intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:88

4
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn "Phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội" được hoàn thành với mục tiêu nhằm phân tích thực trạng, chỉ ra một số mâu thuẫn cần giải quyết để phát triển nông nghiệp bền vững tại Hà Nội; Đề xuất một số quan điểm chủ yếu và giải pháp cơ bản nhằm phát triển nông nghiệp Hà Nội theo hướng bền vững.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  TRẦN NGỌC MẠNH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Ở HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2013
  2. 3 BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  TRẦN NGỌC MẠNH BỘ QUỐC PHÒNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  BỀN VỮNG Ở HÀ NỘI Chuyên ngành: Kinh tế chính trị LÊ THỊ TUYẾT Mã số: 62 31 01 02 T¸C ®éng cña ®« thÞ hãa Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. NGUYỄN NGỌC HỒI ®Õn kinh tÕ n«ng th«n hµ néi hiÖn nay Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số: 60 31 01 02 HÀ NỘI - 2013
  3. 4 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Ở HÀ NỘI 10 1.1. Quan niệm về phát triển bền vững và nội dung phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội 10 1.2. Thực trạng phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội 31 Chương 2 MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CHỦ YẾU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Ở HÀ NỘI 48 2.1. Quan điểm phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội 48 2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội 52 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78 PHỤ LỤC 83
  4. 5 DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ................................. CNH, HĐH Hội đồng nhân dân .................................................... HĐND Hợp tác xã ................................................................. HTX Khoa học – công nghệ .............................................. KH – CN Kinh tế - xã hội .......................................................... KT – XH Lực lượng sản xuất ................................................... LLSX Nhà xuất bản ............................................................. Nxb Nông nghiệp và phát triển nông thôn ....................... NN&PTNT Nông thôn mới ......................................................... NTM Phát triển bền vững .................................................. PTBV Quan hệ sản xuất ..................................................... QHSX Ủy ban nhân dân ...................................................... UBND
  5. 6 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nông nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt, có vị trí trọng yếu trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia, là ngành sản xuất vật chất chủ yếu của nền kinh tế, cung cấp những sản phẩm thiết yếu cho con người tồn tại. Trong quá trình phát triển kinh tế, nông nghiệp cần được phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về lương thực và thực phẩm của xã hội. Vì thế, sự ổn định xã hội và mức an ninh về lương thực, thực phẩm của xã hội phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của nông nghiệp. Mặt khác, nông nghiệp cung cấp nguyên liệu của các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm. Nông nghiệp không những là nguồn cung cấp sản phẩm hàng hóa cho thị trường trong nước và nước ngoài, mà còn cung cấp các yếu tố sản xuất, như: lao động và vốn cho các khu vực kinh tế khác. Vì thế, nông nghiệp là một trong những nhân tố bảo đảm cho các ngành công nghiệp khác như công nghiệp hóa học, cơ khí, sản xuất hàng tiêu dùng, dịch vụ sản xuất và đời sống phát triển. Một nền nông nghiệp phát triển ngoài việc đảm bảo các vai trò nói trên còn phải góp phần giữ gìn, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, chống làm mất đa dạng sinh học. Tuy nhiên, các thách thức trong phát triển nông nghiệp bao gồm: sự nghèo đói vẫn tồn tại, sự suy giảm về tài nguyên thiên nhiên và môi trường, áp lực về dân số, sử dụng quá mức các chất hoá học,... đang là vấn đề đặt ra. Xuất phát từ những vấn đề trên, cách tiếp cận mới về phát triển nông nghiệp được hình thành đó là phát triển nông nghiệp bền vững. Nông nghiệp bền vững là một nền nông nghiệp về mặt kinh tế phải bảo đảm được hiệu quả lâu dài cho cả tương lai; về mặt xã hội, không làm gay gắt sự phân hoá giàu nghèo, cải thiện được đời sống người nông dân, không gây ra những tệ nạn xã hội nghiêm trọng; về mặt tài nguyên môi trường, không làm cạn kiệt tài nguyên, không làm suy thoái và huỷ hoại môi trường.
  6. 7 Việt Nam là một nước đang phát triển, nông nghiệp là một ngành kinh tế chính, đóng vai trò quan trọng trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, phát triển nông nghiệp bền vững ở nước ta đã trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu. Ngày 17-8-2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg về Định hướng Chiến lược PTBV ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam), trong đó đã đề cập đến sự cần thiết phải phát triển nông nghiệp bền vững. Chiến lược phát triển KT - XH đến năm 2020 được Đại hội XI của Đảng thông qua cũng đã xác định quan điểm phát triển thứ nhất là “Phát triển nhanh gắn liền với PTBV, PTBV là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược”.[23, tr.3] Mặc dù nông nghiệp của thành phố Hà Nội những năm qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Đó là phát triển chưa bền vững, thể hiện ở sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, chất lượng tăng trưởng thấp, việc ứng dụng KH - CN để tăng năng suất chất lượng cây trồng, vật nuôi còn hạn chế; chưa gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm; môi trường bị hủy hoại tương đối nghiêm trọng; khoảng cách giàu nghèo ở nông thôn vẫn có xu hướng kéo dài ra, v.v. Trước tình hình đó, việc phát triển nông nghiệp ở Hà Nội phải đi theo hướng PTBV đang đặt ra cấp bách và có tính thời sự. Điều đó thể hiện trong Quyết định số 17/2012/QĐ-UBND ngày 09-7-2012 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội phê duyệt Quy hoạch phát triển nông nghiệp Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến 2030 đã xác định quan điểm phát triển thứ ba là: “Phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái, góp phần tạo cảnh quan môi trường, thúc đẩy phát triển du lịch sinh thái, hài hòa và bền vững với môi trường, từng bước thích ứng với biến đổi khí hậu toàn cầu”. [58, tr.2] Nhận thức được tính thời sự đó, tác giả đã chọn đề tài “Phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội” làm luận văn cao học kinh tế chính trị, với hy vọng đóng góp một số giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà
  7. 8 Nội trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Xuất phát từ vai trò to lớn của phát triển nông nghiệp bền vững trong phát triển kinh tế và xã hội của đất nước, đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu vấn đề này, tiêu biểu là: - “Phát triển nông nghiệp bền vững của huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội”, luận văn Thạc sĩ kinh tế của Phạm Khắc Diễn, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 2008. Trong luận văn, tác giả đã đề cập đến các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn của PTBV; sau đó, đưa ra các giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững của một huyện thuộc Hà Nội dưới góc độ kinh tế ngành; chưa đề cập đến toàn bộ nền nông nghiệp Hà Nội. - “Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam”, luận văn Thạc sỹ kinh tế của Vũ Văn Nâm. Luận văn đã nêu khái quát về phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam nói chung, nhưng chưa đề cập tới các vùng, miền và địa phương cụ thể. - “Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp”, Luận văn Thạc sỹ kinh tế của Đặng Thị Tố Tâm. Đây là công trình nghiên cứu sâu về phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn, sản xuất hàng hoá. - “PTBV đồng bằng Bắc bộ trong quá trình phát triển, xây dựng các khu công nghiệp”, Đề tài khoa học cấp bộ của Đỗ Đức Quân (2009), Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài đã đề cập đến PTBV nói chung ở vùng đồng bằng Bắc bộ, nhưng chưa nêu cụ thể về phát triển nông nghiệp bền vững. - “CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam, con đường và bước đi”, Đề tài KX-02-07 do GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn làm chủ nhiệm. Đây là công trình đề cập chủ yếu đến quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta thời gian qua; đề xuất phương hướng thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời gian tới. Tuy nhiên, công trình mới chỉ đề cập đến khía cạnh
  8. 9 phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững trong quá trình công nghiệp hóa, chưa đi sâu nghiên cứu về phát triển nông nghiệp bền vững. - “Nông nghiệp Việt Nam trong phát triển bền vững”, Nxb Chính trị quốc gia do TS Nguyễn Từ chủ biên. Đây là cuốn sách với nhiều bài viết có giá trị bàn về vị trí của ngành nông nghiệp trong sự phát triển kinh tế bền vững chung của đất nước. - “Xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn trong quá trình CNH,HĐH ở Việt Nam” của tác giả Đỗ Hoài Nam và Lê Cao Đoàn (2001), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trong công trình này, các tác giả đã đưa ra quan niệm về cơ sở hạ tầng nông thôn; phân tích một cách cụ thể, có căn cứ vai trò vị trí của cơ sở hạ tầng nông thôn đối với quá trình CNH, HĐH. - “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Nxb Thống kê, (2003) của PGS.TS. Nguyễn Sinh Cúc. Công trình đã luận giải rõ quá trình đổi mới, hoàn thiện chính sách nông nghiệp, nông thôn nước ta trong những năm đổi mới, những thành tựu và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Bên cạnh đó, còn nhiều công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn và PTBV nông nghiệp đã công bố, như: - “Nông nghiệp và nông dân trên con đường CNH, HĐH và hợp tác hóa, dân chủ hóa”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, do Vũ Oanh chủ biên. - “Con đường CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 do Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương và Bộ NN&PTNT biên soạn. - “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam hôm nay và mai sau” của TS. Đặng Kim Sơn - Viện trưởng Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn. - “Thực trạng của nông thôn và đề xuất các chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân hiện nay”, Viện Chính sách và Chiến lược phát
  9. 10 triển nông nghiệp, nông thôn, tháng 4-2007. - “Nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong đổi mới ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Tô Huy Rứa, Tạp chí Cộng sản, số 794 (tháng 12-2008). Mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về phát triển nông nghiệp Việt Nam nói chung và của một vài địa phương thuộc Hà Nội theo hướng bền vững nói riêng, song chưa có công trình nào nghiên cứu có hệ thống vấn đề phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội dưới góc nhìn của kinh tế chính trị. Vì vậy, đây là một đề tài độc lập. Các công trình nói trên sẽ được tác giả luận văn kế thừa một cách chọn lọc trong quá trình nghiên cứu. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Mục đích nghiên cứu: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn; đề xuất một số quan điểm chủ yếu và giải pháp cơ bản để phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội. - Nhiệm vụ: + Làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội. + Phân tích thực trạng, chỉ ra một số mâu thuẫn cần giải quyết để phát triển nông nghiệp bền vững tại Hà Nội. + Đề xuất một số quan điểm chủ yếu và giải pháp cơ bản nhằm phát triển nông nghiệp Hà Nội theo hướng bền vững. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Phát triển nông nghiệp bền vững. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn: + Về mặt không gian: nghiên cứu vấn đề phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội + Về mặt thời gian: nghiên cứu tình hình phát triển nông nghiệp bền vững
  10. 11 ở Hà Nội từ năm 2008 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài - Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển nông nghiệp bền vững trong tiến trình CNH, HĐH đất nước. - Cơ sở thực tiễn: Dựa vào thực trạng phát triển ngành nông nghiệp theo hướng bền vững ở Hà Nội thời gian qua; các báo cáo tổng kết về tình hình phát triển nông nghiệp, kinh tế, xã hội của UBND Thành phố và các huyện, của Sở NN&PTNT Hà Nội. Đề tài còn trực tiếp dựa vào kết quả khảo sát, điều tra thực tế của tác giả luận văn. - Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: trừu tượng hoá khoa học để nghiên cứu vấn đề lý luận phát triển nông nghiệp bền vững dưới góc độ kinh tế chính trị; lô gic - lịch sử, hệ thống, phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học, thống kê, so sánh,... để nghiên cứu thực trạng, phát hiện mâu thuẫn và đề xuất các giải pháp phát triển nông nghiệp của Hà Nội theo hướng bền vững. 6. Ý nghĩa của đề tài - Góp phần làm sáng rõ các nhân tố chi phối và nội dung phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở Hà Nội. - Chỉ ra các mâu thuẫn cần tập trung giải quyết để phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở Hà Nội. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp có tính khả thi nhằm phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội trong thời kỳ mới. - Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp những luận cứ khoa học để các cơ quan chức năng của thành phố Hà Nội có thể tham khảo nhằm PTBV nông nghiệp của Thủ đô Hà Nội trong thời gian tới. Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề liên quan
  11. 12 đến phát triển nông nghiệp bền vững dưới góc nhìn của kinh tế chính trị. 7. Kết cấu của đề tài Luận văn được kết cấu gồm: phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
  12. 13 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Ở HÀ NỘI 1.1. Quan niệm về phát triển bền vững và nội dung phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội 1.1.1. Quan niệm về phát triển bền vững và phát triển nông nghiệp bền vững 1.1.1.1. Phát triển bền vững và sự cần thiết phải phát triển kinh tế bền vững Quan niệm về PTBV được khởi nguồn từ nhận định rằng, trong quá trình phát triển, con người chỉ chú trọng đến việc phát triển kinh tế thật nhanh để thỏa mãn những nhu cầu ngày càng cao của mình mà không quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái. Môi trường thiên nhiên bị xâm hại nghiêm trọng, tình trạng đói nghèo và sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng gia tăng. Tài nguyên thiên nhiên bị giảm sút và thiếu hụt. Vấn đề cơ bản mà hầu hết các quốc gia đều phải đặt ra là làm sao phải đáp ứng được những nhu cầu căn bản của con người, bảo đảm an sinh và tương lai cho các thế hệ tương lai; đồng thời, phải bảo vệ môi trường thiên nhiên. Con đường mà hầu hết các quốc gia đều đã và đang lựa chọn là phát triển đồng bộ và cân bằng các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường. Vào đầu những năm 1980, Liên hiệp Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (UICN) đã nêu lên vấn đề PTBV. Tới năm 1987, khái niệm này đã được Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) do bà Gro Harlem Brundtland làm chủ tịch đã tiếp thu, khai triển và nêu ra định nghĩa về PTBV trong bản báo cáo mang tựa đề “Tương lai của chúng ta” (Our Common Future) như sau: “PTBV là sự phát triển nhằm thỏa mãn các yêu cầu của hiện tại nhưng không tổn hại cho khả năng của các thế hệ tương lai để đáp ứng yêu cầu của chính họ”. [ 59, tr.3 ] Sau đó, vào năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh về Trái đất ở Rio de Janeiro
  13. 14 (Braxin) đã khẳng định: PTBV là phát triển KT - XH lành mạnh, dựa trên việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bền vững môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu của con người hiện nay và không ảnh hưởng bất lợi đối với các thế hệ tương lai. Tiếp đến, vào năm 2002, Liên hợp quốc tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về PTBV tại Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) đã tổng kết hoạt động PTBV 10 năm (Rio+10) và đưa ra những quyết sách về nước, năng lượng, sức khoẻ, nông nghiệp, sự đa dạng sinh thái; tiếp tục tiến hành một số mục tiêu ưu tiên về xoá đói giảm nghèo, phát triển những sản phẩm tái sinh hoặc thân thiện với môi trường nhằm thay thế các sản phẩm gây ô nhiễm, bảo vệ và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Qua các hội nghị này, nội hàm PTBV ngày càng được mở rộng thêm: sự PTBV bao gồm toàn diện các vấn về kinh tế, bảo vệ sinh thái, giải quyết các vấn đề xã hội, văn hoá, nâng cao chất lượng cuộc sống; nó hàm chứa cả sự bình đẳng giữa các nước giàu và nghèo, giữa các thế hệ, v.v. Hình 1.1: Sơ đồ phát triển bền vững Khái niệm PTBV được biết đến ở Việt Nam vào khoảng cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Năm 1995, trong công trình "Tiến tới môi trường bền vững” của Trung tâm tài nguyên và môi trường, Đại học Tổng hợp
  14. 15 Hà Nội, các tác giả đã tiếp thu khái niệm PTBV theo báo cáo Brundtland trên bốn lĩnh vực: bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt nhân văn, bền vững về mặt môi trường, bền vững về mặt kỹ thuật. Năm 2003, Viện Môi trường và PTBV, Hội Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam đã tiến hành công trình "Nghiên cứu xây dựng tiêu chí PTBV cấp quốc gia ở Việt Nam - giai đoạn I”. Bộ tiêu chí này dựa trên cơ sở tham khảo bộ tiêu chí PTBV của Brundtland và kinh nghiệm các nước: Trung Quốc, Anh, Mỹ. Theo đó, các tiêu chí cụ thể về PTBV đối với một quốc gia bao gồm: bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường. Năm 2000, trong công trình "Quản lý môi trường cho sự PTBV” của tác giả Lưu Đức Hải đã xác định PTBV qua các tiêu chí: bền vững kinh tế, bền vững môi trường, bền vững văn hóa; đồng thời, đã tổng quan nhiều mô hình PTBV như: mô hình 3 vòng tròn kinh kế, xã hội, môi trường giao nhau của Jacobs và Sadler (1990), mô hình 3 nhóm mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường của Ngân hàng thế giới và của UNESCO, v.v. Hình 1.2 thể hiện 4 mô hình như thế về PTBV. Trong những năm gần đây, nhận thấy những hạn chế, bất cập của mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến PTBV; xem đó là tư tưởng chủ đạo trong chiến lược phát triển KT - XH của Việt Nam. Tháng 8-2004, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 153/2004/QĐ - TTg ban hành Định hướng chiến lược PTBV ở Việt Nam; trong đó, khái niệm PTBV được xem là sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội, phát triển văn hoá, phát triển con người, bảo vệ môi trường. Hình 1.2: Mô hình PTBV của WCED (1987), World Bank, Unesco, Việt Nam và tác giả Villen (1990)
  15. 16 Tại Đại hội lần thứ XI của Đảng, quan điểm PTBV được xếp hàng đầu trong 5 quan điểm phát triển của Chiến lược phát triển KT - XH 2011 - 2020. Nói về PTBV, Chiến lược này cũng nhấn mạnh đến sự phát triển hài hòa của ba
