Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Thanh Hoá
lượt xem 7
download
Đề tài góp phần làm rõ vai trò của kinh tế tư nhân trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta; đề tài hoàn thành có thể là tài liệu tham khảo cho giảng viên, sinh viên khi dạy và học những phần kiến thức có liên quan; đề tài góp phần giải quyết được những vướng mắc mà kinh tế tư nhân Thanh Hoá chưa tháo gỡ được.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Thanh Hoá
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ====================== Nguyễn Thị Chinh PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở TỈNH THANH HÓA CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 5.02.01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. TRỊNH THỊ HOA MAI HÀ NỘI, 2004
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân. Bộ phận này, trong thời kỳ nước ta tồn tại nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã không được đánh giá đúng vị trí, vai trò của nó. Đảng và Nhà nước ta xem đấy là bộ phận kinh tế gồm các thành phần kinh tế phi XHCN, gắn liền với bản chất của CNTB. Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước đã xoá bỏ các thành phần kinh tế thuộc bộ phận kinh tế tư nhân và chỉ còn lại hai thành phần kinh tế XHCN đó là: Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Từ Đại hội VI của Đảng (năm 1986) - Đại hội đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước. Đảng ta xác định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần... đã khôi phục lại những thành phần kinh tế mà trước kia bị xoá bỏ. Nhưng mãi đến Đại hội VII của Đảng (năm 1991) thì vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc dân mới được đánh giá một cách đúng đắn, không còn sự phân biệt các thành phần kinh tế XHCN với các thành phần kinh tế phi XHCN nữa. Từ đó, kinh tế tư nhân được trở lại hoạt động , nhưng tâm lý người dân Việt Nam vẫn còn e ngại, không thích hoạt động trong khu vực kinh tế này, nên những năm sau đổi mới kinh tế tư nhân vẫn chưa phát triển, số lượng ít, quy mô nhỏ. Đến những năm gần đây khi Đảng và Nhà nước ra những văn bản pháp lý cho khu vực kinh tế tư nhân: Nghị định 66/HĐBT (nay là Chính phủ) ban hành năm 1992, Luật Công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân mà nay được thay thế bằng Luật doanh nghiệp ban hành tháng 6/1999 và những văn bản khác khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển thì khu vực này mới phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, phát huy được sức mạnh nội lực. Kinh tế tư nhân đã đóng góp đáng kể cho nền kinh tế nước nhà những năm qua, góp thêm sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ: Phát triển kinh tế hàng hoá và CNH, HĐH đất nước. Thanh Hoá là tỉnh nằm ở phía Bắc miền Trung của Tổ quốc. Những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2000 đến nay kinh tế tư nhân Thanh Hoá phát triển 1
- mạnh và đã đóng góp nhiều vào phát triển kinh tế như: Đóng góp vào ngân sách tỉnh, giải quyết số lượng tương đối lớn lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế... và có những ngành nghề hiện nay 100% do tư nhân đảm nhiệm vận chuyển hành khách và vận chuyển hàng hoá bằng đường bộ... Thanh Hoá là tỉnh có địa bàn rộng, dân số đông và còn nhiều tiềm năng chưa khai thác, sử dụng, đây là điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Tuy vậy, tốc độ phát triển của kinh tế tư nhân Thanh Hoá vẫn còn kém so với nhịp độ chung của cả nước. Nếu xét về số lượng doanh nghiệp của tư nhân được thành lập trong 2 năm 2000 - 2001, bình quân chung của cả nước là 540 doanh nghiệp/tỉnh, thành phố thì Thanh Hoá chỉ có 301 doanh nghiệp. Nếu xét về chất lượng thì sức cạnh tranh của các doanh nghiệp ở Thanh Hoá chưa mạnh... điều đó chứng tỏ trong thực tế kinh tế tư nhân ở địa bàn này còn nhiều vướng mắc chưa được tháo gỡ, chưa có những giải pháp tối ưu. Tuy vậy, đối với Thanh Hoá kinh tế tư nhân vẫn đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nó vừa giải quyết vấn đề kinh tế: Là khu vực khai thác, sử dụng được nhiều nguồn lực xã hội như: Lao động, vốn, tài nguyên... thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng quy mô sản xuất, tăng trưởng kinh tế... nó vừa giải quyết vấn đề xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, tăng mức sống người dân... đó là cơ sở góp phần ổn định và phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội, ổn định chính trị xã hội. Vậy cần đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Thanh Hoá. Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Thanh Hoá” để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trên thực tế đã có nhiều công trình khoa học lớn, nhỏ nghiên cứu về kinh tế tư nhân mà đặc biệt là khi Nhà nước có những văn bản pháp lý cho khu vực kinh tế này, có thể kể ra một số công trình nghiên cứu. - “Quản lý kinh tế ngoài quốc doanh” của Linh Lan - Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước - Trung tâm Thông tin, Hà Nội 1994. 2
- - “Phát triển kinh tế tư nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh” Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Quốc Đạt, Hà Nội, 1999. - “Kinh tế tư nhân và xu hướng phát triển của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam”. PGS.TS Nguyễn Đình Kháng - Tạp chí Lý luận Chính trị số 4-2002. - “Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân” Hà Huy Thành - NXB Chính trị quốc gia 2002. - “Phát triển kinh tế tư nhân định hướng XHCN” TS. Trần Ngọc Bút - NXB Chính trị quốc gia 2002. Các công trình nghiên cứu đã đi vào nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau trên nhiều địa phương khác nhau. Để có thể nhìn thấy đầy đủ hơn và cụ thể hơn về tình hình phát triển kinh tế tư nhân trong nước, tôi đi vào nghiên cứu kinh tế tư nhân ở một địa phương mà chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về nó đó là: Kinh tế tư nhân ở Thanh Hoá. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích Đánh giá thực trạng, tìm nguyên nhân để đưa ra những giải pháp giúp kinh tế tư nhân Thanh Hoá phát triển đúng với tiềm năng của nó. 3.2. Nhiệm vụ Một là: Hệ thống hoá lý luận chung về kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế và sự cần thiết phải phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay. Hai là: Khảo sát thực trạng kinh tế tư nhân ở Thanh Hoá, từ đó xác định những hướng và đưa ra giải pháp cho phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Các cơ sở hộ kinh doanh cá thể. - Các loại hình doanh nghiệp của tư nhân. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 3
- - Phạm vi không gian: trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá - Phạm vi thời gian: từ 1996 - 2003. - Phạm vi nội dung: nghiên cứu khu vực kinh tế tư nhân. 5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận đề tài dựa vào lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; những văn bản pháp lý đã được phát hành về kinh tế tư nhân. 5.2. Nguồn tài liệu - Sách báo nghiên cứu về kinh tế tư nhân. - Số liệu của: Cục Thống kê tỉnh Thanh Hoá; Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thanh Hoá; Ban Kinh tế Tỉnh uỷ Thanh Hoá; Cục Quản lý vốn và tài sản thuộc Sở Tài chính... và một số tài liệu khác. 5.3. Phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đồng thời sử dụng nhiều phương pháp khác kết hợp, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp khảo sát thực tế để nghiên cứu đề tài. 6. Đóng góp của luận văn - Góp phần làm rõ vai trò của kinh tế tư nhân trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. - Đề tài hoàn thành có thể là tài liệu tham khảo cho giảng viên, sinh viên khi dạy và học những phần kiến thức có liên quan. - Đề tài góp phần giải quyết được những vướng mắc mà kinh tế tư nhân Thanh Hoá chưa tháo gỡ được. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1: Cơ sở lý luận chung và thực tiễn KTTN Việt Nam. 4
- Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Thanh Hoá. Chương 3: Phương hướng và những giải pháp cơ bản phát triển kinh tế tư nhân ở Thanh Hoá. 5
- Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VÀ THỰC TIỄN TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN VIỆT NAM 1.1. Khái niệm kinh tế tƣ nhân và hình thức tồn tại của kinh tế tƣ nhân ở Việt Nam 1.1.1. Khái niệm Kinh tế tư nhân hoạt động ở hầu khắp các nước trên thế giới, đây là hình thức kinh tế được đánh giá là hoạt động có hiệu quả. Nhưng không phải đến nay kinh tế tư nhân mới xuất hiện mà nó đã ra đời từ phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ và lần lượt trải qua các phương thức sản xuất tiếp theo, tồn tại, phát triển cho tới ngày nay. Như chúng ta đã biết, trong học thuyết kinh tế của mình Mác và Lê nin đã đề cập đến những thuật ngữ: Sở hữu tư nhân, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, lao động tư nhân. Mác và Lênin chưa sử dụng khái niệm “kinh tế tư nhân, nhưng thực chất các ông đã đề cập và giải quyết vấn đề kinh tế tư nhân. Nói kinh tế tư bản chủ nghĩa là nói đến kinh tế tư nhân - một hình thức phát triển của kinh tế tư nhân trong thời đại của CNTB. Lịch sử xuất hiện KTTN rất sớm và hoạt động trên phạm vi rộng như vậy, nhưng cho đến nay vẫn chưa có được một cách hiểu thống nhất về khái niệm này, ngay cả trong một quốc gia. Ví dụ, hiện nay Trung Quốc thường sử dụng năm định nghĩa về KTTN. (1) Khu vực phi Nhà nước: Bao gồm tất cả các đối tượng không thuộc sở hữu Nhà nước, cả trong lĩnh vực công nghiệp cũng như nông nghiệp. (2) Khu vực phi Nhà nước, phi nông nghiệp: bao gồm các đối tượng không thuộc sở hữu Nhà nước, nhưng loại trừ lĩnh vực nông nghiệp. 6
- (3) Khu vực tư nhân: Bao gồm các đối tượng không thuộc sở hữu Nhà nước nhưng loại trừ doanh nghiệp tập thể. (4) Khu vực tư nhân trong nước: Bao gồm các đối tượng không thuộc sở hữu Nhà nước nhưng loại trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. (5) Doanh nghiệp tư nhân: Bao gồm các đối tượng không thuộc sở hữu Nhà nước nhưng loại trừ các hộ cá thể (doanh nghiệp có ít hơn 8 công nhân) hay còn gọi là hệ công thương cá thể [10, tr.61]. Ở Việt Nam các nhà nghiên cứu cũng đã có những ý kiến khác nhau về khái niệm KTTN. Ý kiến thứ nhất cho rằng: KTTN là hình thức kinh tế dựa trên sở hữu toàn bộ hay đại bộ phận TLSX thuộc sở hữu tư nhân và thuê lao động, người chủ chiếm đoạt giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra [28, tr.16]. Về hình thức kinh doanh, KTTN gồm doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, Công ty Cổ phần (do tư nhân nắm tỷ lệ cổ phiếu khống chế [28, tr.17]. Quan niệm KTTN như vậy là không bao gồm các cơ sở kinh tế cá thể. Ý kiến thứ hai cho rằng: KTTN là khái niệm chỉ khu vực kinh tế bao gồm: Các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc nhóm các thành phần KTTN. Tiêu thức cơ bản để xác định một thành phần kinh tế, một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nào đó có thuộc kinh tế tư nhân hay không là quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu. Theo đó, KTTN là một khu vực kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về TLSX (hoặc vốn) với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh như: Doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh, các cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ và bộ phận các doanh nghiệp của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam [23, tr.9]. Ý kiến này đối tượng của KTTN rộng hơn, bao gồm các loại hình doanh nghiệp của tư nhân, các cơ sở kinh tế cá thể và cả bộ phận các doanh nghiệp của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. 7
- Ý kiến thứ ba: KTTN là một thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về TLSX (hoặc vốn) do một hoặc một nhóm người tổ chức quản lý và bóc lột lao động làm thuê. Như vậy ý kiến này đã đồng nhất KTTN với thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Ý kiến thứ tư: KTTN bao gồm tất cả các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh. Như vậy cách hiểu này thì nền kinh tế được chia thành hai khu vực (bộ phận). Khu vực kinh tế Nhà nước bao gồm: Các cơ sở kinh tế của Nhà nước, khu vực KTTN gồm: Tất cả các cơ sở kinh tế còn lại, cơ sở kinh tế cá thể, cơ sở kinh tế tập thể - hợp tác xã, cơ sở kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, các loại hình doanh nghiệp của tư nhân... Những kiến trên cho thấy ở nước ta chưa có cách hiểu thống nhất về KTTN. Tiêu thức xác định, đối tượng xác định KTTN còn chưa rõ ràng và thiếu nhất quán: Nếu lấy sở hữu làm cơ sở để xác định thì tại sao trong loại hình kinh tế này lại có cả cơ sở kinh tế cá thể, cơ sở kinh tế hợp tác xã, hình thức tồn tại của thành phần kinh tế tập thể. Trong khi Hiến pháp 1992 lại quy định nước ta có 3 