Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động thanh tra nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
lượt xem 3
download
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng hoạt động thanh tra của Nhà nước đối với DNNN, nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động thanh tra của Nhà nước đối với các DNNN; từ đó đề xuất những quan điểm cơ bản và các giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hoạt động đó trong giai đoạn tới ở nước ta.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động thanh tra nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ PHẠM ĐĂNG DŨNG HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG THANH TRA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2004
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIấN Lí LUẬN CHÍNH TRỊ ------------------------- PHẠM ĐĂNG DŨNG HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG THANH TRA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 5.02.01 Người hướng dẫn: TS. PHAN TRUNG CHÍNH HÀ NỘI - 2004
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………….………………..……. 1 Chương 1. MỤC ĐÍCH, VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG TT DNNN 1.1- Mục đích, vai trò của hoạt động thanh tra DNNN ………………………… 7 1.1.1. Thanh tra và vị trí vai trò của DNNN trong nền kinh tế 7 1.1.2. Mục đích của hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN 11 1.1.3. Vai trò của hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN 15 1.2. Nội dung hoạt động thanh tra DNNN ……………………………………….… 19 1.2.1. Xác định chủ thể, đối tượng và nội dung thanh tra 19 1.2.2. Lựa chọn hình thức thanh tra 23 1.2.3. Phương pháp tiến hành thanh tra 26 1.3. Những nhân tố ảnh hưởng và yêu cầu hoàn thiện hoạt động TT….…. 40 1.3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh tra DNNN 40 1.3.2. Những yêu cầu hoàn thiện hoạt động thanh tra DNNN 42 Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA CÁC DNNN 2.1. Khái quát quá trình đổi mới tổ chức TTNN và đổi mới DNNN ….…….47 2.1.1. Quá trình đổi mới tổ chức Thanh tra Nhà nước 47 2.1.2. Quá trình đổi mới các DNNN 52 2.2. Thực trạng hoạt động thanh tra nhà nước đối với các DNNN ….…...…. 58 2.2.1. Tình hình thanh tra DNNN trong thời gian qua 58 2.2.2. Những vấn đề đang đặt ra cho ngành thanh tra 70 2.3. Đánh giá chung ………………………………………………………………………… 78 2.3.1. Thành tựu và hạn chế 78 2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế 80 Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 3.1. Những quan điểm cơ bản …………………………………………………………...…83 3.2. Các giải pháp chủ yếu ………………………………………………………………..…85 3.2.1. Nâng cao nhận thức về hoạt động thanh tra 85 3.2.2. Hoàn thiện chế độ phân cấp, xác định rõ chủ thể, phạm vi và đối tượng 88 3.2.3. Tiếp tục đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động thanh tra 91 3.2.4. Củng cố, tăng cường tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ thanh tra 101 3.2.5. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra 104 3.2.6. Từng bước hiện đại hoá hoạt động thanh tra 106 3.2.7. Tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động thanh tra 106 KẾT LUẬN …………………………………………..…………………………………………………….. 110 TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………...………………………………………………….…… 112
- QUY ƯỚC VIẾT TẮT - BCHTW Ban chấp hành Trung ương - CN Công nghiệp - CNXH Chủ nghĩa xã hội - CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá - DN Doanh nghiệp - DNNN Doanh nghiệp nhà nước - KN, TC Khiếu nại, tố cáo - NSNN Ngân sách nhà nước - QHSX Quan hệ sản xuất - QLNN Quản lý nhà nước - TCT Tổng công ty - TT Thanh tra - TTNN Thanh tra Nhà nước - XD Xây dựng - XHCN Xã hội chủ nghĩa
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngày nay, trên thế giới không có một quốc gia nào không có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế, song mức độ can thiệp của mỗi nước là rất khác nhau. Căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường lối đổi mới đất nước, xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, dưới sự quản lý của Nhà nước. Cương lĩnh của Đảng khảng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”[1, tr.67-68]. Sau hơn mười năm đổi mới, đất nước ta đã vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn: tốc độ tăng trưởng khá, chính trị - xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững, vị thế của chúng ta trên trường quốc tế được nâng cao và đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên rõ rệt. Cùng với sự phát triển của đất nước, vai trò quản lý về kinh tế của Nhà nước cũng được đổi mới và từng bước hoàn thiện cả về mục tiêu lẫn chức năng, nhiệm vụ và các công cụ quản lý vĩ mô, trong đó có công cụ thanh tra và thanh tra các DNNN. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết và các văn bản pháp luật về thanh tra; củng cố, tăng cường và từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy thanh tra các cấp. Chính vì vậy, trong thời gian qua hoạt động thanh tra đã có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được những thành tích rất khả quan và góp phần hạn chế những mặt trái của cơ chế thị trường... phục vụ kịp thời cho công cuộc đổi mới đất nước nói chung và công tác quản lý về kinh tế của Nhà nước nói riêng. Tuy nhiên, hoạt động thanh tra cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định như: hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra chưa đồng bộ; hệ thống tổ chức bộ máy cồng kềnh, dàn trải và chưa thống nhất; chức năng nhiệm vụ chưa rõ ràng, còn chồng chéo; quyền hạn chưa tương xứng 1
- với chức năng, nhiệm vụ... đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh ta. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và công tác quản lý kinh tế của Nhà nước trong thời gian tới đòi hỏi hoạt động thanh tra cần được khắc phục, đổi mới và từng bước hoàn thiện. Mặt khác, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cũng như trong quá trình đổi mới đất nước, kinh tế nhà nước nói chung và DNNN nói riêng có vị trí rất quan trọng và cùng với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là lực lượng vất chất, là công cụ chủ yếu để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nghị quyết TW 3 khoá IX của Đảng ta đã khảng định: “Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế; góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng thế và lực của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong nước, trong tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với nước ngoài; là lực lượng quan trọng trong thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh.”[2, tr.4]. Bên cạnh đó, DNNN cũng còn những hạn chế, yếu kém nhất định như: quy mô nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu, công tác quản lý yếu kém, hiệu quả kinh doanh thấp… Nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán, thậm trí có doanh nghiệp bị thua lỗ mất vốn. Tình trạng tiêu cực, tham nhũng, quan liêu đang trở thành quốc nạn và chậm được khắc phục trong các cơ quan nhà nước nói chung và DNNN nói riêng. Xuất phát từ những thực tế nêu trên, đòi hỏi các DNNN phải được chấn chỉnh, đổi mới và kiểm soát chặt chẽ hơn, nhằm bảo toàn vốn, gia tăng quy mô đầu tư, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh để cùng với kinh tế nhà nước giữ vững được vị trí, vai trò chủ đạo, then chốt trong nền kinh tế quốc dân và thực sự là công cụ, lực lượng vất chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế có hiệu quả, giải phóng mọi nguồn 2
- lực của đất nước và tạo môi trường thuận lợi, lành mạnh để mọi thành phần kinh tế phát triển. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài: “Hoàn thiện hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học - chuyên ngành Kinh tế Chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hoạt động thanh tra đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và các DNNN nói riêng đã có một số công trình nghiên cứu, có thể nêu một số bài viết, đề tài nghiên cứu như: - Trần Đức Lượng: "Đổi mới tổ chức và hoạt động hệ thống Thanh tra Nhà nước theo hướng cải cách hành chính Nhà nước". Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 95-98-043/ĐT - Cơ quan Thanh tra Nhà nước - Năm 1996. - Nguyễn Văn Liêm: "Cơ sở khoa học xác định mô hình và cơ cấu tổ chức Thanh tra Nhà nước các cấp đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước". Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 98-98-101/ĐT - Cơ quan Thanh tra Nhà nước - Năm 2001. - Trần Đức Lượng: "Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước". Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước, mã số 98-98-048/ĐT - Cơ quan Thanh tra Nhà nước - Năm 2002. - Nguyễn Văn Thâm: "Một số vấn đề về thanh tra và tổ chức hoạt động thanh tra trong tình hình hiện nay ở nước ta". Thông tin khoa học số 1-1997- Cơ quan Thanh tra Nhà nước. - Phạm Văn Khanh: "Bàn về định hớng đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra ở nước ta". Thông tin khoa học số 1-1997- Cơ quan Thanh tra Nhà nước. - Phạm Tuấn Khải: "Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra Nhà nước ở Việt Nam". Luận án tiến sĩ luật học, mã số 5.05.01 - Năm 1996. - Nguyễn Thanh Hải: "Vai trò của Thanh tra Nhà nước trong việc thực hiện dự án ở nước ta hiện nay". Luận án thạc sĩ hành chính học, mã số 5.07.05 - Năm 2000. 3
- - Ngô Văn Khánh: "Tăng cường hiệu lực thanh tra tài chính đối với doanh nghiệp Nhà nước". Luận án thạc sĩ kinh tế - Năm 2002 .v.v. Nhìn chung các đề tài, các bài viết đã phản ánh nhiều vấn đề của hoạt động thanh tra, kiểm tra trên phạm vi cả nước hoặc từng lĩnh vực cụ thể. Song cho đến nay, việc nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ kinh tế chính trị thì chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống. Để thực hiện đề tài, tác giả có kế thừa và lựa chọn ý tưởng của các công trình đã công bố, nhằm giúp cho việc phân tích và đánh giá thực trạng thanh tra các DNNN, đề xuất giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng hoạt động thanh tra của Nhà nước đối với DNNN, nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động thanh tra của Nhà nước đối với các DNNN; từ đó đề xuất những quan điểm cơ bản và các giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hoạt động đó trong giai đoạn tới ở nước ta. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá có chọn lọc và phân tích một số vấn đề lý luận chung về hoạt động thanh tra của Nhà nước đối với các DNNN. - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thanh tra của Nhà nước đối với các DNNN trong thời gian qua, từ đó thấy được những vấn đề bức xúc cần đặt ra để giải quyết. - Đề xuất và phân tích các quan điểm cơ bản và các giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới và hoàn thiện hoạt động thanh tra của Nhà nước đối với các DNNN trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu chủ yếu về hoạt động thanh tra của Nhà nước đối với các DNNN trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 4
- 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động thanh tra đặt trong mối quan hệ với cơ chế quản lý kinh tế nói chung và đi sâu phân tích hoạt động thanh tra của Nhà nước đối với DNNN trong mối quan hệ với hoạt động thanh tra, kiểm tra nói chung của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Luận văn thực hiện dưới góc độ kinh tế chính trị đặt trong mối quan hệ với khoa học quản lý về quản lý kinh tế để nghiên cứu, nhằm làm rõ những vấn đề cơ bản, chủ yếu của đề tài. Thời gian nghiên cứu khảo sát chủ yếu trong giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2004 và đề xuất giải pháp định hướng đến năm 2010. 5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Dựa vào những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý nền kinh tế nói chung, về DNNN nói riêng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; để luận giải sự cần thiết khách quan phải hoàn thiện hoạt động thanh tra nhà nước đối với các DNNN, một trong những chức năng cơ bản của quản lý kinh tế của Nhà nước. 5.2. Nguồn tài liệu Luận văn sử dụng các nguồn tài liệu chính sau: - Báo cáo hàng năm (1995-2004) của cơ quan Thanh tra Nhà nước (nay là Thanh tra Chính phủ) và báo cáo hàng năm (2000-2004) của Thanh tra một số tỉnh, thành phố và Thanh tra Bộ Tài chính; - Lịch sử Thanh tra Việt Nam (1945-1995); - Tài liệu khảo sát các tổ chức TTNN và DNNN (Tổng công ty 90, 91 và DNNN ở các địa phương) của Thanh tra Nhà nước; - Tài liệu của Ban đổi mới và phát triển DNNN… 5.3. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp truyền thống của Chủ nghĩa Mác-Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp sử dụng phương 5
- pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp, diễn giải và quy nạp để rút ra những kết luận khoa học về những vấn đề được xem xét. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn góp phần vào việc hoàn thiện hoạt động thanh tra, kiểm tra nói chung và hoạt động thanh tra của Nhà nước đối với các DNNN nói riêng, nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý kinh tế của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo đối với các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý ở tầm vĩ mô; đồng thời cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy của Trường Cán bộ Thanh tra và cho hoạt động thanh tra của các cơ quan Thanh tra Nhà nước. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương: - Chương 1. Mục đích, vai trò và nội dung hoạt động thanh tra Nhà nước đối với DNNN - Chương 2. Thực trạng hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN thời gian qua - Chương 3. Quan điểm và các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN trong thời gian tới. 6
- Chương 1 MỤC ĐÍCH, VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 1.1. Mục đích, vai trò của hoạt động thanh tra đối với DNNN 1.1.1. Khái niệm thanh tra và vị trí, vai trò của DNNN trong nền kinh tế 1.1.1.1. Khái niệm thanh tra Ngày nay, các khái niệm giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm kê và kiểm soát được sử dụng phổ biến trong hoạt động quản lý nói chung và trong quản lý nhà nước nói riêng. Về hình thức đây là những khái niệm khác nhau, nhưng về nội dung lại có một sự giao thoa rất lớn. Chính vì vậy, mà cách sử dụng các khái niệm này cũng rất phong phú và đa dạng. Việc dùng khái niệm nào là tuỳ thuộc vào mục đích, tính chất và hoàn cảnh cụ thể để sử dụng cho phù hợp. Thanh tra (tiếng Anh là inspect) xuất phát từ gốc La tinh (inspectare) có nghĩa là “nhìn vào bên trong”, chỉ sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một đối tượng nhất định” [54, tr.17]. Theo từ điển Tiếng Việt, nghĩa thứ nhất thanh tra là điều tra, xem xét để làm rõ vụ việc; nghĩa thứ hai là chỉ người làm nhiệm vụ thanh tra [45, tr.1034]. Theo khái niệm này, người làm nhiệm vụ thanh tra phải điều tra, xem xét để làm rõ vụ việc. Như vậy, khái niệm này bao gồm: chủ thể thanh tra, phương pháp thanh tra, mục đích thanh tra và nội dung thanh tra. Nhưng chủ thể, vụ việc ở đây chưa được rõ ràng. Theo giáo trình Nghiệp vụ thanh tra: “nghĩa thứ nhất thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp; nghĩa thứ hai chỉ nghề nghiệp, tên gọi chức danh như người làm nhiệm vụ thanh tra, Đoàn 7
- thanh tra của Bộ… Thanh tra có nghĩa là sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài vào hoạt động của một đối tượng nhất định” [41, tr.10-11]. Như vậy, nội hàm của khái niệm mà giáo trình đề cập đã được mở rộng và rõ ràng hơn. Thanh tra là một hoạt động quản lý của nhà nước. Các cơ quan nhà nước là chủ thể thanh tra và người được uỷ quyền trực tiếp tiến hành các cuộc thanh tra là Đoàn thanh tra. Nội dung và đối tượng thanh tra là việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp. Phương pháp hay cách thức tổ chức thực hiện là kiểm soát, xem xét và thực hiện tại chỗ, trực tiếp tại đơn vị được thanh tra. Và mục đích là nhằm phục vụ cho quản lý đạt được hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, khái niệm cũng đề cập đến vị trí của chủ thể thanh tra nằm ở bên ngoài đối tượng thanh tra. Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước "Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước" của cơ quan Thanh tra Nhà nước, có viết: “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, là hoạt động kiểm tra xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân; thường được thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các sai phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân” [54, tr.23]. Theo khái niệm trên, nội dung đã được trình bày đầy đủ hơn, rõ nét hơn, chi tiết hơn và phạm vi cũng rộng hơn. Ngoài những nội dung cơ bản mà các khái niệm đã đề cập, khái niệm này còn đưa thêm một vấn đề mới và nhấn mạnh thêm, đi sâu hơn và cụ thể hơn một số vấn đề sau: Thanh tra không chỉ là một hoạt động quản lý của nhà nước mà nó “là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước”. Chủ thể thanh tra cũng cụ thể hơn, nó “thường được thực hiện bởi các cơ quan chuyên trách”. Về nội dung và đối tượng thanh tra khái niệm lại thiên về tính khái quát, tổng hợp, tức là “kiểm tra, xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân”. Phương pháp 8
- hay cách thức tổ chức thực hiện cũng là “kiểm tra, xem xét” nhưng phạm vi thì đã được mở rộng hơn, không chỉ “thực hiện tại chỗ, trực tiếp tại địa phương, cơ quan hay xí nghiệp được thanh tra” mà có thể thực hiện ở cả các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan. Khái niệm còn đưa ra một vấn đề rất mới, đó là quy trình tổ chức thực hiện, là phải tuân theo “một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định”. Đặc biệt, khái niệm này còn đề cập rất cụ thể đến mục đích của hoạt động thanh tra. Theo Điều 4 của Luật Thanh tra (2004): “Thanh tra nhà nước là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này và các quy định khác của pháp luật” [14, tr.198]. So với các khái niệm trên, khái niện này đã thể hiện tương đối đầy về nội dung và mang tính khái quát hơn, nó đã khắc phục được những hạn chế của các khái niệm trên. Tóm lại: Do nội hàm của khái niệm thanh tra rộng và cách tiếp cận khác nhau, cho nên còn có sự nhận thức khác nhau về khái niệm thanh tra là một tất yếu khách quan. Thông qua việc phân tích các khái niệm trên, có thể rút ra một số vấn đề chủ yếu sau: - Thanh tra là một loại hoạt động của quản lý nhà nước, là một chức năng thiết yếu của các cơ quan quản lý nhà nước. - Chủ thể thanh tra là các cơ quan nhà nước, việc tổ chức tiến hành các cuộc thanh tra thường do các các tổ chức thanh tra thực hiện mà trực tiếp là Đoàn thanh tra hoặc các Thanh tra viên. - Đối tượng thanh tra là việc làm của các cơ quan, đơn vị và cá nhân. - Nội dung thanh tra là việc chấp hành chính sách, pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ và các chế độ, quy định của Nhà nước. - Phương pháp thanh tra chủ yếu là kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát, xem xét và có thể phải dùng cả điều tra, giám sát… và tuân theo một trình tự thủ tục nhất định do pháp luật quy định. 9
- - Mục đích của thanh tra là nhằm phục vụ cho quản lý và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước. Như vậy, Thanh tra là sự xem xét việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân, do các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm phục vụ cho các cơ quan quản lý nhà nước. 1.1.2.1. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế - Khái niệm và các loại hình doanh nghiệp nhà nước Ơ nước ta trước đây, DNNN thường được hiểu là kinh tế nhà nước hay còn gọi là kinh tế quốc doanh hoặc xí nghiệp quốc doanh. Ngày nay, theo Luật Doanh nghiệp nhà nước (2003), khái niệm DNNN được định pháp như sau: “Doanh nghiệp nhà nước là một tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn” [13, tr.2]. DNNN gồm có hai loại hình cơ bản: các DN hoạt động kinh doanh và các DN hoạt động công ích. Ngoài ra, còn có các DN nằm giữa hai loại hình cơ bản này. Tuy nhiên, tuỳ theo từng loại DN mà Nhà nước cung cấp toàn bộ hoặc góp vốn hoặc góp cổ phần… Nếu Nhà nước có số cổ phần trong các DN này lớn hơn các thành phần kinh tế khác, thì Nhà nước sẽ nắm số cổ phần chi phối hay cổ phần đặc biệt của các DN này. - Vị trí của doanh nghiệp nhà nước Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX xác định: Kinh tế nhà nước là một trong sáu thành phần kinh tế cơ bản của nền kinh tế quốc dân, “Kinh tế nhà nước, theo nghĩa đầy đủ bao gồm toàn bộ đất đai, tài nguyên, ngân sách nhà nước, ngân hàng nhà nước, dự trữ quốc gia, các quỹ của Nhà nước và DNNN” [6, 146]. Như vậy, DNNN là một bộ phận quan trọng, cơ bản của kinh tế nhà nước, được Nhà nước giao nắm giữ những vị trí then chốt, trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân, là lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện những chiến lược phát triển kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn. 10
