intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Cơ hội phát triển của Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) tại thị trường Mỹ Latinh trong bối cảnh toàn cầu hoá

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:100

44
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn được nghiên cứu với mục tiêu nhằm phân tích những cơ hội phát triển của Viettel tại thị trường Mỹ La tinh và đánh giá kết quả mà Viettel đã đạt được khi tận dụng các cơ hội đó. Đưa ra một số bài học kinh nghiệm nhằm giúp Viettel tận dụng tốt hơn các cơ hội phát triển và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam khác đang có ý định đầu tư ra nước ngoài nói chung và thị trường Mỹ La tinh nói riêng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Cơ hội phát triển của Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) tại thị trường Mỹ Latinh trong bối cảnh toàn cầu hoá

  1. 1 MỤC LỤC: DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 2.1: Tình hình tăng trưởng thuê bao di động tại Haiti giai đoạn 2005 2015........ ………………………………………………………………………….....38 Hình 2.2: Tình hình tăng trưởng thuê bao di động tại Peru giai đoạn 2005­2015….. …………………………………………………………………………...…40 Hình   2.3:   Tình   hình   tăng   trưởng   thuê   bao   di   động   của   Natcom   2011­2020....... …………………………………………………………………………......44 Hình   2.4:   Thị   phần   thị   trường   viễn   thông   Haiti   các   năm   2011­2016……. ……………………………………………………………………………45 Hình 2.5: Mức tiêu dùng trung bình của khách hàng Viettel tại thị trường Haiti và   Việt   Nam   . ……………………………………………………………………….....46 Hình   2.6:   Tình   hình   tăng   trưởng   thuê   bao   di   động   của   Bitel   2014­2020... …...................................................................................................................47 Hình   2.7:   Thị   phần   thị   trường   viễn   thông   Peru   các   năm   2014­2016... …...................................................................................................................48 Hình 2.8: Mức tiêu dùng trung bình của khách hàng Viettel tại thị trường Peru và   Việt Nam……..……………………………………………………....…................49 Hình 2.9: Doanh thu và lợi nhuận của Viettel tại thị trường Mỹ La tinh giai đoạn  2011­2015...….........................................................................................................50
  2. 2 Hình 2.10: Cơ  cấu doanh thu và lợi nhuận tại các thị  trường nước ngoài của  Viettel   năm   2013... …...........................................................................................................51 Hình 2.11: Tổng chi phí nhân công năm 2013 của một số nước thuộc khu vực Mỹ  La tinh (USD)...…....................................................................................................53 Hình 2.12: Thu nhập trung bình tháng trong năm 2016 của người lao động Peru và  Việt Nam (USD)…………………………………………………………...............56 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương  ARPU Mức tiêu dùng trung bình của 01 thuê bao di động ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Hiệp định thương mại tự do giữa Mỹ, Cộng hòa Dominic và các  CAFTA­DR nước Trung Mỹ CMEP Ủy ban Hiện đại hóa Doanh nghiệp nhà nước Haiti EU Liên Minh Châu Âu FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài FITEL Quỹ Đầu tư Viễn thông GATT Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch GDP Tổng sản phẩm quốc nội GSMA Hiệp hội thông tin di động toàn cầu IMF Qũy Tiền tệ quốc tế M&A Mua bán và Sáp nhập MTC Bộ Giao thông Vận tải và Truyền thông Peru NAFTA Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OSIPTEL Cơ quan giám sát đầu tư tư nhân vào lĩnh vực viễn thông của Peru TPP Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương
  3. 3 UNCTAD Tổ chức thương mại và phát triển thuộc Liên hợp quốc WTO Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bài luận văn đi vào nghiên cứu những khái niệm, lý luận chung nhất về toàn   cầu hoá, toàn cầu hoá kinh tế  và những cơ  hội phát triển mà doanh nghiệp có   được tiến hành đầu tư  ra nước ngoài trong bối cảnh toàn cầu hoá.  