intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Tác động của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:109

19
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản, luận văn đánh giá tác động của khu công nghiệp (bao gồm các khu công nghiệp, khu chế xuất và cụm công nghiệp) để đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và ngăn ngừa những tiêu cực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Tác động của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG TÁC ĐỘNG CỦA KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH HẢI DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG TÁC ĐỘNG CỦA KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH HẢI DƯƠNG Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 60 31 01 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN ĐÌNH KHÁNG HÀ NỘI - 2012 2
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 6 1.1. Khu công nghiệp và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 6 1.2. Những nhân tố chủ yếu chi phối tác động của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 25 1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh về xử lý tác động tiêu cực trong phát triển khu công nghiệp 33 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH HẢI DƯƠNG 43 2.1. Sự ra đời và phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dƣơng 43 2.2. Đánh giá những tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dƣơng 56 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA KHU CÔNG NGHIỆP VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH HẢI DƢƠNG 74 3.1. Phƣơng hƣớng phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dƣơng 74 3.2. Giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tiêu cực của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dƣơng 82 KẾT LUẬN 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98 5
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội CTCP : Công ty cổ phần KCN : Khu công nghiệp KCNC : Khu công nghệ cao KCX : Khu chế xuất KH - CN : Khoa học - Công nghệ KT - XH : Kinh tế - Xã hội NĐ : Nghị định NQ : Nghị quyết TU : Tỉnh ủy UBND : Ủy ban nhân dân 6
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 1.1: Các KCN tỉnh Đồng Nai 35 Bảng 2.1: Một số khoáng sản chủ yếu của tỉnh Hải Dƣơng 46 Bảng 2.2: Các khu công nghiệp phát triển giai đoạn 2010 - 2020 48 Bảng 2.3: Tổng hợp một số chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN 60 Bảng 2.4: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của KCN 64 Bảng 2.5: Hiện trạng môi trƣờng không khí tại 4 điểm của tỉnh Hải Dƣơng 68 Bảng 3.1: Dự báo tốc độ tăng trƣởng GDP và cơ cấu khu vực kinh tế 76 Bảng 3.2: Dự báo giá trị sản xuất công nghiệp 77 7
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát triển khu công nghiệp là một giải pháp quan trọng nhằm thu hút vốn đầu tƣ thúc đẩy công nghiệp phục vụ nhu cầu trong nƣớc và xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện bảo vệ môi trƣờng sinh thái bảo đảm phát triển bền vững. Ở nƣớc ta, năm 1991, Đảng và Nhà nƣớc có chủ trƣơng triển khai thí điểm việc thực hiện giải pháp quan trọng này. Từ đó đến nay, cả nƣớc đã có gần 200 khu công nghiệp với các quy mô, loại hình đƣợc phân bổ hầu khắp các tỉnh, thành phố. Sự phát triển các khu công nghiệp đã góp phần to lớn vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Các khu công nghiệp trở thành điểm thu hút các nguồn đầu tƣ nƣớc ngoài, đón nhận các tiến bộ khoa học kỹ thuật và tạo ra những nhân tố quan trọng thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Hải Dƣơng là tỉnh mới đƣợc tái lập từ 1/1/1997, thuộc một trong 8 tỉnh của vùng kinh tế trọng điểm ở đồng bằng Bắc Bộ với hệ thống giao thông thuỷ, bộ, đƣờng sắt thuận lợi. Hải Dƣơng trở thành địa bàn cung cấp hàng hoá quan trọng đồng thời tham gia trung chuyển hàng hoá giữa hệ thống cảng biển với các tỉnh và thành phố lớn ở phía Bắc. Trong tƣơng lai, Hải Dƣơng là trọng điểm thu hút, phát triển công nghiệp, du lịch, thƣơng mại và trở thành một trong các đô thị lớn trong vùng. Trong xu thế phát triển chung của cả nƣớc, tỉnh Hải Dƣơng đã có 10 khu công nghiệp với diện tich 2.087 ha. Sự phát triển khu công nghiệp ở Hải Dƣơng trong thời gian qua đã góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng tiến bộ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho ngƣời lao động, thu hút vốn và công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiến bộ của nhiều nƣớc trên thế giới. Đồng thời, sự phát triển khu công nghiệp đã tạo điều kiện cho sự ra đời các khu đô thị, nâng cao chất lƣợng đời sống dân cƣ. Tuy nhiên, trong gần 20 năm qua, sự phát triển 1
  7. các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dƣơng đã bộc lộ những bất cập trong giải quyết vấn đề môi trƣờng sinh thái, việc làm, thu nhập của ngƣời dân mất đất, sự quá tải của hệ thống kết cấu hạ tầng... Những bất cập đó đang là lực cản cho việc phát huy vai trò của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, gây ra những bức xúc trong xã hội. Nhằm góp phần vào giải quyết những bức xúc này, đề tài “Tác động của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương” đã đƣợc lựa chọn làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị, đề tài này vừa có ý nghĩa về mặt lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn không chỉ đối với tỉnh Hải Dƣơng mà còn đối với nhiều tỉnh, vùng trong cả nƣớc. 2. Tình hình nghiên cứu Kể từ khi Đảng, Nhà nƣớc ta có chủ trƣơng xây dựng và phát triển các khu công nghiệp đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này, tiêu biểu là: - Nguyễn Mạnh Đức, Lê Quang Anh (2000), “Hướng dẫn đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ở Việt Nam”, Nxb Thống kê. - Bộ kế hoạch và đầu tƣ (2004), “Kinh nghiệm thế giới về phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc khu kinh tế” - Trƣơng Thị Minh Sâm (2005), “Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - Vũ Huy Hoàng (2007), “Tổng quan về hoạt động của các khu công nghiệp”, kỷ yếu khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh - GS,TS Trần Văn Chử (2006), “Tài nguyên thiên nhiên môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2
  8. - TS Nguyễn Thị Hƣờng (2009), “Chính sách thương mại và công nghiệp nhằm phát triển bền vững công nghiệp Việt Nam”, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Một số đề tài dƣới dạng luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ nghiên cứu vấn đề này nhƣ: - Nguyễn Xuân Hinh (2005), “Quy hoạch xây dựng và phát triển khu công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Luận án tiến sĩ kinh tế tại trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân - Trần Văn Phùng (2009), “Nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội các khu công nghiệp miền Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế tại Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Lê Hồng Yến (2008), “Hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý Nhà nước đối với các khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay (qua thực tiễn khu công nghiệp các tỉnh phía Bắc)”, Luận án tiến sĩ tại trƣờng Đại học Thƣơng Mại. - Hà Thị Thúy (2010), “ Các khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Đinh Hoàng Dũng (2009), “Phát triển khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh theo hướng bền vững”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên tập trung vào những vấn đề chung trên phạm vi tổng thể cả nƣớc hoặc trên địa bàn một vùng, một tỉnh khác, trong đó chủ yếu nghiên cứu dƣới góc độ quản lý kinh tế, kinh tế phát triển và có một số đề tài nghiên cứu kinh tế chính trị nhƣng lại trên địa bàn tỉnh khác. Đến nay, ở Hải Dƣơng chƣa có công trình khoa học nào dƣới góc độ kinh tế chính trị nghiên cứu về tác động của khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng. Đề tài mà học viên lựa chọn nghiên cứu không trùng với các công trình khoa học đã công bố. 3
  9. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản, luận văn đánh giá tác động của khu công nghiệp (bao gồm các khu công nghiệp, khu chế xuất và cụm công nghiệp) để đề xuất phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và ngăn ngừa những tiêu cực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dƣơng - Nhiệm vụ: + Hệ thống hoá cơ sở lý luận, thực tiễn về tác động của các khu công nghiệp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn một tỉnh. + Đánh giá thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dƣơng. + Đề xuất phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm phát huy tốt mặt tích cực và ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình phát triển các khu công nghiệp này. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu tác động của các khu công nghiệp (gồm khu công nghiệp, khu chế xuất và cụm công nghiệp) đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dƣơng . - Phạm vi nghiên cứu: + Về không gian: địa bàn tỉnh Hải Dƣơng + Về thời gian: từ khi triển khai xây dựng và phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dƣơng (từ 1997 đến nay). 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm đổi mới của Đảng Cộng 4
  10. sản Việt Nam và những lý thuyết về công nghiệp hoá và đầu tƣ trong nền kinh tế thị trƣờng. - Luận văn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị học trong đó coi trọng phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê từ tƣ liệu thực tiễn. 6. Những đóng góp mới của luận văn - Khái quát cơ sở lý luận về tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. - Phân tích, đánh giá thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng từ năm 1997 đến nay. - Đề xuất phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, khắc phục ngăn ngừa những tiêu cực trong quá trình phát triển khu công nghiệp ở Hải Dƣơng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; luận văn đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng, 7 tiết. Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Chương 2: Thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hải Dương Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương 5
  11. Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 1.1. Khu công nghiệp và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 1.1.1. Khu công nghiệp Vào những năm cuối thế kỷ XIX, KCN đã đƣợc hình thành ở một số nƣớc tƣ bản phát triển. Năm 1896, xuất hiện KCN đầu tiên ở Traffort Park thành phố Manchester nƣớc Anh. Sau đó, KCN lần lƣợt đƣợc thành lập ở các nƣớc khác nhƣ Mỹ năm 1899, Italia năm 1904, và kể từ những năm 50 của thế kỷ XX thì KCN thực sự bùng nổ, trở thành phổ biến ở các nƣớc. Trong quá trình phát triển đó, KCN đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực nên nó đƣợc coi là một công cụ để phát triển kinh tế. Ngày nay, KCN xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mặc dù thuật ngữ KCN đƣợc sử dụng khá phổ biến nhƣng bản thân nó lại bao hàm nhiều hình thức tổ chức và tính chất hoạt động khác nhau. Theo nghĩa thông thƣờng, KCN là khu vực có tính chất độc lập tập trung nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Các KCN ra đời là kết quả của việc xây dựng các doanh nghiệp công nghiệp riêng rẽ. Xen lẫn với các doanh nghiệp công nghiệp là khu dân cƣ hoặc các cơ quan hành chính sự nghiệp các doanh nghiệp thuộc ngành khác… nghĩa là KCN chuyên sản xuất hàng dành cho xuất khẩu. Ở đó, chính quyền đã áp dụng nhiều chính sách ƣu đãi nhƣ miễn thuế và tự do mua bán. Tuy nhiên, đến nay ở các nƣớc khác nhau có những quan niệm khác nhau về KCN. Có quan niệm cho rằng, KCN là một vùng đất đƣợc phân chia và phát triển hệ thống theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung cấp địa điểm cho các ngành công nghiệp tƣơng hợp với hạ tầng cơ sở, các tiện ích công cộng, các dịch vụ phục vụ và hỗ trợ [14, tr.15]. 6
  12. Ở Thái Lan và Philippin, KCN đƣợc quan niệm nhƣ một thành phố công nghiệp và thực tế nó là một cộng đồng tƣơng đối độc lập. Ngoài việc cung cấp kết cấu hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích công cộng hoàn chỉnh và xử lý chất thải, KCN cũng bao gồm khu thƣơng mại, dịch vụ ngân hàng, trƣờng học, bệnh viện, các khu vui chơi, giải trí, khu nhà ở cho công nhân… Các KCN ở Thái Lan và Inđônêxia thƣờng có 3 bộ phận chủ yếu: Khu sản xuất hàng tiêu thụ nội địa, khu sản xuất hàng xuất khẩu và khu thƣơng mại dịch vụ. Có quan niệm lại cho rằng, KCN là một khu vực phụ, không nhất thiết phải có sự ngăn cách biệt lập bởi trên thực tế có nhiều tập đoàn và tổ hợp công nghiệp với một chuỗi đồ sộ các xí nghiệp, nhà máy liên kết với nhau trên một khu vực rộng lớn. Việc bố trí mặt hàng các khu sản xuất trên quy mô lớn nhƣ quy mô đặc thù. [27, tr.30-31, 33]. Theo quan điểm của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) trong tài liệu KCX ở các nƣớc đang phát triển công bố năm 1990, thì KCN là khu vực tƣơng đối nhỏ, phân cách về mặt địa lý trong một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tƣ vào các ngành công nghiệp hƣớng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều kiện về đầu tƣ mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nƣớc chủ nhà. Trong đó đặc biệt là KCX cho phép nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản xuất để xuất khẩu miễn thuế [43, tr.18]. Tuy những quan niệm trên có một số khác nhau về nội hàm KCN, KCX, song về cơ bản đều thống nhất ở những đặc trƣng sau: Thứ nhất, KCN là nơi hội tụ và thích ứng với nhau về mặt lợi ích và mục tiêu xác định giữa chủ đầu tƣ và nƣớc chủ nhà. KCN là nơi có môi trƣờng kinh doanh đặc biệt phù hợp, đƣợc hƣởng những quy chế tự do, các chính sách ƣu đãi kinh tế (đặc biệt là thuế quan) so với các vùng khác ở nội địa. Chúng là nơi có vị trí thuận lợi cho việc phát triển sản xuất, thƣơng mại, đầu tƣ trên cơ sở chính sách ƣu đãi về kết cấu hạ tầng, cơ chế pháp lý, thủ tục hải quan, thủ tục hành chính, chính sách tài chính tiền tệ, môi trƣờng đầu tƣ… 7
  13. Thứ hai, KCN là bộ phận không thể thiếu và không thể tách rời trong sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Nó thƣờng là những khu vực có vị trí địa lý riêng biệt thích hợp, có hàng rào xung quanh, giới hạn với các vùng lãnh thổ còn lại của nƣớc sở tại và đƣợc Chính phủ nƣớc đó cho phép hoặc rút phép xây dựng và phát triển. Thứ ba, KCN là nơi thực hiện mục tiêu hàng đầu về ƣu tiên chính sách hƣớng ngoại, thu hút chủ yếu vốn đầu tƣ nƣớc ngoài vào phát triển các loại hình sản xuất kinh doanh phục vụ xuất khẩu. Đây là mô hình thu nhỏ về chính sách KT - XH mở cửa của một nƣớc. Ở Việt Nam, khái niệm về KCN đƣợc ghi trong Nghị định 192/CP ngày 15/12/1994 của Chính phủ về quy chế KCN. Các KCN đƣợc định nghĩa là khu vực công nghiệp tập trung, đƣợc thành lập do quyết định của Chính phủ với các ranh giới đƣợc xác định, cung ứng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và không có dân cƣ. Có thể thấy rằng KCN là những địa bàn sản xuất công nghiệp gồm nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có dân cƣ sinh sống, có ranh giới pháp lý riêng, có Ban quản lý riêng do Chính phủ thành lập. Về kết cấu hạ tầng, KCN đƣợc cung cấp đầy đủ các yếu tố hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đạt các tiêu chuẩn quy định phục vụ trực tiếp cho hoạt động các doanh nghiệp công nghiệp. Về cơ cấu ngành, trong KCN có cả các ngành truyền thống mà trong nƣớc có lợi thế so sánh và cả các ngành công nghiệp mới nhƣ điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ lắp ráp…So với KCX, KCN thƣờng có phạm vi hoạt động rộng lớn hơn. Nó không chỉ bao gồm các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và dịch vụ cho xuất khẩu mà còn mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp bao gồm cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nƣớc. Các doanh nghiệp 100% vốn trong nƣớc có thể đƣợc hoạt động tại KCN, khác với KCX chỉ liên kết với các công ty có vốn nƣớc ngoài. Các ƣu đãi từ phía Chính phủ cũng đƣợc thực hiện đối với doanh nghiệp trong KCN 8
  14. chú trọng tới việc sản xuất hàng xuất khẩu, do đó những doanh nghiệp này sẽ đƣợc hƣởng chế độ ƣu đãi nhƣ trong KCX và cũng sẽ đƣợc hƣởng ƣu đãi nhƣ trong KCN. KCX là khu vực thu hút các dự án đầu tƣ nƣớc ngoài để xuất khẩu. Quan hệ giữa các doanh nghiệp chế xuất với thị trƣờng nội địa là quan hệ ngoại thƣơng cũng giống nhƣ quan hệ giữa thị trƣờng trong nƣớc và thị trƣờng nƣớc ngoài. KCX là khu thƣơng mại tự do, bởi vì hàng hoá từ KCX ra nƣớc ngoài và từ nƣớc ngoài vào KCX không phải chịu thuế xuất nhập khẩu và ít bị ràng buộc bởi hàng rào phi thuế quan. Còn quan hệ giữa các doanh nghiệp KCN với thị trƣờng nội địa là quan hệ nội thƣơng (trừ doanh nghiệp chế xuất trong KCN đƣợc hƣởng ƣu đãi nhƣ doanh nghiệp trong KCX). KCN không phải là khu thƣơng mại tự do mà là khu sản xuất tập trung. Đối với nƣớc sở tại, thì KCX có nhiều mặt lợi hơn so với KCN. Điều này có thể lý giải bởi các lý do sau đây: - Doanh nghiệp chế xuất không đƣợc trực tiếp sử dụng thị trƣờng nội địa nên nhìn chung là không cạnh tranh với sản xuất trong nƣớc. - Nhà nƣớc không lo cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp mà ngƣợc lại, nguồn ngoại tệ của xã hội lại tăng lên nhanh chóng nhờ hoạt động của KCX. - Thúc đẩy việc mở cửa thị trƣờng nội địa nhanh hơn, phù hợp với chủ trƣơng xây dựng nền kinh tế mở hƣớng mạnh về xuất khẩu. Tuy nhiên những gì đƣợc coi là có lợi cho nƣớc sở tại thì ngƣợc lại là bất lợi cho nhà đầu tƣ. Để có thể xuất khẩu đƣợc 100% sản phẩm, việc tổ chức sản xuất phải đạt chất lƣợng cao, đồng đều, giá cả hợp lý, phù hợp với điều kiện cạnh tranh của thị trƣờng quốc tế. Do các bất lợi trên mà nhà đầu tƣ nƣớc ngoài thƣờng quan tâm đến hình thức KCN, nhằm tận dụng lợi thế về thị trƣờng nội địa. Điều này nghĩa là việc xây dựng thành công các KCX thƣờng gặp khó khăn hơn là KCN. Việc các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài coi trọng mô hình KCN là có căn nguyên riêng của nó, nhƣng cần phải thấy đƣợc một vấn đề là nếu một quốc gia có quá nhiều KCN hoạt động sẽ có hàng nghìn doanh 9
  15. nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chủ yếu do nƣớc ngoài đầu tƣ. Điều này sẽ tạo ra hiện tƣợng cạnh tranh gay gắt không cần thiết trên thị trƣờng nội địa. Để khuyến khích đầu tƣ vào KCX, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nƣớc theo tinh thần khuyến khích mạnh hơn, ƣu đãi nhiều hơn cho KCX, làm cho nó có sức hấp dẫn cao hơn đối với các nhà đầu tƣ so với KCN. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng của các KCN và KCX là không ít khó khăn, nhƣng việc kêu gọi các doanh nghiệp đầu tƣ vào địa bàn này là khó khăn hơn nhiều. Chất lƣợng của một KCN hay KCX phụ thuộc nhiều vào chất lƣợng của các dự án đã thu hút đƣợc. Nhƣ vậy, KCN và KCX có những đặc điểm khác nhau xuất phát từ sự khác nhau về mục đích, đối tƣợng tham gia hay mối liên kết của chúng đối với nền kinh tế. KCN thƣờng đƣợc nhận một sự ƣu tiên nhất định từ phia chính quyền địa phƣơng và Chính phủ với vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế vùng (địa phƣơng), KCN bao gồm những doanh nghiệp trong nƣớc và doanh nghiệp nƣớc ngoài. KCX cũng đƣợc xác định là KCN nhƣng tập trung những doanh nghiệp chuyên sản xuất chế biến các hàng xuất khẩu, đƣợc sự ƣu tiên đặc biệt của Chính phủ, có vai trò then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở. Theo Nghị định 36/CP của Chính phủ về khái niệm KCN thì “KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ quyết định thành lập”. Đây là một khái niệm động gắn liền với điều kiện cụ thể nơi nó hình thành. Tuy vậy, có thể coi khái niệm mà chúng ta sử dụng là khái niệm hẹp và chỉ quan tâm chủ yếu đến phần diện tích dành cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng để cho thuê, còn việc xây dựng các công trình phúc lợi xã hội không nằm trong phạm vi quy định. Quan niệm này dẫn đến một thực tế là khi xây dựng KCN, ngƣời ta không quan tâm đến tính đồng bộ của nó theo nghĩa rộng nên 10
  16. ảnh hƣởng lớn đến hiệu quả KT - XH của KCN. Cho nên việc quy hoạch phát triển sản xuất nhất thiết phải đi kèm quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng xã hội. Hiện nay ở nƣớc ta đã xuất hiện hàng trăm các KCN vừa và nhỏ do Trung ƣơng thành lập và các cụm CN ở các địa phƣơng của chính quyền địa phƣơng (cấp tỉnh, thành phố). Mặc dù có một số đặc điểm đặc thù nhƣ quy mô thƣờng nhỏ hơn, ảnh hƣởng hẹp hơn nhƣng về bản chất không có sự khác biệt so với các KCN của Trung ƣơng. Trong đề tài, khái niệm KCN đƣợc hiểu bao gồm cả KCN do Trung ƣơng thành lập, quản lý và cả các cụm CN do chính quyền địa phƣơng thành lập. Nói tóm lại, sự ra đời của các KCN nhằm mục đích cung cấp các điều kiện về kết cấu hạ tầng tốt nhất cho việc xây dựng và vận hành của các cơ sở sản xuất công nghiệp đặc biệt là hỗ trợ các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài khi đầu tƣ vào nƣớc sở tại sẽ có đƣợc đầy đủ điều kiện mặt bằng, đƣờng sá, hệ thống cung cấp điện nƣớc, hệ thống xử lý nƣớc thải…để sản xuất kinh doanh mang lại lợi ích cho cả hai phía. 1.1.2. Tác động của khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay KCN ở Việt Nam ra đời cùng với chính sách đổi mới mở cửa do Đại hội Đảng lần thứ VI khởi xƣớng. Hoạt động của các KCN trong thời gian qua đã đóng góp một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nƣớc. Đối với những nƣớc thuần nông nhƣ Việt Nam thì việc phát triển KCN trƣớc hết tạo tiền đề cho đô thị hóa nông thôn, tạo bƣớc chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới theo hƣớng phát triển công nghiệp, giải quyết việc làm cho lao động khu vực nông thôn. KCN cũng chính là cầu nối giữa nƣớc ta với thế giới bên ngoài, đóng vai trò tiên phong trong việc chuyển từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở cửa. Tuy nhiên sự phát triển của KCN trong thời gian qua cũng đang phá vỡ kết cấu xã hội nông thôn truyền thống, bộc lộ những bất cập trong giải quyết 11
  17. vấn đề môi trƣờng sinh thái, việc làm và thu nhập của ngƣời dân mất đất, sự quá tải của hệ thống kết cấu hạ tầng... 1.1.2.1. Những tác động tích cực của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh việc thực hiện công cuộc CNH, HĐH nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. CNH, HĐH đƣợc xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Quá trình CNH, HĐH đƣợc thực hiện trên cơ sở giải phóng sức sản xuất trong nƣớc, phát huy cao độ các nguồn lực trong nƣớc đồng thời tìm cách thu hút nguồn lực bên ngoài. Việc phát triển các KCN, KCX, KCN cao có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo ra những điều kiện, thể chế, môi trƣờng thuận lợi cho quá trình thu hút, sử dụng nguồn lực từ bên ngoài nhƣ vốn đầu tƣ, công nghệ tiên tiến, phƣơng thức quản lý hiện đại, trên cơ sở đó đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH. Việc phát triển KCN có những tác động tích cực sau: Một là, KCN là một địa điểm quan trọng để thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài, tập trung các doanh nghiệp công nghiệp vào một khu vực địa lý. Do có kết cấu hạ tầng hiện đại hơn và cơ chế quản lý thông thoáng hơn so với bên ngoài nên KCN trở thành một địa điểm để tập trung các doanh nghiệp sản xuất, chế biến công nghiệp, thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và trong nƣớc. Qua đó, tạo cơ hội đƣa nhanh kỹ thuật mới vào sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ: xây dựng các ngành công nghiệp mũi nhọn, nâng cao vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế, bảo đảm tốc độ tăng trƣởng kinh tế nhanh và bền vững. Trong điều kiện kết cấu hạ tầng của nền kinh tế còn thấp kém, đầu tƣ chƣa hoàn thiện thì việc xây dựng, phát triển KCN là phƣơng thức phù hợp nhằm tập trung đầu tƣ cho một số khu vực có ƣu thế hơn, giảm một cách đáng kể chi phí về vốn và khó khăn cho nhà đầu tƣ. 12
  18. KCN với những ƣu đãi đặc biệt về thủ tục hành chính, cơ chế quản lý, tài chính, thuế quan... so với sản xuất ở bên ngoài, nên nó trở thành môi trƣờng đầu tƣ hấp dẫn các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, thu hút đƣợc nguồn vốn đầu tƣ cả trong và ngoài nƣớc. Kết cấu hạ tầng trong KCN sẵn có và những chính sách ƣu đãi cùng với cơ chế quản lý đặc biệt, thủ tục đầu tƣ ngày càng đơn giản, thuận tiện hơn so với bên ngoài KCN sẽ giúp nhà đầu tƣ nhanh chóng triển khai dự án, tránh bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trƣờng, các doanh nghiệp tìm mọi cách tối thiểu hóa chi phí để đạt đƣợc giá thành rẻ nhất. KCN là địa bàn mà doanh nghiệp có thể thực hiện đƣợc điều đó. KCN đƣợc xây dựng tập trung theo chiều dọc, là nơi có nhiều đất trống, gần cảng, giao thông thuận lợi cho xe tải trọng lƣợng lớn ra vào, có mạng lƣới điện để cho nhà đầu tƣ có thể xây dựng và vận hành các nhà máy. KCN còn đƣợc trang bị kết cấu hạ tầng đầy đủ nên khi đầu tƣ vào thì các nhà đầu tƣ sản xuất sẽ giảm đƣợc rất nhiều chi phí nhƣ chi phí mua đất xây dựng nhà máy với giá cao, chi phí xây dựng hệ thống đƣờng dây tải điện, đƣờng giao thông vận tải vào nhà máy, thiết lập hệ thống thông tin liên lạc...Việc bố trí các nhà máy theo chiều dọc (sản phẩm của nhà máy này là nguyên liệu của nhà máy khác) và tập trung vào một khu vực nên các doanh nghiệp dễ dàng giải quyết đầu vào và đầu ra với chi phí thấp nhất. Do đó, các doanh nghiệp KCN có điều kiện thuận lợi hơn để đạt mục tiêu lợi nhuận các doanh nghiệp bên ngoài KCN nên KCN thƣờng hấp dẫn nhà đầu tƣ. Thực tế ở nƣớc ta cho thấy, KCN có vai trò tích cực vào việc thu hút vốn đầu tƣ đặc biệt là vốn FDI. Số dự án đầu tƣ cả trong và ngoài nƣớc vào các KCN chiếm một tỷ trọng khá lớn. Sự gia tăng vốn đầu tƣ vào các KCN góp phần quan trọng vào việc tăng tổng vốn đầu tƣ của toàn xã hội, đóng góp trực tiếp vàp việc tăng trƣởng và chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế. Mặt khác còn tác động, kích thích tăng đầu tƣ mới ở các doanh nghiệp ngoài KCN. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, riêng năm 2009, các KCN trên cả nƣớc đã thu 13
  19. hút đƣợc gần 9,4 tỷ USD vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, trong đó có 271 dự án mới với tổng số vốn đầu tƣ đăng ký đạt gần 7,5 tỷ USD và 236 lƣợt dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm đạt trên 1,6 tỷ USD. Tính đến nay, các KCN cả nƣớc đã thu hút đƣợc 3325 dự án có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài với tổng vốn đầu tƣ gần 39,3 tỷ USD. Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN trên cả nƣớc đạt gần 50%, riêng các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy gần 74% [49]. Bên cạnh đó, việc tập trung các doanh nghiệp vào một khu vực địa lý hình thành KCN tập trung là một vấn đề không kém phần quan trọng bởi trong KCN tập trung, các doanh nghiệp dùng chung công trình hạ tầng nên giảm đƣợc chi phí trên một đơn vị diện tích và một đơn vị sản phẩm, thực hiện phát triển công nghiệp theo một quy hoạch thống nhất, kết hợp quy hoạch ngành với quy hoạch lãnh thổ. Hơn nữa, việc tập trung các doanh nghiệp trong KCN tạo điều kiện dễ dàng hơn trong xử lý chất thải công nghiệp, bảo vệ môi trƣờng sinh thái, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Các doanh nghiệp công nghiệp có điều kiện thuận lợi hợp tác với nhau trong đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh. Hai là, tạo việc làm và thu nhập Sự hình thành và phát triển KCN không chỉ thu hút lao động vào các doanh nghiệp bên trong mà còn kích thích các hoạt động dịch vụ phát triển và thu hút vào các hoạt động này một số lớn các lao động khác. Số lao động này đƣợc tiếp xúc với công nghệ sản xuất hiện đại, phƣơng thức quản lý tiên tiến. Đây là điều kiện quan trọng để xây dựng đội ngũ lao động có kỷ luật, kỹ năng và năng suất lao động cao đáp ứng nhu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất nƣớc. Hơn nữa, để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp, nhiều KCN, KCX đã mở các cơ sở đào tạo nghề, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực trong KCN, KCX. Ở các địa phƣơng có KCN, tỷ lệ thất nghiệp giảm rõ 14
  20. rệt, điều đó có tác động tích cực đến xóa đói, giảm nghèo, góp phần làm giảm các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra. Ba là, KCN là địa bàn để tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại và phương pháp quản lý tiên tiến của các nước phát triển. Cùng với việc thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, việc tiếp thu công nghệ hiện đại và các phƣơng pháp quản lý tiên tiến của các nhà đầu tƣ đƣợc thực hiện tốt thông qua các KCN. Mặc dù trong những giai đoạn đầu hoạt động của các KCN, đầu tƣ nƣớc ngoài chủ yếu tập trung vào các ngành nhƣ dệt may, giày da, lắp ráp điện tử, nhƣng càng về sau thì việc đầu tƣ vào các lĩnh vực công nghệ hiện đại nhƣ đúc chính xác, sản xuất cơ khí, cáp điện, linh kiện điện tử… ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn cả về sản phẩm và kim ngạch xuất khẩu. Quá trình chuyển giao diễn ra dƣới nhiều hình thức: đào tạo công nhân nƣớc chủ nhà để sử dụng máy móc, thiết bị công nghệ… Bên cạnh đó, các doanh nghiệp KCN còn thu hút một lƣợng lớn ngƣời lao động Việt Nam vào các vị trí quản lý doanh nghiệp quan trọng, đội ngũ lao động này đƣợc tiếp xúc với phƣơng thức quản lý tiên tiến, kỹ năng marketing, quản lý tài chính, tổ chức nhân sự… Đội ngũ này khi chuyển đi làm việc tại các doanh nghiệp sẽ vừa áp dụng đƣợc phƣơng pháp quản lý tiên tiến đã tiếp thu đƣợc vào hoạt động của doanh nghiệp mình, vừa nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và truyền đạt những kiến thức quản lý cho ngƣời lao động Việt Nam khác. Bốn là, góp phần chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một nội dung cơ bản trong quá trình CNH, HĐH ở nƣớc ta bởi nó tạo điều kiện cho nền kinh tế vận động phù hợp với các quy luật khách quan, thúc đẩy phân công lao động xã hội, gắn sản xuất với nhu cầu thị trƣờng trong nƣớc và xu hƣớng toàn cầu hoá, khu vực hoá, mở cửa và hội nhập kinh tế, giúp khai thác tối đa mọi nguồn lực, tiềm 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2