loại hình sở hữu: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân (tuy nhiên trong thực tế cũng có những hợp tác xã hình thành bằng con đường góp vốn, mua cổ phần nhưng không phải là nhiều). Nếu căn cứ vào tiêu chí có bóc lột người lao động hay không bóc lột để phân biệt KTTN và kinh tế cá thể thì khó có thể khẳng định rằng cơ sở kinh tế cá thể có hàng chục lao động như hiện nay là không có bóc lột. Thêm vào đó, khó có thể xác định một cách chính xác khu vực kinh tế tư nhân do hiện tượng tư nhân núp bóng doanh nghiệp Nhà nước, mượn tên doanh nghiệp Nhà nước, xây dựng các “sân sau” nhằm trốn tránh việc đăng ký kinh doanh hoặc tư nhân đột lốt tập thể dưới dạng „tổ hợp” và đội lốt gia đình... sự thiếu nhất quán trong cách hiểu về KTTN sẽ dẫn đến sự khác nhau hàng chục, thậm chí hàng trăm lần khi chúng ta tổng kết con số về sản lượng, về lao động và nhiều chỉ tiêu khác, dẫn tới việc đánh giá về KTTN khó chính xác và sẽ không thể có giải pháp tối ưu cho KTTN khi gặp khó khăn. 8
- Quan điểm của Đảng ta có tính nhất quán hơn và ngày càng rõ ràng khi nói về kinh tế tư nhân. Quan điểm đó được thể hiện qua một số văn bản: Một là: tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ VI Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI đã khẳng định: Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế. Theo tinh thần này, tư nhân được phép kinh doanh không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật cho phép. Như vậy, Đảng đã mở đường cho KTTN hoạt động trở lại và bình đẳng với khu vực kinh tế khác. Hai là: hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, được thông qua tại kỳ họp lần thứ 11 Quốc hội khoá VIII đã ghi rõ: “Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế quy mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển” [24, tr.6]. Ba là: trong văn kiện Đại hội VII của Đảng, kinh tế tư nhân được hiểu bao gồm: kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Trong văn kiện có đoạn viết: “KTTN được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý hướng dẫn của Nhà nước, trong đó kinh tế cá thể tiểu chủ có phạm vi hoạt động tương đối rộng lớn, ở những đơn vị chưa có điều kiện tổ chức kinh tế tập thể, hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con đường tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức”. Bốn là: gần đây nhất trong các Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành TW Đảng khoá IX đã ghi rõ: “kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân”. Trong các văn bản thể hiện quan điểm của Đảng ta về kinh tế tư nhân đều có điểm nhất quán và ngày càng rõ ràng. Đó là: công nhận sự tồn tại của kinh tế 9
- tư nhân một cách bình đẳng, với nhiều hình thức hoạt động khác nhau. Hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân. Cho đến nay nhiều nhà nghiên cứu và doanh nghiệp đồng tình với quan điểm của Đảng về cách hiểu khái niệm KTTN trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Từ đây, chúng ta có thể hiểu khái niệm KTTN như sau: Kinh tế tư nhân là bộ phận kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về TLSX ( hoặc vốn) dưới hình thức tổ chức: hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân. Như vậy, trong nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta hiện nay thì bộ phận KTTN gồm hai thành phần kinh tế: kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Ở đây tôi không xem xét hình thức tổ chức kinh tế hợp tác xã. Từ cách hiểu trên, để làm rõ bản chất kinh tế tư nhân có thể xem xét KTTN trên các quan hệ kinh tế cơ bản sau: Xét về quan hệ sở hữu: KTTN thể hiện quan hệ sở hữu tư nhân về TLSX (hoặc vốn), cũng như phần của cải vật chất được tạo ra từ TLSX (hoặc vốn) đó. Nó bao gồm sở hữu tư nhân nhỏ và sở hữu tư nhân lớn: Sở hữu tư nhân nhỏ là sở hữu của những người lao động tự do, sản xuất ra sản phẩm nhờ lao động của chính mình và các thành viên trong gia đình (thợ thủ công cá thể, tiểu thương, hộ nông dân...). Sở hữu tư nhân lớn là hình thức sở hữu tư nhân làm cơ sở cho việc hình thành các doanh nghiệp tư nhân, công ty tư nhân. Xét về quan hệ quản lý: Xuất phát từ quan hệ sở hữu của KTTN, quan hệ quản lý của khu vực kinh tế này gồm các quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ và quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn. Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ là quan hệ dựa trên sự tự tổ chức, điều hành hay tổ chức điều hành, phân công việc trong nội bộ gia đình, giữa các thành viên gia đình với nhau. Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn là quan hệ quản lý giữa chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý và khách thể quản lý, giữa người quản lý với người bị quản lý. 10