  16. 17 yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường: “Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển KT - XH phải luôn luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường” [28,tr. 98-99]. Như vậy, nói đến PTBV, người ta thường đề cập đến sự phát triển hài hòa, gắn bó chặt chẽ với nhau của ba yếu tố cơ bản: kinh tế, xã hội và môi trường; trong đó, sự PTBV của từng yếu tố là điều kiện đảm bảo cho sự PTBV của các yếu tố khác, mà sự phát triển bền vững về mặt xã hội là mục tiêu suy cho cùng của sự PTBV. Là điều kiện vật chất đảm bảo cho sự PTBV của các yếu tố khác, bản thân sự phát triển kinh tế cũng phải đi theo xu hướng PTBV. Đó là sự phát triển mà tốc độ tăng trưởng đạt sự ổn định, gắn liền với một cơ cấu kinh tế vùng, ngành phù hợp, đảm bảo cho cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện, môi trường sinh thái không bị hủy hoại. Tốc độ tăng trưởng kinh tế, việc cải thiện đời sống nhân dân và bảo vệ môi trường sinh thái luôn có mối quan hệ chặt chẽ. Muốn cải thiện đời sống, cần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, việc chạy theo tốc độ tăng trưởng mà không chú ý đến chất lượng tăng trưởng sẽ khiến cho nền kinh tế mở rộng về quy mô, thu hút thêm nhiều nguồn lực đầu vào, trong đó có nguồn lực tài nguyên. Điều đó sẽ kéo theo tình trạng tàn phá môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên. Chạy theo tốc độ tăng trưởng, không chú ý đến phát triển hài hòa theo cơ cấu vùng, ngành kinh tế không chỉ làm cho môi trường tự nhiên dễ bị hủy hoại, mà còn làm tăng sự bất bình đẳng giữa các vùng, miền, làm tăng nguy cơ phân hóa giàu nghèo. Đến lượt nó, sự bất ổn xã hội do sự phân hóa giàu nghèo; sự hủy hoại môi trường gây ra lại là nhân tố làm cản trở đến sự tăng trưởng kinh tế, do nó thúc đẩy, làm bùng nổ những bức xúc xã hội. Đó chính là lý do cắt nghĩa cho sự tất yếu phải lựa chọn con đường phát triển kinh tế bền vững mà mọi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, hiện nay đang theo đuổi, nhằm vừa phát triển kinh tế nhanh, vừa đảm bảo được công bằng, an sinh xã hội, khai
  17. 18 thác một cách hợp lý hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và không hủy hoại đến môi trường sinh thái. Nhận thức rõ yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, Chiến lược phát triển KT - XH 2011 - 2020 của Đảng ta đã cụ thể hóa nội dung phát triển kinh tế bền vững qua ba mục tiêu cơ bản cần đạt được vào năm 2020: Thứ nhất, về kinh tế Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động; tỉ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30 - 35% lao động xã hội. Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt khoảng 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3%/năm. Thực hành tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực. Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỉ lệ đô thị hoá đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn NTM khoảng 50%. Thứ hai, về văn hóa, xã hội Xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, công bằng, văn minh. Đến năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới; tốc độ tăng dân số ổn định ở mức khoảng 1%; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; đạt 9 bác sĩ và 26 giường bệnh trên một vạn
  18. 19 dânhttp://123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&sub topic=8&leader_topic=989&id=BT531160686 - _ftn1, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng lao động xã hội; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,5 - 2%/năm; phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được bảo đảm. Thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư. Xoá nhà ở đơn sơ, tỉ lệ nhà ở kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây dựng nhà ở tính trên một người dân. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đến năm 2020, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục, y tế đạt trình độ tiên tiến, hiện đại. Số sinh viên đạt 450 trên một vạn dân. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. Thứ ba, về môi trường Cải thiện chất lượng môi trường. Đến năm 2020, tỉ lệ che phủ rừng đạt 45%http://123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&su btopic=8&leader_topic=989&id=BT531160686 - _ftn2. Hầu hết dân cư thành thị và nông thôn được sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh mới thành lập phải áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 80% các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có đạt tiêu chuẩn về môi trường. Các đô thị loại 4 trở lên và tất cả các cụm, khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung. 95% chất thải rắn thông thường, 85% chất thải nguy hại và 100% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn. Cải thiện và phục hồi môi trường các khu vực bị ô nhiễm nặng. Hạn chế tác hại của thiên tai; chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng.