Từ  cơ  sở  lý  thuyết đã tìm hiểu được từ  các tài liệu cũng như  các bài nghiên cứu trước đó  trong cùng lĩnh vực, sau đó vận dụng và đặt ra các giả thuyết về trường hợp của   Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) khi đầu tư tại thị trường Mỹ La tinh, kết   hợp với phân tích các dữ  liệu thu thập được, tác giả  đã rút ra một số  kết luận   như sau Thứ  nhất, khi tiến hành đầu tư  vào thị  trường Mỹ  La tinh trong bối cảnh   toàn cầu hóa, Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) đã có được  cơ  hội mở  rộng thị  trường, cơ  hội đưa dịch vụ  của mình đến phục vụ  những đối tượng   khách hàng mới. Tại 2 thị trường Haiti và Peru, Viettel đã xây dựng được 7 triệu   thuê bao di động với mức tiêu dùng trung bình cao hơn các khách hàng trong   nước. Dự kiến đến năm 2020, thị trường Mỹ La tinh sẽ mang về cho Viettel thêm  3 triệu thuê bao mới nữa, nâng tổng số khách hàng sử dụng dịch vụ tại thị trường   này lên 10 triệu thuê bao. Thứ  hai, khi đầu tư  vào thị  trường Mỹ  La tinh, Viettel có được cơ  hội tiếp  cận và tận dụng nguồn lao động dồi dào và trẻ   (thị  trường Haiti với 10 triệu   người, thị trường Peru với hơn 31 triệu người với 65% dân số nằm trong độ tuổi   lao động), chất lượng cao (lao động Peru có trình độ học vấn cao cũng như kinh   nghiệm chuyên môn tốt, lao động Haiti có sự  nhiệt tình, chăm chỉ  và tính năng  động cao) và giá thành cạnh tranh hơn thị trường trong nước (với  nguồn lao động 
  4. 4 tại thị trường Haiti), giúp cho Viettel tiết kiệm được một lượng đáng kể  chi phí,  nâng cao năng lực cạnh tranh của thị trường này cao hơn các thị  trường khác mà   Viettel đang đầu tư. Thứ ba, Viettel có được cơ hội tiết kiệm chi phí giao dịch, bao gồm chi phí  chính thống như  chi phí đóng thuế  nhập khẩu, chi phí luân chuyển vốn quốc tế  hoặc giao dịch tài chính ... và chi phí phi chính thống như chi phí vận động hành  lang do được hưởng  ưu đãi từ  chính sách khuyến  khích đầu  tư  thông thoáng,  minh bạch và công bằng như cơ chế thuế  ổn định, cạnh tranh tự do không phân  biệt nhà mạng trong hay ngoài nước…. Thứ  tư, chiến lược đầu tư  vào thị  trường Mỹ  La tinh giữa muôn vàn khó   khăn đã mang lại cho Viettel cơ hội nâng cao uy tín, củng cố niềm tin của khách  hàng vào năng lực của bản thân doanh nghiêp không chỉ tại thị trường Việt Nam  mà cả trên thị trường quốc tế, cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh với các nhà   mạng hàng đầu thế giới, góp phần không nhỏ để chuẩn bị cho những chiến lược  đầu tư dài hạn, hướng đến các thị trường lớn như Mỹ và châu Âu. Sau khi nghiên cứu, phân tích trường hợp của Viettel tại thị trường Mỹ La   tinh, bài luận văn cũng đã rút ra một số bài học kinh nghiệm nhằm mục tiêu giúp  bản thân Viettel tận dụng tốt hơn các cơ  hội phát triển khi hoạt động tại thị  trường nước ngoài, đồng thời giúp các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam khác  xây dựng chiến lược đầu tư ra nước ngoài nói chung và thị trường Mỹ La tinh nói  riêng.
  5. 5 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Không ai có thể  phủ  nhận rằng toàn cầu hóa đang là xu hướng phổ  biến  nhất trong nền kinh tế  thế  giới hiện nay. Theo Charles W.L. Hill trong cu ốn   Global Business Today (2008), chúng ta đang vận động từ  một thế  giới của các   nền kinh tế đóng sang một thế giới mới mà ở đó các rào cản đối với thương mại   và đầu tư  quốc tế  được xóa bỏ, khoảng cách giữa các quốc gia được rút ngắn  nhờ  sự  phát triển của giao thông và công nghệ  thông tin, nền văn hóa giữa các   nước bắt đầu trở  nên tương tự nhau, và các nền kinh tế  riêng lẻ  của từng quốc  gia đang dần nhập lại thành một hệ thống kinh tế toàn cầu, có mối liên hệ  mật  thiết và gắn bó với nhau. Từ những sự thay đổi đang diễn ra trong nền kinh tế  toàn cầu, có thể  thấy rằng toàn cầu hoá có tác động mạnh mẽ  đến tất cả  các   quốc gia và dân tộc trên toàn thế  giới bởi quá trình này tạo ra cho các nước rất   nhiều cơ hội phát triển về kinh tế, xã hội, kỹ thuật và công nghệ.  Việt Nam cũng không nằm ngoài dòng chảy tự nhiên đó. Kể từ sau quá trình   cải cách toàn diện đất nước bắt đầu từ  năm 1986, Việt Nam đã chuyển đổi từ  nền kinh tế đóng sang nền kinh tế thị trường và ngày càng hội nhập hơn với nền 
  6. 6 kinh tế thế giới. Việc gia nhập vào Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (1996), Tổ  chức Thương mại Thế  giới (2007) và mới đây nhất là Hiệp định đối tác xuyên  Thái Bình Dương (2016) cùng hàng loạt các hiệp định thương mại tự  do song  phương khác đã, đang và sẽ  có những tác động mạnh mẽ  đến nền kinh tế  Việt   Nam. Là một trong những bộ  phận chính cấu thành nên nền kinh tế, các doanh  nghiệp Việt Nam, bất kể quy mô lớn hay nhỏ cũng đều sẽ chịu ảnh hưởng trực   tiếp của quá trình toàn cầu hoá, nếu là ảnh hưởng tích cực thì có thể tận dụng để  tối đa hoá lợi nhuận, nâng cao vị thế, nhưng nếu là ảnh hưởng tiêu cực thì có thể  sẽ dẫn tới thất bại.    Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu về những tác động, những cơ hội mà toàn  cầu hoá mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam khi hoạt động tại thị  trường  trong  nước   như   cơ   hội  thu  hút   nguồn  vốn  đầu  tư   nước   ngoài,   cơ   hội  được  chuyển giao công nghệ  hiện đại hơn từ  các nước đang phát triển… Tuy nhiên,   vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về  các cơ  hội phát triển của doanh nghiệp khi   hoạt động kinh doanh trực tiếp tại thị trường nước ngoài dưới hình thức đầu tư.  Trong khi đó, Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) là một trong những đơn vị  tiên phong trong hoạt động này và thị  trường Mỹ  Latinh là một thị  trường tiềm  năng với 33 quốc gia và dân số hơn 600 triệu người. Do đó, tác giả đã chọn đề tài  “Cơ hội phát triển của Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) tại thị trường Mỹ  Latinh trong bối cảnh toàn cầu hoá” làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu: Với tầm ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của toàn cầu hoá đối với hoạt động  kinh doanh của các quốc gia nói chung và các doanh nghiệp nói riêng thì việc   phân tích các cơ hội cũng như thách thức mà doanh nghiệp phải đối mặt khi tiến   ra thị trường nước ngoài đang dần trở thành một trong những đề  tài được nhiều  nhà khoa học, giới chuyên môn và nhiều tác giả  trong và ngoài nước quan tâm   nghiên cứu. Tình hình nghiên cứu trên thế giới:
  7. 7 ­ Daniels, John D. và Bracker, Jeffrey, Profit Performance: Do Foreign   Operations Make a Difference?, NXB Springer, Mỹ 1989. Công trình nghiên cứu này đi sâu vào nghiên cứu một số  doanh nghiệp cụ  thể  để  trả  lời hai câu hỏi chính: Liệu rằng lợi nhuận của một doanh nghiệp có  khả năng cao hơn nếu như họ mở rộng hoạt động kinh doanh ra thị trường nước  ngoài? Lợi nhuận của doanh nghiệp đó sẽ  cao hơn khi mức độ  phụ  thuộc vào  doanh số  từ  thị  trường nước ngoài của họ  càng cao? Kết quả  nghiên cứu của  công trình này là nguồn tham khảo hữu ích cho một số giả thuyết được đặt ra tại  bài luận văn này. ­ Dunning, John H. và Lundan, Sarianna M, Multinational Enterprises   and the   Global Economy,  NXB  Edward  Elgar  Publishing  Limited,   Anh  2008. Công trình nghiên cứu này chủ  yếu nghiên cứu các vấn đề  xoay quanh các  doanh nghiệp đa quốc gia, cụ thể: định nghĩa và các khía cạnh của đầu tư  nước  ngoài, các lý do thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động theo chính sách đa quốc gia, các  yếu tố  tác động và  ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp tại thị  trường   nước ngoài, một số  chiến lược hoạt động của các doanh nghiệp đa quốc gia.  Công trình nghiên cứu cũng đưa ra các kiến nghị dành cho chính phủ và các doanh   nghiệp đa quốc gia nhằm giúp hoạt động đầu tư ra nước ngoài có hiệu quả hơn.  ­ Gutterman, Alan S. và Brown, Robert L., Going Global: A Guide to   Building an International Business, NXB Thomson/West, Mỹ 2011. Công trình nghiên cứu này đề cập đến tầm quan trọng của chiến lược kinh   doanh và hiểu biết về luật pháp khi một doanh nghiệp hoạt động tại thị  trường  nước ngoài và cách mà doanh nghiệp xây dựng cũng như  quản lý kinh doanh.   Bằng việc khái quát các vấn đề  liên quan đến pháp lý tại Mỹ  và các thị  trường   khác, công trình nghiên cứu là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với tác giả  trong phần phân tích hoạt động kinh doanh của Viettel tại thị trường Mỹ La tinh. 
  8. 8 Tình hình nghiên cứu trong nước: Liên quan đến đề  tài tác giả  đang nghiên cứu, có thể  kể  đến một số  công  trình của các tác giả sau: ­ Nguyễn Hoàng Hải, Tác động của toàn cầu hoá kinh tế  với doanh   nghiệp vừa và nhỏ   ở  Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại  học Ngoại thương, Hà Nội năm 2004. Đề tài này đã phân tích tác động của tiến trình toàn cầu hoá kinh tế đến các  yếu tố liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ, bao gồm các khía   cạnh về  năng lực cạnh tranh, chiến lược kinh doanh và môi trường hoạt động  của doanh nghiệp. Đề tài nghiên cứu đã đưa ra một số đề  xuất, giải pháp nhằm  nâng cao khả năng thích ứng của doanh nghiệp Việt Nam trước tác động của toàn  cầu hoá, đồng thời cũng đưa ra một số  kiến nghị  đối với cơ  quan quản lý Nhà   nước nhằm hỗ  trợ  tối đa các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập. Kết quả  nghiên cứu của đề  tài là nguồn tham khảo hữu ích cho việc xây dựng luận văn  này. ­ Dương Trà My, Thực trạng thâm nhập thị trường thế giới của các   doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá, Luận văn thạc sĩ  kinh tế, Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội năm 2008. Luận văn đã hệ thống hóa và luận giải một số cơ sở lý luận chung về toàn  cầu hoá cũng như đi sâu phân tích các tác động tích cực và tiêu cực của toàn cầu  hoá đối với các nền kinh tế  đang phát triển, từ  đó chỉ  ra những cơ  hội và thách   thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình thâm nhập thị trường thế  giới. Trên cơ  sở  phân tích những vấn đề  nổi cộm đang đặt ra ở  Việt Nam hiện   nay, luận văn đã rút ra một số bài học có giá trị tham khảo cho các doanh nghiệp  và cơ  quan quản lý Nhà nước nhằm mục tiêu hội nhập kinh tế  quốc tế  thành   công, đồng thời kiến nghị  các giải pháp lựa chọn nhằm hạn chế  tác động tiêu  cực và phát huy tác động tích cực của quá trình toàn cầu hoá.
  9. 9 Tất cả  các tài liệu, các công trình nghiên cứu nói trên đều đã chỉ  ra những  tác động hai chiều của toàn cầu hoá đối với doanh nghiệp và cũng rút ra một số  bài học khá hữu ích về việc xây dựng chiến lược kinh doanh tại thị trường nước   ngoài. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu mới chỉ  dừng lại  ở  tổng quan các doanh   nghiệp nói chung mà chưa đi sâu vào từng doanh nghiệp cụ thể. Do đó tác giả lựa  chọn đối tượng nghiên cứu là Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), có thể coi  là đơn vị tiêu biểu nhất trong công tác đầu tư  ra thị  trường nước ngoài và phạm   vi nghiên cứu là thị trường Mỹ La tinh, thị trường tiềm năng và cũng là thị trường   có khoảng cách địa lý xa nhất tính đến thời điểm hiện tại của Viettel. Trong quá  trình nghiên cứu, tác giả  sẽ  tiếp tục kế  thừa những thành quả  của những công   trình nghiên cứu trước đó, vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể tại Viettel, đồng thời  tiếp tục bổ sung các nội dung cần thiết để rút ra được những bài học, những giải  pháp hữu hiệu nhất cho bản thân Viettel cũng như các doanh nghiệp viễn thông   khác của Việt Nam khi hoạt động kinh doanh tại thị trường nước ngoài.  3. Mục đích của nghiên cứu:  Mục đích chính của bài nghiên cứu này nhằm: Thứ  nhất là hệ  thống hoá những kiến thức, lý luận chung nhất về  toàn cầu  hoá (bao gồm khái niệm, biểu hiện của toàn cầu hoá và toàn cầu hoá kinh tế,   những cơ hội phát triển đối với các doanh nghiệp khi đầu tư  ra nước ngoài trong   bối cảnh toàn cầu hoá).  Thứ  hai là phân tích những cơ  hội phát triển của Viettel tại thị trường Mỹ  La tinh và đánh giá kết quả mà Viettel đã đạt được khi tận dụng các cơ hội đó. Thứ ba là đưa ra một số bài học kinh nghiệm nhằm giúp Viettel tận dụng tốt   hơn các cơ hội phát triển và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp viễn thông  Việt Nam khác đang có ý định đầu tư ra nước ngoài nói chung và thị trường Mỹ La   tinh nói riêng. 4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu:
  10. 10 Để  đạt được mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn đi sâu vào trả  lời câu  hỏi: Viettel đã có được những cơ hội phát triển nào tại thị trường Mỹ La tinh và   họ đã tận dụng những cơ hội ấy như thế nào? Các giả thuyết nghiên cứu được đặt ra trong luận văn bao gồm:  Giả  thuyết 1: Tại thị trường Mỹ La tinh, Viettel có những cơ  hội mở  rộng   thị trường. Giả thuyết 2: Tại thị trường Mỹ La tinh, Viettel có những cơ hội duy trì khả  năng sinh ra lợi nhuận. Giả  thuyết 3: Tại thị trường Mỹ La tinh, Viettel có những cơ  hội tìm kiếm   và tận dụng các nguồn lực mới. Giả thuyết 4: Tại thị trường Mỹ La tinh, Viettel có những cơ hội tiết kiệm   chi phí sản xuất và kinh doanh. Giả  thuyết 5: Tại thị  trường Mỹ La tinh, Viettel có những cơ  hội nâng cao   uy tín và năng lực cạnh tranh. 5. Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động đầu tư và kinh doanh của Viettel tại thị trường Mỹ La tinh (bao   gồm hai quốc gia Haiti và Peru) từ năm 2010 đến nay.  6. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính. Đầu tiên, bài  sẽ tập trung nghiên cứu nguồn tài liệu thứ cấp liên quan đến khái niệm toàn cầu   hoá và các cơ  hội phát triển mà toàn cầu hoá mang lại cho các doanh nghiệp khi  triển khai đầu tư tại thị trường nước ngoài. Sau đó, tác giả sẽ thu thập các số liệu   liên quan đến hoạt động đầu tư  và kinh doanh của Viettel tại thị  trường Mỹ  La   tinh, phân tích và so sánh với cơ sở lý thuyết nói trên để trả lời câu hỏi nghiên cứu  và chứng minh giả thuyết nghiên cứu. Các tài liệu được sử dụng để làm cơ sở cho 
  11. 11 bài luận văn này là các nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, các bài báo  và báo cáo kết quả kinh doanh của Viettel. 7. Kết quả nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và phân tích, bài luận văn đã chứng  minh được giả thuyết 1, giả thuyết 3, giả thuyết 4 và giả thuyết 5 là phù hợp và  rút ra được các kết luận sau: Khi tiến hành đầu tư  vào thị  trường Mỹ  La tinh   trong bối cảnh toàn cầu hóa, Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) đã có được  (1) cơ hội mở rộng thị trường; (2) cơ hội tận dụng nguồn lao động dồi dào, chất  lượng cao và giá thành cạnh tranh hơn thị trường trong nước; (3) cơ hội tiết kiệm   chi phí giao dịch do được hưởng ưu đãi từ chính sách khuyến khích đầu tư và (4)  cơ hội nâng cao uy tín cũng như năng lực cạnh tranh. 8. Cấu trúc của luận văn Luận văn được chia thành 4 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý thuyết và giả thuyết Chương 2: Phân tích cơ hội phát triển của Tập đoàn Viễn thông Quân đội   (Viettel) tại thị trường Mỹ La tinh Chương 3: Bài học kinh nghiệm cho Viettel và các doanh nghiệp viễn thông   khác khi đầu tư ra thị trường nước ngoài CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. Tổng quan về toàn cầu hoá
  12. 12 1.1.1. Các quan niệm về toàn cầu hoá Toàn cầu hoá là một trong những vấn đề  quan trọng được tất cả  các quốc   gia trên thế giới quan tâm nhất hiện nay. Trong những năm gần đây, toàn cầu hoá  đã và đang chiếm vị trí trọng tâm trong rất nhiều nghiên cứu khoa học, cũng như  trong các diễn đàn, các cuộc thảo luận quốc tế. Tuỳ thuộc vào góc độ  tiếp cận  của người nghiên cứu, bản chất và tính chất của toàn cầu hoá lại được định   nghĩa theo những quan điểm khác nhau và cho đến nay vẫn chưa có một định  nghĩa nào chính xác hoàn toàn,  cũng như  được thừa nhận rộng rãi về  toàn cầu   hoá. Theo Roland Robertson  trong cuốn Globalization: Social Theory and Global  Culture (1992, tr.58), tiến trình toàn cầu hoá bắt đầu ở châu Âu từ đầu thế kỷ XV   và được mở  rộng phạm vi ra ngoài châu Âu từ  thế  kỷ  XVIII. Trong khi đó, hai  học   giả   Kevin   O'Rourke   và   Jeffrey   Williamson   đã   lập   luận   trong   cuốn   Globalization and History: The Evolution of a Nineteenth century Atlantic economy  (1999, tr.53) rằng toàn cầu hóa chỉ thực sự bắt đầu vào thế kỷ 19, khi chi phí vận  chuyển giảm đột ngột cho phép giá hàng hóa ở Châu Âu và Châu Á trùng hợp với  nhau. Thuật ngữ  “toàn cầu hoá” lần đầu tiên được đưa vào cuốn từ  điển tiếng   Anh của Webster (Hoa Kỳ) năm 1961 và đến những năm 1980 thì bắt đầu được   sử dụng rộng rãi (Nguyễn Văn Dân 2001, tr.14).   Theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Dân trong cuốn Những vấn đề của toàn cầu hoá  kinh tế  (2001, tr.15), nói một cách khái quát nhất thì có thể  định nghĩa toàn cầu  hoá là quá trình rút ngắn khoảng cách giữa các quốc gia, làm cho con người ngày  càng thấy mình sống trong một thế giới giống như một nơi chốn duy nhất, một  “ngôi làng toàn cầu” không biên giới. Thuật ngữ “Ngôi làng toàn cầu” được nhà  triết học, giáo sư Marshall McLuhan (Canada) nói đến trong cuốn Understanding  Media: The Extensions of Man (1964), khi đề  cập đến khía cạnh toàn cầu của  cuộc cách mạng thông tin.
  13. 13 Một trong những quan niệm nhận được nhiều sự đồng tình nhất là xem toàn  cầu hoá là biểu hiện, là kết quả của sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất   dẫn đến phá vỡ sự biệt lập của các quốc gia, tạo ra và làm tăng lên các mối quan  hệ gắn kết và tương tác, sự ảnh hưởng, tác động và phụ thuộc lẫn nhau giữa các  quốc gia, dân tộc trên quy mô toàn cầu trong sự vận động, phát triển. Với quan  niệm này thì toàn cầu hoá và quốc tế hoá chưa có sự phân biệt rõ ràng.  Một quan điểm khác lại cho rằng toàn cầu hóa là giai đoạn cao của quá trình  phát triển lực lượng sản xuất thế giới, là kết quả phát triển tất yếu của kinh tế  thị  trường và khoa học công nghệ, hay thực chất toàn cầu hoá chính là sự  tăng   trưởng của hoạt động kinh tế  nói chung đã vượt khỏi biên giới quốc gia và khu  vực. Toàn cầu hoá mang nội dung chủ  đạo là toàn cầu hoá kinh tế, phát triển   kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là động lực của toàn cầu hoá. Có thể thấy rằng quan   điểm này tập trung vào khía cạnh phát triển của lực lượng sản xuất khi xem xét  bản chất của toàn cầu hoá. Đúng là toàn cầu hóa phản ánh sự  phát triển lực  lượng sản xuất trên quy mô toàn cầu, song vấn đề  cơ  bản lại  ở  chỗ  bản chất  của các hoạt động kinh tế  này thì chưa được làm rõ. Vì vậy, hạn chế  của quan   điểm này là khó lý giải những hiện tượng phản đối, chống lại toàn cầu hóa (Vũ   Văn Hà 2001, tr. 513­514). Một quan điểm đáng chú ý khác cho rằng toàn cầu hóa là xu hướng bắt  nguồn từ bản chất của hệ thống kinh tế thị trường là hệ thống mở, không bị giới  hạn bởi các đường biên giới và ranh giới dân tộc, chủng tộc và tôn giáo, hay nói   cách khác, toàn cầu hóa là quá trình tự  nhiên đi tới cộng đồng toàn thế  giới của  những người lao động tự do và phát triển toàn diện (Vũ Văn Hà 2001, tr. 514). Theo định nghĩa mà Uỷ ban Châu Âu đưa ra vào năm 1997, “Toàn cầu hóa có   thể được định nghĩa như là một quá trình mà thông qua đó, thị trường và sản xuất   ở nhiều nước khác nhau đang trở nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhau do tính năng   động của việc buôn bán hàng hóa và dịch vụ cũng như do có sự lưu thông vốn tư 
  14. 14 bản và công nghệ” (Nguyễn Văn Dân 2001, tr.16). Đây không phải hiện tượng   mới mà là sự kế tục của một tiến trình đã được khơi mào từ khá lâu.  Từ  các quan điểm nêu trên có thể  rút ra một định nghĩa chung có tính tổng  quát hơn về toàn cầu hoá như sau: Toàn cầu hoá là một quá trình xã hội hóa ngày  càng sâu sắc sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cùng với  những mối quan hệ biện chứng giữa hai yếu tố này ở quy mô toàn cầu. Đó là quá   trình giao lưu và quốc tế  hóa trên mọi lĩnh vực của đời sống con người và đời   sống các quốc gia trong cộng đồng thế giới. Toàn cầu hóa không chỉ phản ánh sự  gia tăng của các mối quan hệ  phụ  thuộc lẫn nhau mà còn phản ánh quy mô của  các hoạt động liên quốc gia. Toàn cầu hóa chính là sự gia tăng mạnh mẽ các mối   quan hệ gắn kết, tác động phụ  thuộc lẫn nhau, là quá trình mở  rộng quy mô và   cường độ  của các hoạt động giữa các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên  phạm vi toàn cầu trong sự vận động phát triển (Nguyễn Hoàng Hải 2004, tr.5).    Toàn cầu hoá là một xu thế  tất yếu khách quan của thời đại và bị  chi phối   bởi sáu nhân tố cơ bản sau: Thứ  nhất là sự  phát triển của lực lượng sản xuất mà biểu hiện tập trung  nhất là ở sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Theo một luận điểm của Các Mác  trong cuốn Tuyên Ngôn của Đảng Cộng sản (1986, tr.47), các cuộc cách mạng   công nghiệp đã dẫn đến sự ra đời của thị  trường thế  giới, nơi mà các quốc gia,  dân tộc phát triển những mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Thứ hai là sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường. Có thể  thấy   rằng cơ  chế  kinh tế  thị  trường thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc tế  bằng cách tạo điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho quy  mô sản xuất không chỉ  bó hẹp trong phạm vi của một quốc gia mà mang tính  chất toàn cầu. Hiện nay, đa số các quốc gia đều thống nhất áp dụng một cơ chế  để xử lý các mối quan hệ kinh tế, đó là cơ chế thị trường với phương thức phân   bổ  nguồn lực từ sức lao động đến tư  liệu sản xuất. Đây chính là cơ  sở  gia tăng  của xu thế toàn cầu hoá.
  15. 15 Thứ  ba là sự  bành trướng của các công ty xuyên quốc gia. Nhờ  sự tiến bộ  khoa học công nghệ  và chính sách tự  do hóa thương mại, các nước có thể  dễ  dàng trao đổi các yếu tố  đầu vào của sản xuất kinh doanh như  vốn, máy móc,  nguyên nhiên liệu, nhân công..., từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty, tập   đoàn lớn thực hiện phân bổ  cơ  cấu sản xuất trên phạm vi toàn cầu thông qua  hình thức đầu tư ra nước ngoài mà vẫn duy trì được sự quản lý thống nhất. Các  công ty hoạt động theo hình thức này được gọi là công ty xuyên quốc gia. Bằng  việc đầu tư  và phân bổ  dây chuyền sản xuất kinh doanh  ở nhiều nước trên thế  giới và thực hiện các hoạt động lưu chuyển vốn, lưu chuyển hàng hoá dịch vụ,  các công ty này đã góp phần thúc đẩy thương mại toàn cầu và khu vực. Thứ  tư  là sự ra đời của các tổ  chức kinh tế  toàn cầu, các khối kinh tế  khu   vực   và   liên   khu   vực,   các   hiệp   định   kinh   tế   thương   mại   song   phương   và   đa  phương. Các tổ chức này vừa là kết quả, vừa là động lực của quá trình toàn cầu  hoá. Quá trình quốc tế  hoá phát triển dẫn đến việc cần phải hình thành các tổ  chức để  quản lý, điều phối các “luật chơi chung” mang tính toàn cầu giữa các  quốc gia. Sau đó, khi các tổ  chức quốc tế  ra đời sẽ  tác động đến bản thân các  quốc gia, buộc họ phải thay đổi để thích ứng. Thứ năm là vai trò của Chính phủ các nước trong việc quyết định, triển khai   các chính sách mở cửa, tự do hoá trên nhiều lĩnh vực như thương mại, tài chính,  đầu tư…, cho phép các yếu tố của quá trình sản xuất được lưu chuyển tự do, để  từ đó thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá. Thứ sáu, sự phát sinh của hàng loạt các vấn đề mang tính chất toàn cầu như  ô nhiễm môi trường, hiệu  ứng nhà kính, phá hủy tầng ôzôn, dịch bệnh, thiếu   nguồn nước…và sau này là tình trạng phân hóa giàu nghèo sâu sắc, mâu thuẫn về  thương mại và đầu tư trong quá trình cạnh tranh phát triển giữa các quốc gia. Các  vấn đề này đòi hỏi phải có sự phối hợp cố gắng của tất cả các quốc gia, do vậy  cũng làm gia tăng mối quan hệ giữa nhiều nước với nhau, mà thực chất chính là  một trong những biểu hiện rõ ràng nhất của quá trình toàn cầu hoá.
  16. 16 1.1.2. Khái niệm toàn cầu hoá kinh tế Toàn cầu hóa là xu hướng tất yếu khách quan diễn ra trên nhiều phương   diện khác nhau như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trong đó toàn cầu hoá kinh   tế là vấn đề nổi bật và chiếm vị trí trọng tâm trong các cuộc thảo luận, các diễn   đàn quốc tế hiện nay bởi trên thực tế, toàn cầu hoá kinh tế  vừa là cơ  sở, vừa là   động lực dẫn đến xu thế toàn cầu hoá trong các lĩnh vực khác.  Tương tự như Toàn cầu hoá, hiện cũng có rất nhiều quan điểm được đưa ra  để  định nghĩa khái niệm của toàn cầu hoá kinh tế. Có quan điểm cho rằng toàn   cầu hoá kinh tế là những mối quan hệ kinh tế vượt qua biên giới quốc gia, vươn   tới quy mô toàn thế giới, đạt trình độ và chất lượng mới. Một quan điểm khác lại  cho rằng thực chất của toàn cầu hoá (về kinh tế) là tự do hoá kinh tế và hội nhập  quốc tế, trước hết là về thương mại, đầu tư, dịch vụ….  Theo Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thắng trong bài nghiên cứu Toàn cầu hoá kinh  tế  ­ Đặc trưng và những biểu hiện chủ yếu trong cuốn Những vấn đề  của toàn  cầu hoá kinh tế  (2001), toàn cầu hoá kinh tế  là một quá trình quốc tế  hoá đời  sống kinh tế đã đạt đến trình độ  đưa vào lưu thông kinh tế  toàn cầu đến cả  các   khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, dựa trên sự phân công lao động toàn cầu,  thông qua các loại hình quan hệ kinh tế khác nhau giữa các nước và theo đó các   nền quốc gia xâm nhập và gắn bó chặt chẽ với nhau, chuyển hoá thành nền kinh   tế toàn cầu.    Các nhà kinh tế  thuộc Tổ  chức thương mại và phát triển thuộc Liên hợp  quốc (UNCTAD) cho rằng: “Toàn cầu hóa kinh tế liên hệ tới các luồng giao lưu   không ngừng tăng lên của hàng hóa và nguồn lực vượt qua biên giới giữa các  quốc gia cùng với hình thành các cấu trúc tổ  chức trên phạm vi toàn cầu, nhằm  quản lý các hoạt động và giao dịch kinh tế quốc tế không ngừng gia tăng đó”. Các chuyên gia Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cho rằng toàn   cầu hóa kinh tế là sự vận động tự do của các yếu tố sản xuất nhằm phân bổ tối   ưu các nguồn lực trên phạm vi toàn cầu. Theo quan điểm của Qũy Tiền tệ  quốc 
  17. 17 tế (IMF) thì toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng không ngừng các luồng mậu dịch,  vốn, kỹ  thuật với quy mô và hình thức phong phú, làm tăng sự  phụ  thuộc lẫn   nhau giữa các nền kinh tế trên thế giới. Từ  các quan điểm trên có thể  rút ra kết luận rằng khái niệm toàn cầu hoá   kinh tế chủ yếu xoay xung quanh ba vấn đề chính. Đó là sự phân công lao động   toàn cầu; sự tự do lưu chuyển của hàng hoá, dịch vụ và các nguồn lực sản xuất  như vốn, công nghệ, nhân công vượt ra ngoài biên giới quốc gia; và mối quan hệ  kinh tế ngày càng gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau của các nước trên toàn thế giới.  Theo Nguyễn Hoàng Hải trong bài nghiên cứu Tác động của toàn cầu hoá  kinh tế  với doanh nghiệp vừa và nhỏ   ở  Việt Nam (2004, tr.5), một số các thuật  ngữ  liên quan trực tiếp đến vấn đề  toàn cầu hoá kinh tế  có thể  kể  đến là: khu  vực hoá kinh tế và hội nhập kinh tế: ­ Khu vực hóa kinh tế có thể được hiểu như quá trình làm sâu sắc hơn nữa  các cơ  cấu kinh tế  phụ  thuộc lẫn nhau trong nội bộ  khu vực dưới bất kỳ một   hình thức nào, thông qua trao đổi thương mại, đầu tư  trực tiếp hoặc qua những   dòng người di cư và di chuyển lao động. Các yếu tố của khu vực hóa kinh tế là  tự do mậu dịch, di chuyển dòng vốn, mở rộng phân công và hợp tác lao động qua  biên giới, phát triển cơ sở hạ tầng chung (vận tải, thông tin liên lạc,...) thiết lập   cơ  chế  kinh tế  mang tính đồng nhất nhằm tăng cường khả  năng cạnh tranh các  yếu tố sản xuất của nền kinh tế khu vực và của mỗi nước. Khu vực hóa kinh tế  có thể  được xem là một bộ  phận của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, là những   bước đi để tiến tới toàn cầu hóa kinh tế.  ­ Hội nhập kinh tế là sự chủ động tham gia tích cực của một quốc gia vào   quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế thông qua nỗ lực tự do hóa và mở  cửa trên các cấp độ  đơn phương, song phương và đa phương nhưng vẫn giữ  được sự  kiểm soát và bản sắc riêng của nền kinh tế. Tính chủ  động hội nhập  kinh tế của một quốc gia thường được biểu hiện như sau: 
  18. 18 Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của hàng hóa ­ dịch vụ của các  doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế. Nhà nước kiểm soát được dòng vốn đầu tư nước ngoài. Chính sách tự do hóa thương mại phục vụ trước hết cho lợi ích phát  triển quốc gia. Nhà nước kiểm soát di cư lao động. Thiết chế quản lý nền kinh tế dựa vào những thế mạnh của bản sắc dân  tộc. 1.1.3. Nội dung và biểu hiện của toàn cầu hoá kinh tế Toàn cầu hóa kinh tế được thể  hiện chủ  yếu  ở hai bình diện: mở  rộng địa  bàn sản xuất và mở rộng thị trường tiêu thụ. Và liên quan đến hai bình diện đó là   các quá trình tự  do hóa hoạt động kinh tế  mà trong đó nổi bật lên các quá trình  chính là tự do hóa thương mại, tự do hóa tài chính và tự  do hóa đầu tư  (Nguyễn  Văn Dân 2001, tr.17). Quan điểm này cũng tương tự  như  quan điểm của O.T.   Bogomolov trong cuốn Thách thức đối với trật tự thế giới – toàn cầu hóa kinh tế  không giải quyết được những vấn đề giữa các quốc gia và những vấn đề xã hội  của nhân loại (2000).  Ông cho rằng “những đặc trưng nổi bật của toàn cầu hóa   kinh tế chính là sự liên kết trong các hoạt động kinh tế  quốc tế mà bao trùm lên  tất cả là các dòng trao đổi thương mại, hàng hóa và dịch vụ, các dòng vốn và đầu   tư trực tiếp”. Như vậy, để có cái nhìn rõ ràng hơn về các biểu hiện của quá trình 
  19. 19 toàn cầu hóa kinh tế, chúng ta sẽ đề cập đến khái niệm và nội dung cụ  thể của  ba xu hướng tự do hóa thương mại, tài chính và đầu tư.  1.1.3.1. Tự do hóa thương mại: Theo Từ  điển Chính sách thương mại quốc tế  của Trung tâm nghiên cứu   kinh tế quốc tế (Đại học Adelaide, Australia), tự do hoá thương mại là thuật ngữ  dùng để  chỉ  hoạt động loại bỏ  các cản trở  hiện hành đối với thương mại hàng  hoá và dịch vụ. Theo khái niệm này, nếu đặt trong bối cảnh thương mại quốc tế  thì tự do hoá thương mại chính là quá trình hướng tới xoá bỏ sự phân biệt đối xử  giữa hàng hoá trong nước và hàng nhập khẩu, tạo điều kiện cho sự  tự  do lưu  chuyển dòng hàng hoá liên biên giới giữa các quốc gia với nhau. Nói một cách khái quát, tự do hoá thương mại là hành động loại bỏ mọi cản  trở đối với các hoạt động giao thương quốc tế nhằm mục tiêu tạo điều kiện cho  thương mại quốc tế phát triển. Các rào cản gây trở ngại cho thương mại quốc tế  bao gồm: các rào cản thuế quan, phi thuế quan, các hàng rào kỹ thuật, và các rào   cản khác mang tính chính trị ­ xã hội. Tự do hoá thương mại chính là việc loại bỏ  các rào cản nêu trên (Lê Thị Bích Thủy 2007, tr.7­8). Thực tế cho thấy, trong quá trình thực hiện tự do hóa thương mại, tùy theo  điều kiện lịch sử và tình hình thực tế, mỗi quốc gia sẽ có những quyết định khác   nhau trong việc lựa chọn các biện pháp và cách thức triển khai phù hợp.  Hiện có rất nhiều biện pháp đang được nhiều nước sử  dụng để  loại bỏ  các rào cản đối với thương mại quốc tế. Một số biện pháp chính có thể nói đến như cắt  giảm thuế quan và tiến tới áp dụng mức thuế xuất nhập khẩu bằng 0%; loại bỏ hàng   rào phi thuế quan; giảm hạn chế đối với thương mại dịch vụ và đầu tư; thuế hóa   các biện pháp phi thuế quan; đảm bảo nguyên tắc đối xử công bằng, đối xử quốc   gia và tối huệ  quốc trong thương mại quốc tế; minh bạch và công khai hoá các  
  20. 20 chính sách pháp luật thương mại; hỗ  trợ  doanh nghiệp thực hiện một số  hoạt   động liên quan đến giao dịch thương mại như thủ tục hải quan, đăng ký sở  hữu  trí tuệ... Về các hình thức tự do hóa thương mại, hiện các quốc gia trên thế giới đang   áp dụng khá nhiều loại hình phong phú khác nhau, tuy nhiên xét trên phạm vi toàn  cầu, có thể tóm gọn lại qua bốn hình thức chủ yếu sau:  Tự do hóa thương mại thông qua các diễn đàn thương mại đa biên:  ­ Đây là một trong những hình thức phổ biến nhất được đa số các quốc gia  lựa chọn để tiến hành tự do hóa thương mại. Có ý kiến cho rằng để quản lý quá   trình tự  do hóa thương mại, quốc tế   đã lập ra các tổ  chức như  Hội nghị  về  Thương mại và Phát triển của Liên Hiệp Quốc, được thành lập năm 1964; và Tổ  chức Thương mại Thế giới (WTO), thành lập năm 1995, với tiền thân của nó là   Hiệp định chung về  Thuế  quan và Mậu dịch (GATT), thành lập từ  năm 1947  (Nguyễn Văn Dân 2001, tr.17­18). Trên thực tế, WTO hay GATT trước đây chính   là biểu hiện  sinh động nhất cho quá trình tự  do hóa thương mại thông qua các  diễn đàn đa biên. ­ GATT là một khuôn khổ hợp tác đa phương, ban đầu nhằm mục tiêu cắt   giảm thuế quan, dành các ưu đãi cho các nước đang và chưa phát triển và các quy  chế thoả  thuận khu vực, sau đó mở  rộng sang hàng rào phi thuế  quan, thuế  hoá   các biện pháp phi thuế  quan, xem xét chính sách thương mại của các bên tham  gia, mở  rộng sang lĩnh vực dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tư, môi trường. Sau khi   WTO ra đời, ngoài việc tiếp tục theo  đuổi mục tiêu của GATT là tự  do hóa  thương mại toàn cầu, WTO hoạt động như  một tổ  chức toàn cầu chặt chẽ, có  những thể chế, nguyên tắc và cách thức hoạt động rõ ràng. Như  vậy, có thể kết  luận rằng sự mở rộng về quy mô, số lượng thành viên tham gia và nội dung đàm  phán của GATT và sau này là sự  phát triển không ngừng của WTO đã cho thấy  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2