BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN THỊ ÁNH NGỌC

NGHIÊN CỨU TRUYỀN DẪN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1999 – 2013

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

TP.Hồ Chí Minh – Năm 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN THỊ ÁNH NGỌC

NGHIÊN CỨU TRUYỀN DẪN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1999 – 2013

Chuyên ngành: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO

TP.Hồ Chí Minh – Năm 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là Nguyễn Thị Ánh Ngọc, tác giả của luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu truyền dẫn

chính sách tiền tệ tại Việt Nam giai đoạn 1999 – 2013”.

Tôi xin cam đoan: Nội dung của luận văn là kết quả nghiên cứu của cá nhân dưới sự

hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo. Luận văn được thực hiện và hoàn

tất một cách độc lập, tự thân. Tất cả các số liệu là trung thực và được thu thập từ các

nguồn đáng tin cậy; kết quả nghiên cứu được lấy từ phần mềm kinh tế lượng, không sao

chép từ các nguồn khác. Tất cả tài liệu tham khảo được sử dụng trong luận văn này đều có

trích dẫn đầy đủ và rõ ràng.

TP.Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2013

Ngƣời cam đoan

Nguyễn Thị Ánh Ngọc

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC HÌNH

TÓM TẮT

1. GIỚI THIỆU ................................................................................................................ 1

2. KHUNG LÝ THUYẾT VÀ TÓM LƢỢC CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY ... 4

2.1. Khung lý thuyết về chính sách tiền tệ ..................................................................... 5

2.2. Khung lý thuyết về các kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ .................................... 8

2.2.1. Truyền dẫn chính sách tiền tệ thông qua kênh lãi suất .................................... 8

2.2.2. Truyền dẫn chính sách tiền tệ thông qua kênh giá tài sản khác ..................... 10

2.2.3. Truyền dẫn chính sách tiền tệ thông qua kênh tín dụng................................. 12

2.3. Các kết quả nghiên cứu về tác động của các kênh truyền dẫn .............................. 16

2.3.1. Các quan điểm về truyền dẫn chính sách tiền tệ ............................................ 16

2.3.2. Truyền dẫn CSTT tại các nước phát triển ...................................................... 18

2.3.3. Truyền dẫn CSTT tại các nền kinh tế mới nổi, đang phát triển (EDEs) ........ 19

2.3.4. Chính sách tiền tệ và giá cả hàng hóa ............................................................ 22

2.3.5. Truyền dẫn chính sách tiền tệ và khủng hoảng kinh tế - tài chính ................. 26

2.3.6. Truyền dẫn chính sách tiền tệ tại Việt Nam ................................................... 28

3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................ 30

3.1. Giới thiệu mô hình VAR ....................................................................................... 30

3.2. Dữ liệu và chi tiết về mô hình nghiên cứu ............................................................ 30

3.3. Các bước thực hiện ............................................................................................... 34

4. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM ................................................................................... 34

4.1. Kiểm định nghiệm đơn vị ..................................................................................... 34

4.2. Lựa chọn độ trễ thích hợp ..................................................................................... 35

4.3. Kiểm định tính ổn định của mô hình .................................................................... 36

4.4. Kết quả ước lượng SVAR ..................................................................................... 37

4.5. Hàm phản ứng xung .............................................................................................. 38

4.5.1. Phản ứng của sản lượng và lạm phát đối với cú sốc giá dầu ......................... 39

4.5.2. Phản ứng của sản lượng, lạm phát và lãi suất trước cú sốc tiền tệ Mỹ .......... 39

4.5.3. Tác động của cú sốc thắt chặt tiền tệ ............................................................. 40

4.5.4. Phản ứng của cầu tiền trước các cú sốc trong nước ....................................... 44

4.5.5. Phản ứng của giá chứng khoán trước các cú sốc trong nước ......................... 46

4.5.6. Phản ứng của chỉ số giá tiêu dùng trước các cú sốc trong nước .................... 48

4.5.7. Phản ứng của sản lượng trước các cú sốc trong nước .................................... 52

4.5.8. Phản ứng của tỷ giá trước các cú sốc ............................................................. 54

4.6. Phân rã phương sai ................................................................................................ 57

5. THẢO LUẬN KẾT QUẢ .......................................................................................... 60

6. KẾT LUẬN ................................................................................................................. 65

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CPI : Consumer price index (Chỉ số giá tiêu dùng)

CSTT : Chính sách tiền tệ

DSGE : Dynamic Stochastic General Equilibrium

ECB : Ngân hàng trung ương châu Âu

EDEs : Emerging & developing economies (nền kinh tế mới nổi, đang phát triển)

FAVAR: Factor Augmented Vector Autoregression

FED : Federal Reserve System (Cục Dự trữ Liên bang Mỹ)

FFR : Federal Fund Rate (Lãi suất cơ bản Mỹ)

GSO : General Statistics Office Of Vietnam (Tổng cục thống kê Việt Nam)

IEA : International Energy Agency (Cơ quan năng lượng Quốc tế)

IFS : International Financial Statistics (Thống kê tài chính Quốc tế)

IMF : International Moneytary Fund (Quỹ tiền tệ Quốc tế)

IP : Industrial production index (chỉ số sản xuất công nghiệp)

NHNN : Ngân hàng nhà nước

NHTM : Ngân hàng thương mại

NHTW : Ngân hàng Trung ương

OMO : Open Market Operations (Nghiệp vụ thị trường mở)

RBI : Reserve Bank of India

SVAR : Structural Vector Autoregression

VAR : Vector Autoregression

VECM : Vector Error Correction Model

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1: Mô tả các biến trong mô hình ............................................................................... 31

Bảng 2: Kết quả kiểm định Unit root bằng phương pháp ADF ......................................... 35

Bảng 3: Kiểm định độ trễ tối đa của mô hình .................................................................... 36

Bảng 4: Kết quả ước lượng ma trận tham số ...................................................................... 38

Bảng 5: Các Puzzle gặp phải trong bài nghiên cứu ............................................................ 60

DANH MỤC HÌNH

Hình 1: Kiểm định sự ổn định của mô hình ....................................................................... 37

Hình 2: Phản ứng của sản lượng và lạm phát đối với cú sốc giá dầu ................................. 39

Hình 3: Phản ứng của sản lượng, lạm phát và lãi suất đối với cú sốc tiền tệ Mỹ .............. 40

Hình 4: Hàm phản ứng xung đối với cú sốc thắt chặt chính sách tiền tệ ........................... 42

Hình 5: Hàm phản ứng xung tích lũy đối với cú sốc thắt chặt chính sách tiền tệ .............. 43

Hình 6: Phản ứng của cầu tiền trước các cú sốc trong nước .............................................. 44

Hình 7: Phản ứng tích lũy của cầu tiền trước các cú sốc trong nước ................................. 45

Hình 8: Phản ứng của giá chứng khoán trước các cú sốc ................................................... 47

Hình 9: Phản ứng tích lũy của giá chứng khoán trước các cú sốc ..................................... 48

Hình 10: Phản ứng của chỉ số giá tiêu dùng trước các cú sốc trong nước ......................... 50

Hình 11: Phản ứng tích lũy của chỉ số giá tiêu dùng trước các cú sốc trong nước ............ 51

Hình 12: Phản ứng của sản lượng trước các cú sốc trong nước ......................................... 53

Hình 13: Phản ứng tích lũy của sản lượng trước các cú sốc trong nước ............................ 54

Hình 14: Phản ứng của tỷ giá trước các cú sốc .................................................................. 56

Hình 15: Phản ứng tích lũy của tỷ giá trước các cú sốc ..................................................... 57

Hình 16: Phân rã phương sai của sản lượng ....................................................................... 58

Hình 17: Phân rã phương sai của chỉ số giá tiêu dùng ....................................................... 58

Hình 18: Phân rã phương sai của tỷ giá .............................................................................. 59

Hình 19: Hàm phản ứng xung đối với cú sốc thắt chặt tiền tệ theo sơ đồ 1 ...................... 62

Hình 20: Hàm phản ứng xung đối với cú sốc thắt chặt tiền tệ theo sơ đồ 2 ...................... 64

TÓM TẮT

Những điều kiện tiền tệ toàn cầu thường được xem như một bánh lái của giá cả và sản

lượng thực của nền kinh tế. Bài nghiên cứu này điều tra mối quan hệ thực nghiệm giữa

các biến số kinh tế vĩ mô và xem xét cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ tại Việt Nam.

Đặc biệt, tôi bổ sung biến đại diện cho lạm phát nước ngoài và chính sách tiền tệ thế giới

vào mô hình nghiên cứu để phù hợp với đặc điểm của một nền kinh tế mở nhỏ như Việt

Nam. Bài nghiên cứu sử dụng mô hình SVAR, hầu hết được biết đến trong các phân tích

tác động của những cú sốc chính sách tiền tệ dựa trên nền tảng kết quả nghiên cứu của

nhóm tác giả Alessio Anzuini, Marco J. Lombardi and Patrizio Pagano – Ngân hàng

Trung ương Châu Âu (2013). Kết quả thu được cho thấy rằng lãi suất vẫn là kênh truyền

dẫn chính sách tiền tệ quan trọng mặc dù không phải là kênh có ảnh hưởng lớn một cách

áp đảo lên sản lượng, lạm phát và thị trường chứng khoán khi so với các kênh khác.

Từ khóa: Chính sách tiền tệ, cú sốc chính sách tiền tệ, VAR, phân rã phương sai

_ 1 _

1. GIỚI THIỆU

Chính sách tiền tệ ảnh hưởng như thế nào đến sản lượng và lạm phát là một câu hỏi

quan trọng. Khuôn khổ chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương luôn nhằm

hướng tới đạt được các mục tiêu về lạm phát và tăng trưởng. Thông thường, ngân

hàng trung ương thực hiện kiểm soát các cơ sở tiền tệ và/ hoặc lãi suất ngắn hạn áp

dụng đối với các nguồn cung của ngân hàng trung ương hoặc hấp thụ dự trữ đến/ từ

hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế. Vậy thì, bằng cách nào những biến động lãi

suất và tính thanh khoản của Ngân hàng trung ương tác động lên các nhân tố cuối

cùng lại phụ thuộc vào các kênh truyền dẫn tiền tệ cơ bản?

Truyền dẫn tiền tệ là một quá trình qua đó những thay đổi trong chính sách được

dịch chuyển sang các mục tiêu cơ bản của lạm phát và tăng trưởng. Theo truyền

thống, có bốn kênh chính truyền dẫn chính sách tiền tệ đã được xác định trong các

nghiên cứu gồm: (i) kênh lượng tử liên quan đến cung tiền và tín dụng, (ii) kênh lãi

suất, (iii) kênh tỷ giá hối đoái, và (iv) kênh giá tài sản. Trong những năm gần đây,

một kênh thứ năm, đó là, kênh kỳ vọng đang được xem xét, thừa nhận và trở thành

hướng nghiên cứu nổi bật cho các nghiên cứu chính sách tiền tệ sau này.

Nghiên cứu bằng chứng về kênh lãi suất trong truyền dẫn chính sách tiền tệ ở Ấn Độ

của Deepak Mohanty phân biệt các kênh truyền dẫn thành hai nhóm khác nhau: (i)

kênh tân cổ điển; (ii) kênh không phải tân cổ điển. Kênh tân cổ điển tập trung vào

việc làm thế nào những thay đổi trong lãi suất hoạt động thông qua đầu tư, tiêu dùng

và thương mại ảnh hưởng đến mục tiêu cuối cùng. Các kênh không phải tân cổ điển,

hoạt động chủ yếu thông qua thay đổi trong cung tín dụng và tác động lên hành vi

của các ngân hàng và bảng cân đối của họ (Boivin et al., 2011). Làm thế nào các

kênh này hoạt động trong một nền kinh tế bất kỳ phụ thuộc vào mức độ phát triển

của nền kinh tế và cấu trúc hệ thống tài chính quốc gia.

_ 2 _

Điều thú vị là, các kênh truyền dẫn tiền tệ thường được nhắc đến như một hộp đen –

ngụ ý rằng chúng ta biết chính sách tiền tệ chắc chắn có ảnh hưởng lên sản lượng và

lạm phát nhưng chúng ta không biết chính xác cách nó ảnh hưởng. Điều này là bởi

vì không chỉ các kênh truyền dẫn tiền tệ khác nhau có xu hướng hoạt động cùng một

lúc mà chúng còn thay đổi theo thời gian. Như Bernanke và Gertler (1995) quan sát:

Một phân tích thực nghiệm mở rộng về tác động của chính sách tiền lệ đã xem xét

các kênh truyền dẫn như một “hộp đen”. Kết cục, câu hỏi vẫn là: Có phải CSTT ảnh

hưởng đến nền kinh tế thực? Nếu vậy, cơ chế truyền tải mà những hiệu ứng này diễn

ra là gì? Những thay đổi CSTT ảnh hưởng đến lãi suất thị trường như cho vay ngân

hàng và lãi suất huy động ngân hàng với những mức độ khác nhau theo thời gian.

Những thay đổi lãi suất bởi cơ quan tiền tệ cũng có thể gây ra biến động giá tài sản

để tạo ra hiệu ứng mạnh mẽ về định giá thị trường đối với tài sản tài chính và nợ

phải trả. Lãi suất cao hơn có thể gây ra một sự đánh giá cao đồng nội tệ, do đó, có

thể ảnh hưởng đến xuất khẩu ròng và tác động lên tổng cầu và sản lượng. Đồng thời,

hành động chính sách và thông báo ảnh hưởng đến kỳ vọng tương lai của nền kinh

tế và lòng tin đối với những kỳ vọng này.

Đối với sản lượng, những thay đổi này ảnh hưởng đến hành vi chi tiêu, tiết kiệm và

đầu tư của các cá nhân và các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Với cách nhìn đơn

giản, khi mọi yếu tố khác không đổi, lãi suất cao hơn có xu hướng khuyến khích tiết

kiệm hơn là chi tiêu. Tương tự, một giá trị cao hơn của đồng tiền trong thị trường

ngoại hối khuyến khích chi tiêu bằng cách làm cho hàng hóa nước ngoài trở nên rẻ

hơn so với hàng hóa trong nước. Vì vậy, những thay đổi trong lãi suất và tỷ giá hối

đoái tác động lên nhu cầu hàng hóa và dịch vụ.

Trên phương diện lạm phát, mức cầu cân xứng với khả năng cung ứng trong nước –

trong thị trường lao động và nơi khác – là một ảnh hưởng quan trọng lên áp lực lạm

phát trong nước. Nếu nhu cầu về lao động vượt quá cung, sẽ có áp lực tăng tiền

lương, mà một số công ty sẽ có thể chuyển dịch chi phí này vào giá hàng hóa tiêu

_ 3 _

dùng. Đồng thời, biến động tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng trực tiếp lên giá trong nước

của hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu, và tác động gián tiếp lên giá cả của những hàng

hóa và dịch vụ cạnh tranh với hàng nhập khẩu hoặc sử dụng nguyên liệu nhập khẩu,

và do đó tác động trên các thành phần của lạm phát tổng thể.

Nhìn chung, cơ chế truyền dẫn chủ yếu bị chi phối bởi các khuôn khổ chính sách

tiền tệ, cấu trúc và chiều sâu của hệ thống tài chính mà ngân hàng trung ương vận

hành và trạng thái của nền kinh tế thực. Trong khi có một lượng lớn nghiên cứu thực

nghiệm về truyền dẫn chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế tiên tiến, chỉ có một số

lượng hạn chế nghiên cứu thực nghiệm xem xét các cơ chế lan truyền tiền tệ trong

nền kinh tế mới nổi và đang phát triển (EDEs ). Điều này là dễ hiểu do tính chất kém

phát triển của thị trường tài chính và thay đổi cấu trúc nhanh chóng trong EDEs. Tuy

nhiên, kể từ những năm 2000, phân tích cơ chế truyền dẫn tiền tệ trong EDEs đã trở

nên nổi tiếng do cải cách cơ cấu kinh tế và chuyển tiếp theo các chế độ chính sách

theo định hướng thị trường.

Tại Việt Nam, tài liệu về truyền dẫn chính sách tiền tệ vẫn còn trong giai đoạn non

trẻ, mặc dù trong thời gian gần đây, một vài nghiên cứu sử dụng phương pháp VAR,

SVAR, VECM đã được thực hiện. Từ góc độ của học viên, tác động của những thay

đổi chính sách lãi suất của ngân hàng Trung ương lên nền kinh tế thực và lạm phát

vẫn còn là một câu hỏi mở.

Trƣớc bối cảnh đó, đề tài này đƣợc thực hiện với mục tiêu:

Đưa ra bằng chứng thực nghiệm về một số kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ ở Việt

Nam giai đoạn 1999 – 2013 bằng mô hình SVAR. Cụ thể, ngoài việc đánh giá mức

độ tác động của CSTT lên nền kinh tế thực, bài nghiên cứu này giúp giải mã phần

nào bí ẩn “Hộp đen” – tức đánh giá hiệu quả của các kênh truyền dẫn đối với trường

hợp Việt Nam để từ đó có một cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về cơ chế hoạt động

của nền kinh tế mở nhỏ như nước ta.

_ 4 _

Trong đó, tác giả tập trung giải quyết các câu hỏi nghiên cứu sau:

(1) Chính sách tiền tệ Việt Nam có tác động như thế nào lên kinh tế thực?

(2) Mức độ tác động của các cú sốc chính sách tiền tệ lên sản lượng thực và lạm

phát trong nước?

(3) Cơ chế tác động truyền dẫn thông qua những kênh nào?

(4) Các yếu tố nước ngoài như giá dầu thế giới và lãi suất cơ bản liên bang Mỹ

(FFR) có vai trò như thế nào đối với các biến số kinh tế vĩ mô trong nước và

quyết định điều hành chính sách tiền tệ?

Ngoài phần tóm lƣợc, cấu trúc của bài nghiên cứu gồm:

 Phần 1: Giới thiệu về bài nghiên cứu;

 Phần 2: Khung lý thuyết & tóm lược các nghiên cứu trước đây;

 Phần 3: phương pháp nghiên cứu;

 Phần 4: Kết quả thực nghiệm;

 Phần 5: Thảo luận về kết quả;

 Và Phần cuối cùng: Một số kết luận chính.

2. KHUNG LÝ THUYẾT VÀ TÓM LƢỢC CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY

Tác động của các điều kiện tiền tệ lên các biến số kinh tế vĩ mô luôn là mối quan

tâm đặc biệt của các nhà hoạch định chính sách trong những năm gần đây. Các

nghiên cứu tiêu biểu, có tầm ảnh hưởng lớn sẽ được tóm lược trong phần này. Trước

hết là khung lý thuyết về chính sách tiền tệ, truyền dẫn chính sách tiền tệ; kế đến là

các kết quả nghiên cứu thực nghiệm trong nước và thế giới.

_ 5 _

2.1. Khung lý thuyết về chính sách tiền tệ

Các cuộc khủng hoảng kinh tế và tình trạng thất nghiệp nghiêm trọng diễn ra thường

xuyên những năm 30 của thế kỷ 20 tại các nền kinh tế Tây Âu và Hoa Kỳ; đặc biệt

là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 cho thấy học thuyết "Tự điều tiết"

của trường phái cổ điển và tân cổ điển là chưa toàn diện. Lý thuyết "Bàn tay vô

hình" của A. Smith, học thuyết "Cân bằng tổng quát" của L. Walras cũng không

phát huy được hiệu quả và bảo đảm nền kinh tế phát triển khỏe mạnh. Trong bối

cảnh đó, lý thuyết kinh tế của John Maynard Keynes hình thành và phát triển.

Theo Keynes, nền kinh tế không phải lúc nào cũng đạt đến mức sản lượng tiềm

năng nhờ cơ chế tự điều chỉnh, trong khi sự giảm sút tương đối cầu tiêu dùng là xu

hướng của mọi xã hội tiên tiến, đồng thời là nguyên nhân gây ra tình trạng nền kinh

tế trì trệ, suy giảm tăng trưởng kinh tế. Khi nghiên cứu khía cạnh tiêu dùng cho đầu

tư, Keynes nhấn mạnh vai trò của lãi suất trong việc khuyến khích/ kìm hãm đầu tư,

từ đó ảnh hưởng đến tổng sản lượng của nền kinh tế. Ông đặc biệt đề cao vai trò của

chính phủ trong điều hành kinh tế để đảm bảo sự cân bằng kinh tế, khắc phục thất

nghiệp, khủng hoảng và duy trì tăng trưởng. Chính phủ có thể can thiệp vào nền

kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng thông qua các hoạt động: đầu tư nhà nước; hệ

thống tài chính tín dụng và lưu thông tiền tệ; các hình thức khuyến khích tiêu dùng.

Trong đó hệ thống tài chính, tín dụng có vai trò quan trọng trong việc kích thích

lòng tin, tính lạc quan và tích cực đầu tư của các nhà kinh doanh. Nhà nước có thể

đưa thêm tiền vào lưu thông để giảm lãi suất cho vay, khuyến khích nhà kinh doanh

mở rộng quy mô đầu tư. Tuy vậy, Keynes không tin rằng lãi suất sẽ làm cho tiết

kiệm bằng đầu tư. Quan điểm “bẫy thanh khoản” của ông cho rằng lãi suất là cái giá

của sự thiếu thanh khoản: nói cách khác, là cái giá mà người ta phải trả để thoát khỏi

tiền mặt và đầu tư vào tài sản. Tiền có chức năng lưu trữ giá trị cũng như là phương

tiện thực hiện giao dịch. Khi mức rủi ro tăng lên, người giữ tiền mặt sẽ phải trả

nhiều hơn để chuyển tiền mặt vào tài sản, với điều kiện họ muốn đầu tư. Khi khủng

_ 6 _

hoảng tài chính ở đỉnh điểm, lãi suất có thể tăng mạnh khi các con nợ đổ xô tìm tiền

mặt còn chủ nợ thì kìm giữ tiền mặt. Ngân hàng trung ương phải hành động nhanh

để tạo thanh khoản cho thị trường và ngăn chặn tình huống mọi người đều tìm nơi

nương tựa là tiền mặt và chẳng ai muốn cho vay.

Về kênh đầu tư nhà nước, chính phủ có thể tăng chi tiêu công, trợ cấp về tài chính, tín

dụng để kích thích tổng cầu của nền kinh tế. Đồng thời, để tăng hiệu quả tư bản, ông

chủ trương “lạm phát có kiểm soát” để làm tăng giá cả hàng hoá nhờ đó các nhà kinh

doanh thu được lợi nhuận nhiều hơn (trong điều kiện chi phí sản xuất chưa thay đổi).

Có thể nói tác phẩm “Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của Keynes

là nền tảng cho sự phát triển của cả một ngành kinh tế học, là công trình được nhắc

đến và gây tranh cãi nhiều nhất đối với kinh tế học thế kỷ XX, có tác động sâu sắc đến

quan niệm về chính sách tiền tệ và vai trò của chính phủ.

Mishkin (1992, 1995, 1996, 2001) tiếp tục phát triển, bổ sung lý thuyết của trường

phái Keynes về vai trò của CSTT và các kênh truyền dẫn (kênh lãi suất, tỷ giá, tín

dụng và giá tài sản).

Theo ông, trong số các thành phần quan trọng của thị trường tài chính trên toàn thế

giới thì ngân hàng trung ương và các cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm về CSTT.

Hành động ngân hàng trung ương ảnh hưởng đến lãi suất, lượng tín dụng và cung

tiền, tất cả đều có ảnh hưởng trực tiếp không chỉ lên thị trường tài chính, mà còn lên

tổng sản lượng và lạm phát.

Bằng nghiên cứu thực nghiệm dựa trên lý thuyết ngang giá sức mua của Fisher

(1911), Keynes (1936), Friedman (1956) khi xem xét vận tốc lưu thông của tiền V

(V=P.Y/M) có phải là một hằng số qua thời gian hay không? Ông kết luận rằng cầu

tiền thì nhạy cảm với lãi suất, nhưng có rất ít bằng chứng cho thấy bẫy thanh khoản

đã từng tồn tại; và từ năm 1973, đã tìm thấy bằng chứng rằng cầu tiền không ổn

_ 7 _

định, với nguyên nhân có khả năng nhất của sự bất ổn là tốc độ đổi mới hệ thống tài

chính nhanh chóng.

Khi tiến hành nghiên cứu thực nghiệm dựa trên mô hình ISLM, Mishkin kết luận

rằng:

 Một sự gia tăng trong cung tiền làm tăng sản lượng cân bằng, nhưng làm giảm

lãi suất cân bằng.

 Cầu tiền càng ít nhạy cảm với lãi suất thì chính sách tiền tệ càng hiệu quả so với

chính sách tài khóa.

 Khi đường cong IS ít ổn định hơn so với đường cong LM, việc theo đuổi một

mục tiêu cung tiền làm cho biến động sản lượng nhỏ hơn so với việc theo đuổi

một mục tiêu lãi suất và được ưa thích hơn; khi đường cong LM là ít ổn định

hơn đường cong IS, việc theo đuổi một mục tiêu lãi suất dẫn đến biến động sản

lượng nhỏ hơn và được ưa thích hơn.

 Kết luận từ việc kiểm tra những gì xảy ra trong mô hình ISLM khi mở rộng tiền

tệ hay tài khóa cho thấy rằng mặc dù chính sách tiền tệ và tài khóa có thể ảnh

hưởng đến sản lượng trong ngắn hạn, nhưng không ảnh hưởng lên sản lượng

trong dài hạn.

 Đường cầu tổng hợp cho chúng ta biết mức tổng sản lượng phù hợp với trạng

thái cân bằng trong thị trường hàng hóa và thị trường tiền với bất kỳ mức giá

nào cho trước. Nó dốc xuống vì mức giá thấp hơn tạo ra mức cung tiền thực cao

hơn, lãi suất thấp hơn, và làm gia tăng sản lượng cân bằng. Đường tổng cầu dịch

chuyển cùng hướng với đường IS và LM; do đó nó dịch chuyển sang bên phải

khi chính phủ tăng chi tiêu, giảm thuế, “tinh thần bầy đàn” khuyến khích người

tiêu dùng và doanh nghiệp chi tiêu, xuất khẩu ròng tăng độc lập cung tiền tăng

hay cầu tiền giảm.

Đồng thời, khi nghiên cứu mối quan hệ giữa tài chính quốc tế và CSTT, Mishkin kết

luận tỷ giá hối đoái được xác định trong ngắn hạn bởi các điều kiện cân bằng lãi

_ 8 _

suất. Bất kỳ yếu tố làm thay đổi lợi nhuận kỳ vọng của tiền gửi trong nước hoặc

nước ngoài sẽ dẫn đến những thay đổi trong tỷ giá. Yếu tố này bao gồm những thay

đổi trong lãi suất tiền gửi trong nước và nước ngoài cũng như những thay đổi trong

bất kỳ trong những yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái dài hạn và do đó tác động

lên tỷ giá tương lai kỳ vọng. Cụ thể khi lãi suất thực trong nước tăng lên, đồng nội tệ

đánh giá cao; khi lãi suất trong nước tăng lên do sự gia tăng dự kiến trong lạm phát,

đồng nội tệ mất giá. Những thay đổi trong chính cung tiền dẫn đến bùng nổ tỷ giá

làm tỷ giá hối đoái thay đổi nhiều hơn trong ngắn hạn. Sau đó, đến lượt nó, chính tỷ

giá sẽ tác động lên cán cân thương mại quốc gia và do vậy ảnh hưởng đến nền kinh

tế quốc gia.

Nói tóm lại, các lý thuyết kinh tế vĩ mô truyền thống khẳng định rằng CSTT chắc

chắn có ảnh hưởng lên nền kinh tế thực (sản lượng, lạm phát, việc làm) và

NHTW, các cơ quan chính phủ phải đóng vai trò là đơn vị điều hành nền kinh tế

hướng đến các mục tiêu.

2.2. Khung lý thuyết về các kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ

Mishkin (1995, 1996 và 2001) hệ thống toàn bộ lý thuyết về hoạt động của các kênh

khác nhau truyền dẫn CSTT, cụ thể:

2.2.1. Truyền dẫn chính sách tiền tệ thông qua kênh lãi suất

Kênh lãi suất là kênh cơ bản được đề cập tới trong nhiều lý thuyết kinh tế trong hơn

50 năm qua và là cơ chế truyền dẫn tiền tệ quan trọng trong mô hình IS –LM của

trường phái Keynes, nền tảng của lý thuyết kinh tế học vĩ mô hiện nay. Quan điểm

của phái Keynes với mô hình IS-LM phát biểu rằng nới lỏng CSTT, khiến lãi suất

thực giảm, do đó làm giảm chi phí vốn, dẫn đến tăng chi tiêu cho đầu tư, từ đó dẫn

đến tăng tổng cầu và tăng sản lượng.

M   IR   I   Y  (1)

_ 9 _

Một điểm quan trọng của kênh lãi suất này là nhấn mạnh vào lãi suất thực hơn lãi

suất danh nghĩa khi lãi suất có ảnh hưởng tới đến quyết định của doanh nghiệp và

người tiêu dùng. Thêm vào đó, cơ chế này cho rằng lãi suất thực tế dài hạn chứ

không phải lãi suất thực tế ngắn hạn mới tác động mạnh đến chi tiêu. Làm thế nào

để sự thay đổi lãi suất danh nghĩa ngắn hạn mà NHTW đưa ra dẫn đến một sự thay

đổi tương ứng ở mức lãi suất thực trên cả trái phiếu ngắn và dài hạn? Điểm quan

trọng ở đây là giá cả có tính cố định, do đó khi CSTT nới lỏng làm giảm lãi suất

danh nghĩa trong ngắn hạn cũng đồng thời làm giảm lãi suất thực ngắn hạn; điều này

sẽ vẫn đúng ngay cả khi có các kỳ vọng hợp lý. Lý thuyết kỳ vọng về cấu trúc kỳ

hạn phát biểu rằng lãi suất dài hạn là trung bình của các lãi suất ngắn hạn trong

tương lai, tức là việc giảm lãi suất thực ngắn hạn sẽ làm giảm lãi suất thực dài hạn.

Mức lãi suất thực thấp hơn này sẽ làm tăng đầu tư tài sản cố định của doanh nghiệp,

đầu tư nhà ở, chi tiêu hàng lâu bền và đầu tư hàng tồn kho và kết quả là làm gia tăng

tổng sản lượng.

Việc lãi suất thực có tác động đến chi tiêu chứ không phải là lãi suất danh nghĩa cho

thấy một cơ chế quan trọng cho CSTT kích thích nền kinh tế như thế nào, ngay cả

trong trường hợp lãi suất danh nghĩa chạm sàn trong thời kỳ lạm phát. Khi lãi suất

danh nghĩa ở mức 0%, một sự mở rộng cung tiền tệ (M ) có thể tăng mức giá dự

kiến (Pe ) khiến lạm phát dự kiến tăng ( ) qua đó giảm mức lãi suất thực ( IR

); ngay cả khi lãi suất danh nghĩa cố định ở 0 %, vẫn khuyến khích chi tiêu thông

qua kênh truyền dẫn bằng lãi suất đã nêu ở trên.

M   Pe     IR   I   Y  (2)

Cơ chế này vì thế chỉ ra rằng CSTT vẫn còn hiệu lực thậm chí khi lãi suất danh

nghĩa bằng 0. Thực vậy, cơ chế này là thảo luận chủ yếu của các nhà kinh tế theo

chủ thuyết tiền tệ về lý do tại sao kinh tế Mỹ không bị kẹt vào bẩy thanh khoản

trong suốt thời kỳ Đại suy thoái và tại sao CSTT mở rộng đã ngăn chặn sự sụt giảm

mạnh mẽ trong sản lượng suốt thời kỳ này.

_ 10 _

2.2.2. Truyền dẫn chính sách tiền tệ thông qua kênh giá tài sản khác

Các nhà kinh tế theo chủ thuyết tiền tệ đã phác thảo ra kênh truyền dẫn mà trong đó

giá các tài sản tương đối khác và hiệu ứng truyền dẫn tiền tệ của sự giàu có lên nền

kinh tế. Việc công nhận những kênh khác này là đặc điểm của các mô hình kinh tế

vĩ mô được xây dựng bởi trường phái Keynes như Franco Modiglian và Mishkin,

những người tìm thấy các hiệu ứng giá tài sản khác như là một kênh truyền dẫn tiền

tệ quan trọng. Hai tài sản chính yếu ngoài trái phiếu nhận được sự chú ý mạnh mẽ

của các học giả là tỷ giá và cổ phần.

a. Kênh tỷ giá

Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái lên xuất khẩu ròng trở thành một kênh truyền dẫn

CSTT quan trọng. CSTT mở rộng làm lãi suất thực giảm thì tiền gửi trong nước kém

hấp dẫn hơn tạo ra áp lực giảm giá đồng nội tệ. Giá trị đồng nội tệ giảm giá làm cho

hàng hóa trong nước trở nên rẻ hơn. Điều này khiến xuất khẩu gia tăng. Xuất khẩu

tăng làm gia tăng xuất khẩu ròng vì vậy mà sản lượng tăng.