- - Vai trò của doanh nghiệp nhà nước DNNN có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là một bộ phận chủ yếu của kinh tế nhà nước và cùng với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Ơ nước ta, các DNNN đang chiếm giữ những vị trí then chốt, những ngành kinh tế mũi nhọn và những ngành kinh tế chủ yếu của đất nước. Nó là lực lượng chủ lực trong hội nhập quốc tế, trong liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác. Cho nên, thông qua việc liên doanh, liên kết Nhà nước sẽ kiểm soát và định hướng hoạt động của các DN này theo quỹ đạo chung của nhà nước. Với sức mạnh về cơ sở vật chất kỹ thuật, đi đầu trong ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, đội ngũ lao động và quản lý được đạo đào tạo chính quy; cho nên các DNNN đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ trong xã hội, hướng dẫn, hỗ trợ và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN. Với tư cách là công cụ, là lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế, DNNN đã sản xuất ra một khối lượng lớn của cải vật chất cho xã hội, góp phần tích cực vào việc ổn định và tăng trưởng kinh tế, hạn chế những tiêu cực của cơ chế thị trường như: chống độc quyền, ổn định giá cả các mặt hàng thiết yếu, ổn định thị trường tiền tệ… kích thích cung cầu nhằm lập lại những cân đối lớn trong nền kinh tế để thị trường phát triển lành mạnh và có hiệu quả. Sau một thời gian sắp xếp, đổi mới và phát triển, các DNNN đang thích ứng dần với những đòi hỏi của cơ chế thị trường, đã chiếm ưu thế về một số loại hàng hoá, dịch vụ thiết yếu, là lực lượng đảm bảo và giải quyết các vấn đề chính sách xã hội, là lực lượng chủ yếu trong đóng góp vào ngân sách nhà nước… góp phần cân đối thu chi ngân sách nhà nước, làm cho xã hội ổn định, phát triển và đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết TW 3 khoá IX của Đảng đã khảng định rõ: “DNNN là lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà 11
- nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế…” [8, tr.6]. 1.1.2. Mục đích của hoạt động thanh tra DNNN “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước” [25, tr.3], cho nên mục đích của quản lý nhà nước cũng chính là mục đích mà hoạt động thanh tra phải hướng tới và phục vụ cho các cơ quan quản lý nhà nước. Theo Luật Thanh tra năm 2004, mục đích của hoạt động thanh tra là “nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân” [14, tr.198]. Vì vậy, hoạt động thanh tra các DNNN cũng phải tuân theo và phục vụ cho mục đích trên. Mặt khác, quản lý của Nhà nước đối với DNNN được thể hiện dưới hai giác độ: thứ nhất, Nhà nước là người quản lý toàn bộ nền kinh tế nên Nhà nước quản lý nó như các DN khác, tức quản lý về mặt vĩ mô; thứ hai, Nhà nước là người bỏ toàn bộ vốn hay giữ một số cổ phần chi phối, nên Nhà nước quản lý, kiểm soát nó với tư cách là chủ sở hữu của DN. Do vậy, mục đích của hoạt động thanh tra các DNNN không chỉ nhằm vào việc thực hiện mục đích chung của hoạt động thanh tra, mà còn phải thực hiện các mục đích cụ thể sau: - Đảm bảo cho DNNN phát triển đúng phương hướng và mục tiêu đã chọn DNNN có một vị trí rất quan trọng, giữ những vị trí then chốt, chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân, là lực lượng vất chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Với tư cách là người quản lý toàn bộ đất nước, Nhà nước nào cũng phải xác định mục tiêu và hoạch định chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng các chính sách kinh tế, các kế hoạch phát triển nền kinh tế nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển đúng mục tiêu, định hướng đã đề ra, để phát huy hết mọi tiềm năng của đất nước, giải phóng mọi nămg lực sản 12
- xuất của các thành phần kinh tế, trong đó có DNNN. Với tư cách là chủ sở hữu của DNNN, Nhà nước xác định mục tiêu của DN, hoạch định chiến lược phát triển DN, xây dựng các chính sách tài chính của DN, các kế hoạch phát triển của DN, nhằm đảm bảo cho DN phát triển đúng mục tiêu, định hướng đã lựa chọn… Trong quá trình thanh tra các DNNN, Đoàn thanh tra hoặc các Thanh tra viên xem xét việc tổ chức thực hiện các mục tiêu và chiến lược phát triển của DN. Nếu phát hiện DN thực hiện không đúng, chệch hướng thì thanh tra phải điều chỉnh, uốn nắn nhằm đảm bảo cho DN phát triển đúng mục tiêu, định hướng đã đề ra. - Giúp cho DNNN đạt được những sản phẩm dịch vụ chủ yếu Hiện nay, DNNN đang giữ những vị trí then chốt, những ngành kinh tế mũi nhọn hay những ngành kinh tế chủ yếu và chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy, số lượng hàng hoá dịch vụ của các DNNN sản xuất ra có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng. Nó là công cụ, là lực lượng vất chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế. Nó như một “cái van an toàn” của nền kinh tế, để Nhà nước điều chỉnh các hoạt động kinh tế. Chính vì vậy mà thanh tra không thể không kiểm tra, xem xét việc thực hiện số lượng hàng hoá dịch vụ chủ yếu mà Nhà nước giao cho DN. Trong quá trình thanh tra, nếu phát hiện DN không thực hiện hoặc không bảo đảm đủ chỉ tiêu, thanh tra phải làm rõ nguyên nhân, báo cáo kịp thời với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét và tìm biện pháp khắc phục, nhằm bảo đảm cân đối cung cầu về loại hàng hoá dịch vụ đó. Đối với các trường hợp cố tình làm sai hoặc vì mục đích cá nhân mà DN không thực hiện các chỉ tiêu được giao, thanh tra sẽ kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hoặc chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để truy tố trước pháp luật. Nhìn chung, mọi vi phạm về chỉ tiêu này đều phải xử lý nghiêm minh, nhằm làm cho các DN phải chấp hành nghiêm, vì đây là một trong những chỉ tiêu rất quan trọng đối với việc bảo đảm và cân đối các quan hệ cung cầu của nền kinh tế. Do đó, việc kiểm tra thực hiện các sản phẩm hàng hoá dịch vụ chủ 13
- yếu mà Nhà nước giao cho các DNNN là một nội dung quan trọng và là một trong những mục đích chủ yếu của hoạt động thanh tra các DNNN. - Bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Với tư cách là người chủ sở hữu DN, Nhà nước phải kiểm tra, xem xét tiền vốn mà mình bỏ ra được DN sử dụng như thế nào? Trước hết xem DN có sử dụng vốn đúng mục đích không, có nhằm vào việc thực hiện mục tiêu, phương hướng kinh doanh mà cơ quan có thẩm quyền đã phê duyệt không? Sau mỗi chu kỳ kinh doanh số vốn đó như thế nào, tăng hay giảm hoặc giữ nguyên và hiệu quả sử dụng vốn ra sao? Trong quá trình kiểm tra, xem xét việc sử dụng vốn của DN, nếu phát hiện việc sử dụng vốn không đúng mục đích phải điều chỉnh, uốn nắn kịp thời. Nếu DN có khó khăn về vốn, thanh tra có thể bàn với DN tìm hướng khắc phục hoặc kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền tìm cách giải quyết. Nếu việc sử dụng vốn kém hiệu quả hoặc gây thất thoát vốn, thanh tra phải làm rõ nguyên nhân, báo cáo kịp thời với các cơ quan có thẩm quyền để tìm cách xử lý… Thông qua việc thanh tra, xem xét việc sử dụng vốn của DN, nhằm giúp cho DN bảo toàn vốn, sử dụng vốn đúng mục đích, từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng và phát triển vốn. Mặt khác, DNNN là một bộ phận chủ yếu của kinh tế nhà nước, là công cụ rất quan trọng để Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế. Cho nên, ngoài việc Nhà nước quản lý nó như những DN khác, Nhà nước còn có những chính sách, quy định riêng cho DNNN. Thông qua hoạt động thanh tra, để thấy được những khó khăn, bất lợi của các DNNN để Nhà nước hỗ trợ, giúp đỡ DN như: cấp vốn bổ xung, cho vay với lãi suất ưu đãi, bao mua sản phẩm, đầu tư công nghệ… nhằm tạo ra những điều kiện, môi trường thuận lợi cho DNNN phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của DNNN, góp phần cùng kinh tế nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo và định hướng pháp triển nền kinh tế. - Góp phần loại trừ tiêu cực, tham nhũng trong các DNNN 14
- Cơ chế thị trường, về cơ bản có rất nhiều ưu điểm và tác dụng mà không không thể phủ nhận, song bên cạch đó nó cũng có những mặt trái, những khuyết tật cần phải có sự can thiệp của Nhà nước để hạn chế những khuyết tật ấy và “sửa chữa những thất bại của thị trường”. Do chạy theo lợi nhuận, nên các DN dễ dẫn đến cạnh tranh không hoàn hảo, làm ô nhiễm môi trường, khủng hoảng, suy thoái, thất nghiệp… Hiện tượng chốn lậu thuế, gian lận thương mại, vi phạm bản quyền, làm hàng giả đang diễn ra phổ biến ở nước ta. Bên cạnh đó, tình trạng sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, mất vốn cũng không phải là ít trong các DNNN. Đặc biệt, “Tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân tiếp tục diễn ra nghiêm trọng” [2, tr.3], trong các cơ quan nhà nước nói chung và trong các DNNN nói riêng. Do đó, thanh tra phải có trách nhiệm phát hiện, tìm ra những tiêu cực, tham nhũng để xử lý, truy tố trước pháp luật. Đồng thời, qua thanh tra cũng thấy được sự sơ hở của chính sách, pháp luật, của cơ chế quản lý để sửa đổi, bổ xung nhằm hạn chế, đẩy lùi tham nhũng tiêu cực. Vì vậy, chống tham nhũng, tiêu cực cũng là một trong những mục đích của hoạt động thanh tra các DNNN. Trên đây là những mục đích kinh tế cụ thể của hoạt động thanh tra DNNN, các mục đích này được xuất phát từ yêu cầu của công tác quản lý nói chung và yêu cầu của hoạt động thanh tra nói riêng. Đồng thời các mục đích này phải nhằm phục vụ cho mục đích chung của hoạt động thanh tra và mục đích quản lý của Nhà nước về kinh tế. Tuỳ theo yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác quản lý của các cấp, các ngành trong từng thời điểm cụ thể, mỗi cuộc thanh tra có một số nội dung nhất định. Cho nên, mục đích của các cuộc thanh tra nói chung và thanh tra DNNN nói riêng không phải lúc nào cũng giống nhau. Mục đích của mỗi cuộc thanh tra DNNN là tuỳ thuộc vào nội dung của cuộc thanh tra, yêu cầu của công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước và tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của cuộc thanh tra đó. Do vậy, mục đích của mỗi cuộc thanh tra DNNN là để góp phần thực hiện mục đích chung của hoạt động 15
- thanh tra và phục vụ cho mục đích của quản lý kinh tế nói riêng và quản lý nhà nước nói chung. Tóm lại, mục đích của hoạt động thanh tra các DNNN nói riêng và của hoạt động thanh tra nói chung là phụ thuộc vào mục đích của quản lý nhà nước và phục vụ cho mục đích quản lý của Nhà nước. Vì vậy, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ thanh tra các DNNN, phục vụ tốt cho công tác quản lý về kinh tế của Nhà nước thì các cơ quan Thanh tra Nhà nước phải thực hiện tốt các mục đích nêu trên. 1.1.3. Vai trò của hoạt động thanh tra đối với DNNN - Với tư cách là một chức năng thiết yếu, một công cụ quan trọng để nhà nước quản lý, kiểm tra, kiểm soát nền kinh tế nói chung và các DNNN nói riêng, vai trò của hoạt động thanh tra các DNNN được thể hiện trên các mặt sau: Thông qua việc kiểm tra, xem xét, các tổ chức Thanh tra Nhà nước yêu cầu các DN nói chung và các DNNN nói riêng phải đi theo định hướng chung của nền kinh tế, thực hiện đúng chính sách pháp luật, các quy định của Nhà nước, nghĩa vụ của DN đối với Nhà nước… Nếu phát hiện DN nào thực hiện chưa đúng, thực hiện chưa đầy đủ hoặc đi chệch hướng thì phải uốn nắn, điều chỉnh kịp thời… để DN có thể hoàn thành tốt trách nhiệm của mình đối với Nhà nước và xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu, là mục tiêu tối cao của các DN nói chung và cả các DNNN nói riêng. Vì vậy, trong quá trình hoạt động các DN thường muốn vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước, tìm kiếm cho mình những điều kiện kinh doanh thuận lợi, kể cả việc lách luật hoặc cố tình làm sai như: trốn lậu thuế, gian lận thương mại, không thực hiện hoặc thực hiện không đầy nghĩa vụ với Nhà nước và người lao động, thậm trí có hành vi hối lộ, tham nhũng, tiêu cực... Vì vậy, thanh tra phải ngăn ngừa, hạn chế và xử lý nghiêm khắc những hành vi này. Mặt khác, thanh tra không chỉ có kiểm tra, xem xét các DNNN có thực hiện đúng chính sách pháp luật hay không, có làm tròn trách nhiệm đối với nhà 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 29 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 11 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 10 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn