ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH –––––––––––––––––––––––––––––––
NGUYỄN TIẾN DŨNG
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH –––––––––––––––––––––––––––––––
NGUYỄN TIẾN DŨNG
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60.34.04.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THẾ PHÁN
THÁI NGUYÊN - 2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của riêng tôi, được thực hiện dựa trên cơ sở lý thuyết kết hợp với thực
tiễn qua quá trình nghiên cứu khảo sát dưới sự dẫn dắt khoa học của PGS.TS
Nguyễn Thế Phán.
Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng,
trung thực, đã công bố theo đúng quy định, các kết quả nghiên cứu trong luận
án do tôi tự tìm hiểu, phân tích phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam. Luận án
này chưa từng được công bố trên bất kỳ nghiên cứu, phương tiện truyền thông
nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình!
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Tiến Dũng
ii
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi luận văn xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu, phòng
Quản lý Đào tạo sau Đại học, trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh Doanh
- Đại học Thái Nguyên, các Khoa, các thầy cô đã giảng dạy, hướng dẫn và tạo
mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong toàn khóa học, cung cấp kiến thức cần thiết,
cơ sở lý luận khoa học để tôi có thể hoàn thành bài luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ, hướng dẫn chỉ bảo tận tình giúp
đỡ của giáo viên hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Thế Phán để tôi có thể hoàn
thành bài luận văn này.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi còn được sự giúp đỡ và cộng tác
của các đồng chí tại địa điểm nghiên cứu, đã tạo điều kiện mọi mặt giúp tôi
phân tích số liệu để tôi hoàn thành nghiên cứu này. Tôi cũng xin cảm ơn sự
động viên, giúp đỡ của bạn bè và gia đình đã giúp tôi thực hiện luận văn.
Bản thân tôi đã rất cố gắng xong không tránh khỏi những sai sót nhất
định. Kính mong những ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và các bạn
đồng nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Tiến Dũng
iii
MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT ............................................ vi
DANH MỤC CÁC BẢNG.............................................................................. vii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ VÀ SƠ ĐỒ .................................................... viii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3
4. Những đóng góp mới của luận văn ............................................................... 3
5. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU
BHXH BẮT BUỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ................................................ 5
1.1. Tổng quan về BHXH ................................................................................. 5
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về BHXH ........................................................ 5
1.1.2. Bản chất, chức năng, đặc điểm, đối tượng của BHXH ........................... 6
1.1.3. Vai trò của BHXH trong nền kinh tế thị trường ................................... 14
1.2. Tổng quan về quản lý thu BHXHBB trên địa bàn tỉnh ............................ 15
1.2.1. Khái niện về quản lý thu BHXHBB...................................................... 15
1.2.2. Vai trò của công tác quản lý thu BHXHBB .......................................... 16
1.2.3. Các quy định pháp luật về công tác quản lý thu BHXHBB ................. 19
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thu BHXHBB trên địa
bàn tỉnh ............................................................................................................ 29
1.3.1. Các yếu tố chủ quan .............................................................................. 29
1.3.2. Các yếu tố khách quan .......................................................................... 31
Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................. 32
iv
2.1. Câu hỏi nghiên cứu .................................................................................. 32
2.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 32
2.2.1. Phương pháp thu thập thông tin ............................................................ 32
2.2.2. Phương pháp tổng hợp thông tin ........................................................... 33
2.2.3. Phương pháp phân tích thông tin .......................................................... 33
2.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu ................................................................... 34
2.3.1. Chỉ tiêu đánh giá thực trạng công tác quản lý thu BHXH tại tỉnh
Phú Thọ ........................................................................................................... 34
2.3.2. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong công tác quản lý thu
BHXHBB trên địa bàn tỉnh Phú Thọ .............................................................. 35
Chương 3: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BẢO
HIỂM BẮT BUỘC XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TẠI TỈNH PHÚ THỌ ... 36
3.1. Giới thiệu chung về địa bàn tỉnh Phú Thọ ............................................... 36
3.1.1. Các điều kiện tự nhiên ........................................................................... 36
3.1.2. Tổng quan về kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ ......................................... 37
3.2. Đôi nét về BHXH tỉnh Phú Thọ ............................................................... 38
3.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển ............................................................ 38
3.2.2. Mô hình, bộ máy tổ chức ...................................................................... 39
3.3. Thực trạng công tác quản lý thu BHXHBB trên địa bàn tỉnh Phú Thọ ... 41
3.3.1. Lập kế hoạch quản lý thu BHXHBB .................................................... 41
3.3.2. Tổ chức thực hiện quản lý thu BHXHBB ............................................. 43
3.3.3. Đánh giá, kiểm tra giám sát quá trình thực hiện công tác quản lý thu
BHXHBB ........................................................................................................ 53
3.4. Đánh giá chung về thực trạng công tác quản lý thu BHXHBB ............... 65
3.4.1. Những mặt đã đạt được ......................................................................... 65
3.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân ............................................................ 68
Chương 4: GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN
LÝ THU BHXH BẮT BUỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ .......... 74
v
4.1. Quan điểm, định hướng, mục tiêu quản lý thu BHXHBB tại tỉnh
Phú Thọ ........................................................................................................... 74
4.1.1. Quan điểm ............................................................................................. 74
4.1.2. Định hướng ............................................................................................ 75
4.1.3. Mục tiêu................................................................................................. 76
4.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXHBB trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ ............................................................................................. 77
4.2.1. Cải cách thủ tục hành chính .................................................................. 78
4.2.2. Đề ra lộ trình thực hiện kế hoạch .......................................................... 81
4.2.3. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn ............................................. 83
4.2.4. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền chính sách BHXH ....................... 86
4.2.5. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan ban nghành có liên quan ........ 88
4.2.6. Thay đổi, củng cố, hoàn thiện mô hình quản lý thu BHXHBB ............ 89
4.2.7. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện thu BHXH .......... 91
4.2.8. Tăng cường công tác thanh kiểm tra, xử lý sai phạm bất cập ............... 94
4.2.9. Tăng cường thu bằng các hình thức động viên, khuyến khích ............. 96
4.3. Một số kiến nghị ....................................................................................... 97
4.3.1. Kiến nghị với Nhà nước và BHXH Việt Nam ...................................... 97
4.3.2. Kiến nghị với cấp uỷ, chính quyền địa phương .................................. 100
KẾT LUẬN .................................................................................................. 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 105
vi
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
ASXH : An sinh xã hội
BHTM : Bảo hiểm thương mại
BHTN : Bảo hiểm thất nghiệp
BHXH : Bảo hiểm xã hội
BHXHBB : Bảo hiểm xã hội bắt buộc
BHXHTN : Bảo hiểm xã hội tự nguyện
BHYT : Bảo hiểm y tế
BHYTTN : Bảo hiểm y tế tự nguyện
: Đảng, đoàn thể ĐĐT
: Đăng ký kinh doanh ĐKKD
: Doanh nghiệp Nhà nước DNNN
DNNQD : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
HCSN : Hành chính, sự nghiệp
NĐ : Nghị định
NLĐ : Người lao động
NN : Nhà nước
NSNN : Ngân sách Nhà nước
QĐ : Quyết định
SDLĐ : Sử dụng lao động
TT : Thông tư
TW : Trung ương
VN : Việt Nam
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Dự toán thu BHXHBB từ năm 2014 - 2016 ................................... 42
Bảng 3.2: Số đơn vị và số lao động tham gia BHXH theo khối, loại hình ..... 46
Bảng 3.3: Kết quả thu BHXHBB kế hoạch và thực tế từ năm 2014 - 2016 ... 54
Bảng 3.4: Kết quả thu BHXHBB từ năm 2013 - 2016 .................................. 56
Bảng 3.5: Bảng so sánh tỷ lệ nợ đọng và tổng thu BHXHBB ........................ 62
viii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ VÀ SƠ ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Kế hoạch và kết quả thu BHXHBB giai đoạn 2014 -2016 ........ 54
Biều đồ 3.2: Kết quả thu BHXHBB từ 2013 - 2016 của tỉnh Phú Thọ .......... 57
Biều đồ 3.3: Kết quả thu BHXHBB từ 2013 - 2016 của tỉnh Phú Thọ .......... 58
Sơ đồ 3.1: Mô hình tổ chức bộ máy BHXH tỉnh Phú Thọ ............................. 40
Sơ đồ 3.2: Tổ chức bộ máy quản lý thu BHXH .............................................. 43
Sơ đồ 4.1: Mô hình thu BHXH ....................................................................... 90
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta đối với người lao
động, nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức thực hiện tốt chính sách BHXH, BHYT
bao gồm các chế độ: Ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
hưu trí, tử tuất, khám chữa bệnh BHYT, bảo hiểm thất nghiệp cho NLĐ và
nhân dân trên phạm vi cả nước. Trong đó vấn đề để đảm bảo quyền lợi cho
NLĐ khi họ gặp rủi ro trong lao động, ốm đâu, thai sản, thất nghiệp ngày
càng được quan tâm. Để có tiền để chi trả các chế độ chính sách cho NLĐ khi
gặp rủi ro trong lao động thì thu BHXHBB là yếu tố quyết định đến việc chi
trả các chế độ chính sách này. Thu BHXH được coi là xương sống trong
nghành BHXH Việt Nam.
Vì vậy, ngay từ những ngày đầu thành lập nước, chế độ chính sách BHXH
đã được ban hành, từng bước được thực hiện đối với công nhân viên chức khu
vực NN và dần mở rộng ra khu vực ngoài quốc doanh. Trong quá trình thực
hiện, chế độ chính sách về BHXHBB không ngừng được bổ sung, sửa đổi để
phù hợp với nền kinh tế trong từng thời điểm. Có thể nói các chính sách
BHXHBB luôn mang tính cấp thiết thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước ta về vấn đề ASXH.
Theo Luật BHXH 2014, từ ngày 1/1/2016, đối tượng áp dụng
BHXHBB sẽ được mở rộng tới tất cả NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng, những người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn. Từ
ngày 1/1/2018, Luật tiếp tục mở rộng tới những người làm việc theo hợp đồng
lao động có thời hạn từ 1 tháng trở lên và NLĐ là công dân nước ngoài làm
việc tại Việt Nam thì các đối tượng tham gia đóng, hưởng BHXHBB đã được
mở rộng đến tất cả các thành phần kinh tế. Vì vậy, số lao động tham gia
BHXHBB năm sau luôn tăng cao hơn năm trước. Số thu BHXHBB ngày càng
tăng, quỹ BHXHBB độc lập với ngân sách nhà nước. Đây là bước chuyển đổi
2
căn bản về sự nghiệp BHXH từ cơ chế bao cấp chủ yếu dựa vào ngân sách nhà
nước sang cơ chế quỹ BHXHBB chủ yếu dựa trên nguồn thu do người lao động,
người chủ sử dụng lao động đóng góp… để chi trả các chế độ BHXHBB.
Số lao động còn lại chưa tham gia BHXHBB tập trung chủ yếu ở khu
vực ngoài nhà nước như: Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tổ hợp tác,
người buôn bán nhỏ...trốn tránh không tham gia BHXHBB cho NLĐ hoặc
còn cố tình tìm mọi cách trốn đóng BHXH mặt khác nợ đọng BHXHBB thời
gian dài, thậm chí có những đơn vị sử dụng lao động lạm dụng quỹ
BHXHBB, lạm dụng tiền đóng BHXHBB của NLĐ để làm vốn sản xuất kinh
doanh… Do đó, đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện chế độ, chính
sách BHXHBB cho NLĐ nói chung và việc thực hiện công tác quản lý thu
BHXH nói riêng, làm ảnh hưởng đến việc thu, nộp BHXH.
Để đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, tránh thất thoát, nâng cao
hiệu quả, đáp ứng được những yêu cầu trong công tác quản lý thu BHXH thì
việc hoàn thiện công tác quản lý thu BHXHBB là hết sức quan trọng và cần
thiết do vậy tôi đã chọn đề tài "Hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH bắt
buộc trên địa bàn tỉnh Phú Thọ" với mục đích
Đưa ra những khái quát chung về BHXH
Làm rõ công tác thu và vai trò của BHXHBB
Đánh giá thực trạng công tác quản lý thu BHXHBB trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ giai đoạn 2014 - 2016
Đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác
quản lý thu BHXHBB trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động thu BHXHBB trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ, đề tài đưa ra giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu
BHXHBB trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
3
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Khái quát hóa những cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác quản lý
thu BHXHBB trên địa bàn tỉnh; xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu.
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý thu BHXHBB trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ trong những năm qua; chỉ rõ những mặt còn hạn chế và nguyên nhân
dẫn đến những hạn chế đó.
- Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXHBB
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý thu BHXHBB trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ (không nghiên cứu BHXH tự nguyện và Bảo hiểm thất nghiệp, BHYT...).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu các vấn đề về thu, nộp BHXH của
người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, các yếu tố ảnh
hưởng đến số thu BHXH, đối tượng nộp BHXH, phương thức thu, quy trình
tổ chức quản lý thu, nguyên nhân trốn tránh nộp BHXH, những biện pháp
chống thất thu BHXH.
- Về phạm vi không gian: Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
- Về phạm vi thời gian:
+ Nghiên cứu đánh giá thực trạng quản lý thu BHXHBB trong giai
đoạn từ năm 2014 đến năm 2016
+ Xây dựng giải pháp hoàn thiện cho giai đoạn 2017 - 2020
4. Những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng của công tác quản lý thu
BHXH trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2016 luận
văn sẽ chỉ ra những nguyên nhân chủ doanh nghiệp muốn trốn tránh trách
nhiệm việc tham gia BHXH cho người lao động. NLĐ thiếu hiểu biết về
chính sách BHXH không dám đấu tranh với chủ sử dụng lao động, sợ mất
việc làm vì vậy quyền lợi của NLĐ bị bỏ rơi.
4
Luận văn đưa ra những biện pháp khắc phục, những giải pháp khả thi
mang ý nghĩa thực tiễn cao nhằm làm tăng số lao động được tham gia BHXH,
tăng mức thụ hưởng các chế độ, chính sách BHXH của NLĐ góp phần làm
tăng doanh thu, hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH trên địa bàn và với các
địa phương có điều kiện tương tự.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, bảng
chữ viết tắt, danh mục bảng sơ đồ, luận văn được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác quản lý thu BHXHBB trên địa
bản tỉnh.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng công tác quản lý thu BHXHBB trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ.
Chương 4: Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH trên
đia bàn tỉnh Phú Thọ.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BHXH BẮT BUỘC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
1.1. Tổng quan về BHXH
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về BHXH
a. Khái niệm về BHXH
Bảo hiểm và BHXH đã hình thành từ rất sớm trong lịch sử phát triển
của xã hội loại người. Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đã thực hiện
chính sách BHXH và coi nó là một trong những chính sách xã hội quan trọng
nhất trong hệ thống chính sách bảo đảm ASXH. Có nhiều khái niệm về
BHXH tuy nhiên chưa có khái niệm thống nhất bởi lẽ, BHXH là đối tượng
nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau như kinh tế, xã hội, pháp lý...
Theo từ điển Bách khoa: "BHXH là sự đảm bảo, thay thế hoặc bù đắp
một phần thu nhập cho NLĐ khi họ mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già,
tử tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham
gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm đảm bảo, an
toàn đời sống cho NLĐ và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn
xã hội".
Còn theo khái niệm của BHXH Việt Nam: BHXH là sự bảo vệ của xã
hội đối với NLĐ thông qua việc huy động các nguồn đóng góp để trợ cấp cho
họ, nhằm khắc phục những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị
giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn, thất nghiệp, mất khả năng
lao động, tuổi già và chết. Đồng thời, bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho
các thân nhân trong gia đình người lao động, để góp phần ổn định cuộc sống
của bản thân NLĐ và gia đình, góp phần an toàn xã hội.
Như vậy, có thể khái quát về BHXH như sau: “BHXH là sự đảm bảo
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động, khi họ gặp phải
6
những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động, mất việc
làm, chết; gắn liền với quá trình tạo lập một quỹ tiền tệ tập trung được hình
thành bởi các bên tham gia BHXH đóng góp và việc sử dụng quỹ đó cung cấp
tài chính nhằm đảm bảo mức sống cơ bản cho bản thân NLĐ và những người
ruột thịt (bố, mẹ, vợ/ chồng, con) của NLĐ trực tiếp phải nuôi dưỡng, góp
phần đảm bảo an toàn xã hội”.
b. Khái niệm về thu BHXHBB
Việc tham gia BHXHBB hiện nay theo quy định của pháp luật thì các
bên tham gia gồm có chủ lao động và lao động đều phải có trách nhiệm nhằm
đóng góp vào quỹ BHXHBB. Đây là điều kiện đầu tiên để NLĐ được hưởng
các chế độ, đảm bảo nguyên tắc “Có đóng, có hưởng”.
Các tổ chức BHXH phải có trách nhiệm tổ chức thu và quản lý tiền thu
BHXHBB của đôi bên tham gia dự trên thể chế chính sách pháp luật của nhà
nước. Tựu chung lại có thể khái quát khái niệm thu BHXHBB như sau: “Thu
BHXHBB là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình bắt buộc các đối tượng
tham gia phải đóng BHXH theo mức phí quy định. Trên cơ sở đó hình thành
một quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích đảm bảo cho việc chi trả các chế độ
BHXH và hoạt động của tổ chức sự nghiệp BHXH” (Giáo trình Quản trị
BHXH, NXB Lao động - Xã hội, 2008).
1.1.2. Bản chất, chức năng, đặc điểm, đối tượng của BHXH
a. Bản chất của BHXH
Cùng với quá trình phát triển, tiến bộ của loài người, BHXH được coi
là một chính sách xã hội quan trọng của bất kỳ nhà nước nào, nhằm bảo đảm
an toàn cho sản xuất, cho đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người trong
xã hội.
BHXH được lập ra, tồn tại và phát triển là một nhu cầu khách quan, là
sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ gặp
những biến cố làm giảm khả năng hoặc mất khả năng lao động dẫn đến việc
giảm hoặc mất thu nhập.
7
Với tư cách là công cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội, nhà nước
phải can thiệp và tổ chức bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động,
đặc biệt là để giải quyết mối quan hệ thuê mướn lao động giữa chủ và thợ.
Yêu cầu giới chủ phải thực hiện những cam kết đảm bảo điều kiện làm việc
và nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần cho giới thợ, trong đó có nhu cầu về
tiền lương, về chăm sóc y tế, về chăm sóc khi bị ốm đau, tai nạn, trả lương khi
NLĐ đến tuổi hưu... Đồng thời bản thân NLĐ cũng phải có trách nhiệm giành
một khoản thu nhập chi trả cho bản thân mình khi có những rủi ro xảy ra. Mặt
khác, nhà nước được coi như là một người chủ sử dụng lao động của mọi
người lao động, vì vậy NLĐ không đủ để trang trải cho những khoản chi cho
NLĐ khi họ gặp phải rủi ro thì Nhà nước phải có trách nhiệm trích một phần
ngân sách để bảo đảm đời sống cơ bản cho người lao động.
Nền kinh tế hàng hóa càng phát triển, việc thuê mướn lao động trở nên
phổ biến thì càng đòi hỏi sự phát triển và đa dạng của BHXH. Nền kinh tế
hàng hóa phát triển là nền tảng, là cơ sở của BHXH. BHXH được hình thành
trên cơ sở quan hệ lao động, giữa các bên cùng tham gia và được hưởng
BHXH. Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan
chuyên trách, thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH. Chủ
sử dụng và NLĐ có trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ BHXH. NLĐ
(bên được BHXH) và gia đình của họ được cung cấp tài chính từ quỹ BHXH
khi họ có đủ điều kiện theo chế độ BHXH quy định. Đó chính là mối quan hệ
của các bên tham gia BHXH.
Phân phối trong BHXH là phân phối không đều, nghĩa là không phải ai
tham gia BHXH cũng được phân phối với số tiền giống nhau. Phân phối trong
BHXH vừa mang tính bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. Những biến
cố xảy ra mang tính tất nhiên đối với con người là thai sản (đối với lao động
nữ), tuổi già và chết, trong trường hợp này, BHXH phân phối mang tính bồi
hoàn vì NLĐ đóng BHXH chắc chắn được hưởng khoản trợ cấp đó. Còn trợ
8
cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm,
những rủi ro xảy ra trái ngược với ý muốn của con người như ốm đau, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, là sự phân phối mang tính không bồi hoàn; có
nghĩa là chỉ khi nào NLĐ gặp phải tổn thất do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp... thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó.
BHXH hoạt động theo nguyên tắc "cộng đồng - lấy số đông bù cho số
ít" tức là dùng số tiền đóng góp nhỏ của số đông người tham gia BHXH để bù
đắp, chia sẻ cho một số ít người với số tiền lớn hơn so với số đóng góp của
từng người, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro gây tổn thất.
Hoạt động BHXH là một loại hoạt động dịch vụ công, mang tính xã hội
cao; lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động BHXH là quá
trình tổ chức, triển khai thực hiện các chế độ, chính sách BHXH của tổ chức
quản lý sự nghiệp BHXH đối với NLĐ tham gia và hưởng các chế độ BHXH.
Là quá trình tổ chức thực hiện các nghiệp vụ thu BHXH đối với người sử
dụng lao động và người lao động; giải quyết các chế độ, chính sách và chi
BHXH cho người được hưởng; quản lý quỹ BHXH và thực hiện đầu tư bảo
tồn và tăng trưởng quỹ BHXH.
Nghiên cứu về sự giống và khác nhau giữa BHXH và BHTM sẽ làm rõ
hơn bản chất của BHXH.
BHTM là biện pháp chia sẻ tổn thất về mặt tài chính của một hay một
số ít người gặp phải một hay một số loại rủi ro nào đó, được bù đắp bởi một
quỹ tiền tệ tập trung hình thành từ sự đóng góp của những người tham gia bảo
hiểm cũng có khả năng gặp phải rủi ro đó, thông qua hoạt động quản lý của
các nhà kinh doanh bảo hiểm.
Hoạt động của BHTM theo nguyên tắc có tham gia bảo hiểm mới được
hưởng quyền bảo hiểm, đó là hoạt động kinh doanh kiếm lợi nhuận của các
doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, tuân thủ theo nguyên tắc hạch toán kinh
tế, lời ăn, lỗ chịu.
9
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm
nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của
người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để
doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi
thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm
BHTM có những đặc điểm khác với BHXH ở một số nội dung sau:
- Phạm vi hoạt động của BHTM rất rộng, có mặt ở tất cả các lĩnh vực
của đời sống kinh tế - xã hội; không chỉ bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ một
nước mà còn trải rộng xuyên quốc gia. Tuy BHTM có nhiều loại nghiệp vụ
bảo hiểm nhưng xét theo phương thức quản lý có thể chia thành hai nhóm
nghiệp vụ bảo hiểm, đó là bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ.
Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người
được bảo hiểm sống hoặc chết, bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo
hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc
bảo hiểm nhân thọ
- Đối tượng tham gia BHTM là tất cả mọi đơn vị, tổ chức và mọi công
dân không phân biệt tuổi tác, giới tính, dân tộc, màu da, có thu nhập hay
không có thu nhập, tình trạng sức khỏe... tự nguyện lựa chọn, tham gia bảo
hiểm và phải nộp phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
- Thời hạn có hiệu lực điều chỉnh quan hệ giữa đối tượng tham gia bảo
hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm thường là có thời hạn và ngắn (một số năm
hoặc theo một chu kỳ hoạt động của đối tượng tham gia bảo hiểm); chẳng hạn
như bảo hiểm tai nạn giao thông các phương tiện vận tải thường là một năm;
bảo hiểm một chuyến vận chuyển, chuyến du lịch, bảo hiểm gieo trồng, chăn
nuôi... thường là theo một chu kỳ hoạt động, kinh doanh của đối tượng.
- Đối tượng tham gia BHTM có thể tự chọn các sản phẩm bảo hiểm do
các doanh nghiệp bảo hiểm bán ra, với mức được bù đắp, bồi thường theo
từng mức phí đóng góp và những điều kiện cụ thể khác của đối tượng như:
10
tình trạng tài sản, tình trạng về sức khỏe, giới tính, điều kiện môi trường, lao
động, sinh hoạt...
- Đối tượng tham gia bảo hiểm chỉ được bồi thường thiệt hại khi xảy ra
rủi ro đối với họ. Mức độ bồi thường nhiều hay ít phụ thuộc vào mức phí
đóng góp và mức độ tổn thất thực tế được quy định trong hợp đồng bảo hiểm.
Không có liên quan gì đến thu nhập của họ có hay không và nhiều hay ít.
BHTM chỉ bù đắp được một phần tổn thất khó khăn tạm thời, cấp bách cho
người được hưởng bảo hiểm.
BHXH và BHTM có tính chất, đối tượng, phương thức và mục đích
hoạt động khác nhau, nhưng giữa chúng có những nguyên lý hoạt động mang
tính phổ biến và nhất quán, mà bất kỳ loại hình bảo hiểm nào khi hoạt động
cũng phải tuân thủ, đó là:
Thứ nhất, bảo hiểm là một hình thức hoạt động nhằm phân tán rủi ro,
hỗ trợ lẫn nhau giữa những đơn vị, cá nhân cùng tham gia bảo hiểm thực hiện
theo nguyên tắc "cộng đồng - lấy số đông bù cho số ít". Vì vậy, dịch vụ bảo
hiểm cần phải có đông người tham gia mới đạt được mục đích phân tán rủi ro,
tổn thất. Số người tham gia bảo hiểm càng đông thì mức độ tổn thất được
phân tán càng rộng, mức độ gánh chịu tổn thất của từng thành viên càng ít
hơn. Hình thành được quỹ bảo hiểm tập trung càng lớn, mức độ an toàn quỹ
bảo hiểm càng cao, đảm bảo đủ nguồn lực tài chính đáp ứng yêu cầu chi trả
càng kịp thời, đầy đủ hơn cho người được thụ hưởng.
Thứ hai, quỹ bảo hiểm được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của
những bên tham gia bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm phải được tính toán cân đối thu -
chi một cách khoa học dựa trên quy luật số lớn để xác định mức đóng góp của
đối tượng tham gia và mức hưởng thụ do quỹ phải chi trả; sao cho quỹ bảo
hiểm phải được ổn định, vững chắc trong bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn phải đảm
bảo đủ nguồn lực tài chính để chi trả kịp thời, đầy đủ các khoản bồi thường,
trợ cấp cho đối tượng được thụ hưởng.
11
Thứ ba, quỹ bảo hiểm được quản lý và sử dụng theo chế độ tài chính và
luật pháp của nhà nước quy định. Quỹ bảo hiểm tạm thời nhàn rỗi được thực
hiện các hoạt động đầu tư vừa góp phần cung cấp nguồn vốn để phát triển nền
kinh tế - xã hội; vừa để bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Khi thực hiện hoạt động
đầu tư quỹ phải đảm bảo an toàn; hạn chế rủi ro, thất thoát quỹ đến mức thấp
nhất, đạt hiệu quả kinh tế - xã hội và đảm bảo khả năng thanh toán linh hoạt.
b. Chức năng và đặc điểm của BHXH
Chức năng là sự khái quát của các nhiệm vụ cơ bản, là dạng hoạt động
đặc trưng và khái quát nhất của tổ chức hay cá nhân gắn với chức danh nào đó
trong một hệ thống tổ chức hoạt động thuộc phạm vi nhất định trong xã hội.
Cũng như các thành phần khác của nền kinh tế bảo hiểm, BHXH có hai chức
năng cơ bản là chức năng phân phối và chức năng giám đốc. Tuy nhiên do
tính đặc thù của mình, BHXH không những có tính kinh tế mà còn có tính xã
hội rất cao. Vì vậy về tổng quát, BHXH có những chức năng sau:
- Bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động:
Bảo đảm hay thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ khi
NLĐ rơi vào các trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập và hội tụ các điều
kiện quy định. Sở dĩ như vậy là giữa NLĐ và cơ quan BHXH có mối quan hệ
hết sức chặt chẽ. Quan hệ này phát sinh trên cơ sở lao động và quan hệ tài
chính BHXH. Quan hệ đó diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia bảo hiểm, bên
nhận bảo hiểm và bên được bảo hiểm. Bên tham gia bảo hiểm trước hết là
người sử dụng lao động có trách nhiệm phải đóng phí để bảo hiểm cho NLĐ
mà mình sử dụng, đồng thời NLĐ cũng phải có trách nhiệm đóng phí để tự
bảo hiểm cho mình. Sự đóng góp này là bắt buộc, đều kỳ và theo những mức
quy định cho bên nhận bảo hiểm.
- Phân phối lại thu nhập
BHXH là bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ
khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất
12
nghiệp, tuổi già, bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung
được tồn tích dần bởi sự đóng góp những người sử dụng lao động, NLĐ và sự
hỗ trợ của Nhà nước.
Như vậy người sử dụng lao động bắt buộc phải đóng góp vào quỹ
BHXH để bảo hiểm cho người lao động, lao động có đóng góp vào quỹ
BHXH mới có quyền hưởng trợ cấp. Nhưng do còn khoẻ mạnh, có việc làm
và có thu nhập bình thường nên không được hưởng trợ cấp bảo hiểm. Số
lượng những người không được hưởng trợ cấp như vậy thường chiếm tỷ trọng
rất lớn trong tổng số người tham gia đóng góp bảo hiểm. Chỉ những NLĐ bị
giảm hoặc mất thu nhập trong những trường hợp xác định và có đủ các điều kiện
cần thiết mới được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH. Số lượng những người này
thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong số những người tham gia đóng góp nêu trên.
Như vậy, BHXH đó lấy số đông bù số ít và thực hiện chức năng phân phối lại
thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang giữa những NLĐ có thu nhập thấp
hơn, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải
nghỉ việc. Điều đó cũng góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội.
- Kích thích, khuyến khích NLĐ hăng hái lao động sản xuất
NLĐ có việc làm khi khoẻ mạnh làm việc bình thường sẽ có tiền lương,
tiền công, khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động tuổi già hoặc không may bị
chết đã có BHXH đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập quan
trọng, do đó đời sống của bản thân và gia đình họ luôn luôn có chỗ dựa, luôn
luôn được đảm bảo. Chính vì thế, họ sẽ gắn bó với công việc, với nơi làm việc
và yên tâm, tích cực lao động sản xuất, góp phần tăng năng xuất lao động
cũng như tăng hiệu quả kinh tế. Nói cách khác, tiền lương (tiền công) và
BHXH là những động lực thúc đẩy hoạt động lao động của người lao động.
- Phát huy tiềm năng và gắn bó lợi ích
BHXH dựa trên cơ sở đóng góp ít nhưng đều kỳ của mọi người sử dụng
lao động, NLĐ và Nhà nước cho bên thứ ba là cơ quan BHXH, để tồn tích
13
dần dần thành một quỹ tập trung, quỹ này lại huy động phần nhàn rỗi tương
đối vào hoạt động sinh lời làm tăng thêm nguồn thu. Do đó, BHXH hoàn toàn
có thể bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ khi họ gặp
rủi ro, khó khăn theo những chế độ xác định, góp phần bảo đảm ổn định và an
toàn đời sống cho NLĐ và cho gia đình họ.
Trên giác độ xã hội, bằng phương thức dàn trải rủi ro thiệt hại theo cả
thời gian và không gian, BHXH đã giúp giảm thiểu thiệt hại cho số đông
trong xã hội, đồng thời làm tăng khả năng giải quyết rủi ro, khó khăn của
những NLĐ tham gia bảo hiểm với một tổng dự trữ ít nhất. Đối với Nhà nước
chi cho BHXH đối với NLĐ là một cách thức phải chi trả ít nhất nhưng vẫn
giải quyết tốt các rủi ro, khó khăn về đời sống của NLĐ và gia đình họ, góp
phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị xã hội ổn định và an toàn.
Đối với người sử dụng lao động và NLĐ cũng vậy. Cả hai giới này đều thấy
nhờ BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ.
BHXH đã phát huy tiềm năng của số đông và ưu điểm của nhiều
phương thức hoạt động trong kinh tế thị trường để bảo đảm an toàn đời sống
cho NLĐ cũng như cho xã hội. Đồng thời BHXH cũng tạo ra sự gắn bó chặt
chẽ về lợi ích, cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của các bên tham gia
BHXH, cũng như của các bên đó đối với Nhà nước.
c. Đối tượng của BHXH
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và
nền kinh tế hàng hóa đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Âu. Từ
năm 1883, ở nước Phổ (CHLB Đức ngày nay) đó ban hành đạo luật bảo hiểm
y tế. Một số nước châu Âu và Bắc Mỹ mãi đến cuối những năm 1920 mới có
đạo luật về BHXH.
BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi
do NLĐ bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động, bị mất việc làm vì các
nguyên nhân rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, già yếu ... Chính vì vậy, đối
14
tượng của BHXH chính là thu nhập của NLĐ bị biến động giảm hoặc mất đi
do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người tham
gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH là NLĐ và người sử dụng lao động. Tuy
vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà đối tượng
này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những NLĐ nào đó.
Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với
các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt Nam cũng
không vượt ra khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là không bình đẳng
giữa tất cả những người lao động.
Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài NLĐ
cũng có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, dưới sự bảo trợ của NN.
Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để
bảo hiểm cho NLĐ mà họ sử dụng. Các cơ quan BHXH nhận sự đóng góp
của NLĐ và người sử dụng lao động, phải có trách nhiệm quản lý và sử dụng
quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động. Nó quyết
định sự tồn tại và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững.
1.1.3. Vai trò của BHXH trong nền kinh tế thị trường
Trong qúa trình tồn tại và phát triển của xã hội loài người việc lao động
nhằm tạo ra của cải vật chất với mục đích trước tiên là thỏa mãn những nhu
cầu thiết yếu như ăn mặc, sinh hoạt,... Con người không phải lúc nào cũng
gặp may mắn thuận lợi, có đầy đủ sức khỏe, tinh thần để tạo ra thu nhập và
điều kiện sống đầy đủ. Trái lại, có rất nhiều những trường hợp gặp phải những
khó khăn trắc trờ. Gặp rủi ro xảy ra trong điều kiện tự nhiên, mội trường sống
hoặc điều kiện khách quan như ốm đau, tai nạn, mất việc làm, già cả, mất khả
năng lao động, tử vong... Chính vì vậy ngay từ xa xưa trong cộng đồng, xóm
làng đã có tinh thần đùm bọc sẻ chia. Sự tương trợ lẫn nhau trong cộng đồng
dần được mở rộng và phát triển tạo lập thành các quỹ bằng vật chất và tiền
15
nhằm hỗ trợ lẫn nhau khi gặp khó khăn hoạn nạn, thiếu thốn. Đây chính là
khỏi nguồn hình thành của các hình thức bảo hiểm hiện nay.
Sự trợ giúp tự nguyện này là thụ động, cục bộ, không ổn định và không
chắc chắn. Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa phát triển như ngày
nay nguy cơ rùi ro cao dễ gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Đi kèm với đó
lực lượng lao động làm ngày càng tăng nhanh, cuộc sống của họ phụ thuộc
vào thu nhập do lao động làm thuê mang lại. Lực lượng lao động dồi dào và
nguy cơ rủi ro cao dễ dẫn đến mất việc làm hoặc ốm đau bệnh tật đe dọa đến
công việc của họ.
Trước thực tế đó việc đảm bảo cho người kao động có một khoản thu
nhập nhất định gọi là tiền trợ cấp để họ có thể trang thải những nhu cầu thiết
yếu khi gặp ốm đau, tai nạn là hết sức cần thiết.
Chính vì vậy nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và là đầu mối tạo lập
nguồn quỹ cố định nhằm hỗ trợ NLĐ một phần khi họ gặp ốm đau, tai nạn và
mất việc làm... Việc tạo lập quỹ này gắn cả trách nhiệm của ngưởi sử dụng
lao động , NLĐ và nhà nước tạo thành một quỹ tiền tệ tập trung có sự quản lý,
giám sát của Nhà nước. Cũng nhờ đó mà cuộc sống NLĐ mới được đảm bảo,
họ sẽ yên tâm sản xuất kinh doanh, chủ lao động tránh gặp phải những mất
mát về kinh tế khi lao động gặp rủi ro.
Như vậy BHXH ra đời và phát triển là một yếu tố khách quan và ngày
càng phát triển đi cùng với sự phát triển của mỗi quốc gia, mọi thành viên
trong xã hội đề thấy cần tham gia đóng BHXH và nó trở thành quyền, nhu cầu
của mỗi NLĐ và cũng là nghĩa vụ đối với người sử dụng lao động.
1.2. Tổng quan về quản lý thu BHXHBB trên địa bàn tỉnh
1.2.1. Khái niện về quản lý thu BHXHBB
Cũng như các tổ chức kinh tế - chính trị - xã hội khác, tổ chức BHXH
muốn tồn tại và phát triển được bắt buộc phải có nguồn tài chính riêng để chi
dùng cho công tác thực hiện chính sách, chế độ đồng thời duy trì bộ máy hoạt
16
động. Hiện nay, thu BHXHBB vốn được coi là xương sống trong toàn bộ máy
BHXH do đó thu BHXHBB đóng vai trò quan trọng, là nhân tố có tính chất
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của BHXH.
Trong khi đó,qũy BHXHBB là có hạn, để đảm bảo cho mọi hoạt động
được bền vững, cơ quan BHXH phải luôn tiến hành cân đối quỹ sao cho hợp
lý nhất. Nhà nước sẽ sử dụng quyền lực của mình xây dựng các cơ chế, chính
sách nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu và quản lý thu BHXH. Do vậy, có
thể hiểu quản lý thu BHXHBB là : “Quản lý thu BHXHBB là hoạt động có tổ
chức dựa trên cơ sở hệ thống pháp luật của nhà nước sử dụng biện pháp
hành chính tổ chức kinh tế quản lý hoạt động thu nộp BHXHBB, xác định việc
thực hiện nghĩa vụ của NLĐ tham gia BHXHBB và đồng thời việc xác nhận
đó là căn cứ để thực hiện chính sách, chế độ BHXHBB, đảm bảo quyền lợi
đối với đối tượng tham gia BHXHBB đúng, đủ, kịp thời đáp ứng mọi yêu cầu,
quy định của pháp luật”.
1.2.2. Vai trò của công tác quản lý thu BHXHBB
Việc thu quỹ BHXHBB là việc NN dùng quyền lực của mình bắt buộc
các bên tham gia phải có trách nhiệm đóng BHXH theo mức quy định, trên cơ
sở đó hình thành, tạo lập quỹ tiền tề tập trung theo hướng quỹ công hoàn toàn
độc lập với NSNN để đảm bảo vấn đề tài chính trong việc chi trả các chế độ
BHXH cho người lao động.
Chính vì vậy công tác thu BHXHBB ngày càng có vai trò quan trọng trong
hoạt động của ngành BHXH, đây là công tác trọng tâm của hoạt động BHXH
quyết định đến sự tồn tại và phát triển thực hiện các chính sách BHXH.
Thu BHXH được coi là xương sống trong nghành BHXH.
1.2.2.1. Vai trò trong việc tạo lập quỹ
Thu quỹ BHXHBB là hoạt động chính của các cơ quan BHXH từ trung
ương cho tới địa phương cùng với các cơ quan chức năng trên cơ sở quy định
của pháp luật về thực hiện chính sách của BHXH. Công tác thu BHXH tạo ra
một quỹ tài chính độc lập, tập trung vào NSNN.
17
Việc thực hiện chi trả các chế độ BHXH được diễn ra một cách thuận
lợi và hạn chế tối đa ảnh hưởng vào NSNN thì việc thu BHXH đặc biệt là
BHXHBB là điều kiện tiên quyết trong việc hình thành quỹ và thực hiện các
chính sách BHXH. Việc thu BHXHBB cũng là một khâu bắt buộc đối với các
bên tham gia đều phải có trách nhiệm trong việc thực hiện các chính sách và
trích nộp BHXH đúng theo quy định của nhà NN. Mặt khác việc quản lý công
tác thu BHXHBB luôn đòi hỏi các cán bộ nghành BHXH phải thực hiện
thường xuyên, liên tục với độ chính xác cao trong quá trình thực hiện vì việc
thu BHXHBB luôn kéo dài có sự biến động thường xuyên. Luôn đảm bảo
chính xác, hiệu quả với mục tiêu thu đúng, thu đủ, thu kịp thời.
Việc thu quỹ BHXH nói chung đã tạo ra một khoản tiền lớn với mục
đính chính là chi trả các chế độ BHXH tuy nhiên nếu các cơ quan BHXH từ
TW cho tới địa phương luôn chú trọng thực hiện thường xuyên liên tục, bám
sát địa bàn với mục tiêu thu đúng thu đủ thu kịp thời sẽ tạo ra một khoản tiền
nhàn rỗi chưa sử dụng tới. Đây là nguồn tài chính có thể được sử dụng để
cung ứng ra nền kinh tế góp phần đám ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển của
đất nước.
1.2.2.2. Vai trò trong việc tạo lập mối quan hệ giữa các bên
Công tác thu quỹ BHXH dựa trên cơ sở đóng, thời gian đóng BHXH
của từng người, từng đơn vị tham gia. Việc thu BHXH này đòi hỏi phải có sự
ghi chép cụ thể rõ ràng theo từng người, từng đơn vị để làm cơ sở cho việc
tính mức hưởng BHXH. Dựa vào việc theo dõi, ghi chép này đóng vai trò như
là một công cụ thanh kiểm tra đối với từng địa phương, từng đơn vị tham gia
BHXHBB nhằm theo dõi số lượng người tham gia BHXH, vị trí làm việc,
mức độ độc hại ảnh hướng đến công tác chi trả BHXH.
Mặt khác đối với NLĐ là người trực tiếp đóng BHXH họ có nghĩa vụ
và quyền được tham gia BHXH để được hưởng những chế độ chính sách khi
gặp phải rủi ro trong lao động dẫn đến việc giảm hoặc mất khả năng lao động.
18
Đối với chủ sử dụng lao động phải có trách nhiệm đóng BHXH cho NLĐ theo
mức quy định của ngành BHXH. Việc khai báo tăng giảm lao động là điều
kiện bắt buộc của chủ lao động và là hoạt động thường xuyên cho cơ quan
BHXH và là cơ sở để đóng BHXH cho người lao động.
Có thể nói quỹ BHXHBB hình thành từ việc trực tiếp NLĐ có quyền và
nghĩa vụ được tham gia đóng BHXH và của đơn vị chủ quản trực tiếp sử dụng
lao động. Việc tham gia đóng BHXH là điều kiện bắt buộc để tạo lập quỹ , dựa
trên số lượng người và đơn vị tham gia tại mỗi địa phương việc hình thành quỹ
này sẽ khác nhau. Chính vì lẽ vai trò của công tác thu BHXH là hết sức cần thiết,
thường xuyên liên tục. Đây là khâu đầu tiên giúp cho các chính sách BHXH
được triển khai đầy đủ các chức năng cũng như bản chất của mình.
1.2.2.3. Vai trò về đảm bảo công bằng trong BHXH
Hoạt động của BHXH dựa trên nguyên tắc có đóng - có hưởng do vậy
BHXH đặt ra những yêu cầu, quy định cụ thể đối với công tác thu nộp
BHXHBB. Nếu không thu được BHXH bắ buộc sẽ không thể có nguồn chi để
chi trả các chế độ BHXH cho người lao động. Do vậy NLĐ có đóng góp
BHXHBB thì sẽ được hưởng các chế độ BHXH. Nếu trong quá trình thu
BHXH diễn ra không triệt để, thường xuyên sẽ dẫn đến việc quỹ BHXH
không được đảm bảo để chi trả các chế độ BHXH. Việc chi trả được trích từ
quỹ BHXH mà quỹ BHXH không được đảm bảo sẽ dẫn đến việc người đóng
BHXH không được hưởng đầy đủ các chế độ BHXH mà mình đáng lẽ phải
được hưởng.
Nếu việc chi trả được diễn ra, NLĐ được hưởng đầy đủ các chế độ
chính sách mình được hưởng thì NN sẽ phải thực hiện việc chi trả này thay
cho quỹ BHXHBB không được đảm bảo. Việc này ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền lợi của NLĐ hoặc là thâm hụt Ngân sách NN cho việc đảm bảo
quyền lợi cho người lao động.
19
Có thể nói BHXH là một Quỹ tài chính, vì vậy Quỹ này luôn phải tuân
theo nguyên tắc có đóng - có hưởng, quyền lợi của người tham gia gắn liền
với nghĩa vụ, có sự sẻ chia giữa các thành viên tham gia. Quỹ BHXH luôn
đảm bảo công bằng và bền vững của hệ thống BHXH.
1.2.3. Các quy định pháp luật về công tác quản lý thu BHXHBB
1.2.3.1. Đối tượng tham gia BHXHBB
Từ khi luật BHXH ban hành ngày 29 tháng 6 năm 2006, trong điều 2
viết rất rõ đối tượng áp dụng để tham gia BHXH. Đối tượng tham gia
BHXH được chia ra thành NLĐ và người sử dụng lao động. Cụ thể :
a. NLĐ: NLĐ là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia
BHXHBB bao gồm:
* NLĐ là công dân Việt Nam
- Người làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định
thời hạn, HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn
từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả HĐLĐ được ký kết giữa đơn vị với
người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp
luật về lao động;
- Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ,
công chức và viên chức;
- Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác
trong tổ chức cơ yếu (trường hợp BHXH Bộ Quốc phòng, BHXH Công an
nhân dân bàn giao cho BHXH các tỉnh);
- Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có
hưởng tiền lương;
- Người đi làm việc ở nước ngoài theo họp đồng quy định tại Luật NLĐ
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
- Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn tham gia
BHXHBB vào quỹ hưu trí và tử tuất (thực hiện từ 01/01/2016);
20
- Người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03
tháng (thực hiện từ 01/01/2018);
* NLĐ là người nước ngoài : NLĐ là công dân nước ngoài vào làm
việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy
phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp (thực hiện từ
01/01/2018).
b. Người sử dụng lao động: người sử dụng lao động tham gia
BHXHBB gồm:
- Cơ quan NN, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân;
- Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội -
nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác;
- Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam;
- Doanh nghiệp, họp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức
khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo HĐLĐ.
1.2.3.2. Quy định tiền lương đóng BHXHBB
Tiền lương tháng đóng BHXH luôn là vấn đề được doanh nghiệp và
NLĐ quan tâm Quy định tiền lương tháng đóng BHXHBB là: lương và phụ
cấp lương của người lao động. Bao gồm:
a. Tiền lương đóng BHXH do Nhà nước quy định
- NLĐ thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do NN quy định thì
tiền lương tháng đóng BHXHBB là tiền lương theo ngạch, bậc, cấp bậc quân
hàm và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp
thâm niên nghề (nếu có). Tiền lương này tính trên mức lương cơ sở.
Tiền lương tháng đóng BHXHBB quy định tại Điểm này bao gồm cả
hệ số chênh lệch bảo lưu theo quy định của pháp luật về tiền lương.
Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường thị trấn, thì tiền
lương tháng đóng BHXH là mức lương cơ sở.
21
b. Tiền lương đóng BHXH do doanh nghiệp quyết định
NLĐ thực hiện chế độ tiền lương do đơn vị quyết định thì tiền lương
tháng đóng BHXH là tiền lương ghi trong HĐLĐ.
Mức tiền lương tháng đóng BHXHBB do doanh nghiệp quyêt định
không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng tại thời điểm đóng.
NLĐ đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp dạy nghề) thì
tiền lương đóng BHXHBB phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu
vùng, nếu làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm thì cộng thêm 5%.
Từ 01/01/2016, tiền lương tháng đóng BHXH là mức lương và phụ cấp
lương theo quy định của pháp luật lao động.
Từ ngày 01/01/2018 trở đi, tiền lương tháng đóng BHXH là mức lương,
phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động.
c. Mức tiền lương tháng đóng BHXHBB
Do doanh nghiệp quy định hiện tại mà cao hơn 20 tháng lương cơ sở thì
mức tiền lương tháng đóng BHXHBB bằng 20 tháng lương cơ sở.
d. Mức lương và phụ cấp lương theo quy định của pháp luật lao động
* Tiền lương ghi trong hợp đồng lao động do NLĐ thỏa thuận với
người sử dụng lao động để thực hiện công việc nhất định, bao gồm:
- Mức lương theo công việc hoặc chức danh là mức lương trong thang
lương, bảng lương do người sử dụng lao động xây dựng theo quy định tại
Điều 93 của Bộ luật Lao động và Điều 7, Khoản 2 Điều 10 Nghị định số
49/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tiền lương;
- Phụ cấp lương là khoản tiền bù đắp các yếu tố về điều kiện lao động,
tính chất phức tạp công việc, điều kiện sinh hoạt, mức độ thu hút lao động
chưa được tính đến hoặc tính chưa đầy đủ trong mức lương theo công việc
hoặc chức danh của thang lương, bảng lương, cụ thể:
22
Bù đắp yếu tố điều kiện lao động, bao gồm công việc có yếu tố nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
Bù đắp yếu tố tính chất phức tạp công việc, như công việc đòi hỏi thời
gian đào tạo, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trách nhiệm cao, có ảnh hưởng
đến các công việc khác, yêu cầu về thâm niên và kinh nghiệm, kỹ năng làm
việc, giao tiếp, sự phối hợp trong quá trình làm việc của người lao động.
Bù đắp các yếu tố điều kiện sinh hoạt, như công việc thực hiện ở vùng
xa xôi, hẻo lánh, có nhiều khó khăn và khí hậu khắc nghiệt, vùng có giá cả
sinh hoạt đắt đỏ, khó khăn về nhà ở, công việc NLĐ phải thường xuyên thay
đổi địa điểm làm việc, nơi ở và các yếu tố khác làm cho điều kiện sinh hoạt
của NLĐ không thuận lợi khi thực hiện công việc.
Bù đắp các yếu tố để thu hút lao động, như khuyến khích NLĐ đến làm
việc ở vùng kinh tế mới, thị trường mới mở; nghề, công việc kém hấp dẫn,
cung ứng của thị trường lao động còn hạn chế; khuyến khích NLĐ làm việc
có năng suất lao động, chất lượng công việc cao hơn hoặc đáp ứng tiến độ
công việc được giao.
- Các khoản bổ sung khác là khoản tiền ngoài mức lương, phụ cấp
lương và có liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng
lao động. Các khoản bổ sung khác không bao gồm: Tiền thưởng theo quy
định tại Điều 103 của Bộ luật Lao động; tiền ăn giữa ca; các khoản hỗ trợ khi
NLĐ có thân nhân bị chết, NLĐ có người thân kết hôn, sinh nhật của người
lao động, trợ cấp cho NLĐ gặp hoàn cảnh khó khăn khi bị tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp và các khoản hỗ trợ, trợ cấp khác không liên quan đến thực
hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng lao động.
* Tiền lương trả cho NLĐ được căn cứ theo tiền lương ghi trong hợp
đồng lao động, năng suất lao động, khối lượng và chất lượng công việc mà
NLĐ đã thực hiện, bảo đảm mức lương trả cho NLĐ làm công việc giản đơn
nhất trong điều kiện lao động và thời giờ làm việc bình thường, hoàn thành
23
định mức lao động hoặc công việc đã thỏa thuận (không bao gồm khoản tiền
trả thêm khi NLĐ làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm) không được thấp hơn
mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định”.
Theo quy định trên, phụ cấp lương là khoản tiền bù đắp các yếu tố về
điều kiện lao động, tính chất phức tạp công việc, điều kiện sinh hoạt, mức độ
thu hút lao động chưa được tính đến hoặc tính chưa đầy đủ trong mức lương
theo công việc hoặc chức danh của thang lương, bảng lương, cụ thể:
- Phụ cấp nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm.
- Phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thâm niên, phụ cấp kinh nghiệm
- Phụ cấp nhà ở
- Phụ cấp lưu động
- Phụ cấp khu vực
- Phụ cấp thu hút lao động
- Phụ cấp khuyến khích lao động....
1.2.3.3. Phương thức đóng, trách nhiệm và mức đóng đóng BHXHBB
a. Phương thức đóng BHXH BB: Phương thức đóng tiền BHXH được
thực hiện như sau:
* Đóng hàng tháng: Hàng tháng, chậm nhất đến ngày cuối cùng của
tháng, đơn vị trích tiền đóng BHXHBB trên quỹ tiền lương tháng của những
NLĐ tham gia BHXHBB, đồng thời trích từ tiền lương tháng đóng BHXHBB
của từng NLĐ theo mức quy định, chuyển cùng một lúc vào tài khoản chuyên
thu của cơ quan BHXH mở tại ngân hàng hoặc KBNN.
* Đóng 3 tháng hoặc 6 tháng một lần: Đơn vị là doanh nghiệp, hợp tác
xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp trả lương theo sản phẩm, theo khoán thì
đóng theo phương thức hằng tháng hoặc 3 tháng, 6 tháng một lần. Chậm nhất
đến ngày cuối cùng của kỳ đóng, đơn vị phải chuyển đủ tiền vào quỹ BHXH.
24
* Theo địa bàn:
- Đơn vị đóng trụ sở chính ở địa bàn tỉnh nào thì đăng ký tham gia đóng
BHXH tại địa bàn tỉnh đó theo phân cấp của cơ quan BHXH tỉnh.
- Chi nhánh của doanh nghiệp đóng BHXH tại địa bàn nơi cấp giấy
phép kinh doanh cho chi nhánh
* Đối với NLĐ đi làm việc ở nước ngoài: Phương thức đóng là 3 tháng,
6 tháng, 12 tháng một lần hoặc đóng trước một lần theo thời hạn ghi trong
hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. NLĐ đóng trực tiếp cho cơ
quan BHXH trước khi đi làm việc ở nước ngoài hoặc đóng qua doanh nghiệp,
tổ chức sự nghiệp đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài.
- Trường hợp đóng qua doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa NLĐ đi
làm việc ở nước ngoài thì doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp thu, nộp BHXH
cho NLĐ và đăng ký phương thức đóng cho cơ quan BHXH.
- Trường hợp NLĐ được gia hạn hợp đồng hoặc ký HĐLĐ mới ngay
tại nước tiếp nhận lao động thì thực hiện đóng BHXH theo phương thức quy
định tại Điều này hoặc truy nộp cho cơ quan BHXH sau khi về nước.
* Đối với trường hợp đóng cho thời gian còn thiếu không quá 6 tháng
quy định tại Điểm 1.5 Khoản 1 Điều 5
- NLĐ đóng một lần cho số tháng còn thiếu thông qua đơn vị trước khi
nghỉ việc
- Thân nhân của NLĐ chết đóng một lần cho số tháng còn thiếu cho cơ
quan BHXH huyện.
b. Trách nhiệm đóng BHXHBB: Theo quy định trách nhiệm đóng
BHXH thuộc các đối tượng sau:
- NLĐ là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia BHXHBB
- Người sử dụng lao động tham gia BHXHBB
c. Mức đóng BHXHBB:
Theo quy định của Luật Bảo hiểm Việt Nam, Mức đóng BHXH từ
1/1/2014 trở đi là 26%, trong đó người sử dụng lao động đóng 18%, NLĐ
đóng 8%.
25
1.2.3.4. Nội dung công tác quản lý thu BHXHBB
a. Lập kế hoạch quản lý thu BHXHBB
* Phân cấp quản lý thu: Bước đầu tiên trong công tác quản lý thu
BHXH là bước lập kế hoạch. Việc xây dựng kế hoạch được các cơ quan
BHXH có liên quan thực hiện trình tự từ trên xuống dưới. Trong quá trình
thực hiện công tác thu BHXH được chia thành 3 cấp với những chức năng,
quyền hạn và nhiệm vụ khác nhau. Gồm BHXH Việt Nam là đơn vị đầu não,
BHXH tỉnh là đơn vị quản lý trực tiếp tại tỉnh đồng thời thu BHXH của các
đơn vị do trung ương quản lý hoặc huyện thị không đủ điều kiện thu và
BHXH huyện thị là đơn vị trực tiếp thu BHXH tại địa bàn, cụ thể:
+ BHXH Việt Nam (Ban Thu BHXH) chịu trách nhiệm tổng hợp, phân
loại đối tượng tham gia BHXH; Hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức, quản lý thu
BHXH; Kiểm tra, đối chiếu tình hình thu nộp BHXH, cấp sổ BHXH và thẩm
định số thu BHXH.
+ BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là BHXH
tỉnh). Phòng Thu BHXH trực tiếp thu: Các đơn vị do Trung ương quản lý
đóng trụ sở trên địa bàn tỉnh, thành phố; Các đơn vị trên địa bàn do tỉnh quản
lý; Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức quốc tế; Lao động
hợp đồng thuộc doanh nghiệp lực lượng vũ trang; Các đơn vị đưa lao động
Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; Những đơn vị BHXH huyện
không đủ điều kiện thu thì BHXH tỉnh trực tiếp tổ chức thu.
- Phòng Thu BHXH có trách nhiệm: Tổ chức, hướng dẫn thu BHXH;
Định kỳ quý, năm thẩm định số thu BHXH đối với BHXH huyện; Phối hợp
với phòng Kế hoạch Tài chính lập và giao kế hoạch, quản lý tiền thu BHXH,
BHYT trên địa bàn tỉnh quản lý...
+ BHXH quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là
BHXH huyện) trực tiếp thu BHXH: Các đơn vị trên địa bàn do huyện quản
26
lý; Các đơn vị khác do BHXH tỉnh giao nhiệm vụ thu; Hướng dẫn, tổ chức
thực hiện quản lý thu, nộp BHXH;
* Lập kế hoạch và giao thu BHXH
+ BHXH Việt Nam: Dựa vào tình hình thu BHXH của năm trước so với
kế hoạch thu được giao đầu năm đạt bao nhiêu phần trăm, tỷ lệ hoàn thành và
khả năng phát triển thị trường lao động của tỉnh năm sau để tổng hợp, lập vào
giao dự toán thu BHXH, BHYT cho tỉnh trước ngày 10/01 hàng năm.
+ BHXH tỉnh: Dựa vào bản dự toán thu BHXH, BHYT đối với người
sử dụng lao động do tỉnh quản lý, tổng hợp toàn tỉnh lập 2 bản "Kế hoạch thu
BHXH, BHYT bắt buộc" năm sau gửi BHXH Việt Nam 01 bản trước ngày
15/11 hàng năm. Căn cứ vào số lượng các đơn vị sử dụng lao động và dự toán
thu BHXH sẽ phân bổ đến phòng thu BHXH tỉnh và BHXH các huyện trước
ngày 20/01 hàng năm.
+ BHXH huyện: Căn cứ tình hình thực hiện năm trước và khả năng mở
rộng trong năm tới lập 02 bản "Kế hoạch thu BHXHBB" năm sau, gửi 01 bản
đến BHXH tỉnh trước ngày 05/11 hàng năm.
b. Tổ chức thực hiện quản lý thu BHXHBB
- Thu BHXH bằng hình thức chuyển khoản, trường hợp cá biệt phải thu
bằng tiền mặt thì cơ quan BHXH phải nộp tiền vào ngân hàng ngay trong ngày.
- Không được sử dụng tiền thu BHXH để chi cho bất cứ việc gì; Không
được áp dụng hình thức gán thu bù chi tiền BHXH đối với các đơn vị. Mọi
trường hợp thoái thu, truy thu BHXH để cộng nối thời gian công tác chỉ được
thực hiện sau khi có sự chấp thuận bằng văn bản của BHXH Việt Nam.
- Chậm nhất vào ngày cuối tháng, cơ quan, đơn vị quản lý đối tượng
phải nộp đủ số tiền đã được xác định vào tài khoản chuyên thu của cơ quan
BHXH nơi đăng ký tham gia BHXH. Nếu chậm nộp từ 30 ngày trở lên so với
kỳ hạn phải nộp thì ngoài việc bị xử lý theo quy định của pháp luật xử phạt
27
hành chính về BHXH, cơ quan, đơn vị còn phải nộp tiền lãi theo mức lãi suất
tiền vay quá hạn do Ngân hàng NN Việt Nam quy định tại thời điểm truy nộp.
- BHXH huyện chuyển tiền thu BHXH về tài khoản chuyên thu của
BHXH tỉnh vào ngày 10 và ngày 25 hàng tháng. Riêng tháng cuối năm chuyển
toàn bộ số tiền thu BHXH của huyện về BHXH tỉnh trước 24 giờ ngày 31/12.
- Hàng tháng BHXH tỉnh chuyển tiền thu BHXH về tài khoản chuyên
thu của BHXH Việt Nam vào các ngày 10, 20 và ngày cuối tháng. Nếu số dư
trên tài khoản chuyên thu của BHXH tỉnh quá 5 tỷ đồng, thì BHXH tỉnh phải
chuyển bổ sung ngay về BHXH Việt Nam. Riêng tháng cuối năm chuyển hết
số tiền thu BHXH về BHXH Việt Nam trước 24 giờ ngày 31/12.
- Hàng quý, BHXH tỉnh và BHXH huyện quyết toán 2% được giữ lại,
xác định số tiền thừa thiếu, đồng thời gửi thông báo quyết toán cho Phòng thu
hoặc Bộ phận thu để thực hiện thu kịp thời số tiền người sửu dụng lao động
chưa chi hết vào tháng đầu của quý sau.
c. Kiểm tra, giám sát, thông tin báo cáo quá trình thực hiện
Để làm tốt công tác thu BHXHBB và dựa trên những cơ sở thực tiễn,
ngay từ đầu năm BHXH tỉnh giao chỉ tiêu cụ thể về số lượng đơn vị, số lượng
người tham gia và số tổng thu theo kế hoạch cho phòng Thu, BHXH huyện
thị để phối hợp và chủ động thực hiện sau đó tiến hành kiểm tra, giám sát
thường xuyên, đốc thúc nhắc nhở việc thu nộp BHXHBB.
Việc giám sát quá trình thực hiện công tác thu BHXH đòi hỏi phải có
số liệu, con số cụ thể chính xác để theo dõi. Các thông tin mà đối tượng tham
gia khai báo cần phải kiểm tra lại độ chính xác do vậy phải được cập nhật
thường xuyên liên tục. Việc giám sát này dựa vào những thông tin báo cáo và
hồ sơ, tài liệu ghi chép. Cụ thể
* Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra tình hình thu nộp BHXHBB:
Việc thu nộp BHXHBB không phải lúc nào cũng thuận lợi mà luôn vấp
phải những khó khăn. Còn có nhiều đơn vị cố tình chây ỳ chốn hoặc tránh nộp
28
BHXHBB làm ảnh hưởng đến kết quả thu BHXHBB tại tỉnh. Tình trạng nợ
đọng còn nhiều và kéo dài do vậy việc đánh giá tình hình nộp BHXHBB ở
các đơn vị cần phải thực hiện sát sao nhằm tránh thất thoát nguồn thu quỹ
BHXHBB vào NSNN.
Dựa vào tình hình kết quả thu nộp BHXHBB của các đơn vị, cơ quan
BHXH chuyên quản có trách nhiệm đánh giá tình hình nợ đọng tại các đơn vị
trong địa bàn quản lý đồng thời đôn đốc nhắc nhở việc thu nộp BHXHBB
của các đơn vị để có những cách xử lý nếu các đơn vị tham gia cố tình vi
phạm. Theo quy định tại Điều 134, Luật BHXH: các hành vi vi phạm pháp
luật về đóng BHXH gồm: Không đóng, Đóng không đúng thời gian quy định,
Đóng không đúng mức quy định, Đóng không đủ số người thuộc diện tham
gia BHXHBB. Tất cả những trường hợp trên đều bị cơ quan BHXH yêu cầu
phải truy đóng số tiền BHXHBB còn thiếu. Các trường hợp truy đóng
BHXHBB do BHXH tỉnh giải quyết hoặc do BHXH tỉnh phân cấp lại cho
BHXH các quận, huyện.
Số tiền nợ đọng cần phải truy thu được tính theo số tiền còn chậm chưa
đóng đủ của các kỳ mà đơn vị còn nợ nhân với mức lãi suất tính lãi chậm
đóng tại thời điểm tính lãi (%/tháng).
* Quản lý hồ sơ, tài liệu thu BHXHBB:
- BHXH tỉnh, huyện phải cập nhật các thông tin dữ liệu của người tham
gia BHXHBB phải thường xuyên để phục vụ kịp thời cho công tác quản lý.
- BHXH tỉnh xây dựng hệ thống các mã số đơn vị tham gia BHXH theo
từng đối tượng cụ thể như khối hành chính sự nghiệp, khối trường học, khối
doanh nghiệp... áp dụng theo từng địa bàn theo hươngs dẫn của BHXH Việt
Nam để đồng nhất trong việc quản lý. Các mã số BHXH này được cấp cho
các đơn vị để đăng ký tham gia BHXH, được sử dụng thống nhất trên giấy tờ
hồ sơ, sổ sách và báo cáo nghiệp vụ.
29
- BHXH huyện thị sẽ phân loại đồng thời lưu trữ toàn bộ hồ sơ tài liệu
có liên quan đảo bảo khoa học, thuận tiện trong quá trình tìm kiếm sử dụng.
Đồng thời ứng dụng Công nghệ thông tin trong công tác quản lý người tham
gia BHXH để tiện theo dõi và tổng hợp, quản lý.
* Thông tin báo cáo BHXH Việt Nam quy định sẵn:
- BHXH tỉnh, huyện mở Sổ chi tiết thu BHXHBB (Mẫu số 07-TBH);
thực hiện ghi sổ theo hướng dẫn sử dụng mẫu biểu.
- BHXH tỉnh, huyện thực hiện chế độ báo cáo tình hình thu BHXHBB
(Mẫu số 09, 10, 11-TBH) định kỳ tháng, quý, năm; BHXH như sau:
+ BHXH huyện: Báo cáo tháng trước 22 hàng tháng; báo cáo quý trước
ngày 20 tháng đầu quý sau; báo cáo năm trước ngày 25/01 năm sau.
+ BHXH tỉnh: Báo cáo tháng trước 25 hàng tháng; báo cáo quý trước
ngày cuối tháng đầu quý sau; báo cáo năm trước ngày 15/02 năm sau.
Cùng với việc hoàn thành tốt công tác thu, nộp, BHXH tỉnh cũng tập
trung chỉ đạo có hiệu quả việc thực hiện các chế độ, chính sách BHXH theo quy
định đồng thời tăng cường kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH ở BHXH
huyện, thị, đơn vị sử dụng lao động; quản lý chặt chẽ đối tượng hưởng các chế
độ BHXH hàng tháng, do vậy đã kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hành vi
trục lợi nguồn quỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia thụ hưởng chế độ;
giải đáp kịp thời những thắc mắc liên quan tới chính sách BHXH.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thu BHXHBB trên địa
bàn tỉnh
1.3.1. Các yếu tố chủ quan
1.3.1.1. Kế hoạch quản lý thu BHXHBB
Công tác nhận kế hoạch, lập và giao kế hoạch còn chưa thực sự sát với
thực tế, tình hình tại địa bàn mà hoàn toàn mang tính chủ quan vẫn còn thiếu
30
những dữ liệu cần thiết. Kế hoạch thu BHXHBB dựa trên nhu cầu sử dụng
lao động và khả năng tham gia của chủ SDLĐ; dựa trên thông tin và cơ hội thị
trường nhằm định hướng sản xuất kinh doanh phù hợp với tín hiệu của thị
trường, các đầu tư của nhà nước và khối tư nhân trên địa bàn; các công ty đã
giải thể phá sản hoặc chờ bán...mà chưa được BHXH Việt Nam phê duyệt
giảm trừ.
Như vậy, việc lập kế hoạch thu BHXHBB cần phải gắn chặt với các
nguồn lực xã hội nói chung và tình hình quy mô thị trường nói riêng để có thể
tối đa hóa hiệu quả thu BHXHBB.
1.3.1.2. Nhận thức, thái độ, hành vi của người lao động
Phải cho NLĐ thấy rằng việc tham gia BHXH là có ích cho họ và gia
đình trong hiện tại và tương lai, từ đó, NLĐ tích cực tham gia và đòi quyền
lợi của mình. Do đó, cần phải xác định chính xác lợi ích mà BHXH mang lại
cho người lao động, và kích thích sự tham gia của người lao động trong việc
đấu tranh giành quyền lợi của mình, buộc chủ doanh nghiệp phải thực hiện
trích nộp BHXH đúng, đủ kịp thời.
1.3.1.3. Trình độ của nhà làm công tác quản lý
Các cán bộ phụ trách chuyên quản lý thu phải đảm bảo đủ năng lực về
trình độ chuyên môn, khả năng nhận định và phân tích tính hình, có tinh thần
trách nhiệm, nhiệt tình trong công việc, phải có tinh thần cầu tiến học hỏi tìm
hiểu và năm chắc nghiệp vụ…Như vậy, công tác quản lý thu mới đạt hiệu quả
cao, phát hiện kịp thời những tình huống sai phạm để có biện pháp xử lý triệt để.
Hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thu nộp
BHXHBB đã diễn ra khá mạnh. Chuyên viên quản lý thu BHXHBB cần phải
rà soát kỹ, phát hiện sai sót để kịp thời báo cáo chỉnh sửa. Do vậy, ngoài
chuyên môn nghiệp vụ cán bộ làm công tác quản lý thu BHXHBB còn cần
phải có kỹ năng về công nghệ thông tin để công tác quản lý thu BHXHBB đạt
kết quả tốt nhất.
31
1.3.2. Các yếu tố khách quan
1.3.2.1. Tình hình kinh tế - xã hội
Do ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội ảnh hưởng không nhỏ đến
cũng công tác quản lý thu BHXH bắt buộc. Khi kinh tế phát triển, số lượng
NLĐ có việc làm sẽ tăng lên do có sự mở rộng về quy mô sản xuất xã hội. Từ
đó làm cho đối tượng thuộc diện tham gia BHXH không ngừng được tăng lên.
NLĐ và NSDLĐ không vì lợi ích kinh tế trước mắt mà tìm mọi cách né tránh
chính sách xã hội thiết thực này.
Tuy nhiên trong giai đoạn vừa qua từ năm 2014 đến năm 2016 do ảnh
hưởng của tình hình suy giảm kinh tế, lạm phát tuy đã giảm nhưng vẫn chưa
phục hồi ổn định khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh
doanh. Một số doanh nghiệp trên địa bàn phải hoạt động cầm chừng, việc làm
và thu nhập của NLĐ không ổn định dẫn đến không có khả năng đóng
BHXHBB đúng hạn.
1.3.2.2. Chính sách tiền lương - tiền công
Chính sách tiền lương và công tác quản lý thu BHXHBB luôn có mối quan
hệ chẵn chẽ với nhau. Tiền lương tiền công của NLĐ và tổng quỹ lương của đơn
vị SDLĐ đang được dùng làm căn cứ để tính đóng BHXH. Như vậy khi NN có sự
điều chỉnh tiền lương tối thiểu sẽ làm cứ đóng BHXH cũng tăng theo.
1.3.2.3. Nguồn lao động
NLĐ là các đối tượng tham gia BHXHBB đang trong độ tuổi lao động,
trực tiếp tạo ra của cải cho xã hội. Tại Phú Thọ, nguồn lao động đang làm
việc trong các khu công nghiệp khá dồi dào. Tuy nhiên lực lượng lao động tại
tỉnh Phú Thọ thường ở độ tuổi cao. Lực lượng lao động trẻ thường có xu
hướng tìm đến những cụm công nghiệp, công ty có thu nhập cao hơn nhưng ở
xa nhà như Samsung, Honda... Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc tăng
trưởng nguồn quỹ BHXHBB. Cơ quan BHXH cần phải phối hợp với những
cơ quan có liên quan để tăng công ăn việc làm, giới thiệu việc làm, tạo điều
kiện ổn định và có nhiều mức thu nhập để lực lượng lao động trẻ có nhiều cơ
hội hơn khi làm việc tại tỉnh nhà.
32
Chương 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Câu hỏi nghiên cứu
Luận văn cần trả lời một số câu hỏi nghiên cứu như sau:
- Khung lý thuyết của công tác quản lý thu BHXHBB là gì?
- Thực trạng thu và công tác quản lý thu BHXH bắt buộc trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ trong thời gian qua diễn ra như thế nào? Những hạn chế và
nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong công tác quản lý hu BHXHBB trên
địa bàn tỉnh là gì?
- Để hoàn thiện công tác quản lý thu BHXHBB trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ trong thời gian tới cần phải thực hiện những giải pháp nào?
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp thu thập thông tin
Trong đề tài của mình tác giả chỉ sử dụng thông tin thứ cấp, từ những
số liệu đã được công bố công khai minh bạch trên toàn thể thông tin đại
chúng do BHXH tỉnh Phú Thọ cung cấp. Sở dĩ đề tài chỉ sử dụng số liệu thứ
cấp là do liên quan đến số tiền, số lao động trong toàn tỉnh mà BHXH tỉnh
Phú Thọ đã tổng hợp, báo cáo và làm căn cứ kiểm tra theo dõi đốc thúc các
đơn vị SDLĐ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình với người lao động. Số tiền
thu quỹ BHXHBB là con số cụ thể đã nộp vào NSNN, do NN quản lý.
Dữ liệu thứ cấp là loại dữ liệu được sưu tập sẵn, đã được công bố của
các cơ quan thống kê, chủ yếu là cục thống kê tỉnh Phú Thọ, các sở ban
nghành tỉnh Phú Thọ, qua các tạp chí chuyên ngành và qua các báo cáo tổng
hợp của cơ quan BHXH tỉnh Phú Thọ, qua tài liệu của BHXH huyện nên việc
thu thập ít tốn thời gian, tiền bạc, dễ thực hiện.
Luận văn sử dụng các văn bản pháp luật, quy định cụ thể đối với công
tác thu BHXH Việt Nam làm căn cứ để xác định nội dung và phân tích thông
qua các số liệu thống kê kết quả thực hiện công tác quản lý thu BHXHBB của
BHXH tỉnh Phú Thọ giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2016 dựa trên báo cáo
33
quyết toán các năm 2014 - 2016. Trong đó bao gồm dữ liệu tình hình chung
của tỉnh Phú Thọ, điều kiện tự nhiên, dân số, số lượng lao động và tình hình
sử dụng lao động trên địa bàn có tham gia đóng BHXH cho người lao động.
2.2.2. Phương pháp tổng hợp thông tin
Dựa vào những số liệu từ các phương pháp thu thập thông tin đã nêu ra
như trên, tác giả đã sử dụng phần mềm Excel để tính toán, phân tích số liệu
và tham khảo cách so sánh, đánh giá qua các năm của những cán bộ giỏi
chuyên quản lý thu của BHXH huyện, BHXH tỉnh để đưa ra những phân tích
sâu sắc, chính xác dưới góc nhìn đa chiều.
2.2.3. Phương pháp phân tích thông tin
Việc tham gia đóng BHXH ở Việt Nam hiện còn đang trong giai đoạn
xây dựng và phát triển, việc thu nộp BHXH còn có nhiều lỗ hổng cần phải
giải quyết nhằm tăng thu BHXH đặc biệt là BHXHBB đối với NLĐ đang làm
việc trong các Doanh nghiệp. Việc phân tích được tác giả sử dụng chủ yêu là
điều tra, tổng hợp và phân tích thống kê. Các số liệu liên quan đến công tác
quản lý thu BHXHBB tại BHXH tỉnh Phú Thọ được phân tích, so sánh theo
thời gian và không gian. Trong luận văn cũng phối hợp sử dụng các công cụ
minh họa trực quan cho các số liệu phân tích như sơ đồ, đồ thị...
- Phương pháp thống kê mô tả: Phương pháp sử dụng phân tích kết quả
quản lý thu BHXHBB của BHXH tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2014 - 2016.
- Phương pháp so sánh: Sử dụng phương pháp này để nghiên cứu về sự
biến động của số người tham gia và số tiền qua các năm nghiên cứu. Cho thấy
được sự biến động về số người và số tiền qua các năm tăng hay giảm. Mức độ
thay đổi như thế nào? Trong luận văn tác giả sử dụng 2 phương pháp so sánh :
+ So sánh tuyệt đối: so sánh số liệu kỳ gốc và kỳ tính toán để đưa ra
các đánh giá, giải pháp
∆y = Yt-Yt-1
Trong đó: Yt là số liệu kỳ phân tích
34
Yt-1 là số liệu phân tích kỳ gốc
∆y là số hiệu giữa số liệu kỳ phân tích và kỳ gốc
+ So sánh tương đối: tỷ lệ phần trăm (%) giữa số liệu thành phần và
số liệu tổng hợp để thấy sự biến đổi của các chỉ tiêu từ đó đưa ra các biện
pháp quản lý và điều chỉnh kịp thời.
Trong đó: Yk là số liệu ỳ phân tích
Y là số liệu kỳ gốc
R(k)% là tỷ trọng Yk so với Y
2.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
2.3.1. Chỉ tiêu đánh giá thực trạng công tác quản lý thu BHXH tại tỉnh
Phú Thọ
* Đánh giá công tác lập kế hoạch
* Đánh giá công tác tổ chức thực hiện
+ Tổ chức bộ máy quản lý thu BHXHBB
- Tổ chức phân cấp quản lý thu BHXHBB
- Phân công cán bộ làm công tác quản lý BHXHBB
+ Đối tượng tham gia BHXHBB
Đánh giá số đơn vị SDLĐ và lực lượng lao động có tham gia đóng
BHXHBB trên địa bàn, so sánh năm 2016 với năm 2014
+ Thực hiện mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXHBB
+ Thực hiện quản lý thu BHXHBB
- Quy trình quản lý thu BHXHBB
- Các thức quản lý thu BHXHBB
* Đánh giá công tác kiểm tra, giám sát
+ Kết quả hoàn thành kế hoạch thu BHXHBB
35
Đánh giá tỷ lệ thu quỹ BHXHBB thực tế so với hoàn thành kế hoạch
thu BHXHBB được giao (%)
+ Kết quả khai thác thu năm sau so với năm trước
Đánh giá kết quả khai thác thu năm sau so với năm trước tăng/giảm về
số LĐ (LĐ) và số tiền (triệu đồng)
+ Thực trang công tác quản lý thu nộp BHXHBB
+ Tình hình nợ đọng BHXHBB ở BHXH tỉnh Phú Thọ
So sánh, đánh giá tỷ lệ nợ đọng trên tổng thu giữa các năm (%) để thấy
được truy thu nợ đọng có biến chuyển như thế nào.
2.3.2. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong công tác quản lý thu
BHXHBB trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
- Quản lý đối tượng thu BHXH là cơ sở, điều kiện để đảm bảo công tác
thu các chế độ BHXH được an toàn, thuận lợi, chính xác, đúng quy định
- Bộ máy tổ chức quản lý công tác thu BHXH
- Năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ làm công tác thu BHXH
- Quy trình thu và phương thức thu BHXH
- Phối hợp trong công tác thu BHXH
- Công cụ quản lý công tác thu BHXH
+ Luật BHXH, các nghị định, thông tư, các văn bản của nhà nước, văn
bản hướng dẫn chỉ đạo.
+ Ứng dụng công nghệ thông tin, đầu tư mua sắm các trang thiết bị
máy móc phục vụ cho công tác thu BHXH.
36
Chương 3
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM BẮT BUỘC
XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TẠI TỈNH PHÚ THỌ
3.1. Giới thiệu chung về địa bàn tỉnh Phú Thọ
3.1.1. Các điều kiện tự nhiên
Phú Thọ là một tỉnh thuộc khu vực đông bắc bộ có địa hình đồi núi và
trung du. Tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh 3.532,9493 km², chiếm 1,5% diện
tích cả nước. Được thành lập từ năm 1891 đến năm 1968 Phú Thọ hợp nhất
với tỉnh Vĩnh Phúc đổi tên thành tỉnh Vĩnh Phú. Sau 29 năm hợp nhất đến
năm 1997 tỉnh Vĩnh Phú lại tách ra thành tỉnh Phú Thọ và tỉnh Vĩnh Phúc như
ngày nay.
3.1.1.1. Về vị trí địa lý
Phú Thọ có phía Bắc giáp với Tuyên Quang, Yên Bái. Phía Nam giáp
Hòa Bình. Phí Đông giáp Vĩnh Phúc, Ba Vì - Hà Tây. Phía tây giáp Sơn La,
Yên Bái. Phú Thọ cách sân bay quốc tế Nội Bài khoảng 50km và cách thủ đô
Hà Nội 80km, với vị trí là điểm nối của ngã 3 sông Phú Thọ cũng chính là cửa
ngõ phía Tây - Bắc của thủ đô Hà Nội và là địa bàn kinh tế trọng điểm phía
Bắc, là cầu nối giao lưu kinh tế, khoa học kỹ thuật giữa các tỉnh đồng bằng
sông Hồng và các tỉnh miền Tây - Bắc. Phú Thọ có cả hệ thống đường sắt,
đường thủy (sông) và đường bộ là đường Quốc lộ 2 nối 6 tỉnh miền núi phía
Bắc, có hệ thống đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai chạy qua do vậy Phú Thọ
có vị trí địa lý vô cùng quan trọng về kinh tế chính trị cũng như về quốc
phòng an ninh. Đây cũng chính là cơ sở để Phú Thọ phát triển kinh tế, giao
lưu văn hóa ra bên ngoài với các tỉnh bạn.
3.1.1.2. Về địa hình và tiềm năng sử dụng đất
Địa hình tỉnh Phú Thọ có đặc điểm là tỉnh miền núi trung du do vậy
vùng núi chiếm tơi 79% diện tích tự nhiên toàn tỉnh; trung du là 14,35% và
đồng bằng chiếm 6,65% diện tích đều nằm rải rác trong tỉnh.
Vùng núi là khu vực phí Tây và phía Nam bao gồm các tỉnh như Thanh
Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, và một số xã của các huyện như Cẩm Khê, Hạ Hòa
37
việc đi lại tuy gặp nhiều khó khăn nhưng lại có tiềm năng để phát triển lâm
nghiệp khai thác khoán sản và kinh tế trang trại, khai tác khoáng sản.
Vùng đồng bằng dải rác ven các triền sông Hồng, sông Lô, sông Đà và
trung du thuận lợi cho việc trồng các cây công nghiệp nguyên liên chè, giấy,
cây ăn quả, phát triển cây lương thực và chăn nuôi.
3.1.2. Tổng quan về kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ
Dân số trung bình toàn tỉnh sơ bộ tính đến thời điểm 31/12/2015 là
1.370.625 người và dân số đăng ký hộ khẩu tính đến hết 31/12/2015 là
1.488.049 người. Mật độ dân số trung bình bình quân là 389 người/km². Tốc
độ tăng dân số tự nhiên là 1,02%.
Trong đó mật độ dân số cao nhất là ở Việt Trì: 1770 người/km², Thị xã
Phú Thọ: 1089 người/km² và ở Lâm Thao: 1051 người/km². Đây là điều dễ
hiểu vì cả 3 huyện thị này đều nằm trong khu vực tập trung nhiều các khu
công nghiệp, đơn vị xí nghiệp, các công ty, doanh nghiệp.
3.1.2.1. Về kinh tế
Nằm trong khu đông bắc bộ địa bàn chủ yếu là đồi núi, tiềm năng phát
triển kinh tế có hạn nên mức tăng trưởng kinh tế hàng năm của tỉnh còn thấp
hơn so với các tỉnh khác. Các cơ sở kinh tế chủ yếu đều là doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Tuy nhiên với vị trí địa lý đắc đạo, có lợi thế và thuận tiện về đường
đi và là cửa ngõ của thủ đô, là địa điểm kinh tế trọng điểm phía Bắc, cầu nối
giữa các tỉnh miền núi phía Bắc.
Phú Thọ đã có nhiều cố gắng phấn đấu vươn lên để phát huy những
thuận lợi vốn có của mình như khai thác, chế biến khoáng sản, nông - lâm
sản, vật liệu xây dựng, dệt may... Đồng thời xây dựng các khu công nghiệp
theo hướng quy mô, tập trung, công nghiệp hóa hiện đại hóa, mời gọi đầu tư
từ các đơn vị tỉnh bạn hoặc từ các doanh nghiệp nước ngoài.
Khai thác và tận dụng tối đa nguồn du lịch đặc biệt ở Phú Thọ có khu
di tích lịch sử đền Hùng, vườn Quốc Gia Xuân Sơn, tắm khoáng nóng Thanh
Thủy, khu du lịch Đảo Ngọc Thanh Thủy, đầm Ao Châu, ao Giời Hạ Hoà,
Quảng trường Việt Trì... do vậy nền kinh tế của tỉnh trong những năm gần đây
có khá nhiều khởi sắc.
38
3.1.2.2. Về xã hội
- Cơ sở hạ tầng: Sau nhiều năm thay đổi và phát triển đến nay Phú Thọ
đã có cơ bản các kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ về giao thông đường bộ -
đường thủy - đường sắt rất đầy đủ. Hệ thống thủy lợi được xây dựng và đầu tư
liên tục. Hệ thống điện thắp sáng cơ bản đã được bổ sung, nâng cấp lắp ráp
thêm nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dân.
Các khu vực dân cư đều đã được xây dựng các nhà văn hóa khu, xóm
nhằm tạo điều kiện giao lưu, học hỏi và trao đổi lẫn nhau. Hệ thống thông tin
như điện thoại, internet cơ bản đều được đầu tư trang bị mới do các nhà cung
cấp triển khai đến mọi khu vực, đảm bảo nhu cầu sử dụng ngày một nâng cao
của nhân dân.
- Giáo dục: Tính đến thời điểm ngày 31/12/2015 Phú Thọ có 314
trường Mầm non, 305 trường Tiều học, 260 trường cấp Trung học cơ sở, 45
trường Trung học Phổ thông, 14 trung tâm Bổ túc văn hóa, 10 trường Cao
đẳng, 2 trường Đại học,
- Y tế: Có 12 bệnh viện đa khoa tuyến Huyện, 5 tuyến Tỉnh, 174 phòng
khám tư nhân, 14 Trung tâm y tế dự phòng, 6 trung tâm các loại, 277 trạm y
tế xã phường thị trấn, đáp ứng 3985 giường bệnh. Các trạm y tế, trung tâm y
tế đều được xây dựng kiên vố vững chắc.
3.2. Đôi nét về BHXH tỉnh Phú Thọ
3.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển
BHXH tỉnh Phú Thọ được thành lập trên cơ sở 2 ngành Lao động thương
binh và xã hội và Liên đoàn lao động sát nhập lại. BHXH tỉnh Phú Thọ được
thành lập theo Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 của Thủ tướng Chính phủ
và Quyết định số 1608 ngày 16/9/1997 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam.
BHXH tỉnh Phú Thọ chính thức hoạt động từ ngày 01 tháng 10 năm 1997.
Qua 20 năm hình thành và phát triển, BHXH tỉnh Phú Thọ đã thực hiện triển
khai công tác thu BHXH với phương châm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời đã
39
mang lại những kết quả khá khả quan. Số tổng thu hàng năm đều vượt chỉ tiêu
được giao trên 100%, số doanh nghiệp có lao động tham gia đóng BHXH
ngày càng tăng nhiều, phạm vi được mở rộng.
BHXH tỉnh Phú Thọ có nhiệm vụ chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc thu,
chi quỹ BHXH theo quy định, kiểm tra giám sát việc thực hiện chế độ chính
sách trên địa bàn tỉnh, đảm bảo thực hiện đầy đủ chế độ cho người lao động
Từ khi thành lập cho đến nay BHXH tỉnh Phú Thọ hiện đang có 374
cán bộ đang công tác. Đội ngũ cán bộ đến nay 100% đều đã có trình độ đại
học và trên đại học, số cán bộ có kinh nghiệm và trải qua công tác thực tế
BHXH chiếm trên 60%, số cán bộ trẻ tuổi đời dưới 40 và có trình độ chiếm tỷ
lệ cao, đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lâu dài về công tác tổ chức
cán bộ qua đó phân công nhiệm vụ và đánh giá mức độ hoàn thành công việc
đúng, chính xác nhằm phát huy khả năng của từng cán bộ trong các công tác
thực hiện công việc.
3.2.2. Mô hình, bộ máy tổ chức
Cơ cấu tổ chức bộ máy của hệ thống BHXH tỉnh Phú Thọ gồm 11
phòng chức năng, nghiệp vụ và BHXH 13 huyện, thành thị trực thuộc.
1. Ban giám đốc gồm có 4 người: 1 Giám đốc và 3 Phó giám đốc
2. Có 11 phòng chức năng nghiệp vụ:
- Phòng Chế độ BHXH - Phòng Thu
- Phòng Giám định bảo hiểm y tế - Phòng Tổ chức cán bộ
- Phòng Kế hoạch - Tài chính - Phòng Kiểm tra
- Phòng Công nghệ thông tin - Văn phòng
- Phòng Tiếp nhận trả kết quả TTHC - Phòng Cấp sổ, thẻ
- Phòng Khai thác và thu nợ
3. Có 13 BHXH huyện thị trực thuộc BHXH tỉnh Phú Thọ
- BHXH T.P Việt Trì - BHXH T.X Phú Thọ
- BHXH H. Phù Ninh - BHXH H. Lâm Thao
- BHXH H. Đoan Hùng - BHXH H. Hạ Hòa
- BHXH H. Thanh Ba - BHXH H. Yên Lập
40
- BHXH H. Tân Sơn - BHXH H. Thanh Sơn
- BHXH H. Cẩm Khê - BHXH H. Tam Nông
BHXH TP Việt Trì
P. Chế độ BHXH
BHXH T.xã Phú Thọ
Phòng Thu
BHXH h.Phù Ninh
I
P. Giám định BHYT
3 C Ố Đ M Á G Ó H P
BHXH h.Lâm Thao
P. Tổ chức cán bộ
BHXH h.Đoan Hùng
P. Kế hoạch tài chính
BHXH h. Hạ Hòa
Phòng Kiểm tra
I
I
BHXH h. Thanh Ba
C Ố Đ M Á G
P. Công nghệ thông tin
2 C Ố Đ M Á G Ó H P
BHXH h. Yên Lập
Văn Phòng
BHXH h. Tân Sơn
BHXH h.Thanh Sơn
P. Tiếp nhận trả kết quả
TTHC
BHXH h.Cẩm Khê
I
Phòng Sổ thẻ
BHXH h. Tam Nông
1 C Ố Đ M Á G Ó H P
P. Khai thác và thu nợ
BHXH h.Thanh Thủy
- BHXH H. Thanh Thủy
Sơ đồ 3.1: Mô hình tổ chức bộ máy BHXH tỉnh Phú Thọ
41
Giám đốc BHXH tỉnh là người quản lý thông qua việc giao quyền chỉ
đạo trực tiếp cho các Phó Giám đốc để phụ trách quản lý, giám sát từng mảng
nghiệp vụ khác nhau, trực tiếp điều hành các phòng nghiệp vụ và BHXH
huyện thị. BHXH tỉnh gồm 3 Phó Giám đốc , trong đó có riêng 1 Phó Giám
đốc chuyên trách mảng thu BHXH.
BHXH huyện thị thực hiện các chức năng nghiệp vụ theo khu vực địa
lý hành chính. Các phòng nghiệp vụ của tỉnh đều có trách nhiệm hỗ trợ, đôn
đốc nhắc nhở BHXH huyện thị thực hiện tốt các nghiệp vụ, công việc của
mình. Việc giải quyết chế độ chính sách, hồ sơ, theo dõi nộp đóng BHXH đều
do huyện trực tiếp quản lý và thực hiện theo quy chế 1 cửa.
Thực hiện thu BHXH được coi là xương sống của nghành BHXH.
Trong đó các BHXH huyện thị và phòng Thu đóng vai trò hết sức to lớn, đảm
bảo công tác thu đúng thu đủ thu kịp thời. Do vậy phòng Thu luôn có nhiều
các cán bộ có nghiệp vụ chuyên sâu, có trình độ để tăng cường khả năng hỗ
trợ huyện thị và hoàn thành chỉ tiêu thu BHXH được giao.
3.3. Thực trạng công tác quản lý thu BHXHBB trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
3.3.1. Lập kế hoạch quản lý thu BHXHBB
Đối với các cơ quan Bảo hiểm các cấp thực hiện quá trình thu bảo hiểm xã
hội hàng năm thì đều phải thực hiện xây dựng kế hoạch thu của đơn vị trước. Dựa
vào quy mô thị trường bao gồm số đơn vị tham gia BHXHBB, số lượng lao động
tham gia BHXHBB và tình hình thu BHXH của năm trước so với kế hoạch thu
được giao đầu năm đạt bao nhiêu phần trăm, tỷ lệ hoàn thành và khả năng phát
triển thị trường lao động của tỉnh năm sau, căn cứ vào phương thức và mức đóng
để tổng hợp, lập vào giao dự toán giao thu BHXHBB.
BHXH tỉnh Phú Thọ sau khi nhận được bản dự toán thu BHXH của
BHXH Việt Nam gửi trước ngày 10/1 hàng năm sẽ dựa vào đó để lập kế
hoạch và triển khai thực hiện kế hoạch thu trong năm. Sau khi nhận kế hoạch
dự toán thu BHXHBB năm sau từ BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh sẽ gửi báo
42
cáo BHXH Việt Nam xem xét, trừ nợ số tiền không có khả năng thu mà
BHXH Việt Nam đã giao căn cứ vào quy mô thị trường, khả năng phát triển
của thị trường. BHXH Việt Nam sau đó sẽ gửi yêu cầu đồng ý hoặc không
đồng ý về cho BHXH tỉnh. BHXH tỉnh căn cứ vào số lượng các đơn vị sử
dụng lao động và dự toán thu BHXH sẽ phân bổ đến phòng thu BHXH tỉnh và
BHXH các huyện trước ngày 20/01 hàng năm. Dưới đây là bảng tổng hợp dự
toán thu BHXHBB hàng năm theo kế hoạch mà BHXH Việt Nam yêu cầu
BHXH tỉnh triển khai thực hiện từ năm 2014 - 2016:
Bảng 3.1: Dự toán thu BHXHBB từ năm 2014 - 2016
Năm 2014 2015 2016
Dự toán thu 1.220.000 1.300.000 1.450.000
Nguồn: Thống kê kết quả thu BHXH, BHYT, BHTN (01 BC)
Phòng quản lý thu BHXH Tỉnh Phú Thọ
Giao thu đầu kỳ của BHXH Việt Nam năm sau số tiền kế hoạch luôn
cao hơn năm trước. Cụ thể năm 2014 BHXH Việt Nam giao thu cho BHXH
tỉnh là 1.220 tỷ đồng, năm 2015 giao 1.300 tỷ đồng, tăng 80 tỷ đồng so với
năm 2014. Năm 2016 giao thu là 1.450 tỷ đồng, tăng 150 tỷ đồng so với năm
2015. Có thể thấy BHXH Việt Nam dựa vào tình hình thu BHXH của năm
trước so với kế hoạch thu được giao đầu năm đạt bao nhiêu phần trăm, tỷ lệ
hoàn thành và khả năng phát triển thị trường lao động của tỉnh năm sau để
tổng hợp, lập vào giao dự toán thu BHXH, cho tỉnh, số giao thu sẽ là căn cứ
để BHXH tỉnh Phú Thọ triển khai thực hiện hoàn thành kế hoạch thu và nộp
tiền vào NSNN.
Từ cơ sở là dự toán thu BHXHBB mà BHXH Việt Nam đã giao, BHXH
tỉnh thực hiện giao kế hoạch thu hàng năm cho BHXH huyện thị và Phòng quản
lý thu BHXH dựa trên địa bàn phụ trách, số lượng doanh nghiệp đóng trên địa bàn
và số doanh nghiệp đăng ký thành lập từ năm trước theo quy mô để gửi dự toán
thu BHXHBB cho huyện thị và Phòng quản lý thu BHXH.
43
BHXH tỉnh lên kế hoạch phối hợp với các cấp, sở ban nghành có liên quan
để tổ chức kiểm tra việc thực hiện Luật BHXH. Tăng cường công tác lãnh đạo
nhằm thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách BHXH cho người lao động.
BHXH tỉnh luôn chỉ đạo kịp thời, mục tiêu đặt ra đối với công tác quản
lý thu BHXH là luôn hoàn thành tốt vượt dự tính số thu, năm sau cao hơn
năm trước nhưng hạn chế tối đa tình trạng nợ đọng. Trong công tác quản lý
thu luôn đảm bảo thu đúng - thu đủ - thu kịp thời.
3.3.2. Tổ chức thực hiện quản lý thu BHXHBB
3.3.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý thu BHXH
a. Tổ chức phân cấp quản lý thu
Công tác quản lý thu BHXH là cách thức tổ chức sắp xếp công tác thu
BHXH do cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực BHXH quy định, nhằm
hướng dẫn điều chỉnh các bộ phận trong hệ thống BHXH hoạt động theo một
phương thức thống nhất.
Trong công tác quản lý thu BHXH phân cấp quản lý thu BHXH sẽ đảm
bảo cho công tác thu được đồng bộ, đảm bảo các yêu cầu về thông tin chỉ đạo,
xử lý kịp thời các vướng mắc và chuyên môn hoá trong từng khâu. Đối với
việc phân cấp của ngành BHXH hiện nay, công tác thu BHXH được phân
thành các cấp quản lý theo mô hình.
BHXH Việt Nam
BHXH Tỉnh Phú Thọ
BHXH huyện thị
Phòng Quản lý thu BHXH
Sơ đồ 3.2: Tổ chức bộ máy quản lý thu BHXH
44
Theo mô hình trên việc phân cấp quản lý được chia làm 3 cấp: BHXH
Việt Nam; BHXH tỉnh và BHXH huyện thị - Phòng quản lý Thu. Trong 3 cấp
quản lý này cấp BHXH huyện thị và Phòng Quản lý thu BHXH trực tiếp thu
BHXHBB của các đối tượng, cấp BHXH Việt Nam có nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ
đạo nghiệp vụ, tổng hợp số liệu thu trong toàn quốc và nghiên cứu, xây dựng,
tham mưu giúp lãnh đạo đưa ra các văn bản chỉ đạo, xử lý những vướng mắc
trong công tác thu và trực tiếp chỉ đạo các tỉnh, thành phố thực hiện nhiệm vụ
thu BHXH.
BHXH cấp tỉnh có nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo công tác thu BHXH trong
địa bàn tỉnh và các quận, huyện, thu BHXH của các đơn vị có yếu tố nước
ngoài, các đơn vị hành chính sự nghiệp cấp Trung ương, cấp tỉnh đóng trên
địa bàn, các DNNN trực thuộc các Bộ chuyên ngành, đồng thời có nhiệm vụ
tổng hợp báo cáo số thu của toàn tỉnh gửi lên BHXH Việt Nam.
Cấp quận, huyện, thành phố, thị xã trực tiếp thu BHXH của các đơn vị
trên địa bàn quận, huyện theo phân cấp của tỉnh, thành phố. Các chu trình thu
được thực hiện theo một nguyên tắc khép kín từ Trung ương tới cơ sở.
b. Phân công cán bộ làm công tác quản lý thu BHXHBB
Để đạt hiệu quản trong công tác quản lý thu BHXHBB thì cán bộ phụ
trách công tác thu phải là người được khảo sát thực tế nhằm:
+ Nắm chắc số đơn vị SDLĐ, số lượng lao động có trong các đơn vị
nhằm tránh tình trạng đơn vị SDLĐ cố tình kê khai sai số lượng lao động
nhằm trốn nghịa vụ đóng BHXHBB cho NLĐ. NLĐ sẽ gặp thiệt thòi khi
không được hưởng các chế độ BHXH. Qua đó nắm bắt được tình hình sản
xuất kinh doanh tại đơn vị.
+ Trực tiếp hướng dẫn các đơn vị SDLĐ lập danh sách lao động, quỹ tiền
lương tham gia BHXH.Lập biểu điều chỉnh tăng giảm lao động, mức đóng BHXH
hàng tháng cho NLĐ và đối chiều nộp BHXH cho cơ quan BHXH.
+ Cán bộ phụ trách thu căn cứ vào danh sách lao động, quỹ tiền lương
đơn vị đăng ký và biểu tăng giảm lao động mức đóng... để xác định số tiền
45
BHXHBB phải đóng. Qua đó đôn đốc nhắc nhở các đơn vị SDLĐ thực hiện
nộp đầy đủ theo quy định, hạn chế tình trạng nợ đọng diễn da kéo dài.
+ Tổng hợp kết quả đóng BHXH theo khối loại hình quản lý, xác định các trường hợp ốm đau thai sản, nghỉ dưỡng sức, nghỉ hưu để NLĐ được hưởng các chế độ BHXH theo quyền lợi mà họ được hưởng. 3.3.2.2. Đối tượng tham gia BHXHBB
Đối tượng và phạm vi BHXH được mở rộng tất cả các lao động làm việc trong các thành phần kinh tế. Nếu như trước ngày 01/01/2003 đối tượng tham gia BHXHBB bị khống chế đối với ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên thì mới thuộc đối tượng tham gia BHXHBB nhưng đến nay kể từ khi có Luật BHXH đã mở rộng việc tham gia BHXHBB đến tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tổ hợp tác; người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 03 tháng trở lên trong các hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã; các cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các ngành văn hoá, y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, thể dục thể thao và các ngành sự nghiệp khác (không khống chế số lao động tham gia BHXH).
Nhận thức tầm quan trọng về đổi mới chính sách BHXH đối với mọi NLĐ thuộc các thành phần kinh tế; để thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được đúng và đầy đủ; BHXH tỉnh Phú Thọ đã tiếp thu đầy đủ, triển khai kịp thời việc thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động, với sự nỗ lực tích cực đáng ghi nhận luôn chú trọng phát triển, mở rộng đối tượng tham gia BHXH và thực hiện chế độ BHXH đối với người lao động.
Ngay từ đầu các năm BHXH tỉnh đã chủ động phối hợp với Sở kế hoạch đầu tư và Cục thuế tỉnh để cung cấp danh sách các đơn vị đã được cấp giấy phép kinh doanh, đồng thời tiến hành rà soát để nắm được số lượng đơn vị đang hoạt động tiến hành vận động khai thác và yêu cầu các đơn vị thực hiện thu nộp BHXH cho người lao động.
Tính đến cuối năm 2016 tại địa bàn tỉnh Phú Thọ theo báo cáo của BHXH tỉnh Phú Thọ tính đến hết 31/12/2016 toàn tỉnh có 3834 đơn vị tham gia BHXHBB với 135.563 người. Cụ thể số lao động tham gia BHXH theo khối loại hình các năm như sau:
46
Bảng 3.2: Số đơn vị và số lao động tham gia BHXH theo khối, loại hình
So sánh
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 năm 2016 với Loại hình tham gia TT năm 2014 BHXH, BHYT
Đơn vị Số LĐ Đơn vị Số LĐ Đơn vị Số LĐ Đơn vị Số LĐ
4 6
148 HCSN, ĐĐT 1.348 38.476 1.363 38.859 1.349 38.624 1 1
Doanh nghiệp nhà nước 111 15.131 107 13.930 106 13.805 -5 -1.326 2
Doanh nghiệp 1.192 25.561 1.259 24.638 1.378 26.864 186 1.303 3 ngoài quốc doanh
Khối xã, phường 277 5.675 277 5.569 277 5.652 0 -23 4
Đối tượng khác 494 41.522 508 45.825 724 50.618 230 9.096 5
6 Tổng 3.422 126.365 3.514 128.821 3.834 135.563 412 9.198
Nguồn: Thống kê kết quả thu BHXH, BHYT, BHTN (01 BC) Phòng quản lý thu BHXH Tỉnh Phú Thọ
47
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy: Khối đơn vị hành chính sự nghiệp
các năm 2014, 2015 và 2016 không có sự chênh lệch đáng kể, năm 2016 so
với năm 2013 có tăng thêm 1 đơn vị trong khi lao động tăng lên 148 người.
Điều này cho thấy các cơ quan nhà nước không mở rộng thêm mà chỉ bổ sung
nhân sự vào thay thế những vị trí còn trống còn thiếu hoặc vào những vị trí
cần thêm nhân lực để làm việc. Điều này cũng cho thấy các đơn vị NN đang
từng bước tinh giảm biên chế do chính sách tinh giảm biên chế theo Nghị
định 16 và Nghị định 32 với mục đích giảm là khuyến khích đưa cán bộ công
chức viên chức không có trình độ, cán bộ công nhân viên chức già yếu, ốm
đau bệnh tật đồng thời điều động cán bộ công chức, viên chức kiêm nhiệm
nhiều vị trí thay cho việc tuyển thêm nhân sự như trước đây. Bằng chứng là
năm 2016 so với năm 2014 số lượng lao động có tăng lên rất hạn chế là 148
người mặc dù năm sau sự vụ, sự việc nhiều hơn năm trước.
Khối DNNN năm 2014 là 111 đơn vị, năm 2015 là 107 đơn vị và năm
2016 giảm còn 106 đơn vị, số lao động làm việc trong các DNNN năm 2014
cao nhất là 15.131 người, năm 2015 giảm còn 13.930 và năm 2016 chỉ còn
13.805 lao động. Ta nhận thấy năm sau luôn có xu hướng giảm so với năm
trước cả về số Doanh nghiệp và số lượng lao động. Năm 2016 so với năm
2014 giảm 5 doanh nghiệp và 1.326 lao động. Lý do các đơn vị ở khối doanh
nghiệp Nhà nước này giảm qua các năm như vậy là do các DNNN đã chuyển
dần sang hình thức cổ phần, số lao động giảm do Quyết định chi nghỉ theo
Nghị định 41/CP của Chính Phủ, một nguyên nhân nữa là do doanh nghiệp
sản xuất không có hiệu quả, làm ăn thua lỗ nên sát nhập hoặc giải thể.
Khối DNNQD qua các năm đều thấy có xu hướng tăng dần lên. Cụ thể
năm 2014 là 1.192 DN, năm 2015 là 1.259 DN và năm 2016 là 1.378. Năm
2016 so với năm 2014 tăng lên là 186 DN. Điều này có thể lý giải năm 2016
được coi là năm khởi nghiệp, tỉnh Phú Thọ dã mở rộng chính sách, tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho DN vào làm việc, tạo môi trường kinh doanh, cung
48
cấp nguồn lao động có trình độ phù hợp với doanh nghiệp. Ngoài ra có những
DN cổ phần hóa, DN mới thành lập theo Luật DN, kinh tế tập thể, các công ty
TNHH, xí nghiệp... Chính vì các DNNQD tăng nên số lao động có việc làm
và được đóng BHXH cũng tăng lên 1.303 lao động. Đây chính là điều kiện,
cơ hội để thực hiện chính sách của Đảng, NN về giải quyết việc làm, nâng cao
đời sống kinh tế khu vực.
Khối xã phường vẫn luôn duy trì là 277 đơn vị, số lao động năm 2016
giảm 23 người so với năm 2014.
Khối có số lao động tăng cao nhất là khối các đối tượng khác năm 2016
tăng hơn 9000 lao động được tham gia đóng BHXH. Đây là khối gồm những
hợp tác xã, khối ngoài công lập, các tổ hợp tác, lao động Việt Nam đi làm
việc có thời hạn ở nước ngoài, hộ SXKD cá thể, các tổ chức khác.... Điều này
cho thấy không chỉ có những doanh nghiệp, công ty mới thành lập mà có rất
nhiều lao động đang làm việc ở những HTX, hộ kinh doanh... có tham gia
đóng BHXH. Đây không chỉ ở sự hiểu biết của chủ sử dụng lao động, NLĐ
mà còn có sự tác động rất lớn từ phía cơ quan BHXH đã khuyến khích họ
tham gia đóng BHXHBB.
Ngay từ đầu các năm BHXH tỉnh đã chủ động phối hợp với Sở kế
hoạch đầu tư và Cục thuế tỉnh để cung cấp danh sách các đơn vị đã được cấp
giấy phép kinh doanh, đồng thời tiến hành rà soát để nắm được số lượng đơn
vị đang hoạt động tiến hành vận động khai thác và yêu cầu các đơn vị thực
hiện thu nộp BHXH cho người lao động.
Tuy số DN và số LĐ tham gia đóng BHXHBB có tăng nhưng thực tế
khối DNNQD, HTX, hộ kinh doanh cá thể vẫn còn khá nhiều lao động chưa
được tham gia đóng BHXH đầy đủ. Nguyên nhân chưa khai thác được đó là:
- Đối với các doanh nghiệp tư nhân và Công ty TNHH chỉ có 01 người
đứng ra thành lập, mục đích chỉ vay vốn để kinh doanh, làm theo mùa vụ,
thuê mướn lao động nông nhàn và trả tiền công theo khoán sản phẩm.
49
- Một số doanh nghiệp được phép đăng ký kinh doanh hoạt động nhỏ
lẻ, sử dụng lao động đã nhiều tuổi, lao động trong gia đình nên không có khả
năng khai thác. Với hộ kinh doanh cá thể chỉ buôn bán nhỏ rất khó khai thác
tăng lao động tham gia BHXH.
- Nhận thức của chủ sử dụng lao động về BHXH khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh còn nhiều hạn chế. Sự phối hợp hoạt động của các cơ quan quản
lý Nhà nước còn chưa đồng bộ, chặt chẽ.
- Phương án sản xuất kinh doanh của các đơn vị ngoài quốc doanh tính
cạnh tranh không ổn định làm cho NLĐ dễ bị mất việc làm, mặt khác loại
hình này thu hút nhiều lao động phổ thong chưa qua đào tạo, chưa có tay nghề
nên việc làm không ổn định lại thường xuyên thay đổi nơi làm việc.
- Ngoài ra qua kết quả thu BHXHBB đã nổi cộm rõ nét năm 2015 có
149 đơn vị không có khả năng thu, 15 đơn vị bị khởi kiện. Năm 2016 có 127
đơn vị không có khả năng thu, 4 đơn vị không tồn tại, không hoạt động hoặc
giải thể phá sản, chủ sử dụng lao động bị bắt để điều tra.
3.3.2.3. Thực hiện mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXHBB
Thời gian qua, việc quy định về mức tiền lương làm căn cứ đóng
BHXH được đảm bảo thực hiện hết sức chặt chẽ, nghiêm ngặt và thống nhất
trong toàn bộ lực lượng lao động làm việc tại các đơn vị sử dụng lao động
thuộc các thành phần kinh tế. Cụ thể:
- Đối với khu vực Nhà nước:
Quy định về chế độ tiền lương trong các cơ quan Hành chính sự
nghiệp, Đảng đoàn thể và trong các doanh nghiệp nhà nước, với các bảng
lương, thang lương rất cụ thể và chỉ tiết để áp dụng. Mỗi bảng lương có các
ngạch bậc và điều kiện để được xếp vào chức danh tương ứng; có thời gian
giữ bậc, nâng lương...cụ thể tương ứng. Các bậc lương được quy thành hệ số
một cách thống nhất để dùng ra quyết định hoặc ký hợp đồng lao động.
50
Mức tiền lương và phụ cấp làm căn cứ đóng BHXH được tính bằng hệ
số đó (bao gồm các khoản phụ cấp nếu có) nhân với mức tiền lương tối thiểu
chung do Nhà nước quy định trong từng thời kỳ.
Trên thực tế, các doanh nghiệp thường không chú ý đến các quy định
về tiền lương vì không có gì liên quan (hoặc liên quan rất ít) đến tiền lương và
thu nhập của người lao động. Tuy nhiên, do đây là căn cứ để thực hiện nghĩa
vụ đóng góp BHXH và giải quyết các chế độ về BHXH cho người lao động,
nên đơn vị phải thực hiện nghiêm túc theo quy định, bất kể làm ăn có lãi, hay
thua lỗ. Mặt khác, các loại lương và phụ cấp do Nhà nước quy định thống
nhất và mọi đơn vị phải thực hiện một cách bắt buộc.
- Đối với khu vực ngoài Nhà nước:
Mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của doanh nghiệp và NLĐ là
tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp (nếu có) được thoả thuận ghi trên
hợp đồng lao động của người lao động.
Mặt khác, tiền lương, tiền công và phụ cấp thực hiện theo thang lương,
bảng lương do doanh nghiệp tự xây dựng.
Có một thực tế là, hiện nay các doanh nghiệp này, nhất là những doanh
nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp thường chậm tuân thủ, hoặc tuân
thủ rất hạn chế quy định của pháp luật về hợp đồng lao động, do đó cơ quan
BHXH cũng như các cơ quan pháp luật khi thực hiện việc kiểm tra thường
gặp rất nhiều khó khăn vì không có hợp đồng lao động.
Mặt khác các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân
được sử dụng mức tiền lương hợp đồng làm căn cứ trích nộp BHXH, mà
không có gì ràng buộc, ngoại trừ quy định về mức tiền lương tối thiểu, dẫn
đến nếu doanh nghiệp buộc phải ký hợp đồng lao động thì cũng chỉ ký với
mức lương rất thấp so với thực tế trả NLĐ để giảm nghĩa vụ trích nộp BHXH
theo quy định. Các doanh nghiệp bóc lột cạn kiệt sức lao động của NLĐ
nhưng chỉ trả cho họ đồng lương ít ỏi chủ yếu là hợp đồng do họ thỏa thuận
51
chỉ nghĩ đến lợi nhuận của công ty chứ không hề quan tâm đến quyền và lợi
ích của người lao động.
Như vậy, có thể nói việc quy định về tiền lương làm căn cứ đóng
BHXH hiện nay đã bộc lộ một số điểm bất hợp lý sau:
- Mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH thấp hơn nhiều so với tiền
lương thực tế trong các đơn vị trả cho người lao động. Vì cơ sở trích nộp
BHXH là mức lương ghi trong hợp đồng lao động của từng người lao động,
không có điểm nào chung với thu nhập, dẫn đến tình trạng chủ doanh nghiệp
muốn đóng BHXH cho NLĐ nào, với mức lương cao, thấp ra sao là hoàn toàn
do các chủ doanh nghiệp quyết định.
- Tạo ra chủ nghĩa bình quân trong việc đóng và hưởng BHXH, đây là
sự bất bình đẳng lớn: doanh nghiệp ăn nên làm ra, muốn đóng cao để hưởng
cao thì không được; doanh nghiệp thua lỗ không thể đóng được, vẫn phải chịu
nợ đến cùng.
* Mức đóng:
- Thực hiện quản lý thu BHXHBB hiện nay dựa theo quy định của pháp
luật hiện hành và dựa vào mức tiền lương tiền công. Cụ thể kể mức thu
BHXHBB từ năm 2014 cho đến nay quy định về mức đóng BHXHBB hàng
tháng của NLÐ là 8% và NSDLÐ là 18%.
3.3.2.4. Thực hiện quản lý thu BHXHBB
a. Quy trình quản lý thu BHXHBB
* Đối với đơn vị SDLĐ: Trên cơ sở lao động phải tham gia BHXH
theo quy định. Đơn vị sử dụng lao động lập danh sách đăng ký và các hồ sơ
liên quan gửi lên cơ quan BHXH để đăng ký tham gia BHXH cho lao động
thuộc đơn vị mình, định kỳ hàng tháng đơn vị sử dụng lao động có trách
nhiệm thu hộ 7% tiền lương của người lao động và trích 17% quỹ tiền lương
của đơn vị nộp cơ quan BHXH, nếu có biến động trong quý đơn vị sử dụng
52
lao động phải lập biểu mẫu điều chỉnh tăng giảm số tiền nộp BHXH gửi cơ
quan BHXH trực tiếp quản lý để kịp thời điều chỉnh.
Hàng quý đơn vị sử dụng lao động phải lập bảng đối chiếu để xác nhận
số tiền nộp BHXH của đơn vị. Trong quá trình làm việc nếu đơn vị có những
yêu cầu về việc giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động, đơn vị sử
dụng lao động phải lập hồ sơ, danh sách hưởng trợ cấp gửi cơ quan BHXH để
xác nhận và chuyển trả các chế độ được hưởng cho người lao động (cấp bổ
sung trong trường hợp tiền 2% để lại không đủ chi nếu thừa nộp trả lại cho cơ
quan BHXH). Hàng năm đơn vị sử dụng lao động phải lập biểu mẫu đăng ký
danh sách lao động tham gia BHXH tại thời điểm 31/12 của năm báo cáo.
* Đối với cơ quan BHXH: Cơ quan BHXH căn cứ vào danh sách lao
động do đơn vị sử dụng lao động lập thực hiện đối chiếu và xác định số tiền
phải nộp của đơn vị trong từng kỳ và triển khai thu BHXH. Nếu đơn vị có
biến động, cơ quan BHXH căn cứ vào các biểu mẫu điều chỉnh do đơn vị gửi
đến để xác định lại số thu cho đơn vị sử dụng lao động. Hàng tháng, quý cơ
quan BHXH đối chiếu và xác định công nợ cho từng đơn vị. Sau khi đối chiếu
đầy đủ cho các đơn vị thuộc địa bàn quản lý cơ quan BHXH lập báo cáo tổng
hợp thu BHXH trên địa bàn. Khi các đơn vị sử dụng lao động có yêu cầu về
việc giải quyết chế độ chính sách cho lao động trong đơn vị mình, cơ quan
BHXH phải thẩm định và xác định quá trình đã tham gia của người lao động
đến thời điểm cần giải quyết trên cơ sở đó làm căn cứ để xác định mức hưởng
cho người lao động. Khi đơn vị sử dụng lao động và người lao động thực hiện
đúng trách nhiệm trích nộp BHXH cơ quan BHXH hàng năm in tờ rời (bản
ghi quá trình tham gia BHXH) của người lao động để làm cơ sở để giải quyết
các chế độ BHXH sau này.
b. Cách thức quản lý thu BHXHBB
Với cách thức thu BHXHBB như hiện nay đã đảm bảo cho đối tượng
tham gia BHXH thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về trích nộp BHXHBB ngay sau
53
khi thanh toán tiền lương, thuận tiện cho đơn vị sử dụng lao động trong việc
thanh quyết quyết toán tiền lương cho người lao động, đồng thời giúp cho cơ
quan BHXH dễ quản lý, theo dõi và là căn cứ giải quyết các chế độ BHXH
cho NLĐ được kịp thời khi họ không may gặp rủi ro. Đơn vị sử dụng lao
động được phép giữ lại 2% để kịp thời chi trả các chế độ ốm đau, thai sản
hàng quý.
Hàng tháng chậm nhất vào ngày làm việc cuối cùng của tháng, đơn vị
sử dụng lao động phải trích đóng BHXH dựa trên quỹ lương, tiền công của
NLĐ có tham gia BHXH theo quy định đối với người sử dụng lao động và
NLĐ để chuyển cùng một lúc vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH
tỉnh mở tại Ngân hàng hoặc KBNN.
Trường hợp xử lý khi số tiền quyết toán chênh lệch thì đơn vị sử dụng
lao động phải nộp số chênh lệch vào tháng đầu quý sau thông qua tài khoản
của BHXH tỉnh tại kho bạc.
Trường hợp đã quá thời hạn phải đóng theo quy định mà đơn vị chưa
đóng hoặc đóng thiếu thì ngoài việc phải đóng số tiền chưa đóng, chậm đóng,
đơn vị còn phải đóng số tiền lãi tính trên số tiền chưa đóng, chậm đóng theo
quy định.
Trường hợp đơn vị không chuyển đủ tiền phải đóng trong kỳ thì phải
nộp đủ tiền chậm đóng và số tiền lãi của số tiền chậm đóng còn lại.
3.3.3. Đánh giá, kiểm tra giám sát quá trình thực hiện công tác quản lý thu
BHXHBB
3.3.3.1. Kết quả hoàn thành kế hoạch thu BHXHBB
Theo số liệu từ báo cáo mẫu số (01 BC) của phòng quản lý thu BHXH
tỉnh Phú Thọ trong ba năm liền từ 2014 đến 2016 BHXH tỉnh thu năm sau
luôn cao hơn năm trước, hoàn thành đạt trên 100% kế hoạch được giao. Giao
thu đầu kỳ của BHXH Việt Nam năm sau số tiền kế hoạch luôn cao hơn năm
trước. Cụ thể năm 2014 BHXH Việt Nam giao thu cho BHXH tỉnh là 1.220 tỷ
54
đồng, năm 2015 giao 1.300 tỷ đồng, tăng 80 tỷ đồng so với năm 2015. Năm
2016 giao thu là 1.450 tỷ đồng, tăng 150 tỷ đồng so với năm 2015. Có thể
thấy BHXH Việt Nam dựa vào tình hình thu BHXH của năm trước so với kế
hoạch thu được giao đầu năm đạt bao nhiêu phần trăm, tỷ lệ hoàn thành và
khả năng phát triển thị trường lao động của tỉnh năm sau để tổng hợp, lập vào
giao dự toán thu BHXH, cho tỉnh, số giao thu sẽ là căn cứ để BHXH tỉnh Phú
Thọ triển khai thực hiện hoàn thành kế hoạch thu và nộp tiền vào NSNN.
Bảng 3.3: Kết quả thu BHXHBB kế hoạch và thực tế từ năm 2014 - 2016
Năm Năm Năm Chỉ tiêu Đơn vị 2014 2015 2016
Kế hoạch thu Triệu đồng 1.220.000 1.300.000 1.450.000
Kết quả thu Triệu đồng 1.251.704 1.352.340 1.549.784
Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch % 102,6 104,1 106,9
Nguồn: Thống kê kết quả thu BHXH, BHYT, BHTN (01 BC)
Phòng quản lý thu BHXH Tỉnh Phú Thọ
Ta có thể nhận thấy rõ so sánh kết quả thu và kế hoạch thu qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 3.1: Kế hoạch và kết quả thu BHXHBB giai đoạn 2014 -2016
55
Qua bảng số liệu và biểu đồ thể hiện kết quả thu BHXHBB giai đoạn từ
năm 2014 đến năm 2016 cho thấy BHXH tỉnh Phú Thọ ngay từ khi nhận kế
hoạch thu đã tổ chức thực hiện triển khai kế hoạch và bám sát kế hoạch thu
nhằm hoàn thành cao nhất kết quả thu đạt được. Năm 2014 BHXH tỉnh Phú
Thọ được giao là 1.220.000 triệu đồng thì kết quả thu cuối năm nộp vào
NSNN là gần 1.252.704 triệu đồng, đạt 102,6%. Năm 2015 kế hoạch giao thu
là 1.300.000 triệu đồng thì thực hiện được là trên 1.352.340 triệu đồng, đạt
trên 104,1%. Năm 2016 kế hoạch giao thu là 1.450.000 triệu đồng thì kết quả
thu đạt được là 1.549.784 triệu đồng, tương đương hoàn thành 106,9% kế
hoạch được giao.
Từ bảng số liệu ta thấy được BHXH Việt Nam năm sau luôn giao thu
cao hơn năm trước cho BHXH tỉnh Phú Thọ, bằng chứng là năm 2014 BHXH
tỉnh Phú Thọ được giao thu là 1.220 tỷ đồng, năm 2015 giao thu là 1.300 tỷ
đồng và năm 2016 là 1.450 tỷ đồng. BHXH tỉnh Phú Thọ trong ba năm liền
luôn hoàn thành và vượt kế hoạch được giao các năm lần lượt từ 2014 đến
2016 là 102,6% ; 104,1% và 106,9%. Tuy hoàn thành và vượt kế hoạch được
giao nhưng số tiền nợ đọng vẫn còn tăng do ảnh hưởng của tỉnh hình kinh tế
chưa hoàn toàn phục hồi, các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong
khâu sản xuất kinh doanh do vậy một số doanh nghiệp còn hoạt động cầm
chừng, việc làm và thu nhập của NLĐ không được ổn dịnh do vậy không có
khả năng đóng BHXH đúng hạn. Đồng thời còn một số doanh nghiệp đang
trong tình trạng chờ bán, chờ phá sản hoặc doanh nghiệp còn hoạt động
nhưng cố tình dây dưa lợi dụng vốn để phục vụ mục đích khác. Đây là nguyên
nhân không nhỏ ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả thu BHXHBB. Tính nguyên
năm 2016 tổng số tiền nợ BHXH còn tồn lại chưa thu được là 85.525 triệu
đồng. Nếu thu được cả 85.525 triệu đồng này thì BHXH tỉnh Phú Thọ sẽ còn
hoàn thành vượt xa kế hoạch được giao trước đó chứ chưa dùng lại ở con số
xấp xỉ 107%. Do vậy, BHXH tỉnh Phú Thọ chưa thể tự bằng lòng với kết quả
56
mà mình đã đạt được mà cần phải nỗ lực hơn nữa để hoàn thành tốt hơn kết
quả được giao. Để thấy được rõ nét hơn về kết quả thu BHXHBB ta so sánh
kết quả khai thác thu năm sau so với năm 2013.
3.3.3.2. Kết quả khai thác thu năm sau so với năm trước
Qua 20 năm củng cố, ổn định và phát triển, hệ thống BHXH tỉnh Phú
Thọ triển khai công tác thu BHXH với phương châm thu đúng, thu đủ, thu kịp
thời, đã có những kết quả đáng khích lệ: Số lao động tham gia BHXH ngày
một tăng, phạm vi ngày càng được mở rộng. Năm 2013 tỷ lệ trích lập nộp
BHXHBB đối với chủ SDLĐ là 17% và với NLĐ là 7%, bắt đầu từ năm 2014
cho đến nay tỷ lệ nộp BHXH là 18% đối với chủ sử dụng lao động và 8% đối
với người lao động. Để nhìn rõ được kết quả của chính sách pháp luật thay
đổi ta lấy số liệu năm 2013 để so sánh số lao động tham gia BHXHBB và số
tiền thu BHXHBB các năm 2014, 2015 và 2016. Kết quả thực hiện thu
BHXHBB từ năm 2013 đến năm 2016 như sau:
Bảng 3.4: Kết quả thu BHXHBB từ năm 2013 - 2016
Khai thác và thu năm sau so với năm trước
BHXHBB đã thu Số tiền STT Năm
Tổng số lao động (Người) (Triệu đồng) Lao động (Người) Chênh lệch (Triệu đồng) Tỷ lệ % so với năm 2013
1 2013 123.118 1.038.445
2 2014 126.365 1.251.704 3.247 213.259 120,536
3 2015 128.821 1.352.340 2.456 100.636 130,227
4 2016 137.340 1.549.784 8.519 197.444 149,241
Nguồn: Thống kê kết quả thu BHXH, BHYT, BHTN (01 BC)
Phòng quản lý thu BHXH Tỉnh Phú Thọ
57
Qua bảng thống kê cho thấy BHXH tỉnh Phú Thọ đã vượt qua nhiều
khó khăn để hoàn thành kế hoạch thu BHXH Việt Nam giao, có thể thấy rõ
ràng rằng số thu BHXHBB và đối tượng thu bắt buộc năm sau luôn tăng cao
hơn năm trước. Nếu tính năm 2013 có 123.118 lao động tham gia BHXH với
tiền thu được 1.038,445 tỷ đồng, đến năm 2016 có 137.340 lao động tham gia
BHXHBB với số tiền thu được là 1.549.784 tỷ đồng, số thu năm 2016 tăng
gần gấp 1,5 lần so với năm 2013 và số lao động tăng hơn 14.000 người.
Nguyên nhân chính số lao động, số tiền thu BHXHBB năm 2014 đến
năm 2016 tăng như vậy là do thay đổi mức đóng BHXHBB. Cụ thể đối với
thu BHXHBB mức thu theo quy định của pháp luật và dựa vào mức tiền
lương tiền công, kể từ năm 2014 trở đi quy định về mức đóng BHXH hàng
tháng của NLÐ là 8% và NSDLÐ là 18% . Điều này thể hiện rõ nét nhất chính
là số tiền thu BHXHBB năm 2014 tăng lên hơn 200 tỷ đồng so với năm 2013,
trong khi số lao động tham gia BHXHBB chỉ tăng lên hơn 3000 người.
Để nhìn rõ hơn về sự tăng trưởng nguồn quỹ thu BHXHBB ta có thể
nhìn qua biểu đồ sau:
Biều đồ 3.2: Kết quả thu BHXHBB từ 2013 - 2016 của tỉnh Phú Thọ
58
Năm 2016 số thu BHXHBB cũng tăng xấp xỉ gần 200 tỷ, tuy nhiên số
lao động năm 2016 có biến động tăng mạnh so với năm 2013, 2014 và 2015.
Tăng hơn so với năm 2015 là 8.519 lao động. Số lao động tham gia BHXHBB
tăng cao như vậy là do luật sửa đổi bổ sung BHXH có mở rộng các thành
phần, đổi tượng tham gia, không giới hạn số lao động. Có thể nói năm 2016
là năm mà chính sách BHXH thực sự đi vào cuộc sống của người dân, chính
sách mở rộng đối tượng tham gia BHXH đã phát huy tác dụng.Cụ thể:
+ Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ 3 tháng trở lên
+ Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật
NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
+ Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có
hưởng tiền lương
+ Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.
Biểu đồ dưới đây thể hiện rõ nguồn lao động có tham gia BHXHBB
tăng lên kể từ năm 2013 đến năm 2016:
Biều đồ 3.3: Kết quả thu BHXHBB từ 2013 - 2016 của tỉnh Phú Thọ
59
Có thể thấy đối tượng thu và số tiền thu BHXHBB ngày càng tăng. Đây
không chỉ do công tác thu BHXH được quan tâm chú trọng mà còn có sự ảnh
hưởng không hề nhỏ từ nền kinh tế thị trường và đặc biệt từ cơ chế chính sách
của Đảng, NN đưa ra nhằm tăng trưởng nguồn quỹ BHXH tránh được những
thất thu, thất thoát đáng tiếc xảy ra. Qua đó đảm bảo công tác ASXH. Điều
này cũng cho thấy chính sách của Đảng và NN đã và đang đi đúng hướng và
mục tiêu chính sách BHXH đã và đang được mở rộng đến với người lao động.
3.3.3.3. Thực trang công tác quản lý thu nộp BHXHBB
Thực tế hiện nay, khi tiến hành khai thác thu BHXH đối với đơn vị
chưa tham gia BHXH vẫn còn gặp không ít khó khăn, tình trạng nợ đọng
BHXH vẫn còn xảy ra thường xuyên. Tình trạng này diễn ra phổ biến ở các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ngoài công lập thuộc các ngành y tế, văn
hoá, giáo dục và thể thao và gần đây là các loại hình Hợp tác xã, thậm trí các
DNNN cũng sảy ra tình trạng này. Các đơn vị đã kê khai không đúng số lao
động và tổng quỹ lương để làm căn cứ đóng BHXH cho người lao động.
Phương pháp mà BHXH tỉnh, huyện vận dụng hiện nay chủ yếu theo các
bước sau:
- Hàng năm tuỳ thuộc vào số lượng đơn vị mới thành lập (hoặc đã
thành lập nhưng chưa tham gia BHXH) để mở hội nghị tại BHXH tỉnh,
BHXH huyện hoặc cử cán bộ chuyên quản trực tiếp làm việc với đơn vị. Nội
dung tổ chức hội nghị hoặc làm trực tiếp chủ yếu là phổ biến chính sách
BHXH, cung cấp một số văn bản liên quan, hướng dẫn thủ tục đăng ký tham
gia BHXH.
- Sau đó cử cán bộ đôn đốc hoặc ra thông báo yêu cầu đơn vị đăng ký
danh sách đóng BHXH.
Với cách làm này, tỷ lệ đơn vị tham gia BHXH sau khi triển khai thấp
hoặc để đối phó với cơ quan BHXH, đơn vị sử dụng lao động cũng lập danh
sách đăng ký tham gia BHXH nhưng không nộp tiền, hoặc đăng ký với số
60
lượng lao động không đúng với số lao động thực tế, tiền lương làm căn cứ
đóng BHXH cũng thấp hơn so với quy định...
Theo quy định hiện hành cơ quan BHXH thường chấp thuận thời điểm
phát sinh quan hệ BHXH căn cứ vào danh sách lao động tiền lương điều
chỉnh đóng BHXH do đơn vị sử dụng lao động báo cáo kèm theo hợp đồng
lao động đã ký kết và có hiệu lực trước đó. Thực tế, từ khi hợp đồng lao động
có hiệu lực đến khi đơn vị sử dụng lao động báo cáo cho cơ quan BHXH còn
có một khoảng thời gian. Khoảng thời gian này chính là khe hở để khai man
hưởng BHXH khi sảy ra rủi ro đối với người lao động. Trường hợp nữa đó
chính là lao động dài hạn tại đơn vị nhưng đơn vị sử dụng lao động chỉ ký
hợp đồng là Cộng tác viên hoặc hợp đồng lao động có thời gian làm việc dưới
11tháng. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ trích nộp BHXH tại
các đơn vị là thấp hoặc NLĐ có tham gia lao động tại đơn vị nhưng tỷ lệ được
tham gia đóng BHXH là thấp hơn nhiều so với lực lượng lao động thực tế.
Việc đăng ký danh sách tham gia BHXH theo quy định chưa phản ánh
đầy đủ các loại phụ cấp, nếu có tiêu chí này sẽ xác định đúng mức lương làm
căn cứ thu, nộp BHXH. Mặt khác, các đơn vị sử dụng lao động không căn cứ
đúng thời điểm để lập mẫu dẫn đến tình trạng sai lệch số liệu khi tiến hành lập
mẫu đối chiếu quyết toán quý. Mặt khác, khi đăng ký tham gia BHXH phải
xét đến các yếu tố, đặc biệt là các chỉ tiêu định dạng, nhận dạng. Vì theo
phương pháp xác định như hiện nay, việc xác định đối tượng tham gia BHXH
chủ yếu vẫn căn cứ vào đăng ký, danh sách lao động do đơn vị sử dụng lao
động lập. Các chỉ tiêu nhận dạng đối với NLĐ còn chưa đầy đủ như (địa chỉ,
số chứng minh thư nhân dân...), đây là chỉ tiêu quan trong cho việc áp dụng
công nghệ thông tin trong quản lý.
Việc cập nhật các biến động của đối tượng tham gia BHXH cơ bản chặt
chẽ, thống kê, theo dõi được các chỉ tiêu về lao động, tiền lương, tiền BHXH
nhưng vẫn chưa phản ánh hết các chỉ tiêu cần thống kê, mặt khác các mẫu
61
biểu cũng đã gộp khá nhiều các tiêu thức nên khó khăn trong việc lập mẫu đối
với đơn vị sử dụng lao động, dễ sai sót trong phản ánh các chỉ tiêu, quá trình
tính toán để đi đến số liệu rất phức tạp, khó cho việc kiểm tra để ký duyệt,
công tác kiểm tra, thanh tra sau này sẽ gặp khó khăn.
Do số lao động tham gia BHXH là rất lớn, nếu chỉ áp dụng phương pháp
đối chiếu thủ công thì không thể xác định được đầy đủ toàn bộ số lao động tham
gia BHXH theo đúng quy trình đặt ra. Thực tế cho thấy, việc đối chiếu định kỳ
thực hiện được khoảng 75% đến 80% và chủ yếu dựa vào bảng đối chiếu do đơn
vị sử dụng lao động lập. Vì vậy, chưa xác định được chính xác số liệu thu
BHXH do các đối tượng nộp và quá trình tham gia đóng, hưởng BHXH để ghi
và xác nhận trên sổ BHXH. Mặt khác, do công tác đối chiếu không kịp thời dẫn
đến việc phản ánh mức tiền lương làm căn cứ tham gia BHXH, số thu BHXH, số
lao động tham gia BHXH không chính xác, do đó xuất hiện nhiều trường hợp
phải truy thu BHXH, hoặc đến khi giải qyết chế độ BHXH lại thoái thu BHXH
cho NLĐ do thu thừa, thu không đúng đối tượng.
Công tác lưu trữ, thống kê, khai thác số liệu để xác nhận, đối chiếu của
cơ quan BHXH về lao động, tiền lương, thu nộp BHXH, quá trình đóng
BHXH của NLĐ gặp nhiều khó khăn do hệ thống biểu mẫu báo cáo thu ngày
càng nhiều và việc lưu trữ, thống kê khai thác chủ yếu bằng thủ công đã ảnh
hưởng đến công tác giải quyết chế độ cho người lao động.
Việc lập và gửi báo cáo thu BHXH gặp khó khăn. Bởi vì, để lập được
một mẫu biểu báo cáo, cơ quan BHXH phải có đầy đủ các báo cáo của đơn vị
sử dụng lao động, nhưng thực tế quá trình quản lý ở BHXH tỉnh, huyện không
thể có đủ các báo cáo của đơn vị sử dụng lao động để lập. Từ thực trạng này,
buộc BHXH tỉnh, huyện vận dụng bằng cách những đơn vị chưa có báo cáo
thì xem như trong quý báo cáo không có biến động về đối tượng tham gia
BHXH, chỉ cập nhật số tiền BHXH đơn vị đã nộp để lập mẫu. Những quý sau
62
yêu cầu đơn vị phản ánh những biến động của quý trước chưa báo cáo kịp
thời vào các mẫu báo cáo. Công việc này hết sức phức tạp, đòi hỏi cán bộ
chuyên quản thu BHXH phải cùng làm với đơn vị sử dụng lao động để thống
nhất số liệu báo cáo.
3.3.3.4. Tình hình nợ đọng BHXHBB ở BHXH tỉnh Phú Thọ
Theo quy định hàng tháng sau khi thanh toán tiền lương, tiền công cho
NLĐ các đơn vị sử dụng lao động sẽ phải có trách nhiệm nộp đầy đủ, kịp thời
và chính xác số tiền BHXH vào quỹ của BHXH tỉnh. Tuy nhiên thực tế hiện
nay các đơn vị chậm, trốn chây ỳ trong việc nộp BHXH vẫn diễn ra đặc biệt
là khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh là phổ biến. Việc nợ đọng hoặc trốn
nghĩa vụ đóng BHXH của các đơn vị trước hết sẽ làm thất thu nguồn quỹ
BHXH và sau đó là sẽ làm ảnh hương trực tiếp đến quyền lợi của NLĐ vì khi
không tham gia BHXH NLĐ sẽ bị cơ quan BHXH có thẩm quyền từ chối giải
quyết các chế độ chính sách BHXH.
Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi được hưởng của NLĐ
làm việc tại các đơn vị, đồng thời đây là lý do làm suy giảm nghiêm trọng
nguồn thu NSNN. Dưới đây là bảng so sánh tỷ lệ thu BHXHBB và tình trạng
nợ đọng trong toàn tỉnh từ năm 2013 đến năm 2016:
Bảng 3.5: Bảng so sánh tỷ lệ nợ đọng và tổng thu BHXHBB
Đơn vị : Triệu đồng
Năm 2013 2014 2015 2016
BHXHBB phải thu 1.220.000 1.300.000 1.450.000
BHXHBB đã thu 1.038.445 1.251.704 1.352.340 1.549.784
Số tiền nợ đọng 61.839 70.872 76.619 85.525
Tỷ lệ nợ đọng/tổng phải thu 5.96% 5.66% 5.67% 5.52%
Nguồn: Thống kê kết quả thu BHXH, BHYT, BHTN (01 BC)
Phòng quản lý thu BHXH Tỉnh Phú Thọ
63
Qua bảng số liệu cho thấy tình hình nợ đọng BHXH trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ là một vấn đề nan giải. Đặc thù trên địa bàn tỉnh Phú Thọ có nhiều
khu công nghiệp. Tỉnh Phú Thọ có nhiều chế độ ưu đãi đặc biệt nhằm thu hút
các doanh nghiệp. Các đơn vị có số nợ cao chủ yếu là các đơn vị thuộc khối
loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có vốn ngoài
quốc doanh. Tuy các năm số tiền Thu BHXH tăng nhưng tình hình nợ đọng
BHXH lại không giảm. Theo như trong bảng có thể nhìn thấy rõ tỷ lệ nợ
đọng/tổng thu BHXHBB các năm 2013 là 5,96%; 2014 là 5,66%, 2015 là
5,67% và năm 2016 là 5,52%. Năm 2016 tỷ lệ nợ đọng/ tổng thu BHXHBB
có xu hướng giảm chỉ còn 5,52%. Năm 2014 thu vượt kế hoạch là 51,704 tỷ,
Năm 2015 thu vượt kế hoạch là 52,340 tỷ và năm 2016 thu vượt kế hoạch là
99.784 tỷ đồng. Tỷ lệ không tăng cao mà có xu hướng giảm tuy nhiên vẫn ở
mức trên 5%. Có thể thấy số thu BHXHBB năm sau luôn tăng cao hơn năm
trước, luôn vượt kế hoạch đề ra. Điều đáng nói ở đây đó là số tiền thu
BHXHBB có vượt kế hoạch, tỷ lệ nợ đọng trên tổng thu vẫn luôn ở mức trên
5% nhưng số tiền nợ đòng vẫn còn quá cao. BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh,
BHXH huyện thị và các cơ quan có liên quan cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn
nữa nhằm hạn chế tỉ lệ nợ đọng kéo dài, đảm bảo nguồn thu cho NSNN, đảm
bảo quyền lợi cho NLĐ.
Theo số liệu từ phòng quản lý thu BHXH tỉnh Phú Thọ kể từ năm 2014
BHXH tỉnh Phú Thọ giải trình về số liệu thống kê khoản nợ đọng bao gồm
các đơn vị phá sản, giải thể, khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh xin
được chậm nộp, tình hình kinh tế tại địa phương... Trong đó BHXH tỉnh Phú
Thọ báo cáo về BHXH Việt Nam kết quả thu toàn năm 2014 và số tiền nợ
đọng là 70.872 triệu đồng. Do tình hình suy giảm kinh tế, lạm phát tuy đã
giảm nhưng vẫn chưua phục hồi ổn định khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó
khăn trong sản xuất kinh doanh. Một số đơn vị trên địa bàn phải hoạt động
cầm chừng, viẹc làm và thu nhập của NLĐ không ổn định dẫn đến không có
khả năng đóng BHXH đúng hạn. Việc đôn đốc thu còn gặp nhiều khó khăn do
64
không liên lạc được với đơn vị, không tìm thấy địa chỉ đơn vị... Một số đơn vị
chủ yếu là cố tình dây dưa lợi dụng vốn để phục vụ cho mục đích khác. Một
số đơn vị bị khởi kiện do vậy thực tế cũng chưa thu hồi được số tiền nợ đọng.
Năm 2015 BHXH tỉnh Phú Thọ giải trình BHXH Việt Nam số nợ trên
gồm 149 đơn vị Khoanh nợ theo điều 53 QĐ số 1111/QĐ-BHXH với số tiền
nợ trên 18.100 triệu đồng, 15 đơn vị đã khởi kiện tương ứng 29.624 triệu
đồng. Tổng số nợ đọng không có khả năng thu tính đến hết 31/12/2015 là
47.724 triệu đồng. BHXH tỉnh Phú Thọ báo cáo BHXH Việt Nam xem xét trừ
số tiền nợ không có khả năng thu và không tính và số nợ và tỷ lệ nợ của
BHXH tỉnh.
Năm 2016 tổng số tiền nợ trên bao gồm cả số nợ không có khả năng
thu của 127 đơn vị đã Khoanh nợ theo điều 53/QĐ số 1111/QĐ-BHXH với số
tiền nợ là 26.121 triệu đồng, 4 đơn vị không tồn tại và hoạt động, giải thể, phá
sản, chủ sử dựng lao động bị bắt để điều tra (không có người điều hành...) với
số tiền nợ là 33.774 triệu đồng. Tổng số nợ không có khả năng thu tính đến
hết 31/12/2016 là 59.895 triệu đồng. BHXH tỉnh Phú Thọ báo cáo BHXH
Việt Nam xem xét trừ số tiền nợ không có khả năng thu và không tính và số
nợ và tỷ lệ nợ của BHXH tỉnh Phú Thọ.
Số liệu trên đã cho thấy rõ số tiền nợ đọng không có khả năng thu hồi
là quá lớn. Các đơn vị thuộc diện phá sản, giải thể hoặc bị khởi kiện nợ số
tiền BHXH cao do vậy NLĐ ở những đơn vị này đều phải chịu thiệt thòi.
Cùng với đó có thể nhận thấy mức độ quản lý cấp NN chưa có sự hỗ trợ cần
thiết lẫn nhau, chỉ khi không thu được BHXH mới lộ rõ ra những đơn vị giải
thể, phá sản.
Nhìn chung chủ sử dụng lao động trên địa bàn đã nhận thức đầy đủ về
Luật BHXH, đúng về trách nhiệm đăng ký và trích nộp BHXH cho NLĐ của
đơn vị theo luật định. Song vẫn còn một số chủ sử dụng lao động do nhận
thức chưa đầy đủ, chưa thấy hết trách nhiệm trong việc đăng ký tham gia và
trích nộp BHXH cho NLĐ theo Luật định nên còn để nợ đọng kéo dài.
65
Theo đánh giá của cơ quan BHXH có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình
trạng này. Về khách quan, do đặc thù lao động ở các khu công nghiệp luôn
biến động. Tình trạng NLĐ bỏ doanh nghiệp này sang làm cho doanh nghiệp
khác hoặc bỏ về quê tìm việc khá phổ biến. Không ít doanh nghiệp cứ sau
một kỳ nghỉ Tết cổ truyền là mất tới hàng nghìn công nhân, do đó doanh
nghiệp phải tuyển lao động mới, dẫn tới việc có nhiều NLĐ chưa được ký hợp
đồng lao động. Một số doanh nghiệp do đặc thù công việc, muốn tuyển được
công nhân đạt tiêu chuẩn nên cố tình kéo dài thời gian thử việc. Không ít
doanh nghiệp lại tuyển công nhân theo thời vụ hoặc từng công việc cụ thể.
Khi giải quyết xong công việc, họ cho công nhân nghỉ việc, lẩn tránh việc
phải ký hợp đồng lao động với người lao động.
Nguyên nhân khác là trình độ hiểu biết pháp luật, quy định của NN về
lao động của cán bộ trực tiếp làm công tác lao động, tiền lương, chế độ ở các
doanh nghiệp còn yếu. Đồng thời, do hiểu biết còn hạn chế nên không ít NLĐ
thường chỉ quan tâm đến thu nhập thực tế chứ không chú ý tới các chế độ,
chính sách, quyền lợi được pháp luật lao động bảo vệ. Trong khi đó, tổ chức
công đoàn cơ sở ở các doanh nghiệp chưa đủ mạnh để đấu tranh bảo vệ quyền
lợi của NLĐ.
Một số nguyên nhân khách quan nữa là do những năm gần đây do
khủng hoảng kinh tế, một số đơn vị kinh doanh kém hiệu quả, sản phẩm
không tiêu thu được, doanh nghiệp phá sản,giải thể, NLĐ thiếu việc làm, trốn
nộp tiền BHXH.
3.4. Đánh giá chung về thực trạng công tác quản lý thu BHXHBB
3.4.1. Những mặt đã đạt được
Thông qua tình hình thực hiện công tác quản lý thu BHXH đã đóng góp
một phần không nhỏ vào việc hoạch định và hoàn thiện cơ chế chính sách về
BHXH của Đảng và NN đối với cơ quan ban hành pháp luật và các cơ quan
quản lý cấp NN. Việc thực hiện các chính sách BHXH góp phần tạo nên tâm
66
lý ổn định cho các đối tượng tham gia BHXH yên tâm công tác hơn dựa trên
nguyên tắc có đóng có hưởng và chia sẻ rủi ro, đây là môi trường thuận lợi để
chủ trương chinh sách BHXH đi vào từng ngõ ngách cuộc sống. Việc mở
rộng các đối tượng tham gia BHXH giúp cho NLĐ có cơ hội tiếp cận và được
tham gia BHXH ngày càng đông đảo không chỉ ở khối hành chính sự nghiệp,
DNNN mà còn cả ở những doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Luật BHXH 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2016 với những
điểm mới về đối tượng tham gia, cách tính lương hưu, quyền lợi của người
lao động, và mở rộng đối tượng tham gia BHXH đến mọi NLĐ trong các
thành phần kinh tế và các văn bản hướng dẫn thực thi triển khai các biểu mẫu
thống nhất từ trên xuống dưới, từ các đơn vị sử dụng lao động đến các cơ
quan BHXH tại địa phương như Quyết định 959/QĐ-BHXH ban hành về quy
định thu BHXH nhằm tăng cường tính pháp lý cho việc thực hiện chính sách
BHXH... Đồng thời, các Bộ, các ngành đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn,
tổ chức thực hiện để nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện chính sách
BHXH nói chung và công tác quản lý thu BHXH nói riêng.
Các nội dung sửa đổi đều hướng tới bảo đảm tốt hơn quyền về an sinh
xã hội của người lao động và công bằng xã hội, đồng thời có tính đến khả
năng cân đối quỹ BHXH.
Thực hiện công tác quản lý thu BHXH đã nâng cao nhận thức và trách
nhiệm của các ngành, các cấp, các đơn vị sử dụng lao động, NLĐ trong việc
thực hiện chính sách BHXH. Đã có sự phối hợp, quan tâm của các sở ban
nghành có liên quan như Hội đồng nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở
lao động thương binh Xã hội vào cuộc tiến hành tổ chức thanh tra, giải quyết
những vướng mắc trong việc thực hiện các chế độ BHXH đảm bảo quyền lợi
cho người lao động, tạo niềm tin cho người lao động, qua đó tạo điều kiện để
BHXH tỉnh Phú Thọ tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước về BHXH đến người lao động, người sử dụng lao động. Chính
67
vì vậy trình độ hiểu biết của NLĐ nắm bắt về quyền lợi, nghĩa vụ và chế độ
BHXH ngày càng được nâng cao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng
các đối tượng tham gia, gia tăng nguồn thu quỹ BHXH. NLĐ đã biết đòi
quyền lợi hợp pháp được đóng BHXH nhất là trong các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh nên công tác quản lý thu cũng trở nên dễ dàng hơn. Điều này thể
hiện qua kết quả về số đơn vị sử dụng lao động và NLĐ tham gia BHXH ngày
càng tăng.
Theo quyết định 959/QĐ-BHXH và hướng dẫn đi kèm, hệ thống bảng
biểu, số liệu thống kê... về cơ bản đã đồng bộ từ trên xuống dưới, từ cơ quan
đến địa phương. BHXH tỉnh đã có những lớp tập huấn, đào tạo hướng dẫn
nghiệp vụ và có nhân viên chuyên quản hỗ trợ trong việc kê khai tình hình sử
dụng lao động, trích lập nộp tiền BHXH theo quy định áp dụng trong toàn
quốc. Các bước triển khai trong quy trình thu BHXH đã được chuyên môn
hoá, giảm bớt những thủ tục rườm rà, đảm bảo việc chuyển tiền thu một cách
nhanh chóng và có hiệu quả nhất. Đã đưa chương trình, ứng dụng công nghệ
thông tin vào phục vụ công tác kê khai, kiểm tra, quản lý đối tượng, đối chiếu
xác nhận kế quả qua mail gửi trả về khi đã khai nộp thành công bằng cách sử
dụng những phần mềm kê khai của các nhà cung cấp như TS24, Viettel,
VNPT, BKAV...
BHXH tỉnh ngay từ khi giao kế hoạch thu đầu năm cho BHXH huyện
thị tính toán dựa trên cơ sở số lao động và tổng quỹ lương, tình hình thu nợ tại
thời điểm giao kế hoạch nhằm sát với thực tế. BHXH tỉnh yêu cầu BHXH
huyện thị lập kế hoạch thu và báo cáo theo hàng tháng, hàng quý đảm bảo
hoàn thành vượt kế hoạch được giao và đạt kết quả thu cao nhất so với kế
hoạch thu nộp trước dự kiến. Kết quả là trong 3 năm liền BHXH tỉnh luôn
vượt chỉ tiêu thu kế hoạch giao trên 100%.
Bám sát, đôn đốc, nhắc nhở và có văn bản phê bình đối với các đơn vị
chậm, trốn đóng BHXHBB, nợ kéo dài. Tính toán chính xác đến thời điểm
68
gửi văn bản thì số tiền chậm nộp là bao nhiêu và số tiền lãi chậm nộp gửi đến
các đơn vị sử dụng lao động và các cơ quan chủ quản, đơn vị cấp trên và các
sở ban nghành có liên quan yêu cầu phối hợp đôn đốc để truy thu. Gắn liền
với việc giải quyết các chế độ chính sách BHXH của đơn vị đó nhằm tạo sức
ép để đơn vị sử dụng lao động làm tròn trách nhiệm đối với NLĐ và với cơ
quan BHXH. Đồng thời động viên, khuyến kích, hỗ trợ thu đối với những
doanh nghiệp lớn trên địa bàn đi kèm với giải quyết chế độ chính sách, kịp
thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc kịp thời nhằm tạo niềm tin đối với cơ quan
BHXH tỉnh.
Đội ngũ cán bộ BHXH nói chung và bộ phân cán bộ làm công tác thu
BHXH nói riêng đã từng bước được rèn luyện, đào tạo, nắm bắt tốt nghiệp vụ
và các chính sách liên quan đến chế độ BHXH. Có các lớp bồi dưỡng về
chuyên môn nghiệp vụ, được thảo luận và tìm hiểu nắm bắt rõ ràng về các
phần mềm kê khai BHXH giữa nhà cung cấp và cán bộ phụ trách thu, qua đó
lập thành từng nhóm phụ trách thu chuyên quản các đơn vị đồng thời hỗ trợ
lẫn nhau trong công tác đôn đốc, kiểm tra tình hình thu nộp BHXH.
3.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân
BHXH tỉnh Phú Thọ những năm vừa qua đã đạt được những kết quả
khả quan bằng chứng rõ nét nhất là tỷ lệ thu BHXHBB hàng năm luôn đạt
trên mức 100% so với kế hoạch được giao. Tuy nhiên bên cạnh những mặt đạt
được BHXH tỉnh Phú Thọ còn nhiều tồn tại và hạn chế cần phải khắc phục
trong thời gian tới. Cụ thể :
- Tình trạng khiếu nại, tố cáo vi phạm BHXH vẫn diễn ra nhiều và
thường xuyên. Nguyên nhân là do
+ NLĐ không hiểu biết về các chế độ chính sách BHXH, về những
quyền lợi mà mình được hưởng đồng thời những nghĩa vụ phải thực hiện.
+ Giải quyết các chế độ chính sách còn chậm chưa kịp thời do thực
hiện theo quy trình từ trước.
69
- Sát ngày cuối quý kết quả thu nộp BHXH mới tăng đột biến, số thu dự
tính còn có chênh lệch với thực thu. Nguyên nhân như vậy là do:
+ Có nhiều đơn vị SDLĐ chưa chủ động trong công tác trích nộp
BHXHBB mà còn phải có sự nhắc nhở mới nộp. Một số đơn vị cố tình chây
ỳ, tận dụng nguồn quỹ BHXHBB để sử dụng.
+ Kế hoạch thu BHXH còn chưa cụ thể, rõ ràng. Chưa có lộ trình cụ thể
thời gian nào đến thời gian nào phải đạt bao nhiêu phần trăm kế hoạch dẫn
đến có chênh lệch giữa kế hoạch và thực thu. Kế hoạch thực hiện so với thực
tế còn bất cập, chưa sát với thực tế.
- Cán bộ xử lý công việc còn chậm, giải quyết các chế độ chính sách và
thắc mắc của NLĐ, chủ SDLĐ còn hạn chế. Nguyên nhân là do:
+ Tác phong làm việc còn mang dư âm hành chính sự vụ, chưa bám sát
cơ sở, bám sát người lao động, việc giải thích, tuyên truyền vận động còn
chung chung, hiệu quả thấp.
+ Cán bộ làm việc còn nặng thói quen hành chính bao cấp, thiếu biện
pháp và phương thức tổ chức thực hiện, nhiều khi chỉ thực hiện theo mệnh
lệnh hành chính, xử lý sự vụ, chưa quen với tác phong phục vụ. Chưa kịp thời
đúc rút kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn.
+ Cán bộ làm công tác thu BHXH còn yếu về kinh nghiệm quản lý, yếu
về chuyên môn nghiệp vụ, chưa bám sát vào địa bàn nắm bắt tình hình hoạt
động của các đơn vị SDLĐ.
+ Chưa đánh giá, phân tích hết những nguyên nhân tồn tại để tìm biện
pháp tháo gỡ, còn đổ lỗi tại khách quan. Một số địa phương chưa tập trung
điều tra, khảo sát, nắm bắt tình hình và những thông tin cần thiết phục vụ cho
việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH.
- Tỷ trọng người tham gia BHXHBB trên tổng số lao động trong toàn tỉnh
còn thấp, tham gia BHXHBB chỉ ở mức lương tối thiểu. Sở dĩ như vậy là do:
+ Đơn vị sử dụng lao động chỉ tuyển lao động bán thời gian, lao động thời
vụ và cộng tác viên hoặc yêu cầu NLĐ viết tờ khai sẽ tham gia BHXH tự nguyện
70
do vậy họ muốn tham gia đóng BHXHBB nhưng chưa đủ điều kiện hoặc do
doanh nghiệp đang cố tình trốn tránh trách nhiệm đóng BHXH cho NLĐ.
+ Một số đơn vị sử dụng lao động chỉ tham gia BHXHBB cho một bộ
phận, không khai báo hết số lao động thuộc diện bắt buộc tham gia BHXH
+ NLĐ có thu nhập cao tuy nhiên đơn vị sử dụng lao động chỉ khai báo
tham gia BHXHBB cho NLĐ theo mức lương tối thiểu
+ Mặc dù pháp luật quy định bắt buộc các doanh nghiệp, tổ chức cá nhân
khi đăng ký hoạt động sản xuất kinh doanh phải đăng ký lao động với cơ quan lao
động xong rất nhiều đơn vị sử dụng lao động không thực hiện quy định này.
+ Công tác tuyên truyền vận động cho NLĐ hiểu được quyền lợi và
nghĩa vụ của mình khi tham gia BHXH còn chưa đạt hiệu quả cao. NLĐ
nhiều nơi còn chưa biết đòi quyền lợi khi bị đơn vị SDLĐ tham gia BHXHBB
ở mức lương tối thiểu.
+ Do chủ sử dụng lao động cố tình lợi dụng kẽ hở của pháp luật. Nắm được
tâm lý của NLĐ là rất muốn có việc làm, nhiều doanh nghiệp lờ đi việc ký hợp
đồng lao động hoặc kéo dài thời gian thử việc. Trong trường hợp bắt buộc phải ký
hợp đồng lao động, họ tìm cách ghi trong văn bản số lương tối thiểu.
+ Mặc dù pháp luật quy định bắt buộc các doanh nghiệp, tổ chức cá
nhân khi đăng ký hoạt động sản xuất kinh doanh phải đăng ký lao động với cơ
quan lao động, xong rất nhiều doanh nghiệp, tổ chức cá nhân không thực hiện
quy định này mà cũng không bị xử lý.
+ Các cấp ủy chính quyền địa phương năm 2016 vừa qua đã tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kê khai làm thủ tục mở công ty, qua đó
tạo công ăn việc làm cho NLĐ tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở khâu tạo công ăn
việc làm còn vấn đề đảm bảo quyền lợi cho NLĐ được tham gia BHXH còn
chưa được thực sự quan tâm. Trong quá trình đăng ký kinh doanh, đăng ký sử
dụng lao động chưa có quy định phải bắt buộc đăng ký tham gia BHXH cho
NLĐ do vậy khi các doanh nghiệp đi vào hoạt động thì cơ quan BHXH mới
đến vận động chủ doanh nghiệp tham gia BHXH cho người lao động.
71
+ Phương án sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp nhất là khu
vực kinh tế tư nhân mang tính cạnh tranh không ổn định, làm cho NLĐ dễ bị
mất việc làm do nhiều nguyên nhân: do lao động thời vụ, ngắn hạn, do chuyển
đổi loại hình kinh doanh... làm cho NLĐ có cảm giác bất an, không định
hướng được việc làm trong tương lai. Khu vực này thu hút nhiều lao động phổ
thông, chưa qua đào tạo, chưa có tay nghề nên việc làm không ổn định, thay
đổi thường xuyên nơi làm việc. Mặt khác, phần lớn doanh nghiệp khu vực
kinh tế tư nhân mới thành lập, chưa thích nghi với cơ chế thị trường, tính cạnh
tranh từng mặt hàng, từng doanh nghiệp thấp, sản phẩm sản xuất ra giá thành
cao, tiêu thụ chậm, làm ăn kém hiệu quả, thu nhập của NLĐ thấp cũng là
nguyên nhân làm cho đơn vị sử dụng lao động và NLĐ không mặn mà với
việc tham gia BHXH.
- Nhiều đơn vị SDLĐ không có khả năng trích nộp BHXHBB, trích nộp
không đầy đủ. DN cố tình chây ỳ không trích nộp BHXHBB. Nguyên nhân là:
+ Có nhiều đơn vị SDLĐ nằm trong tình trạng chờ phá sản, giải thể nhưng
sự phối hợp giữa các cơ quan nhằm thu kịp thời số tiền BHXHBB còn chưa đóng
để đảm bảo quyền lợi cho NLĐ đã làm việc tại đơn vị đó còn hạn chế
+ Sự phối hợp giữa các cơ quan liên nghành để kiểm tra đơn vị SDLĐ
còn hạn chế, ít có sự phối hợp mà chỉ thực hiện riêng.
+ Các cơ quan có thẩm quyền như Tòa án, Viện kiểm sát, Công an chưa
có những hành động mạnh tay mang tính răn đe đối với đơn vị không chấp
hành đầy đủ nghĩa vụ tham gia BHXHBB cho NLĐ, cố tình trốn tránh việc
trích lập BHXHBB, lạm dụng ngân quỹ BHXH.
+ Một số doanh nghiệp cố tình dây dưa, lợi dụng vốn đế phục vụ cho
mục đích khác, chế tài xử phạt chưa đủ mạnh, tính pháp lý chưa nghiêm, lãi
chậm nộp thấp chỉ tương đương với tiền lãi vay ngân hàng do đó các doanh
nghiệp cố tình chậm nộp để tận dụng nguồn vốn thay vì phải làm thủ tục vay
lãi ngân hàng.
+ Tình hình suy giảm kinh tế, lạm phát tuy đã giảm nhưng vẫn chưa
phục hồi ổn định khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuát, kinh
72
doanh. Một số doanh nghiệp trên địa bàn vẫn phải hoạt động cầm chừng, việc
làm và thu nhập của NLĐ không được ổn định dẫn dến không có khả năng
đóng BHXH đúng hạn.
+ Mặt khác một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang nằm trong
tình trạng chờ phá sản, chờ bán, khoán cho thuê dẫn đến tình trạng nợ đọng
kéo dài, chậm đóng BHXHBB gây ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch thu.
- Mô hình quản lý thu còn có nhiều bất cập. Nguyên nhân là do:
+ Việc xử lý những khó khăn vướng mắc trong quá trình thu còn hạn
chế. Cơ quan BHXH xử lý vướng mắc và giải quyết vấn đề còn chậm.
+ Mô hình quản lý còn lỏng lẻo, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa
các cấp. Văn bản ban hành, hướng dẫn từ BHXH Việt Nam gửi xuống thì
BHXH tỉnh chuyển tiếp nguyên văn mà chưa có sự xử lý hướng dẫn cụ thể
tiếp theo xuống cấp dưới.
+ Chưa có cán bộ phụ trách chuyên sâu nghiệp vụ nhằm hỗ trợ qua lại
lẫn nhau khi gặp phải khó khăn vướng mắc mà chỉ phân việc chung chung
giống như nhau nhưng phụ trách khu vực khác nhau.
- Ứng dụng CNTT vào quá trình quản lý thu BHXHBB còn chậm và
chưa đồng bộ. Nguyên nhân như vậy là do:
+ Máy móc thiết bị được trang bị còn chưa đầy đủ, dữ liệu NLĐ chuyển từ
ghi chép thủ công bằng tay sang sao lưu vào máy còn chưa đồng bộ.
+ Các cán bộ còn chưa quen sử dụng phần mềm mới, vừa học vừa làm
dẫn đến tình trạng triển khai làm việc chậm tiến độ.
+ Chưa ứng dụng được toàn bộ dữ liệu các khâu vào phần mềm CNTT
mà còn một vài khâu như sổ thẻ vẫn phải làm thủ công.
+ Kinh phí đầu tư, đào tạo trong lĩnh vực CNTT còn hạn chế. Không phải
cán bộ nào cũng được đi học đào tạo thành thạo cách sử dụng, xử lý phần mềm.
73
- Động viên khuyến khích còn hạn chế. Nguyên nhân là do:
+ Mới chỉ dừng ở mức động viên khuyến khích cán bộ trong cơ quan
BHXH mà còn thiếu đến những đơn vị tham gia BHXHBB.
+ Các đơn vị SDLĐ luôn chấp hành tốt mọi quy định về luật BHXH,
đóng đủ kịp thời việc động viên khuyến khích chưa cụ thể. Chưa có nhiều bằng
khen, giấy khen về việc tham gia BHXHBB cho NLĐ. Thiếu sự kết hợp với báo
đài để khuyếch chương lên thông tin đại chúng, tăng uy tín của đơn vị.
74
Chương 4
GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ
THU BHXH BẮT BUỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
4.1. Quan điểm, định hướng, mục tiêu quản lý thu BHXHBB tại tỉnh
Phú Thọ
4.1.1. Quan điểm
BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của
NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng
vào quỹ BHXH. Để NLĐ an tâm trong công việc, phát huy những khả năng
của mình cần phải có sự chia sẻ những rủi ro từ cộng đồng và NLĐ phải là hạt
nhân trong cộng đồng đó dựa tren nguyên tắc có đóng có hưởng, đóng nhiều
hưởng nhiều đóng ít hưởng ít và không tham gia thì không được hưởng. Tuy
nhiên việc tham gia đóng BHXH dựa trên mức đảm bảo đầy đủ những nhu
cầu thiết yếu của NLĐ khi gặp khó khăn đồng thời không làm ảnh hưởng quá
nhiều dẫn đến việc phân hóa đẳng cấp trong sinh hoạt của những người cùng
hưởng các chế độ BHXH.
Đối với các cá nhân, tổ chức sử dụng lao động đều phải tuân thủ pháp
luật của Việt Nam, thực hiện đầy đủ những quy định về trích lập, đóng BHXH
cho NLĐ theo quy định. Việc giám sát, theo dõi của BHXH các cấp phải thực
hiện thường xuyên, liên tục để phát hiện những vi phạm nhằm có những biện
pháp răn đe nghiêm khắc những đối tượng không chấp hành đúng quy định
của pháp luật.
Phải coi BHXHBB là quyền lợi và nghĩa vụ đối với NLĐ và chủ sử
dụng lao động. Nhà nước là đơn vị đưa ra chủ trương, chính sách để đảm bảo
quyền lợi cho người tham gia đồng thời đảm bảo quyền, nghĩa vụ, tính công
bằng giữa các đơn vị có sử dụng lao động.
75
Hoàn thiện quy trình, cải cách thủ tục hành chính nhằm giảm bớt các
khâu trung gian để công việc diễn ra thuận lợi. Lược bỏ những quy định cũ,
thủ tục rườm rà. BHXH tỉnh nhận văn bản tuy nhiên trước khi chuyển tiếp
đến BHXH tuyến huyện thị cấp dưới phải sơ lược tóm tắt những yêu cầu cụ
thể và công việc cần nắm, quy trình cần thực hiện. Tránh tình trạng chuyển
tiếp nguyên văn những quy trình, hướng dẫn từ BHXH Việt Nam xuống thẳng
BHXH huyện thị, gây ra mất thời gian, chậm tiến độ triển khai trong quá trình
thực hiện công việc.
Thủ tục hồ sơ phải được công khai, phát huy tối đa hiệu quả của quy
chế một cửa, hướng dẫn, trả lời những khó khăn vướng mắc của người lao
động, của đơn vị sử dụng lao động để họ yên tâm công tác. Thường xuyên
kiểm tra, đánh giá mức độ hoàn thành công việc để bồi dưỡng thêm đối với
những cán bộ còn yếu chuyên môn nghiệp vụ có cơ hội trau dồi, bổ sung kiến
thức nghiệp vụ.
Tập trung nguồn lực tối đa thực hiện công tác thu BHXHBB đảm bảo
thu đúng, thu đủ, thu kịp thời. Hạn chế đến mức thấp nhất có thể việc trốn
đóng BHXH, nộp chậm nộp muộn của các đơn vị dễ dẫn đến tình trạng thất
thu quỹ BHXH.
4.1.2. Định hướng
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về chính sách ASXH, áp
dụng các chế độ BHXH cho mọi NLĐ đều có quyền được tham gia thì việc
xây dựng và phát triển nguồn quỹ BHXH nhằm đảm bảo đủ năng lực và điều
kiện thực hiện các chế độ BHXH qua đó nâng cao chất lượng, hiệu quả phục
vụ, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hiện đại hóa và hội nhập quốc tế càng phải
được quan tâm và chú trọng.
BHXH tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 đã đặt ra
những mục tiêu nhằm thực hiện thu đúng, thu đủ đồng thời gia tăng nguồn
quỹ bằng những định hướng cụ thể từ khâu lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và
đôn đốc, giám sát kiểm tra. Cụ thể:
76
- Thực hiện có hiệu quả cải cách thủ tục hành chính dựa trên những văn
bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về BHXH theo hướng rút gọn, đồng
nhất thủ tục từ trên xuống dưới, giữa các huyện với nhau. Tổ chức thực hiện
tốt các chính sách, chế độ BHXH theo quy định của Luật BHXH. Hoàn thành
chỉ tiêu nhiệm vụ thu BHXH được Chính phủ giao hàng năm.
- Chăm lo thực hiện tốt các chính sách, chế độ đối với người tham gia
và thụ hưởng BHXH, BHYT. Tất cả các cá nhân, đơn vị không đóng
BHXHBB hoặc đóng chậm đều bị xử lý và không được giải quyết các chế độ
BHXH. Không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ để đáp ứng ngày một tốt
hơn nhu cầu của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia và thụ
hưởng các chế độ BHXH, BHYT.
- Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho các cán bộ nhất là các
cán bộ làm công tác thu. Giao việc cho từng cán bộ thu, phân công người tốt
hướng dẫn kèm cặp người còn yếu về nghiệp vụ.
- Chú trọng công tác tuyên truyền các chính sách, chế độ đãi ngộ đến
cho tất cả các lao động để họ hiểu về quyền và nghĩa vụ của mình khi tham
gia. Đồng thời cần có sự phối hợp giữa các ban nghành, báo đài nhằm tăng
các kênh thông tin đến với người lao động.
- Trong quá trình thực hiện công tác thu BHXH sẽ phát hiện những thiếu
sót, khó khăn từ đó thực hiện thay đổi, củng cố và hoàn thiện mô hình thu BHXH
đảm bảo tính chính xác, nhanh chóng và gia tăng nguồn ngân quỹ BHXHBB. Đổi
mới, hoàn thiện và thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc chấp hành quy chế, lề lối
làm việc của cán bộ, công chức, viên chức thuộc hệ thống BHXH.
4.1.3. Mục tiêu
Mục tiêu lớn nhất của BHXH tỉnh Phú Thọ đến năm 2020 tổng thu
BHXH xấp xỉ đạt 5.500 tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 2015. Trong đó số
thu BHXHBB là 3.500 tỷ đồng, tăng gấp ba lần so với năm 2015.
Ngày càng gia tăng số lao động tham gia BHXHBB trong mọi lĩnh vực,
mọi nghành nghề. Dần đưa BHXHBB vào là yêu cầu bắt buộc cho mỗi doanh
nghiệp khi có sử dụng lao động.
77
Công tác quản lý thu BHXHBB có ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan
trọng trong việc đảm bảo thực thi các chính sách ASXH thông qua việc thụ
hưởng, đảm bảo các quyền lợi, chế độ của người tham gia BHXH.
Để đạt được mốc thu quỹ BHXHBB đến năm 2020 đạt 3.500 tỷ đồng
thì BHXH tỉnh Phú Thọ cũng cần phải đặt ra những mục tiêu nhỏ trong lộ
trình thực hiện của mình như tăng được tỷ lệ doanh nghiệp tham gia
BHXHBB, tăng được số lao động tham gia và mức lương trích nộp
BHXHBB, từ đó có được nhiều người hưởng chế độ của BHXH hơn, số tiền
mà họ chia sẻ với cộng đồng cũng như họ được hưởng cao hơn, khi NLĐ đến
tuổi hưu, cũng không tạo nên gánh nặng cho xã hội.
Tạo lập mối quan hệ 3 bên: Người lao động, chủ sử dụng lao động và
cơ quan BHXH có sự giám sát lẫn nhau từ đòng làm cơ sở cho việc thực hiện
các chế độ BHXH theo quy định. Từ đó đưa ra các biện pháp để đơn vị sử
dụng lao động không tránh né nộp BHXHBB cho người lao động. Đảm bảo
quyền lợi cho NLĐ được hưởng các chế độ BHXH.
4.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXHBB trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ
BHXH là chính sách lớn, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã
hội, chứa đựng cả nội dung kinh tế, nội dung xã hội và nội dung pháp lý. Để
đảm bảo thực hiện hài hòa các nội dung nói trên và đạt được mục tiêu mà
BHXH đặt ra thì việc thực hiện thu BHXH trước hết là trách nhiệm của NN.
Nhà nước là người trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và quản lý toàn bộ sự nghiệp
BHXH thông qua việc ban hành các quy định pháp luật về BHXH và kiểm tra
thực hiện các quy định đó. Mặt khác, quỹ BHXH với ý nghĩa là một quỹ tích lũy
hình thành trên cơ sở đóng góp của ba bên (Nhà nước - người sử dụng lao động -
người lao động), nhằm giúp đỡ về mặt vật chất cho NLĐ khi họ gặp rủi ro, khó
khăn không chỉ khi đang tham gia quan hệ lao động. Do đó bên cạnh nghĩa vụ
đóng phí bảo hiểm cho các chủ thể tham gia quan hệ lao động thì NN có trách
78
nhiệm hỗ trợ quỹ BHXH và trong trường hợp cần thiết NN có các biện pháp để
bảo toàn giá trị quỹ, đảm bảo sự an toàn về tài chính cho quỹ BHXH.
Nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXHBB trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ đồng thời có các hình thức làm tăng trưởng nguồn thu BHXHBB tiến tới
đến năm 2020 đạt khoảng 5.500 tỷ và hạn chế tối đa tình trạng trốn nộp, nộp
muộn BHXHBB thì BHXHBB cần phải có những giải pháp phù hợp, cụ thể.
Qua nghiên cứu, phân tích các số liệu thống kê niên giám hàng năm và dựa
vào tình hình thực tế của BHXH tỉnh Phú Thọ, trong bài luận văn của mình
tôi mạnh dạn đề ra những giải pháp thích hợp để tăng trưởng nguồn quỹ thu
BHXHBB trong thời gian sắp tới.
4.2.1. Cải cách thủ tục hành chính
* Công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại:
Hiện nay, tình trạng khiếu nại, tố cáo vi phạm BHXH (chủ yếu là khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh và cơ sở ngoài công lập) diễn ra khá nhiều và sẽ
ngày càng tăng lên khi NLĐ không hiểu chế độ chính sách BHXH. Đây là dấu
hiệu buộc BHXH tỉnh Phú Thọ và các cơ quan chức năng của NN phải quan
tâm hơn nữa vấn đề này. Vì vậy, công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố
cáo phải làm thật tốt để góp phần đưa hoạt động BHXH vào kỷ cương, pháp
luật, đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền lợi cho người lao động. Cơ quan kiểm
tra pháp chế của BHXH một mặt phải thực sự làm chổ dựa pháp lý và tinh
thần cho người lao động. Mặt khác, phải tạo ra sức ép cần thiết đến giới chủ
sử dụng lao động buộc họ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ BHXH. Cụ thể:
+ Phải xây dựng hệ thống tổ chức tiếp dân và giải quyết khiều nại, tố
cáo từ cấp quận, huyện lên thành phố, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cơ
qua thanh tra NN, thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, thanh
tra công đoàn, viện kiểm sát, tòa án...để cùng làm tốt công tác này.
+ Phải giải đáp kịp thời, thỏa đáng cho người lao động, giải quyết ngay
khi NLĐ đang làm việc và cả khi đã thôi việc, đặc biệt làm cho NLĐ hiểu đây
79
là một quyền lợi hợp pháp, được pháp luật bảo hộ và tư vấn cho họ cách thức
để tự bảo vệ quyền lợi của mình.
+ Thông tin kết quả công tác giải quyết thắc mắc khiếu nại, tố cáo trên
báo, đài để tạo sự hỗ trợ tinh thần, tư tưởng cho người lao động, chỉ rõ nguy
cơ tiềm năng ẩn lâu dài của sự vi phạm và nghĩa vụ không thể trốn tránh của
doanh nghiệp.
+ Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, phải nhận thức được mục
tiêu cụ thể là giải quyết khiếu nại, tố cáo của cá nhân người lao động, những
mục tiêu bao trùm, thông qua đó cơ quan BHXH và các cơ quan chức năng
của Nhà nước biết và giải quyết được những vấn đề còn tồn tại, hạn chế của
chế độ chính sách BHXH ở từng đơn vị thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh và cơ sở ngoài công lập cũng như trên phạm vi toàn xã hội.
Như vậy, tổ chức công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo được kịp
thời góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng về BHXH cho NLĐ đồng thới tạo sức
ép về dư luận đối với giới chủ trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH.
* Tạo điều kiện trong thanh toán, giải quyết chính sách cho đối tượng.
Trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay, nhu cầu BHXH rất đa dạng, mọi NLĐ thuộc các thành phần kinh tế đều
có quyền tham gia và hưởng BHXH. Vì vậy, chính sách BHXH cần phải đa
dạng, đồng bộ, kịp thời để đáp ứng được các nhu cầu và đảm bảo bình đẳng
về quyền lợi giữa những NLĐ trong các thành phần kinh tế. Một vấn đề nữa
về cơ chế là, trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ phát triển với tốc
độ nhanh, việc sử dụng thẻ thông minh (các điện tử) trong các quan hệ giao
dịch, thanh toán và cả trong khâu quản lý được áp dụng rộng rãi tại nhiều
quốc gia trên thế giới. Để phù hợp với xu thế chung của thời đại và tạo điều
kiện cho công tác quản lý, thuận tiện cho NLĐ sử dụng, cần thiết phải có
những quy định mang tính chiến lược lâu dài, cần thiết quy định một loại
hình công cụ quản lý về BHXH chung phù hợp. Đồng thời cơ chế nộp tiền
80
tham gia BHXH và thanh toán các chế độ về BHXH được quy định rộng
hơn, có thể trong phạm vi toàn quốc, ở nơi nào, khi nào NLĐ thấy thích hợp.
Với một số vấn đề nêu trên, cần thiết phải thực hiện các vấn đề sau để tạo
điều kiện trong thanh toán, giải quyết chính sách cho đối tượng:
+ Tập trung đầu mối quản lý, đơn vị sử dụng lao động có thể hoạt động
sản xuất kinh doanh ở nhiều địa bàn khác nhau, sử dụng lao động ở nhiều địa
phương khác nhau nhưng chỉ phải kê khai, đăng ký đóng BHXH ở một nơi.
Cơ quan BHXH cấp sổ BHXH cho NLĐ thông qua việc quản lý của đơn vị
SDLĐ chỉ ở một nơi. Chỉ khi nào NLĐ chuyển sang đơn vị SDLĐ khác mới
phải làm thủ tục di chuyển sổ BHXH.
+ NLĐ ngay sau khi đăng ký tham gia BHXH đồng thời kê khai đầy đủ
các tiêu chí và nội dung đã được hoàn thiện theo yêu cầu đảm bảo cho việc
cấp sổ BHXH và giải quyết các chế độ BHXH sau này.
+ Quy trình giải quyết chế độ BHXH cho NLĐ khi nghỉ hưu, tuất, có
thể rút gọn lại, chỉ cần ở khâu cuối cùng là các giấy tờ liên quan đến việc nghỉ
hưu, tuất như đơn của người lao động, giấy chứng tử, Quyết định cho nghỉ
hưu (một lần hoặc dài hạn) của đơn vị SDLĐ, Quyết định hưởng của cơ quan
BHXH (theo phân cấp) và sổ BHXH là đủ. Đồng thời khâu gửi hồ sơ lên
BHXH Việt Nam để kiểm tra, thẩm định lại hồ sơ, lý lịch của NLĐ cũng
không cần thiết. Cơ quan BHXH Việt Nam lúc này chỉ kiểm tra việc giải
quyết chế độ cho NLĐ của BHXH có đúng hay không.
* Hoàn thiện quy trình giải quyết chế độ BHXH bằng sổ BHXH:
Trước hết, chúng ta nhận thức được rằng việc giải quyết hưởng chế độ
BHXH cho NLĐ là việc thực hiện chính sách của Nhà nước, là quyền lợi của
mọi NLĐ khi tham gia BHXH đã được pháp luật bảo vệ. Mặt khác, trong quá
trình làm việc và tham gia BHXH của NLĐ theo quy định của pháp luật, luôn
luôn có sự kiểm tra, giám sát của cả ba bên liên quan là người lao động, người
sử dụng lao động và cơ quan BHXH. Điều đó được thể hiện bằng việc xác
81
nhận của từng bên trên sổ BHXH, từ khi kê khai, xét duyệt ban đầu, trong quá
trình làm việc và tham gia BHXH ở từng giai đoạn, từng thời kỳ, cũng như
khi giải quyết các chế độ về BHXH. Điều đó cho thấy sổ BHXH đã đảm bảo
đầy đủ điều kiện và căn cứ pháp lý theo yêu cầu của công tác quản lý nói
chung, công tác quản lý tài chính nói riêng.
Nếu vậy, quy trình giải quyết chế độ BHXH cho NLĐ khi nghỉ hưu,
tuất, có thể rút gọn lại, chỉ cần ở khâu cuối cùng là các giấy tờ liên quan đến
việc nghỉ hưu, tuất như đơn của người lao động, giấy chứng tử, Quyết định
cho nghỉ hưu (một lần hoặc dài hạn) của đơn vị sử dụng lao động, Quyết định
hưởng của cơ quan BHXH (theo phân cấp) và sổ BHXH là đủ. Không cần
phải các bản xác nhận quá trình tham gia BHXH, tờ khai hoàn cảnh gia đình
như hiện nay. Đồng thời khâu gửi hồ sơ lên BHXH Việt Nam để kiểm tra,
thẩm định lại hồ sơ, lý lịch của NLĐ cũng không cần thiết. Cơ quan BHXH
Việt Nam lúc này chỉ kiểm tra việc giải quyết chế độ cho NLĐ của BHXH
cấp dưới đúng hay sai mà thôi.
Với quy trình giải quyết chế độ BHXH như vậy, giảm bớt nhiều về thủ
tục giấy tờ: giảm việc NLĐ phải kê khai, giảm kê khai xác nhận của đơn vị sử
dụng lao động, giảm khâu thẩm định và xét duyệt trên tờ khai của cơ quan
BHXH. Về thời gian xét duyệt cũng sẽ rút ngắn hơn không phải gửi hồ sơ, lý
lịch về BHXH Việt Nam thẩm định lại, NLĐ và người sử dụng lao động
không phải chờ đợi lâu (theo quy định hiện nay là một tháng); đồng thời về
mặt tổ chức, nhân sự cũng vì thế mà giảm nhẹ được.
4.2.2. Đề ra lộ trình thực hiện kế hoạch
Tổ chức thực hiện BHXH một cách khoa học với tinh thần trách nhiệm
của những cán bộ thu nói riêng cũng như tất cả các cán bộ BHXH tỉnh nói
chung luôn là hoàn thành xuất sắc, vượt dự tính số thu, năm sau cao hơn năm
trước với tốc độ tăng cao. Để hoàn thành kết quả được giao cần phải lên kế
hoạch cụ thể và từng bước đưa kế hoạch vào lộ trình thực hiện.
82
Việc lên kế hoạch và thực hiện thu kế hoạch là hết sức quan trọng trong
việc hoàn thành nhiệm vụ thu quỹ BHXHBB trên từng địa bạn, theo từng khu
vực. Việc chia lộ trình để thực hiện kế hoạch là hết sức hợp lý, khi nhìn vào lộ
trình thực hiện BHXH các cấp sẽ bớt thấy lo khi nhìn vào con số quá lớn.
Việc thực hiện này đảm bảo việc theo dõi nộp BHXH của từng đơn vị chính
xác, xác định được việc chậm nộp, trốn nộp BHXH của từng đơn vị có sử
dụng lao động.
Đối với BHXH cấp tỉnh, sau khi giao kế hoạch thu đầu năm cho BHXH
huyện thị và Phòng thu xong sẽ chia giai đoạn thực hiện kế hoạch thu thành 4
giai đoạn tương đương với 4 Quý để lấy báo cáo từ đơn vị cấp dưới. BHXH
huyện thị và Phòng Thu sau khi nhận kế hoạch sẽ phân bổ kế hoạch thu theo
12 tháng cho cán bộ thu. Việc lấy báo cáo theo quý sẽ giúp cho BHXH tỉnh
nắm được con số tình hình thu tại địa bàn đồng thời có cách hỗ trợ BHXH các
cấp dưới nếu như có nguy cơ không hoàn thành kế hoạch đồng thời nắm được
con số các đơn vị chây ỳ trên địa bàn để có cách xử lý vi phạm. Trong 4 giai
đoạn theo dõi các đơn vị trích nộp BHXH, BHXH tỉnh sẽ căn cứ vào kết quả
nộp để tính toán cho giai đoạn tiếp theo đảm bảo việc thu đủ, hạn chế tối đa
tình trạng nộp muộn và trốn nộp BHXH. Trong các giai đoạn thì 2 giai đoạn
đầu tiên tương đương với Quý I, Quý II BHXH tỉnh sẽ có kế hoạch thu triệt
để, thu tối đa nhằm tránh việc dồn cuối năm khi mà các đơn vị sử dụng lao
động không kịp thu tiền hang trả chậm từ việc kinh doanh của mình đồng thời
cuối năm là giai đoạn thường chi tiêu nhiều hơn.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch thu BHXH công tác đánh giá tình
hình kết quả thu và khả năng thu, truy thu là yếu tố quyết định đến việc đảm
bảo hoàn thành kế hoạch thu được giao hay không. Nếu việc đánh giá kết quả
thu không hiệu quả sẽ dẫn đến việc thu nộp muộn từ các đơn vị, không đảm
hoàn thành kết quả thu được giao.
83
4.2.3. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn
Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tại BHXH tỉnh làm việc vẫn
mang tính thụ động, một số cán bộ vẫn chưa năng động, sáng tạo trong xử lý
nghiệp vụ. Cán bộ thu chỉ biết thực hiện tính toán số tiền nộp tiền BHXH dựa
trên bảng lương tăng, giảm lao động của đơn vị chuyển đến hàng tháng chứ
không chủ động kiểm soát được đơn vị có trốn tránh tiền BHXH hay không.
Việc trốn tránh tiền nộp BHXH là kết quả kiểm tra liên ngành mới phát hiện
được, BHXH chỉ có chức năng kiểm tra đơn vị về số lao động, quỹ lương, chế
độ chính sách...trong khi các doanh nghiệp hàng tháng lại có nhiều biến động
rất nhiều về số lao động đặc biệt là những doanh nghiệp ngoài quốc doanh,
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, những doanh nghiệp này chủ yếu là
tuyển lao động có trình độ hết lớp 12 thậm chí có doanh nghiệp còn tuyển lao
động từ đủ 18 tuổi và chỉ cần học hết lớp 9. Trình độ của những lao động này
đã thấp, tiền lương chủ sử dụng lao động trả cũng thấp nên họ chỉ nghĩ đến cái
lợi trước mắt chứ không nghĩ đến cái lợi lâu dài nên mặc cho chủ sử dụng lao
động chiếm dụng tiền BHXH. Đến khi họ xảy ra các rủi ro như: Ốm đau, tai
nạn lao động... thì công ty lại trích một số tiền ít ỏi để thăm hỏi và gọi đó là
tiền chế độ.
Theo quy định thì kể từ khi NLĐ vào làm việc thì sau 30 ngày chủ sử
dụng lao động phải làm xong các thủ tục về BHXH như: Sổ BHXH, thẻ
BHXH nhưng trên thực tế có những đơn vị với rất nhiều lý do (bận việc, đơn
vị nhiều lao động, công việc quá tải, không phải là cán bộ chuyên trách mà
chủ yếu là kiêm nhiệm, rồi thủ tục làm BHXH rườm rà, chưa kịp hoàn thiện
thủ tục BHXH thì NLĐ đã nghỉ việc...) nên rất nhiều những lao động làm việc
tại công ty trong thời gian dài mà khi thôi việc mới nhận ra làm mình không
được đóng tiền BHXH. Lúc này lại chỉ biết đến cơ quan BHXH để phản ánh
nhưng trên thực tế về mặt quản lý cơ quan BHXH chỉ có quyền tham mưu và
có trách nhiệm thu tiền BHXH đầy đủ thôi, còn quyền lợi lao động được đóng
84
tiền BHXH lại chịu sự quản lý của Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Liên
đoàn lao động tỉnh. Có rất nhiều NLĐ đến phản ánh với cơ quan BHXH vì
việc trốn tránh tiền nộp BHXH của chủ sử dụng lao động đối với họ nhưng
cán bộ thu BHXH chỉ biết hướng dẫn họ sang Sở Lao động Thương binh và
Xã hội cơ quan quản lý trực tiếp người lao động. Đây là điểm bất cập làm cho
cán bộ thu tại BHXH tỉnh càng cảm thấy mình hoàn toàn mang tính thụ động,
cán bộ thu chỉ đi đôn đốc thu dựa trên khai báo tự giác của đơn vị đối với cơ
quan BHXH mà thôi.
Vì vậy, để cán bộ, công chức viên chức làm công tác thu BHXH nhận
thức được tầm quan trọng, vai trò của mình thì BHXH tỉnh Phú Thọ và các
Sở, Ban, Ngành trong tỉnh Phú Thọ cần phải làm những công việc sau:
+ Trước tiên BHXH tỉnh Phú Thọ nâng cao trình độ nghiệp vụ và tác
phong làm việc tích cực, hiệu suất cao của các cán bộ chuyên môn. Khả năng
làm việc và hiệu quả lao động của đội ngũ cán bộ trong ngành và của những
người cộng tác với cơ quan BHXH có ảnh hưởng quyết định đến việc quản lý
các đối tượng tham gia BHXH. Vì vậy cần phải chú ý công tác đào tạo lại cho
phù hợp. Trong đào tạo cần xác định hình thức và nội dung đào tạo sát thực,
nên tập trung vào nghiệp vụ BHXH, kỹ năng, năng lực quản lý.
+ Cần bổ sung, kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý, cán bộ từ tỉnh đến
thành phố, huyện, thị. Xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ
chuyên làm công tác thu, chi nói riêng vừa hồng vừa chuyên, có phẩm chất
chính trị tốt (có tâm, có tầm, có tình, có tín); vững về lập trường tư tưởng, yên
tâm công tác, yêu nghành, yêu nghề; giỏi về chuyên môn nghiệp vụ; nắm chắc
chính sách chế độ của Đảng và Nhà nước (nói đúng, viết đúng, lãnh đạo
đúng); có ý thức trách nhiệm trong công việc, có năng lực chỉ đạo điều
hành,có ý thức tổ chức kỷ luật trong lao động, khả năng giao tiếp, am hiểu về
công nghệ thông tin. Bố trí những cán bộ, công chức có đủ năng lực, trình độ,
phong cách và thái độ phục vụ tốt vào các bộ phận tiếp nhận, giải quyết các
85
công việc, đặc biệt là trực tíêp làm việc với đối tượng hưởng chế độ BHXH.
Mọi khúc mắc của đối tượng phải được giải thích rõ ràng, thấu tình, đạt lý,
tránh tình trạng tùy tiện, đại khái qua loa.
Tăng cường đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức về các mặt ở trong và ngoài nước; đồng thời khuyến khích phong trào tự
học bằng nhiều hình thức để nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp
vụ, quản lý Nhà nước, tin học, ngoại ngữ, về công tác xã hội trong đó hướng
trọng tâm vào các kiến thức chuyên ngành BHXH , quản lý ngành theo cơ chế
mới và các kỹ năng hành chính, nghiệp vụ khác.
Xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành quy định cơ cấu chức
danh cho từng cấp, từng đơn vị và hệ thống tiêu chuẩn nghiệp vụ đầy đủ riêng
cho công chức của ngành làm căn cứ để tuyển dụng, góp phần tích cực vào
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của ngành.
Tiếp tục xây dựng và thực hiện chính sách phù hợp để thường xuyên
thay thế, đưa ra khỏi ngành số cán bộ, công chức không đủ năng lực, trình độ
bất cập với yêu cầu nhiệm vụ, những người vi phạm pháp luật, vi phạm đạo
đức nghề nghiệp, thoái hóa, biến chất, kém ý thức tổ chức kỷ luật để tạo điều
kiện đổi mới, trẻ hóa, tuyển chọn được những người có đức có tài...
Cùng với nâng cao trình độ cho cán bộ, nhân viên ngành BHXH là tăng
cường trang thiết bị hiện đại trong các hoạt động. BHXH là một ngành mới ra
đời lại đang được sự giúp đỡ quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự giúp đỡ
nhiều mặt của các tổ chức và quốc gia trên thế giới...cho nên ngành BHXH
nên tận dụng lợi thế này để phát triển, hiện đại hoá các hoạt động BHXH,
trong đó áp dụng công nghệ tin học vào quản lý BHXH. Giúp đẩy công tác
quản lý lên một bước, không chỉ đảm bảo trên phương diện thống kê, lưu trữ
mà nó còn phục vụ cho việc tác nghiệp xử lý công việc và thông tin nhanh
chóng, chính xác, giảm bớt những thao tác không cần thiết, tạo thời gian cho
cán bộ chuyên tâm nghiên cứu nghiệp vụ.
86
Việc quản ký, lưu trữ, xử lý nghiệp vụ trong công tác quản lý đối tượng
tham gia BHXH là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, là cơ sở để giải quyết
mọi chính sách, chế độ cho NLĐ khi NLĐ có đủ điều kiện và yêu cầu được
hưởng chế độ BHXH theo Luật định.
4.2.4. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền chính sách BHXH
Theo số liệu thống kê của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội thì
nước ta hiện nay có khoảng trên 85% NLĐ đang làm việc chưa được "làm
quen" với chính sách BHXH. Do đó, việc tuyên truyền, phổ biến để NLĐ
tham gia BHXH là hết sức cần thiết. Tuyên truyền cho mỗi NLĐ làm việc
trong mọi thành phần kinh tế nhận thức được đầy đủ mục tiêu, ý nghĩa và tầm
quan trọng của chính sách BHXH đối với đời sống của NLĐ và yêu cầu
ASXH. Tuyên truyền, vận động đến từng người lao động, chủ sử dụng lao
động, các cơ quan quản lý Nhà nước và các cán bộ, viên chức trong hệ thống
BHXH nhận thức đúng về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của chính sách
BHXH của Đảng và Nhà nước.
Để đạt được mục đích trên, trong thời gian qua việc tuyên truyền chủ
yếu được thông qua phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, phát
thanh ở trung ương và địa phương (tăng thời lượng phát sóng, tổ chức các
chuyên trang, chuyên đề). Các báo, tạp chí BHXH (tăng số trang, số lượng bài
viết hoặc mở riêng chuyên mục về BHXH, BHYT hàng tuần, hàng kỳ) nhằm
tạo thời gian cho người nghe, nhìn, đọc cứ đến ngày, giờ đó là quan tâm theo
dõi. Mặt khác phản ánh và phê bình tình trạng một số chủ doanh nghiệp lợi
dụng kẽ hở trong chính sách, trong cơ chế quản lý BHXH để trốn đóng
BHXH cho người lao động, thiếu trách nhiệm chăm lo lợi ích chính đáng, hợp
pháp của NLĐ đang làm việc cho doanh nghiệp, cho sự giầu có của chính
doanh nghiệp. Bên cạnh việc biểu dương những nhân tố và điển hình mới
trong việc tham gia BHXH và thực hiện tốt các quy định của pháp luật thì
thời gian tới cơ quan BHXH, các nhà báo, các cơ quan thông tin, báo chí cần
87
tăng cường hơn nữa việc phê bình, nhắc nhở các doanh nghiệp khắc phục tình
trạng chây ỳ, trốn đóng BHXH cho người lao động, hoặc dùng tiền đóng
BHXH chuyển sang làm việc khác vì mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp.
Tổ chức thi tìm hiểu chính sách, chế độ về BHXH bằng nhiều hình thức khác
nhau, với những biện pháp cụ thể và theo một phạm vi hoặc lĩnh vực nhất định
ví dụ như:
+ BHXH tỉnh Phú Thọ phối hợp với đài truyền hình của tỉnh đưa các
chương trình về BHXH để BHXH thực sự sát với dân hơn. Đăng ký với Đài
truyền hình tỉnh mở riêng trong tháng một chuyên mục về BHXH, hàng tuần
cũng có chuyên mục về BHXH tổng hợp những tin như: Giải quyết chế độ
chính sách, tình hình nợ đọng... giới thiệu website của BHXH tỉnh Phú Thọ:
bhxhphutho.homeip.net; bhxhphutho.com.vn tới nhân dân.
+ Phối hợp với các cơ quan chức năng như Sở lao động thương binh và
xã hội tỉnh Phú Thọ, Liên đoàn lao động tỉnh Phú Thọ, UBND tỉnh Phú
Thọ.... tổ chức thi đua, tuyên truyền, các tổ chức đoàn thể ở địa phương tổ
chức các cuộc thi tuyên truyền viên giỏi trong ngành, thi tìm hiểu BHXH;
hoặc tổ chức các đợt thi viết bài, thi viết thơ ca về BHXH...
+ Cán bộ chuyên quản tại văn phòng BHXH tỉnh Phú Thọ cũng như tại
BHXH các huyện không chỉ tích cực đôn đốc thu nộp mà còn là người tuyên
truyền các chế độ chính sách về BHXH đến từng đơn vị sử dụng lao động và
người lao động; Bám sát đơn vị sử dụng lao động để hướng dẫn nghiệp vụ thu
- nộp BHXH đúng kỳ, giảm nợ tồn đọng.
+ In ấn tờ rơi, sách, báo chí...và BHXH tỉnh Phú Thọ phải có tủ sách,
có phòng lưu tư liệu, sách, báo chí liên quan đến nghiệp vụ, khuyến khích tất
cả các đơn vị sử dụng lao động có tủ sách hoặc phòng đọc giúp NLĐ hiểu biết
về chính sách BHXH
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giải thích, phổ biến pháp luật
BHXH dưới mọi hình thức: trên phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài
88
phát thanh, truyền hình hoặc trên panô, áp phích cổ động… để mọi người dân
nắm vững được các văn bản pháp luật BHXH hiện hành, nhằm từng bước
hình thành ý thức pháp luật để sống theo pháp luật.
- Mở rộng dân chủ, công khai trong hoạt động của các cơ quan nhà
nước nhằm thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia xây dựng pháp
luật, thực hiện pháp luật và giám sát kiểm tra việc thực hiện pháp luật theo
nguyên tắc: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Đây là biện pháp
nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân, của xã hội.
- Tăng cường đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật BHXH
trong cơ quan thực thi pháp luật BHXH nhằm bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ
quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân.
4.2.5. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan ban nghành có liên quan
Đối với các ngành trong tỉnh Phú Thọ như Liên đoàn lao động, Sở lao
động thương binh và xã hội, Sở kế hoạch đầu tư, Thanh tra, Ủy ban nhân dân
tỉnh Phú Thọ, Ủy ban nhân dân các huyện, thành, thị phải phối hợp với cơ
quan BHXH vào cuộc để xử lý những đơn vị vi phạm pháp luật về đóng
BHXH. Tạo sự thống nhất quan điểm phải thực hiện chính sách BHXH đối
với NLĐ khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh, thành phố, huyện, thị. Đặc
biệt việc đầu tiên là phải có sự thống nhất thông suốt từ cấp uỷ và chính
quyền địa phương. Thống nhất cơ chế phối hợp từng ngành, từng cấp trong
mọi lĩnh vực liên quan đến NLĐ và BHXH ở các đơn vị.
Ủy ban nhân dân tỉnh định kỳ hàng tháng nghe báo cáo của các ngành
về tình hình sử dụng lao động, đóng BHXH để có hướng chỉ đạo xử lý kịp
thời những đơn vị chây ỳ không đóng BHXH cho người lao động.
Ủy ban nhân tỉnh là cơ quan quản lý Nhà nước về BHXH tại địa
phương phải yêu cầu ngân hàng, kho bạc, nơi đơn vị mở tài khoản phải trích
từ tài khoản của đơn vị để nộp BHXH tỉnh Phú Thọ mà không cần sự chấp
thuận của đơn vị theo đúng quy định của Nhà nước (Theo Nghị định
135/2007/NĐ-CP ngày 16/8/2007 của Chính Phủ).
89
Đưa công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện BHXH vào chỉ tiêu thi đua
hàng năm của các ngành, các cấp và các đơn vị hoặc là một trong những tiêu
chuẩn bình xét Chi bộ, Đảng bộ "trong sạch vững mạnh" hàng năm. Tạo điều
kiện cho kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân phát triển theo đúng đường lối chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, để các đơn vị này có điều kiện tham
gia BHXH cho người lao động.
Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Phú Thọ khi cấp giấy phép kinh doanh yêu cầu
đơn vị phải đăng ký việc sử dụng lao động, việc đóng BHXH để NLĐ yên
tâm công tác, phải có cam kết cụ thể. Nếu đon vị không chấp hành thì xử phạt
theo quy định của Nhà nước (Nghị định 135/2007/NĐ-CP ngày 16/8/2007 của
Chính Phủ). Trường hợp nghiêm trọng phải truy tố trước pháp luật hoặc rút
giấy phép kinh doanh...
BHXH tỉnh Phú Thọ phối hợp với Tòa án tỉnh,Viện kiểm sát, Công an
để khởi kiện ra tòa đối với đơn vị không chấp hành đóng đủ, kịp thời BHXH
cho NLĐ theo quy định của pháp luật
4.2.6. Thay đổi, củng cố, hoàn thiện mô hình quản lý thu BHXHBB
Trong quá trình thực hiện công tác thu BHXH sẽ phát hiện những thiếu
sót, khó khăn từ đó thực hiện thay đổi, củng cố và hoàn thiện mô hình quản lý
thu BHXH đảm bảo tính chính xác, nhanh chóng và gia tăng nguồn ngân quỹ
BHXH. Công tác quản lý thu BHXH do BHXH Việt Nam quy định nhằm
hướng dẫn các bộ phận có liên quan trong hệ thống hoạt động theo phương
thức thống nhất.
Việc phân cấp quản lý thu BHXH sẽ đảm bảo cho công tác chỉ đạo, xử
lý kịp thời những khó khăn vướng mắc trong từng khâu theo từng cấp. Phân
cấp quản lý trong nghành BHXH hiện nay được chia thành 3 cấp chính gồm
BHXH Việt Nam, BHXH cấp tỉnh, BHXH cấp huyện và Phòng Thu. Các chu
trình thu được thực hiện theo một nguyên tắc khép kín từ Trung ương tới cơ
sở. Cụ thể:
90
BHXH Việt Nam
BHXH cấp tỉnh
BHXH huyện, thành thị Phòng Thu
Sơ đồ 4.1: Mô hình thu BHXH
BHXH Việt Nam là cấp Trung ương có nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo
nghiệp vụ, giao thu đầu năm, tổng hợp số liệu thu trên toàn quốc và nghiên
cứu, xây dựng, tham mưu giúp lãnh đạo xử lý những vướng mắc trong công
tác thu và trực tiếp chỉ đạo cấp tỉnh thành thực hiện nhiệm vụ thu BHXH.
BHXH cấp tỉnh có nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo, quản lý công tác thu
BHXHBB trong địa bàn tỉnh và các quận, huyện. Là đơn vị giao chỉ tiêu thu
đến BHXH cấp huyện thị và Phòng Thu đồng thời tổng hợp số liệu từ cấp
huyện thị, Phòng Thu gửi lên để làm báo cáo BHXH Việt Nam.
BHXH cấp huyện thị trực tiếp thu BHXH của các đơn vị trên địa bàn
huyện, thành phố theo phân cấp của BHXH tỉnh. BHXH huyện thị có nhiệm
vụ tự lập kế hoạch thu theo từng giai đoạn và báo cáo về BHXH tỉnh về kết
quản hoàn thành kế hoạch của mình.
Phòng thu của BHXH tỉnh là cấp thuộc trực tiếp BHXH tỉnh, chị sự chỉ
đạo từ Giám đốc BHXH tỉnh thông qua việc giao quyền cho một Phó Giám
đốc phụ trách Thu. Phòng Thu có trách nhiệm thu BHXH của các đơn vị có
yếu tố nước ngoài, các đơn vị hành chính sự nghiệp cấp Trung ương và cấp
tỉnh đóng trên địa bàn, các doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc các Bộ chuyên
ngành, đồng thời có nhiệm vụ tổng hợp báo cáo số thu của toàn tỉnh gửi lên
BHXH Trung ương. Phòng Thu là đầu mối hỗ trợ trực tiếp BHXH cấp huyện
thị giảm đáp những khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ và các chế độ chính
sách BHXH. Cần phải sắp xếp cán bộ theo hướng chuyên sau, phân định rõ
91
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng cán bộ Phòng Thu đi cùng với đó
cán cán bộ phải chịu trách nhiệm trực tiếp với lãnh đạo cơ quan. BHXH
huyện thị và Phòng Thu là hai đơn vị cùng cấp, chịu sự chỉ đạo của BHXH
tỉnh nhưng có mối liên hệ qua lại lẫn nhau,
4.2.7. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện thu BHXH
Công tác quản lý đối tượng hưởng BHXH được đặt ra phải chặt chẽ,
chính xác và thông suốt đến từng NLĐ tham gia và từng đối tượng hưởng
BHXH; đảm bảo trong một thời gian rất dài. Để thực hiện nhiện vụ này công
nghệ thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng.
+Trang bị máy vi tính cho tất cả các huyện, thành, thị để đủ sức tổ chức
quản lý theo nguyên tắc: thu BHXH đến đâu phải đưa dữ liệu nộp của NLĐ
vào máy tính đến đó.
+ Từng bước đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nghiệp vụ máy tính theo
phương thức vừa học vừa làm.
+ Tổ chức phần mềm quản lý theo hướng hoàn thiện dần, trước mắt chủ
yếu phục vụ công tác nhập dữ liệu và những yêu cầu khai thác sử dụng đơn
giản. Trọng tâm là xây dựng được kho dữ liệu về quá trình tham gia BHXH
của NLĐ
+ Xây dựng và liên kết hệ thống máy tính trên phạm vi diện rộng đối
với toàn ngành BHXH Việt Nam. Trước tiên thực hiện nối mạng đối với các
cơ quan BHXH từ các cấp huyện, thị xã đến tỉnh, thành phố và dưới sự quản
lý của máy chủ ở BHXH tỉnh Phú Thọ.
+ Tổ chức xây dựng trang Web của BHXH tỉnh Phú Thọ, trên trang
Web này cần bổ sung thêm mục trả lời trực tuyến để từ đó giúp người sử dụng
lao động và NLĐ ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có thể cập nhật thông
tin về tình hình hoạt động cũng như sự thay đổi trong việc thực hiện chế độ,
chính sách BHXH.
+ BHXH tỉnh Phú Thọ đề xuất BHXH Việt Nam hỗ trợ kinh phí và có
hướng chỉ đạo cụ thể trong lĩnh vực này, đảm bảo vừa giúp địa phương đưa
92
công nghệ thông tin vào quản lý được ngay, vừa tránh những lãng phí do đầu
tư không phù hợp với định hướng phát triển lâu dài của toàn ngành.
Với tốc độ phát triển của khoa học công nghệ như hiện nay thì việc ứng
dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý BHXH một nhu cầu tất yếu và
không thể thiếu được. Vì vậy, Nhà nước và BHXH Việt Nam cần quan tâm
hơn nữa vì mục tiêu lâu dài của ngành BHXH Việt Nam.
Tin học hoá đã và đang được các cơ quan Ban, Ngành quan tâm áp
dụng cho việc quản lý trong các lĩnh vực hoạt động của mình. Mặc dù việc áp
dụng công nghệ thông tin trong quản lý ở BHXH tỉnh Phú Thọ còn nhiều mới
mẻ, song hiệu quả đạt được trong những năm vừa qua đã chứng tỏ cho chúng
ta thấy so với phương thức quản lý cũ (mang tính thủ công) việc áp dụng công
nghệ tin học đã đẩy công tác quản lý lên một bước, không chỉ đảm bảo trên
phương diện thống kê, lưu trữ mà nó còn phục vụ cho việc tác nghiệp xử lý
công việc và thông tin nhanh chóng, chính xác, giảm bớt những thao tác
không cần thiết, tạo thời gian cho cán bộ chuyên tâm nghiên cứu nghiệp vụ.
Trong thời đại thông tin đại chúng, khoa học công nghệ phát triển, việc
ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thu BHXH tại BHXH tỉnh Phú
Thọ đóng vai trò rất quan trọng. Nhưng hơn thế nữa yêu cầu đặt ra là cần có
một phần mềm nào đó tích hợp nhằm liên kết sự phối hợp giữa các ngành với
nhau, một phần mềm liên ngành giữa các cơ quan BHXH, Sở lao động-
Thương binh và xã hội, Liên đoàn lao động, Sở kế hoạch đầu tư...để giúp cho
công tác thu BHXH được thực hiện tốt hơn nhằm chống thất thu BHXH, bảo
đảm quyền lợi cho NLĐ như: Khi có một đơn vị mới tham gia được Sở kế
hoạch cấp giấy phép kinh doanh thì ngay lập tức bên cơ quan BHXH thông
qua phần mềm liên ngành đã có địa chỉ đơn vị và lập tức đưa vào danh sách
khai thác thu BHXH mới, danh sách theo dõi tình hình thu, nộp BHXH...
Việc quản lý, lưu trữ, xử lý nghiệp vụ trong công tác quản lý đối tượng
tham gia BHXH là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, là cơ sở để giải quyết
93
mọi chính sách, chế độ cho NLĐ khi NLĐ có đủ điều kiện và yêu cầu được
hưởng các chế độ BHXH theo Luật định. Vì vậy, công việc quản lý đòi hỏi
phải cập nhật, lưu trữ một khối lượng cơ sở dữ liệu lớn trong một khoảng thời
gian dài của đơn vị sử dụng lao động và người lao động, cung cấp đầy đủ
lượng thông tin cần thiết về công tác thu, nộp BHXH và giải quyết chế độ
chính sách giúp lãnh đạo BHXH các cấp kịp thời chỉ đạo công tác quản lý thu
BHXH và cung cấp cho các Ban, phòng nghiệp vụ liên quan để giải quyết
chính sách chế độ cho NLĐ có tham gia BHXH.
Trong thời gian hơn 10 năm vừa qua kể từ khi hệ thống BHXH chính
thức đi vào hoạt động theo Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ.
Công tác quản lý BHXH nói chung và quản lý thu BHXH nói riêng chủ yếu
vẫn là bằng phương pháp thủ công, do đó việc xử lý nghiệp vụ gặp rất nhiều
khó khăn gây ảnh hưởng đến việc theo dõi, báo cáo và giải quyết những
vướng mắc trong công tác quản lý đối tượng. Trong khi đó việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào quản lý ở các tỉnh, thành phố chủ yếu mới dừng lại ở
mức độ thống kê số liệu và chưa khai thác được những tính năng của máy vi
tính để áp dụng vào quản lý. Do vậy, BHXH tỉnh Phú Thọ cần phải có đội
ngũ cán bộ, công chức viên chức giỏi về tin học, phải thường xuyên được
tham dự các khóa huấn luyện tin học, các lớp tập huấn ngắn hạn và dài hạn.
Việc đưa công nghệ tin học vào quản lý nhằm quản lý toàn bộ NLĐ
tham gia và đóng BHXH để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của họ về BHXH
theo đúng Luật. Quản lý mức luơng, phụ cấp và điều kiện làm việc của từng
NLĐ trong toàn bộ quá trình tham gia và đóng BHXH để làm cơ sở để giải
quyết các chế độ BHXH trong mọi trường hợp. Cung cấp số liệu làm căn cứ
để giải quyết các chế độ BHXH cũng như các vẫn đề khác liên quan đến việc
hoạch định phát triển của cơ cấu xã hội có sự tham gia của người lao động.
Thực hiện nhiệm vụ quản lý quỹ BHXH bằng việc quản lý số tiền thu, nộp
BHXH của đơn vị sử dụng lao động và NLĐ trích nộp.
94
Tóm lại, việc nghiên cứu đưa công nghệ thông tin vào quản lý còn là
điều kiện quan trọng để ngành BHXH đẩy mạnh cải cách hành chính trong
các hoạt động của ngành nhất là trong công tác quản lý thu BHXH và giải
quyết chế độ chính sách BHXH nhằm đảm bảo yêu cầu, ngày càng tăng của
ngành trong tình hình mới.
4.2.8. Tăng cường công tác thanh kiểm tra, xử lý sai phạm bất cập
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra liên ngành: thanh tra lao động,
thanh tra tài chính và kiểm tra của cơ quan BHXH, kiểm tra của tổ chức công
đoàn. Liên đoàn lao động tỉnh Phú Thọ phải tham mưu với Ủy ban nhân dân
tỉnh Phú Thọ chỉ đạo thành lập các tổ chức công đoàn tại các đơn vị sử dụng
lao động để đôn đốc, nhắc nhở đơn vị phải khai báo số lao động và đóng
BHXH đầy đủ theo luật định.
Việc tổ chức phối hợp thanh tra, kiểm tra liên ngành sẽ tránh được hiện
tượng chồng chéo, trùng lặp thường xảy ra trong thanh tra, kiểm tra; mặt khác
sẽ tập trung được việc thanh tra, kiểm tra vào những đơn vị trọng điểm có dấu
hiệu vi phạm pháp luật BHXH. Và vấn đề quan trọng nữa là kết luận của thanh
tra, kiểm tra có hiệu lực thực hiện ngay sau thanh tra, kiểm tra, không cần
"chờ" ý kiến của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới thực hiện, vì ở đây cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp tham gia đoàn thanh tra, kiểm tra.
Đối với những hành vi vi phạm hành chính về BHXH, cơ quan, tổ
chức, cá nhân vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính là
cảnh cáo hoặc phạt tiền. Bên cạnh việc xử lý nghiêm minh các vi phạm, cần
khen thưởng kịp thời những đơn vị sử dụng lao động làm tốt công tác đăng ký
tham gia và thu nộp BHXH hàng năm. Sử dụng đồng bộ biện pháp kinh tế với
biện pháp hành chính, khi phát hiện doanh nghiệp vi phạm về đóng BHXH,
thực hiện phạt tiền và thực hiện truy thu qua hệ thống kho bạc hoặc ngân
hàng; hoặc phong tỏa tài khoản và các giao dịch kinh doanh tùy theo mức độ
vi phạm về đóng BHXH.
95
Việc thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm những sai sót tại BHXH tỉnh Phú
Thọ đã và đang được thực hiện nhưng chưa được thường xuyên, liên tục. Vì
vậy, cần xây dựng lịch kiểm tra thường xuyên về thu BHXHBB và đơn vị sử
dụng lao động. Không chỉ đơn thuần là khi nào phải có vướng mắc, có đơn
thư khiếu nại, tố cáo thì mới thanh tra, kiểm tra. Phối hợp với các cơ quan
thanh tra, tài chính, kho bạc kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác thu
BHXHBB. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát đối với các doanh
nghiệp, đơn vị có số lượng lao động lớn... phát hiện sớm những trường hợp
nợ đọng tiền thu BHXHBB. Đặc biệt phải kiểm tra thường xuyên việc quản lý
tiền mặt, quản lý đối tượng thu BHXHBB hàng tháng, kiểm tra việc báo cáo
những đối tượng thu BHXHBB.
Bên cạnh đó BHXH cần quan tâm cử cán bộ kiểm tra tham gia các lớp
đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ do Thanh tra Chính phủ, Thanh tra
tỉnh tổ chức tại địa phương hoặc do các đơn vị nghiệp vụ BHXH Việt Nam tổ
chức. Thực hiện tốt chế độ hỗ trợ đối với cán bộ kiểm tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và tiếp công dân theo quy định để kịp thời động viên cán bộ kiểm
tra, cán bộ tiếp công dân hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Nếu phát hiện vi phạm Luật BHXH thì kiên quyết phải xử lý nghiêm
minh theo đúng quy định của pháp luật. Khi có tranh chấp trong quan hệ
BHXH cơ quan BHXH cũng cần giải quyết theo pháp luật.
Đặc biệt BHXH tỉnh Phú Thọ phải là cơ quan tham mưu trong lĩnh vực
BHXH nên cần phải năng động hơn trong việc xây dựng kế hoạch cùng với
Sở lao động - Thương binh và Xã hội, Thanh tra tỉnh, Liên đoàn lao động tỉnh
tiến hành kiểm tra các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để kiến nghị, định
hướng cho các doanh nghiệp tham gia BHXH.
BHXH tỉnh Phú Thọ phải thường xuyên thông báo cho Sở kế hoạch
đầu tư, Ủy ban nhân dân tỉnh những doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt
động trong thời gian dài nhưng không tham gia BHXH để Ủy ban tỉnh có
phương án xử lý theo quy định của pháp luật.
96
4.2.9. Tăng cường thu bằng các hình thức động viên, khuyến khích
Tăng cường thu thường được nhắc đến rất nhiều trong các báo cáo của
BHXH các cấp, tuy nhiên quy chế chính sách động viên khuyến khích các đối
tượng tham gia BHXHBB nộp sớm còn rất hạn chế và chưa được rộng rãi mà
chỉ áp dụng nhiều đối với các cán bộ phụ trách Thu hoặc BHXH các cấp. Tuy
nhiên các hình thức động viện khuyến khích đối với các cán bộ Thu còn chưa
đa dạng, mang tính dập khuôn từ năm này qua năm khác, không có tính đổi
mới nhiều. Tăng cường thu bằng các hình thức động viên khuyến khích nên
được áp dụng đối với cán bộ thu, BHXH các cấp và những đối tượng tham gia
BHXHBB gồm có chủ sử dụng lao động và người lao động. Cụ thể như sau:
- Đối với cán bộ phụ trách thu BHXHBB và BHXH huyện thị: Việc thu
BHXH vốn được coi là xương sống trong nghành BHXH đặc biệt nguồn thu
chủ yếu là từ thu BHXHBB do vậy các cán bộ phụ trách thu BHXH phải là
người nắm vững nghiệp vụ, xử lý các tính huống phát sinh tốt đồng thời nắm
được số liệu được giao, bám sát đơn vị được giao do vậy trong cuộc bình xét
thi đua, đánh giá cuối năm tại BHXH các cấp các cán bộ phụ trách thu cần
phải được ưu tiên hơn nhưng tùy vào tình hình địa bàn, cơ sở đóng trên địa
bàn và lịch sử thu nộp BHXH hàng năm để đánh giá. Cụ thể nếu 2 cán bộ
cùng hoàn thành tốt công việc nhưng một cán bộ làm thu và một cán bộ làm
kế toán thì nên xem xét ưu tiên cho cán bộ phụ trách mảng thu thay vì cùng
đánh giá là “tốt” thì có thể bình xét kết quả cuối năm là “rất tối” nhằm tạo
động lực kích thích tinh thần làm việc và bám nắm địa bàn của cán bộ phụ
trách thu để đạt kết quả cao hơn nữa và hoàn thành sớm hơn nữa.
Qua bình xét đánh giá thi đua hàng năm, có bằng khen, giấy khen, phần
thưởng nhằm động viên, khuyến khích cán bộ thêm yêu việc và gắn bó với
công việc. Việc trao bằng khen, giấy khen và phần thưởng được xem xét tùy
theo từng cấp đối với huyện thị, cấp tỉnh hoặc BHXH Việt Nam đánh giá.
Việc khen thưởng này cần phải được nêu tên trước toàn thể cấp tỉnh hoặc cả
97
nước trong các cuộc họp trực tuyến hoặc qua tạp chí BHXH, phong tặng các
danh hiệu chiến sỹ thi đua, lao động tiên tiến…để cán bộ đó thấy được niềm vinh
dự và thúc đẩy tinh thần làm việc.
Ngoài việc trao bằng khen, giấy khen, tặng phẩm khen thưởng cho các
cán bộ phụ trách thu còn phải có hình thức động viên khuyến khích đến từng
tập thể hoàn thành sớm và đạt kế hoạch được giao. Cụ thể có những danh hiệu
tập thể lao động tiên tiến, tập thể xuất sắc…cùng với đó là những phần
thưởng ý nghĩa và cụ thể hóa bằng tiền hoặc bằng các chuyến du lịch kết hợp
thăm quan, học hỏi từ BHXH tỉnh bạn.
- Đối với các đơn vị tham gia BHXH: Phải có bằng khen, giấy khen,
vật phẩm nhằm khích lệ, động viên tinh thần các đơn vị. Cụ thể có thể kết hợp
với các sở ban nghành liên quan có bằng khen, chứng nhận đơn vị tiên tiến,
đơn vị đảm bảo vấn đề ASXH đối với người lao động… Thông qua báo đài
biểu dương những đơn vị thu nộp BHXH đầy đủ, kịp thời đồng thời nêu tên
những đơn vị chậm đóng, trốn tránh trách nhiệm đóng BHXH và có những
biện pháp phối hợp với sở ban nghành có liên quan để xử lý dứt điểm tình
trạng trên tránh tình trạng tái sai phạm.
4.3. Một số kiến nghị
4.3.1. Kiến nghị với Nhà nước và BHXH Việt Nam
Giai đoạn năm 2014 - 2016 là một bước ngoặt của BHXH Việt Nam
với việc thực thi các Quyết định ban hành quy định sửa đổi bổ sung mới về
Quản lý Thu BHXH của BHXH Việt Nam được Chính phủ xét duyệt đồng ý.
Hệ thống các văn bản chỉ đạo ngày càng được cụ thể hóa, đồng bộ, thuận tiện
hơn trong công tác quản lý thu BHXH. Đây là một bước tiến lớn nhằm quy
định rõ hơn về Luật BHXH và thực hiện đóng, hưởng các chế độ BHXH hiện
hành. Tuy nhiên Nhà nước và BHXH Việt Nam hiện nay chưa có các chính
sách động viên khuyến khích đối với các đơn vị nộp đúng, nộp đủ BHXHBB
đồng thời cũng chưa có những xử phạt nghiêm minh đối với những đơn vị
98
thực hiện không tốt hoặc cố tình trốn tránh, vi phạm các quy định về trích nộp
BHXH mà chỉ tính tiền lãi trên khoản truy thu BHXH đối với những đơn vị
trên. Do vậy Nhà nước và BHXH Việt Nam cần nghiên cứuâ thêm về việc
xây dựng hệ thống văn bản pháp luật, hướng dẫn cụ thể về việc động viên
khuyến khích áp dụng cụ thể đến các đơn vị trích nộp BHXH đầy đủ, thường
xuyên mà không phải nhắc nhở, đi cùng với các hình thức khen thưởng sẽ
phải có những biện pháp mạnh để xử lý các trường hợp vi phạm như:
+ Các cá nhân, chủ doanh nghiệp chấp hành tốt chủ trương, chính sách
BHXH. Thực hiện trích nộp BHXH đầy đủ thì cần tạo cơ chế thông thoáng,
điều kiện thuận lợi cho những đơn vị này trong hoạt động sản xuất kinh doanh
như ưu đãi cho những đơn vị trong việc vay vốn, ưu đãi về việc sử dụng lao
động, trụ sở làm việc, có chế độ thưởng phạt, hỗ trợ, động viên rõ ràng, kịp
thời và chính xác, coi đó là một chỉ tiêu thi đua khen thưởng, phong tặng các
danh hiệu thu đua cho tập thể, nêu gương điển hình tiên tiến trong thực hiện
chính sách BHXH để làm mô hình nhân rộng trong phạm vi cả nước. BHXH
trực tiếp quản lý đơn vị đó làm yêu cầu phối hợp với báo đài nêu tên các đơn
vị thực hiện tốt các chính sách An sinh xã hôi, BHXH trên thông tin đại chúng
để NLĐ biết đơn vị luôn quan tâm đến quyền lợi và nghĩa vụ của đơn vị sử
dụng lao động đối với NLĐ để họ yên tâm công tác, cũng là tạo sự quan tâm
của NLĐ khác khi đơn vị tổ chức tuyển dụng lao động.
+ Có các chính sách khen thưởng đối với từng cá nhân, tập thể hoàn
thành tốt và vượt kết quả được giao, đổi mới các hình thức khen thưởng như
tặng bằng khen giấy khen...bằng những chuyến du lịch dành cho cả nhà hay
tính điểm tích lũy để mua nhà... Điều này sẽ kích thích tinh thần lao động của
các cán bộ và luôn cố gắng hoàn thành công việc một cách xuất sắc nhất. Qua
đó nêu gương sáng cần học tập và chia sẻ kinh nghiệm làm việc đến các cán
bộ đang công tác trong nghành để học tập và noi theo.
+ Đến kỳ thay đổi giấy phép kinh doanh, các cơ quan có liên quan cần
phối hợp tình hình thực hiện các nghĩa vụ theo pháp luật của đơn vị có đầy
99
đủ, kịp thời và chính xác hay không. Có tình trạng trốn tránh nộp thuế, trích
nộp BHXH hay không để từ đó theo mức độ chấp hành sẽ có biện pháp cụ thể
để xử lý, yêu cầu đơn vị ký cam kết thực hiện đầy đủ và truy thu toàn bộ
những khoản chưa nộp sau đó mới tiếp tục cấp giấy phép tiếp tục kinh doanh.
+ Cần có sự phối hợp chặt ché giữa các Bộ, ban, nghành chức năng,
giữa các tỉnh thành nhằm tăng cường công tác phối kết hợp giữa các cơ quan
quản lý Nhà nước về BHXH. Theo dõi, gán trách nhiệm phối hợp với các cơ
quan BHXH trong việc quản lý đối tượng tham gia BHXH ngay từ khi đơn vị
mới thành lập.
Hiện nay, có thể áp dụng một số biện pháp điển hình như: Đưa vào Bộ
luật Hình sự tội danh trốn đóng BHXH và xử lý hình sự đối với các hành vi vi
phạm luật BHXH. Ủy ban nhân dân tỉnh tăng cường chỉ đạo Sở Lao động
thương binh và xã hội, Tài chính, Kế hoạch, Liên đoàn lao động, Thanh tra
tỉnh phối hợp chặt chẽ với BHXH tỉnh thực hiện tốt chính sách BHXH trên
địa bàn tỉnh, trong đó tập trung vào thanh tra, kiểm tra xử lý các vi phạm về
BHXH để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NLĐ. Các cơ quan ban ngành chức
năng ở địa phương cần phối hợp chặt chẽ trong việc quản lý, kiểm tra, khảo
sát xác định đầy đủ số đơn vị, số lao động thuộc diện tham gia BHXHBB theo
luật định; đồng thời có biện pháp tích cực xử lý tồn đọng vướng mắc đối với
những cơ quan, đơn vị không tham gia BHXH cho NLĐ; không đóng; chậm
đóng; nợ đọng kéo dài… Đưa công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện BHXH vào
chỉ tiêu thi đua hàng năm của các ngành, các cấp và các đơn vị.
- Sửa đổi, cụ thể hoá những quy định về công tác thanh tra, kiểm tra
việc thực hiện đóng BHXH cho người lao động. Mặt khác, phải xây dựng các
chế tài xử lý khi các đơn vị vi phạm quy định về việc tham gia BHXH cho
người lao động, đặc biệt đối với các hành vi chây ỳ, trốn tránh, lợi dụng,
chiếm dụng quỹ BHXH; Tăng cường số lượng, chất lượng thanh tra viên và tổ
chức thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm việc thực hiện
chính sách BHXH.
100
- Nghiên cứu điều chỉnh cơ chế quản lý thu - chi quỹ BHXH, chỉ đạo
các ngành chức năng rà soát các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật về
BHXH, khắc phục sớm những bất cập, đồng thời xem xét tính khả thi của các
văn bản pháp quy mà Chính phủ và các Bộ đã ban hành.
- Đưa các quy định về BHXH vào chương trình đào tạo trong các
trường Đại học, Cao đẳng và các trường trung học dạy nghề để học sinh, sinh
viên tìm hiểu, tiếp cận với chính sách BHXH để khi làm việc dù vào bất kỳ
lĩnh vực lao động nào trong Nhà nước hay ngoài Nhà nước thì NLĐ đều nhận
thức được trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi về BHXH của bản thân mình.
4.3.2. Kiến nghị với cấp uỷ, chính quyền địa phương
- Tuyên truyền đến cán bộ công nhân viên chức khối nhà nước : Thực
hiện tổ chức tuyên truyền phổ biến rộng rãi, quán triệt sâu rộng chính sách
BHXH trong cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể. Việc nhận thức đầy đủ
và sâu sắc của đội ngũ cán bộ là tiền đề để các cấp các nghành thấy rõ vai trò
trách nhiệm đối với việc tổ chức thực hiện chính sách.
- Tuyên truyền đến cán bộ công nhân viên chức khối khác : Phối hợp
giữa các sở ban nghành có liên quan tổ chức phổ biến, tuyên truyền đến người
lao động, các đơn vị có sử dụng lao động, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh để họ nắm và hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham
gia BHXH để họ hiểu và tham gia BHXH ngày càng nhiều hơn. Qua đó gây
dựng niềm tin cho NLĐ yên tâm làm việc, gắn bó với doanh nghiệp, xây dựng
doanh nghiệp phát triển tạo điều kiện cho nền kinh tế ổn định và phát triển.
- Các văn bản hướng dẫn rõ ràng, kịp thời : Các cấp cơ quan đoàn thể
khi nhận được văn bản chỉ đạo từ trên, cần tóm lược lại những nội dung phù
hợp với điều kiện tình hình của địa phương nội dung nào cần triển khai. Tránh
tình trạng chuyển tiếp toàn bộ văn bản, hướng dẫn xuống cấp dưới dẫn đến
chậm triển khai, triển khai đã lâu nhưng chưa xong. Ban hành các văn bản
hướng dẫn các đơn vị SDLĐ thực hiện công tác thu BHXH rõ ràng hơn, kịp
thời hơn.
101
- Đánh giá theo chỉ tiêu thi đua: Đưa công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện
BHXH vào chỉ tiêu thi đua hàng năm của các ngành, các cấp và các đơn vị.
- Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên: không chỉ ở
BHXH tỉnh BHXH huyện mà còn ở các cơ quan, sở ban nghành từ cấp tỉnh
đến phường xã nhằm phổ biến, tạo điều kiện cho mọi người đều được tham
gia BHXH. Đảm bảo quyền lợi cho người lao động, xem mọi người là khách
hàng thì mới có thái độ đúng mực nhằm gia tăng số lượng người được tham
gia BHXHBB mà còn khuyến khích người dân tham gia BHXH tự nguyện để
phát triển nguồn quỹ BHXH.
102
KẾT LUẬN
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho
người lao động, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe,
mất khả năng lao động, mất việc làm, chết; gắn liền với quá trình tạo lập một
quỹ tiền tệ tập trung được hình thành bởi các bên tham gia BHXH đóng góp
và việc sử dụng quỹ đó cung cấp tài chính nhằm đảm bảo mức sống cơ bản
cho bản thân NLĐ và những người ruột thịt (bố, mẹ, vợ/ chồng, con) của
NLĐ trực tiếp phải nuôi dưỡng, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Trong những năm qua BHXH tỉnh Phú Thọ đã gặt hái được nhiều thành
tựu. Tăng trưởng cả về số thu, số lao động và doanh nghiệp đăng ký tham gia
BHXH. Tuy nhiên so với tổng số lao động tham gia BHXH trên địa bàn còn
thấp, đồng thời còn bộc lộ nhiều hạn chế cần được nghiêm túc thực hiện lại để
tìm ra những giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH, nhằm đáp ứng
yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
Bài luận văn đã tập trung làm rõ ba nội dung chính :
1. Khái quát hóa những cơ sở lý luận về công tác quản lý thu BHXHBB
trên địa bàn tỉnh; xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu.
- Trên cơ sở lý luận về công tác quản lý thu BHXHBB luận văn đã
phân tích làm rõ vai trò của BHXHBB trong nền kinh tế thị trường, các khái
niệm về BHXHBB, đối tượng, chức năng, đặc điểm và vai trò của BHXHBB.
- Những căn cứ pháp lý làm cơ sở cho việc tổ chức, thực hiện công tác
quản lý thu BHXHBB thông qua các văn bản quy định của Nhà nước và của
BHXH Việt Nam. Qua đó là những cơ sở, tiền đề cho việc phân tích, đánh giá
và đưa ra các giải pháp.
2. Luận văn đi sâu vào phân tích thực trạng công tác quản lý thu
BHXHBB trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn từ 2014 – 2016
- Phân tích thực trạng công tác quản lý thu BHXHBB trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ giai đoạn 2014 – 2016 thông qua việc phân tích thực trạng về đối
103
tượng tham gia BHXHBB, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, phương thức,
mức đóng BHXHBB và công tác thu- nộp BHXHBB
- Đánh giá kết quả thu nộp đã đạt được, kết quản hoàn thành, tỷ lệ nợ
đọng trên tổng thu để thấy được tình hình thu nộp BHXHBB trong giai đoạn
2014 - 2016.
- Từ những kết quả phân tích ở trên luận văn đã chỉ ra mặt đã đạt được,
những mặt còn tồn tại, tìm ra được những nguyên nhân để đưa ra những giải
pháp trong Chương 4.
3. Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXHBB
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong những năm tới.
- Từ những kết quả thực trạng công tác quản lý thu BHXXBB trong
giai đoạn 2014 - 2016 luận văn mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thu nộp BHXHBB trong thời
gian sắp tới trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói riêng và của toàn bộ máy BHXH
nói chung.
- Mục đích của việc đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác
quản lý thu BHXH trên địa bàn tỉnh Phú thọ là để mọi đối tượng thuộc diện
tham gia BHXHBB phải tham gia BHXHBB theo quy định và tránh trường
hợp gian lận, trốn tránh trách nhiệm nộp BHXH nhằm dần từng bước đưa tất
cả các lao động trong xã hội được tham gia BHXH, đảm bảo có quỹ tài chính
lớn mạnh, đủ khả năng cung cấp tài chính ổn định để chi trả cho các chế độ
trợ cấp BHXH, góp phần đảm bảo ổn định cuộc sống cho các thành viên trong
xã hội, góp phần an toàn xã hội và giữ vững ổn định chính trị.
Với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp hoàn thiện quy trình thu phù
hợp thì chắc chắn đem lại hiệu quả cao trong công tác quản lý thu BHXHBB.
Có như vậy, công tác thu BHXHBB mới đạt được mục tiêu và yêu cầu đặt ra
nhằm từng bước đưa chính sách ASXH vào cuộc sống.
104
Các nhóm giải pháp đưa ra chưa đầy đủ nhưng tôi hy vọng rằng với
những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện công tác quản
lý thu BHXH trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn sắp tới để hoạt động
của BHXH tỉnh Phú Thọ ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.
105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện BHXH ở BHXH tỉnh Phú Thọ năm
2013 - 2016.
2. BHXH tỉnh Phú Thọ, Báo cáo tổng hợp thu từ năm 2013 - 2016.
3. BHXH tỉnh Phú Thọ, Thống kê kết quả thu BHXH, BHYT, BHTN mẫu số
01 BC năm 2013 - 2016
4. BHXH Việt Nam (2015), Công văn số 538/BHXH-CSXH: Hướng dẫn thực
hiện điều chỉnh tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đã đóng BHXH
theo Thông tư số 03/2015/TT-BLĐTBXH.
5. BHXH Việt Nam (2016), Công văn số Số 1607/BHXH-BT: Về việc chấn
chỉnh công tác thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN.
6. BHXH Việt Nam (2016), Công văn số Số 2026/BHXH-BT: Về việc thu
BHXH, BHYT, BHTN căn cứ mức lương cơ sở theo quy định tại Nghị định
số 47/2016/NĐ-CP.
7. BHXH Việt Nam (2016), Quyết định số Số 636/QĐ-BHXH: Quyết định
về việc ban hành Quy định về hồ sơ và quy trình giải quyết hưởng các
chế độ BHXH.
8. BHXH Việt Nam (26/08/2015), Quyết định số 919/QĐ-BHXH: Quyết định
sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 01/QĐ-BHXH, Quyết định
số 1399/QĐ-BHXH và Quyết định số 488/QĐ-BHXH.
9. Bộ Lao động Thương binh Xã hội (2015), Thông tư 58/2015/TT-
BLĐTBXH, ngày 29/12/2015 Quy định mức điều chỉnh tiền lương và thu
nhập tháng đã đóng BHXH.
10. Bộ Lao động Thương binh Xã hội (2015), Thông tư 59/2015/TT-
BLĐTBXH - ngày 29/12/2015, quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một
số điều luật BHXHBB.
11. Bộ Lao động Thương binh Xã hội (2015), Thông tư 47/2015/TT-
BLĐTBXH - Hướng dẫn một số điều về hợp đồng lao động ngày
16/11/2015.
106
12. Chính Phủ (2015), Nghị định 115/2015/NĐ - CP - Quy định chi tiết một
số điều Luật BHXH BB ngày 11/11/2015.
13. Chính Phủ (2015), Nghị định 134/2015/NĐ - CP - Quy định về BHXH tự
nguyện ngày 29/12/2015
14. Chính Phủ (2014), Nghị định 105/2014/NĐ-CP ngày 15/11/2014, quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều luật BHYT.
15. Cục Thống kê tỉnh Phú Thọ, Niên giám thống kê 2013 - 2016.
16. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật bảo
hiểm xã hội của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
17. Sở Kế hoạch Đầu tư tỉnh Phú Thọ, Danh sách các đơn vị đăng ký thành
lập và giải thể.
18. Tạp chí BHXH các năm 2013 - 2016.
19. Thủ tướng Chính phủ (2015), Chỉ thị số 05/CT-TTg Tăng cường thực hiện
chính sách BHXH và bảo hiểm y tế
20. Web http://bhxhvinhphuc.gov.vn/index.php/vi/che-do-bao-hiem/Quyen-loi-
khi-tham-gia-BHXH-bat-buoc/ Ngày truy cập 28/10/2016
21. Web http://bhxhphutho.gov.vn/Tin-tuc/15764/Gioi-thieu/7923.html Ngày truy
cập 28/10/2016
22. Web http://bhxhphutho.gov.vn//Tin-tuc/15999/Co-cau-to-chuc-bao-hiem-xa-
hoi-tinh-Phu-Tho/7905.html Ngày truy cập 26/10/2016
23. Web http://bhxhphutho.gov.vn/Tin-tuc/16002/Quyen-loi-khi-tham-gia-
BHXH-bat-buoc/8244.html Ngày truy cập 26/10/2016
24. Web http://bhxhphutho.gov.vn//Tin-tuc/16175/Nguoi-lao-dong-co-thoi-han-o-
nuoc-ngoai-tu-dang-ky-dong-BHXH-bat-buoc/9188.html Ngày truy cập
04/11/2016
25. http://bhxhphutho.gov.vn/Bieu-mau/Thu-BHXH-BHYT/16013/ Ngày truy cập
04/11/2016