- Xét về quan hệ phân phối: Trong kinh tế tư nhân, quan hệ phân phối dựa trên cơ sở các loại hình sở hữu tư nhân khác nhau. Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh mà người sở hữu đồng thời là người trực tiếp lao động, không thuê mướn nhân công, thì phân phối kết quả sản xuất là tự phân phối trong nội bộ chủ thể kinh tế đó. Nói cách khác là họ được hưởng trọn vẹn kết quả sản xuất. Còn đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh lớn, chủ sở hữu TLSX ( hoặc vốn) sử dụng lao động của lao động làm thuê thì phân phối kết quả sản xuất căn cứ vào sở hữu giá trị, tức là giá trị sức lao động của lao động làm thuê và sở hữu tư bản. Tất nhiên trong các chế độ chính trị - xã hội khác nhau thì quan hệ phân phối của KTTN có sự khác biệt nhất định. 1.1.2. Hình thức tồn tại của kinh tế tư nhân Kinh tế tư nhân được hình thành trên cơ sở sở hữu tư nhân về TLSX (hoặc vốn) được biểu hiện ở hai mức độ. Sở hữu tư nhân nhỏ và sở hữu tư nhân lớn. Theo đó, KTTN tồn tại dưới hai hình thức. - Một là: Hộ kinh doanh cá thể. - Hai là: Các loại hình doanh nghiệp của tư nhân. Nghiên cứu hình thức tồn tại của kinh tế tư nhân cho chúng ta thấy đặc điểm của từng hình thức, qua đó tìm ra ưu, nhược điểm của nó. Chính điều này giúp cho các nhà kinh doanh lựa chọn hình thức thích hợp với mình, đồng thời Nhà nước cũng có những chính sách phù hợp để khai thác thế mạnh của từng hình thức hoạt động của KTTN. 1.1.2.1. Hộ kinh doanh cá thể Hộ kinh doanh cá thể là hình thức tồn tại của thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ - dựa trên sở hữu tư nhân nhân nhỏ về TLSX. Nó bao gồm những cá nhân kinh doanh và nhóm kinh doanh thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 66/HĐBT ra ngày 02/03/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và gần đây được Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng 11
- khoá IX: “Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển KTTN” nói chung và hộ kinh doanh cá thể nói riêng. Hộ kinh doanh cá thể là hình thức kinh doanh có nhiều ưu điểm, nhưng cũng có những nhược điểm. Đây là hình thức kinh doanh có phạm vi hoạt động rất rộng, có mặt ở mọi địa bàn: từ đồng bằng đến miền núi, từ thành thị đến nông thôn, ở vùng thuận lợi cùng như vùng khó khăn. Hình thức kinh doanh này chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình vì quy mô nhỏ không cần nhiều lao động hoặc có thể thuê thêm lao động cũng chỉ tạm thời, có tính thời vụ, sử dụng được lao động nhàn rỗi, không cần qua đào tạo, do đó tiền công thường rẻ. Vì vậy mà giá thành sản phẩm thường rẻ, đây là ưu thế lớn cạnh tranh trên thị trường và là điểm mạnh của hộ KDCT. Hơn nữa, hình thức kinh doanh này không đòi hỏi vốn lớn, công nghệ phức tạp, việc đăng ký kinh doanh cũng đơn giản: UBND quận, huyện, thị xã trực thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện) có đủ thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh cho các hộ kinh doanh cá thể. Những điều này giúp các hộ KDCT dễ dàng bước vào con đường kinh doanh, dễ dàng chuyển từ sản xuất kinh doanh mặt hàng này sang sản xuất kinh doanh mặt hàng khác, phù hợp với nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng. Với những ưu điểm trên hình thức kinh doanh này phù hợp với những người bắt đầu bước vào con đường kinh doanh, với thợ thủ công, những người buôn bán nhỏ. Tuy nhiên, việc bước vào kinh doanh dễ dàng bao nhiêu thì việc bước ra khỏi môi trường kinh doanh cũng nhanh bấy nhiêu khi tham gia kinh doanh ở hình thức này. Vì bản thân các hộ kinh doanh cá thể thường có lượng vốn nhỏ nên mỗi khi gặp rủi ro trong gia đình (tai nạn, mất cắp, thiên tai ...) hoặc rủi ro trong sản xuất kinh doanh thì các hộ này có thể không còn đồng vốn nào (trắng tay) và ít có cơ hội làm lại. Ngoài ra, hộ KDCT còn có nhược điểm nữa là: Các chủ hộ, các cá thể kinh doanh thường chưa có kinh nghiệm hoặc trình độ kinh doanh thấp kém. Vì vậy mà thị trường sản phẩm của họ thường rất hẹp chỉ ở một địa phương, một vùng. Ít có hộ KDCT đưa sản phẩm của mình ra được thị 12
- trường khu vực và thế giới. Đây cũng là lý do khiến hình thức kinh doanh này có quy mô rất nhỏ... Như vậy, hộ KDCT là hình thức kinh doanh có nhiều ưu điểm, nhưng cũng không ít nhược điểm nhưng nó vẫn là hình thức kinh doanh có số lượng lớn nhất hiện nay ở Việt Nam. Theo số liệu của Tổng cục thống kê tháng 11 năm 2001. Năm 2000 cả nước có 9.793.878 hộ KDCT với 20.122.442 lao động. Trong đó, có 2.137.713 hộ kinh doanh phi nông nghiệp (xây dựng, giao thông, thương mại, dịch vụ...) với 3.802.057 lao động, chiếm 18,9% tổng lao động của các hộ KDCT. Có 7.656.165 hộ nông nghiệp ngoài hợp tác xã, chiếm 78,17% tổng số hộ KDCT với 16.320.385 lao động, chiếm 81,1% tổng số lao động của các hộ kinh doanh cá thể. 1.1.2.2. Các loại hình doanh nghiệp của tư nhân Các loại hình doanh nghiệp của tư nhân là hình thức tồn tại của thành phần kinh tế tư bản tư nhân, dựa trên sở hữu tư nhân lớn về TLSX. Nó bao gồm: Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Đây là những loại hình doanh nghiệp thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp ban hành tháng 6/1999. Hình thức kinh doanh này khác hộ KDCT: Các hình thức doanh nghiệp của tư nhân chủ yếu hoạt động ở khu trung tâm, thành thị, nơi có địa bàn thuận lợi và có thị trường rộng lớn hơn hộ KDCT. Sản phẩm của các loại hình doanh nghiệp của tư nhân không chỉ có mặt ở thị trường trong nước mà có mặt ở cả thị trường khu vực và thế giới. Mọi yêu cầu về điều kiện sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp tư nhân đều ở trình độ cao hơn: việc đăng ký kinh doanh phải ở Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh - Sở Kế hoạch và Đầu tư. Một số doanh nghiệp khi thành lập phải đảm bảo có lượng vốn nhất định (vốn pháp định) yêu cầu vốn lớn hoặc phải đảm bảo các điều kiện khác do Luật quy định. Ngoài ra, để đứng vững được trên thị trường thì các loại hình doanh nghiệp này phải: có trình độ công nghệ, trình độ quản lý, lao động có chuyên môn, tay nghề 13
- cao... Đây là những đặc điểm chung nhất của các loại hình doanh nghiệp tư nhân khác với hộ kinh doanh cá thể. Tuy nhiên, ở từng loại hình doanh nghiệp mang đặc điểm riêng của nó. Để hiểu rõ hơn hình thức kinh doanh này tôi đi vào khai thác cụ thể từng loại hình doanh nghiệp. Tìm ra những điểm giống và khác nhau cũng như ưu, nhược điểm của chúng. Công ty cổ phần: là loại Công ty đối vốn điển hình, có tư cách pháp nhân độc lập, chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của Công ty, mang tính tổ chức cao, hoạt động mang tính xã hội hoá. Đặc điểm của Công ty cổ phần: - Vốn của Công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau là cổ phần, có hai loại cổ phần: Cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi (gồm: ưu đãi biểu quyết, ưu đãi cổ tức, ưu đãi hoàn lại và ưu đãi khác do điều lệ Công ty quy định) được thể hiện dưới hình thức chứng khoán là cổ phiếu. Người có cổ phiếu là cổ đông - thành viên Công ty. Cổ đông có thể là cá nhân hoặc tổ chức và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn. - Công ty cổ phần được phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra ngoài công chứng, khả năng chuyển nhượng vốn của các cổ đông dễ dàng, họ có thể bán cổ phiếu một cách tự do, thường có đông thành viên, số thành viên ít nhất là 3 trong suốt quá trình hoạt động, không hạn chế tối đa. - Cơ chế quản lý: Có đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng Giám đốc), nếu trên 11 thành viên có thêm ban kiểm soát. Công ty trách nhiệm hữu hạn: Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai loại: Công ty TNHH có 2 thành viên trở lên và Công ty TNHH có một thành viên. Đặc điểm của Công ty TNHH có hai thành viên trở lên: - Thành viên là cá nhân hoặc tổ chức, số thành viên không quá 50. - Các thành viên phải góp vốn đầy đủ đúng như đã cam kết, phần vốn góp của các thành viên không được thể hiện dưới hình thức chứng khoán mà được 14
- ghi rõ trong điều lệ công ty. Không được phát hành cổ phiếu để huy động vốn, việc chuyển đổi nhượng phần vốn góp cho người ngoài công ty bị hạn chế: Thành viên công ty muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn góp phải chào bán phần vốn đó cho tất cả các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn của họ trong công ty cùng với điều kiện: Chỉ được chuyển nhượng cho người phải là thành viên công ty khi các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc mua không hết. - Cơ cấu tổ chức thường gọn nhẹ, phụ thuộc vào số lượng thành viên nếu từ 2 đến 11 thành viên, chỉ cần Hội đồng thành viên, chủ tịch Hội đồng thành viên và Giám đốc (Tổng Giám đốc). Từ 12 thành viên có thêm Ban kiểm soát, số thành viên ít nhất là 2. Đặc điểm của Công ty TNHH có một thành viên: Là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của doanh nghiệp. - Chủ sở hữu Công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hay một phần vốn điều lệ của Công ty cho một cá nhân, tổ chức khác. Không được trực tiếp rút một phần hay toàn bộ số vốn đã góp vào Công ty, không được rút lợi nhuận của Công ty khi không thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả, không được phát hành cổ phiếu. - Cơ cấu tổ chức: Tuỳ quy mô ngành nghề kinh doanh, cơ cấu tổ chức quản lý nội bộ của loại hình này là: Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng Giám đốc) hoặc Chủ tịch Công ty và Giám đốc (Tổng Giám đốc). Công ty hợp danh: Công ty hợp doanh là một doanh nghiệp có ít nhất 2 thành viên là thành viên hợp danh, ngoài các thành viên hợp danh còn có thể có các thành viên góp vốn. Đặc điểm của Công ty hợp danh: 15
- - Thành viên hợp danh: Là cá nhân có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp, phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của Công ty, có quyền quản lý Công ty, tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân danh Công ty, liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của Công ty. - Thành viên góp vốn: Chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty trong phạm vi phần vốn góp vào Công ty, chỉ được chia lợi nhuận theo tỷ lệ được quy định tại điều lệ Công ty, không được quản lý Công ty, không được tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân danh Công ty. - Công ty hợp danh không được phát hành chứng khoán. 16
- Doanh nghiệp tư nhân: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân bỏ vốn ra thành lập và làm chủ. Cá nhân này vừa là chủ sở hữu, vừa là người sử dụng tài sản, quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp có thể là Giám đốc hoặc thuê người làm Giám đốc nhưng vẫn chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp, không có sự phân chia rủi ro cho ai. Chủ doanh nghiệp là nguyên đơn hoặc bị đơn trong các quan hệ tố tụng. - Vốn của doanh nghiệp có thể bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng, tài sản bằng hiện vật và phải thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp. - Chủ doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ trong kinh doanh của doanh nghiệp, Chủ DNTN cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình, có quyền bán hoặc sát nhập doanh nghiệp của mình vào doanh nghiệp khác. Từ đặc điểm của từng doanh nghiệp cho chúng ta thấy sự khác nhau và ưu, nhược điểm của các loại hình doanh nghiệp thông qua các khía cạnh cơ bản sau: Trách nhiệm của chủ doanh nghiệp: Có thể nói trách nhiệm là vấn đề được các nhà đầu tư quan tâm nhất khi họ quyết định lựa chọn loại hình doanh nghiệp . Dưới khía cạnh về chế độ trách nhiệm có thể chia các doanh nghiệp thành 2 loại: doanh nghiệp trách nhiệm vô hạn và doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn. Theo quy định của pháp luật thì doanh nghiệp tư nhân và Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp có trách nhiệm vô hạn, còn thành viên góp vốn của Công ty hợp danh, Công ty TNHH và Công ty cổ phần có trách nhiệm hữu hạn. 17
- - Trách nhiệm vô hạn của chủ DNTN và thành viên hợp danh đối với Công ty hợp danh: Theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì chủ DNTN là người chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp, thành viên hợp danh của Công ty hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của Công ty. Trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân có thể là bất lợi lớn nhất đối với DNTN một khi rủi ro trong kinh doanh xảy ra. Mọi khoản thua lỗ xảy ra trong hoạt động kinh doanh đều do một chủ doanh nghiệp tư nhân gánh chịu. Quy mô kinh doanh càng mở rộng thì rủi ro đối với chủ sở hữu càng lớn. Khi mô hình kinh doanh tăng lên, kèm theo đó là nghĩa vụ tăng lên thì đặc điểm này sẽ làm cho DNTN trở thành mô hình kinh doanh hấp dẫn. Chính vì vậy mà DNTN chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hơn thế nữa, những rủi ro dân sự khác đối với chủ doanh nghiệp như: Hoả hoạn ở gia đình, bồi thường tai nạn, bệnh tật hiểm nghèo... cũng có thể là nguy cơ phá sản cho doanh nghiệp tư nhân bởi toàn bộ trách nhiệm đặt lên vai duy nhất cá nhân chủ doanh nghiệp. Với chế độ trách nhiệm vô hạn một mặt là bất lợi nhưng mặt khác nó lại là ưu điểm của DNTN. Trách nhiệm vô hạn đã nâng cao uy tín, sự tin tưởng của Chủ doanh nghiệp trong quan hệ bạn hàng với bên thứ 3 hoặc chủ nợ, bởi lẽ để đảm bảo trong giao dịch của họ không chỉ bằng tài sản của doanh nghiệp mà bằng cả tài sản riêng của Chủ doanh nghiệp. Và cũng chính một phần lý do này mà hiện nay loại hình doanh nghiệp này khá phổ biến. Tương tự như trường hợp chủ DNTN, các thành viên hợp danh trong Công ty hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới về các nghĩa vụ của Công ty. Ở đây nếu xem xét kỹ thì chế độ trách nhiệm của thành viên hợp danh có hai điểm khác: Thứ nhất, chế độ trách nhiệm của các thành viên hợp danh là chế độ chịu trách nhiệm liên đới. Điều này có nghĩa là người có quyền có thể yêu cầu bất kỳ ai trong số các thành viên hợp danh thực hiện nghĩa vụ đã cam kết, ngay 18
- cả trong trường hợp nghĩa vụ này phát sinh do hành vi của thành viên hợp danh kia nhân danh Công ty thực hiện. Thứ hai: Trách nhiệm liên đới này chỉ giới hạn trong phạm vi nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động của Công ty. Nếu nghĩa vụ phát sinh do hoạt động của một cá nhân thành viên hợp danh nào đó không nhân danh Công ty thì ở đây sẽ không phát sinh trách nhiệm liên đới, mà đó chỉ trách nhiệm riêng của cá nhân thành viên đó. Cũng một phần do chế độ liên đới chịu trách nhiệm mà những người kinh doanh dưới hình thức Công ty này thường trước hết và chủ yếu dựa trên nền tảng hiểu biết, tin cậy lẫn nhau. Chính chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn đã làm các thành viên phải chịu rủi ro cao hơn, ngay cả so với DNTN, đặt thành viên vào nguy cơ có thể bị tịch thu, tịch biên lai tài sản cá nhân để trả nợ cho Công ty. Nguy cơ này đặc biệt lớn hơn và có thể không kiểm soát được. Nếu việc lựa chọn thành viên không được cân nhắc một cách cẩn thận, dẫn đến việc chấp nhận những người kém năng lực trở thành thành viên của Công ty. Như vậy, không có sự tin cậy, hiểu biết đầy đủ giữa các thành viên thì Công ty hợp danh có thể không thành lập được hoặc có thành lập được thì cũng đứng trước nguy cơ sẽ bị giải thể hoặc phá sản. - Trách nhiệm hữu hạn của thành viên góp vốn trong Công ty hợp danh, Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần: Những thành viên góp vốn trong Công ty hợp danh, chủ sở hữu Công ty TNHH một thành viên, thành viên của Công ty TNHH hai thành viên trở lên và các cổ đông trong Công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty trong phạm vi số vốn góp vào Công ty. Nói chính xác hơn là sự thiệt hại của nhà đầu tư này chỉ giới hạn trong phạm vi số vốn góp vào Công ty. Chủ nợ hay bên thứ ba không thể yêu cầu đối tượng này phải đem tài sản riêng của họ ra trả nợ thay Công ty, trừ trường hợp sự thoả thuận giữa Công ty và đối tượng đầu tư này. 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 621 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 350 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 36 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 20 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 19 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 10 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 11 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 7 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 11 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn