có sự khác nhau nhất định. Công nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa của tỉnh Hà Giang hiê ̣n nay. Đối với Hà Giang, CNH, HĐH chẳng những là mô ̣t đòi hỏi, mô ̣t nhu cầu khách quan, mà còn là mô ̣t vấn đề cấp bách. Bởi lẽ so với nhiều địa phương khác của cả nước, Hà Giang còn có mô ̣t khoảng cách khá xa về trình đô ̣ phát triển KT-XH, văn hóa, giáo dục, y tế, KHCN… Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới cực Bắc Tổ quốc, có địa hình vô cùng hiểm trở, xa các trung tâm lớn về KT-XH của đất nước, dân số thưa thớt và trình độ dân trí thấp, cách thức sản xuất và cơ cấu kinh tế nhìn chung còn lạc hậu… Điều này cho thấy, một mặt có thể khẳng định, chỉ có bằng con đường đẩy mạnh CNH, HĐH Hà Giang mới có thể phấn đấu thoát khỏi tỉnh đặc biệt khó khăn, nghèo và kém phát triển; mặt khác, trong tiến trình CNH, HĐH chung của đất nước, Hà Giang không thể là địa phương đi đầu như TP Hồ Chí Minh hay Hà Nội, mà là địa phương đi sau nên sẽ có những khó khăn, thuận lợi, cũng như cơ hội và thách thức riêng. Do đó, quá trình CNH, HĐH ở Hà Giang mặc dù có những đặc điểm riêng, nhưng không thể tách rời tiến trình CNH, HĐH chung của cả nước. Hà Giang cần xác định rõ những tiềm năng, lợi thế cũng như những bất lợi của mình để có kế hoạch khai thác, sử dụng nó một cách tối ưu cho phát triển KT-XH, đồng thời đẩy mạnh hoạt động liên kết, hội nhập với các địa phương xung quanh, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài địa phương, tạo sự chuyển đổi mạnh để phá vỡ cơ cấu kinh tế nông nghiệp lạc hậu, khép kín; đổi mới cơ bản phương pháp và công nghệ sản xuất; chuẩn bị tốt những điều kiện, tiền đề (đặc biệt là về kết cấu hạ tầng kinh tế, chất lượng NNL và môi trường KT-XH), tận dụng triệt để cơ hội, lợi thế của địa phương đi sau, chủ động tiếp nhận những thành quả của CNH, HĐH chung của đất nước mang lại. Trong bản Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của tỉnh Hà Giang đến năm 2020, mục tiêu tổng quát của tỉnh đến năm 2020 là: “Phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH trên cơ sở hiê ̣u quả, phát triển bền vững nhằm nhanh chóng ra khỏi tình trạng kém phát triển, đạt và vượt chỉ tiêu
  14. 12 đã được xác định trong Nghị quyết 37 của Bô ̣ Chính trị về phát triển KT-XH vùng Trung Du miền núi phía Bắc và thu hẹp khoảng cách chênh lê ̣ch về trình đô ̣ phát triển giữa Hà Giang với cả nước và của cả vùng. Xây dựng Hà Giang trở thành mô ̣t trong các tỉnh biên giới có kinh tế phát triển; tiến bô ̣ xã hô ̣i, công bằng, dân chủ, văn minh, quốc phòng an ninh được đảm bảo. Chủ đô ̣ng hô ̣i nhâ ̣p kinh tế quốc tế, đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa đi đôi với nâng cao chất lượng, hiê ̣u quả sức cạnh tranh của nền kinh tế. Xây dựng vững chắc nền kinh tế, quốc phòng toàn dân và thế trâ ̣n an ninh nhân dân, kết hợp chă ̣t chẽ giữa phát triển KT-XH với thực hiê ̣n tốt các nhiê ̣m vụ quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trâ ̣t tự an toàn xã hô ̣i, tạo môi trường thuâ ̣n lợi phục vụ phát triển KT-XH” [50, tr. 1]. Từ mục tiêu, quan điểm, nội dung, yêu cầu của CNH, HĐH đất nước nói chung, đối chiếu và vận dụng vào một địa phương miền núi có trình độ phát triển và điều kiện KT-XH còn ở mức thấp kém hơn rất nhiều, có thể thấy: CNH, HĐH ở Hà Giang là quá trình đổi mới căn bản, toàn diện các hoạt động KT-XH vốn còn nhiều khó khăn, lạc hậu, hiệu quả thấp… tạo ra sự chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế lấy phát triển công nghiệp, dịch vụ là chủ đạo; tăng cường huy động, thu hút mọi nguồn lực, nâng cao khả năng hội nhập, liên kết kinh tế liên vùng và quốc tế; tạo bước đột phá về phương pháp, công nghệ và hiệu quả lao động sản xuất trong các lĩnh vực đi đôi với nâng cao chất lượng NNL; chuẩn bị những điều kiện tiền đề cần thiết để có thể tiếp nhận thành quả và hòa nhập nhanh chóng vào làn sóng CNH, HĐH của cả nước. Như vậy, có thể thấy để đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH của Hà Giang theo kịp nhịp độ chung của cả nước, vai trò của NNL với số lượng đông đảo, chất lượng tốt và cơ cấu hợp lý có ý nghĩa rất quan trọng. Do đó, phát triển NNL cần được đặc biệt quan tâm trong quá trình CNH, HĐH ở Hà Giang. Nói cách khác, cần phải xác định những yêu cầu, tiêu chí cụ thể về số lượng, chất lượng và cơ cấu NNL trong CNH, HĐH ở Hà Giang hiện nay. Do đặc thù của tỉnh vùng cao, có nhiều dân tô ̣c, tốc đô ̣ tăng trưởng dân số cao, phân bố dân cư không đồng đều, lực lượng lao động có chiều hướng
  15. 13 tăng ở thành thị và giảm ở nông thôn, thất nghiê ̣p nhiều và nhất là lao đô ̣ng nông nhàn, bán thời vụ. Vấn đề NNL nói chung và NNL trong CNH, HĐH của tỉnh nói riêng xoay quanh ba yếu tố chính: số lượng, chất lượng và cơ cấu của nó. Đối với nước ta hiê ̣n nay cũng như ở Hà Giang, việc phát triển NNL là nâng cao chất lượng và sử dụng hiê ̣u quả số lượng NNL có xu hướng ngày càng tăng với cơ cấu hợp lý theo ngành, vùng lãnh thổ và lĩnh vực của đời sống xã hội. Yêu cầu về số lượng nguồn nhân lực: Số lượng lao động bao giờ cũng là tiêu chí đầu tiên của bất cứ quá trình lao động sản xuất nào. Lực lượng lao động đông đảo là tiền đề, cơ hội để phát triển KT-XH của mỗi tổ chức, một địa phương cũng như một quốc gia. Tuy nhiên, số lượng NNL luôn gắn liền với yếu tố chất lượng và cơ cấu của nó. Nếu số lượng nhân lực đông đảo nhưng chất lượng thấp và cơ cấu bất hợp lý thì lại trở thành lực cản sự phát triển kinh tế. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình CNH, HĐH khi yếu tố năng suất lao động và hiệu quả kinh tế được đặt lên hàng đầu trong các hoạt động KT-XH. Do vậy, quá trình CNH, HĐH đòi hỏi phát triển hợp lý số lượng NNL, tăng nhanh số lượng NNL được đào tạo, kiểm soát tốc đô ̣ gia tăng dân số, điều tiết dân số như: kế hoạch hóa gia đình, phân bổ dân cư và lao động giữa các vùng. Đồng thời cần tạo môi trường KT-XH và có cơ chế, chính sách, giải pháp thu hút mạnh NNL có chất lượng phù hợp từ nơi khác đến địa phương. Yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực: Đây là yêu cầu quan trọng nhất về NNL trong CNH, HĐH. Bảo đảm chất lượng NNL trên cơ sở thực hiê ̣n tổng thể các biê ̣n pháp về GD&ĐT, chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng và bảo đảm mức sống với mục tiêu là bảo đảm có đô ̣i ngũ lao động qua đào tạo ngày càng nhiều, trình độ chuyên môn ngày càng cao, đă ̣c biê ̣t là đô ̣i ngũ trí thức, công nhân lành nghề và hợp lý về cơ cấu ngành nghề, trình đô ̣, lứa tuổi. Quá trình CNH, HĐH đòi hỏi không ngừng nâng cao trình đô ̣ kỹ năng tay nghề, chuyên môn kỹ thuâ ̣t, ý thức lao đô ̣ng, đạo đức và ý thức pháp luâ ̣t cho người lao đô ̣ng trên các khía cạnh cơ
  16. 14 bản như: nâng cao trình đô ̣ học vấn, kĩ năng chuyên môn, khả năng sáng tạo, ý thức và trách nhiê ̣m chấp hành pháp luâ ̣t, kỷ luâ ̣t lao đô ̣ng… đào tạo, đào tạo lại nghề, chuyên môn và nâng cao trình đô ̣ tay nghề cho các đối tượng lao đô ̣ng; đào tạo đô ̣i ngũ lao đô ̣ng trình đô ̣ cao phục vụ CNH, HĐH. Phát triển đồng bô ̣ hê ̣ thống trường học, trường dạy nghề trong tỉnh. Tạo điều kiê ̣n cho mọi người được tiếp câ ̣n nhanh với những thành tựu mới về KHCN, về kinh tế thị trường và kỹ năng quản lý. Thực hiện đồng bô ̣ các biê ̣n pháp nhằm nâng cao sức khỏe và thể lực của người dân địa phương. Yêu cầu về cơ cấu nguồn nhân lực bao gồm: Cơ cấu trình đô ̣ NNL gồm tỷ lê ̣ lao đô ̣ng đã được đào tạo trong lực lượng lao đô ̣ng (tỷ lê ̣ sau đại học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiê ̣p, công nhân kỹ thuâ ̣t). Quá trình CNH, HĐH đòi hỏi tăng số lượng người được đào tạo ở các trình đô ̣, giảm dần lao động giản đơn để đáp ứng yêu cầu của sử dụng nhân lực trong các ngành nghề theo tỷ lê ̣ hợp lý. Cơ cấu ngành nghề bao gồm tỉ lệ lao động được sử dụng cho các ngành nông – lâm – ngư nghiệp, công nghiệp – xây dựng, dịch vụ... Ngoài ra có thể phân chia cơ cấu ngành nghề thành các nhóm ngành nghề công nhân kỹ thuật trong các nhóm ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ sản xuất và đời sống xã hội; các ngành nghề chuyên môn nghiệp vụ như hộ sinh, y sỹ, điều dưỡng, kế toán, địa chính, giáo viên mầm non, giáo viên tiểu học, giáo viên trung học cơ sở… Cán bộ lãnh đạo, quản lý như cán bộ quản lý nhà nước, quản lý KT- XH, quản lý các hoạt động sự nghiệp... Cơ cấu vùng: Căn cứ vào đặc điểm, thế mạnh của từng vùng trong tỉnh để có chủ trương phát triển NNL phù hợp về ngành nghề, trình độ. Trong nông nghiệp, tỉnh đã quy hoạch các vùng sản xuất hàng hóa lớn, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp; điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch các cụm dân cư; phát triển kinh tế trang trại phù hợp với quy hoạch của từng vùng; quan tâm đến CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới, từng bước đưa nông nghiệp, nông thôn của Tỉnh Hà Giang ra khỏi tỉnh trạng lạc hậu, ổn định đời sống định canh định cư của người dân. Phát triển công
  17. 15 nghiệp là hướng chiến lược lâu dài của tỉnh, trong đó tập trung phát triển các ngành công nghiệp có thế mạnh như khai khoáng, chế biến nông - lâm sản và thủy điện. Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, trong đó chú ý khai thác các giá trị của Công viên địa chất toàn cầu – Cao nguyên đá Đồng Văn, các giá trị văn hóa vùng cao đặc sắc… Phát triển KHCN, xây dựng các trung tâm nghiên cứu cây trồng vật nuôi tới đồng bào các dân tộc thiểu số. Yêu cầu về bố trí, sử dụng NNL cho CNH,HĐH ở Hà Giang: bảo đảm cho người lao động được làm đúng người đúng viê ̣c, đúng chuyên môn, trình độ để người lao đô ̣ng phát huy hết khả năng sức sáng tạo của mình phục vụ cho công viê ̣c. Trong giai đoạn hiện nay Hà Giang chú trọng thu hút, bồi dưỡng và phát triển nhân tài, NNL chất lược cao. Để thu hút được NNL này, tỉnh cần có những chủ trương, chiến lược, cơ chế, chính sách phù hợp như ưu đãi về đất đai, nhà cửa, lương, phụ cấp, khen thưởng... Bên cạnh đó tỉnh có những chính sách tuyển chọn, sử dụng đội ngũ cán bộ. Như chúng ta biết, mỗi người đều có khả năng, sở trường nhất định. Khả năng của con người chỉ được phát huy tốt nhất, nếu họ được bố trí vào làm những công việc, những vị trí phù hợp. Chính việc tuyển chọn này là cơ sở cho quy luật cạnh tranh và đào thải trên thị trường sức lao động diễn ra một cách tự nhiên, khoa học. Từ những yêu cầu về NNL trong CNH, HĐH nói trên, có thể quan niệm: NNL trong CNH,HĐH ở Hà Giang là tổng thể lực lượng lao động có số lượng và cơ cấu hợp lý, chất lượng ngày càng cao thể hiện ở các phẩm chất cần thiết đáp ứng mục tiêu hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh nhà; được chuẩn bị và tích lũy ngày càng nhiều về tri thức, đạo đức, thể lực; năng lực sản xuất kinh doanh, quản lý KT-XH và các mặt khác vươn lên ngang tầm với các địa phương trong cả nước. Nội hàm NNL cho CNH, HĐH ở Hà Giang gồm hai thành tố: Một là, bộ phận hiện có của NNL là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động đang kết hợp với các yếu tố khác của quá trình sản xuất, trực tiếp tham gia các hoạt động KT-XH phục vụ quá trình CNH, HĐH của tỉnh. Hai là, bộ phận tồn tại dưới dạng tiềm năng có thể được huy động, thu
  18. 16 hút, phát triển và sử dụng cho các mục tiêu CNH,HĐH của tỉnh dưới dạng các hoạt động KT-XH. Bộ phận này có thể là lực lượng còn lại trong trong dân số của tỉnh, có thể được điều động, bổ nhiệm, thu hút từ các địa phương khác đến… Để có được NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH của Hà Giang như vậy, cần phải đẩy mạnh các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, thu hút gắn với sử dụng có hiệu quả NNL ở một địa phương vốn có điểm xuất phát thấp về kinh tế so với các địa phương khác. Thực chất là phải có những nỗ lực phát triển, bảo đảm NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh. Theo đó, phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Hà Giang phải vừa là quá trình làm gia tăng về số lượng, nâng cao chất lượng và bảo đảm cơ cấu hợp lý về NNL cho các hoạt động KT-XH của tỉnh. Đó là toàn bộ những hoạt động tác động vào người lao động, làm chuyển hóa, tạo ra những phẩm chất cần thiết để họ có đủ khả năng phục vụ cho nhu cầu về lao động trong tương lai; đồng thời đây còn là những nỗ lực tạo ra những điều kiện cần thiết về KT-XH, cơ chế chính sách, kết hợp với sự trợ giúp, điều tiết của Trung ương… nhằm thu hút mạnh mẽ NNL chất lượng tốt và cơ cấu phù hợp từ các nơi khác đến tham gia phát triển KT-XH và CNH, HĐH ở địa phương. 1.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Giang Mô ̣t là, trình đô ̣, chất lượng NNL là nhân tố quyết định đến viê ̣c ứng dụng tiến bộ KHCN trong quá trình CNH, HĐH ở Hà Giang. NNL có chất lượng cao là điều kiện hàng đầu để tiếp thu tri thức KHCN, kinh nghiệm quản lý tiên tiến… đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Trong tất cả các nguồn lực phát triển thì NNL là nhân tố giữ vai trò quyết định; các yếu tố khác của sản xuất đều có thể mua bán trao đổi hay sao chép. Trí tuê ̣ con người phát triển đến đâu sẽ tạo trình đô ̣ KHCN tương ứng và ngược lại và để ứng dụng các thành tựu KHCN vào sản xuất phải có những con người có trình đô ̣ tương ứng. Quá trình ứng dụng KHCN vào phát triển KT-XH đồng thời là quá trình đào tạo và nâng cao trình đô ̣ NNL. Thực tiễn ở Hà Giang cho thấy, khó khăn lớn nhất trong viê ̣c ứng dụng các thành tựu KHCN vào viê ̣c phát triển KT-XH là
  19. 17 thiếu đô ̣i ngũ lao động kỹ thuâ ̣t có tay nghề cao có thể sử dụng máy móc thiết bị hiê ̣n đại vào viê ̣c quản lý và phát triển KT-XH. Hai là, số lượng và cơ cấu NNL có vai trò ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Trong những năm gần đây NNL ở Hà Giang đã liên tục tăng lên, năm 2001 dân số trong độ tuổi lao động là: 329.571 người, năm 2005 là: 377.176 người, năm 2010 là: 451.883 người. Vậy trong vòng 9 năm dân số trong độ tuổi lao động đã tăng lên là 122.312 người. Sở dĩ số lượng lao động của Hà Giang tăng nhanh là do sự gia tăng dân số tự nhiên và sự di dân ở các vùng khác đến sinh sống trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó cơ cấu lao động cũng có nhưng chuyển biến đáng kể. Chính sự gia tăng về số lượng và cơ cấu NNL đã ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Kết quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói riêng theo hướng CNH, HĐH, phát triển kinh tế nói chung phụ thuô ̣c vào viê ̣c bảo đảm cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu đầu tư của các nguồn lực trong đó có NNL. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh từ mô ̣t tỉnh miền núi nông nghiê ̣p lạc hâ ̣u thành nông nghiê ̣p hiê ̣n đại, công nghiê ̣p, dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn muốn trở thành hiê ̣n thực đòi hỏi phải có sự phát triển trước hết ở NNL với số, chất lượng đủ đảm bảo cho nhu cầu chuyển dịch với mô ̣t cơ cấu hợp lý. Thực tiễn cho thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hà Giang những năm qua do chưa có sự chuẩn bị chu đáo về NNL nên mục tiêu của tỉnh không đạt được kết quả mong muốn, chủ yếu vẫn là phát triển nông nghiê ̣p tự cung tự cấp, công nghiê ̣p và dịch vụ chưa thực sự phát triển. Ba là, phát triển NNL là nhân tố có ý nghĩa quyết định viê ̣c tổ chức và sử dụng có hiê ̣u quả các nguồn lực khác của địa phương. Sự phát triển KT-XH phụ thuô ̣c rất lớn vào viê ̣c khai thác, quản lý và sử dụng hợp lý và hiê ̣u quả các nguồn lực của đất nước bao gồm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, trình đô ̣ KHCN và tiềm lực về con người hay NNL. Trong các nguồn lực trên thì NNL có ý nghĩa quyết định. Các nguồn lực khác (vốn, tài nguyên thiên nhiên…) tự nó tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ trở thành đô ̣ng lực của sự phát triển khi kết hợp với nguồn lực con người,
  20. 18 trở thành khách thể chịu sự cải tạo, khai thác và sử dụng của con người. Hơn thế nữa, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiê ̣t, chỉ có NNL với cốt lõi là trí tuê ̣ mới là nguồn lực có tiềm năng vô hạn, biểu hiê ̣n ở chỗ trí tuê ̣ con người không chỉ tự sản sinh về mă ̣t sinh học, mà còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý, và đương nhiên, càng sử dụng tốt nguồn lực này thì nó lại càng gia tăng giá trị ở cấp độ cao hơn. Kinh nghiê ̣m của nhiều nước đã cho thấy thành tựu phát triển KT-XH phụ thuô ̣c chủ yếu vào NNL. Chìa khóa thành công của các nước như Hàn Quốc, Israel, Đài Loan… là mô ̣t trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành mô ̣t trong những quốc gia có nền công nghiê ̣p hùng mạnh, hay Singapore là mô ̣t hòn đảo nhỏ không có tài nguyên khoáng sản nhưng do sử dụng hợp lý yếu tố NNL, đã trở thành một trong bốn con rồng Châu Á. Tuy nhiên, nhâ ̣n thức sâu sắc và thấy được vai trò quyết định của NNL nhưng sẽ là sai lầm nếu chúng ta tách rời, không thấy được vai trò và mối quan hệ của nó với các nguồn lực khác. 1.1.3. Các nhân tố tác động đến nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Giang - Tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương và tác động của cơ chế thị trường Trình độ phát triển KT-XH giữ vai trò có ý nghĩa quyết định đến đào tạo NNL. Đào tạo NNL và trình độ phát triển KT-XH có tác động qua lại lẫn nhau trong mối quan hệ nhân - quả, trình độ phát triển KT-XH có tác động rất lớn đến đào tạo NNL và đào tạo nâng cao chất lượng NNL sẽ thúc đẩy KT-XH phát triển nhanh, bền vững. KT-XH phát triển đặt ra những yêu cầu mới cao hơn và tạo thêm những điều kiện tốt hơn cho đào tạo phát triển NNL kể cả trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp, sức khỏe, tuổi thọ cũng như các cơ sở vật chất kĩ thuật bảo đảm. Trình độ phát triển KT-XH cao mới có điều kiện đầu tư cho GD&ĐT và khi GD&ĐT phát triển lại góp phần quyết định trực tiếp vào việc tạo ra NNL chất lượng ngày càng cao. Hà Giang là địa phương có mức độ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2