  19. 20 Từ những vấn đề trình bày trên cho thấy, nội dung phát triển kinh tế bền vững gồm ba mặt: kinh tế, xã hội và môi trường. Cụ thể: Một là, về kinh tế: Đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế ổn định; cân đối kinh tế vĩ mô vững chắc; sử dụng hiệu quả các nguồn lực Hai là, về xã hội: Đảm bảo tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội; trong đó, giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa và phúc lợi xã hội cho mọi đối tượng trong xã hội được cải thiện theo tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ba là, về môi trường: Sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, đảm bảo con người được sống trong môi trường trong sạch. 1.1.1.2. Phát triển nông nghiệp bền vững Bàn về quan niệm phát triển nông nghiệp bền vững, trong luận văn Thạc sĩ kinh tế của tác giả Vũ Văn Nâm với đề tài “ Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam” cho rằng: “Phát triển nông nghiệp bền vững (bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp) là quá trình sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, giải quyết tốt các vấn đề xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái trên cơ sở đảm bảo thoả mãn các nhu cầu của con người trong trong hiện tại và tương lai và được xã hội chấp nhận.” [37, tr.19]. Còn tác giả luận văn Thạc sĩ kinh tế với đề tài “Phát triển nông nghiệp bền vững ở Hải Dương” lại cho rằng: “Phát triển nông nghiệp bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu PTBV của nền kinh tế đất nước nhưng không làm suy thoái môi trường tự nhiên, bảo đảm an ninh lương thực, tạo đà cho phát triển nông thôn, góp phần bảo đảm an sinh và hài hoà cho xã hội.” [54, tr.20]. Cả hai quan niệm trên đều xem phát triển nông nghiệp bền vững phải đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, theo đó, đều thống nhất ở yêu cầu giải quyết hài hòa ba yếu tố của phát triển kinh tế bền vững. Đó là: tăng trưởng để thỏa mãn nhu cầu của con người, đảm bảo an ninh lương thực, nhưng phải gắn với đảm bảo an sinh xã hội và bảo vệ môi trường.
  20. 21 Kế thừa các quan điểm nêu trên, tác giả luận văn cho rằng: Phát triển nông nghiệp bền vững tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị là quá trình phát triển nông nghiệp cả về LLSX và QHSX đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế bền vững của đất nước trên cả ba phương diện: tăng trưởng kinh tế, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường. Phân tích nội hàm quan niệm phát triển nông nghiệp bền vững có thể thấy: Nội dung của sự phát triển nông nghiệp bền vững bao gồm ba vấn đề: kinh tế, xã hội và môi trường. Một là, về kinh tế: Tăng trưởng kinh tế phải ổn định. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP hợp lý; trong đó, giá trị tuyệt đối của nông nghiệp ngày càng tăng, mặc dù giá trị tương đối trong GDP có thể giảm. LLSX trong nông nghiệp phát triển theo hướng ngày càng hiện đại. QHSX phát triển phù hợp với trình độ của LLSX; trong đó, kinh tế hợp tác phát triển phù hợp với điều kiện của cơ chế thị trường; kinh tế trang trại được khuyến khích phát triển. Hai là, về xã hội: Thu nhập và đời sống của nông dân được cải thiện không ngừng. Các vấn đề xã hội ở nông thôn được giải quyết tốt.Việc làm cho người nông dân được đảm bảo, có thu nhập ổn định; khoảng cách giàu nghèo được thu hẹp; đảm bảo nhu cầu y tế, giáo dục cho mọi người dân. Các phúc lợi xã hội và an sinh xã hội; an ninh nông thôn được cải thiện, v.v. Ba là, về môi trường: Sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, đảm bảo con người được sống trong môi trường trong sạch. Nông nghiệp xanh – sạch được ưu tiên phát triển, v.v. Mục đích phát triển nông nghiệp bền vững là đảm bảo an ninh lương thực, phát triển hài hòa các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường; mà suy cho cùng, mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững cũng là sự phát triển vì con người. Nông nghiệp là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân; nhất là ở các nước đang phát triển và kém phát triển.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2