M   IR   E   NX   Y  (3)

b. Kênh giá cổ phần

Có hai kênh liên quan đến giá cổ phần đóng vai trò quan trọng trong cơ chế truyền

dẫn tiền tệ: Đó là lý thuyết đầu tư Tobin‟s q và hiệu ứng của cải lên tiêu dùng.

Lý thuyết Tobin’s q đưa ra cơ chế mà thông qua đó CSTT tác động lên nền kinh tế

thông qua hiệu ứng của chúng lên việc định giá cổ phần (Tobin(1969)). Tobin định

nghĩa q là giá trị thị trường của công ty chia cho chi phí thay thế vốn. Nếu q cao, giá

trị thị trường của công ty cao tương đối so với chi phí thay thế của vốn và vốn thiết

bị mới rẻ hơn so với giá trị thị trường của công ty. Các công ty sau đó có thể phát

hành cổ phần và có được giá cao hơn so với chi phí nhà máy và thiết bị mà họ đang

mua. Như vậy, chi tiêu đầu tư sẽ tăng bởi vì công ty có thể mua nhiều hàng hóa đầu

tư mới với chỉ một phát hành cổ phần nhỏ.

_ 11 _

Ngược lại, khi q thấp các công ty sẽ không mua sắm đầu tư mới bởi vì giá trị thị

trường của công ty thấp so với chi phí vốn. Nếu công ty muốn huy động vốn khi q

thấp, họ có thể mua công ty khác rẻ hơn bằng nguồn vốn cũ của mình. Chi tiêu đầu

tư vì vậy sẽ giảm đi.

Vấn đề của thảo luận này là mối liên kết tồn tại giữa Tobin‟s q và chi tiêu đầu tư,

nhưng CSTT tác động như thế nào đến giá cổ phần? Trong câu chuyện của các nhà

kinh tế theo chủ thuyết tiền tệ, khi cung tiền tăng, công chúng thấy mình có tiền

nhiều hơn nên chi tiêu nhiều hơn. Nơi người dân có thể chi tiêu nhiều hơn là thị

trường chứng khoán. Một sự gia tăng trong cầu cổ phần làm cho giá cổ phần tăng.

Câu chuyện của trường phái kinh tế học Keynes cũng dẫn đến kết luận tương tự bởi

vì sự sụt giảm trong lãi suất bắt nguồn từ CSTT mở rộng làm cho trái phiếu ít hấp

dẫn hơn cổ phiếu, do đó làm cho giá cổ phiếu tăng lên. Kết hợp những quan điểm

này với việc giá cổ phần cao hơn (Pe tăng) sẽ dẫn đến q cao hơn (q tăng) và do đó

chi tiêu đầu tư cao hơn (I tăng) và sản lượng tăng.

M   Pe   q   I   Y  (4)

c. Hiệu ứng của cải

Modigliani (1986) đã triển khai mô hình MPS cho kênh hiệu ứng của cải. Trong mô

hình chu kỳ sống của Modigliani, chi tiêu tiêu dùng được xác định bởi các nguồn

lực của người tiêu dùng. Nguồn lực này được hình thành từ vốn thực, vốn con người

và của cải tài chính. Một thành phần chính của của cải tài chính là vốn cổ phần. Khi

giá cổ phần tăng, giá trị của cải tài chính tăng, làm gia tăng nguồn lực của người tiêu

dùng và do đó tiêu dùng tăng theo. Bởi vì chúng ta đã từng thấy CSTT có thể làm

gia tăng giá cổ phần, khi đó chúng ta có kênh truyền dẫn CSTT khác:

M   Pe   Của cải   Tiêu dùng   Y  (5)

_ 12 _

d. Kênh giá đất và giá nhà

Cả hai kênh của cải và Tobin‟s q mô tả trên cho phép nhận một định nghĩa tổng quát

nhất về vốn cổ phần. Có thể ứng dụng đơn giản khuôn khổ Tobin‟s q đối với thị

trường nhà đất, nơi mà chúng ta xem nhà chính là cổ phần. Một sự gia tăng trong giá

nhà làm gia tăng giá của chúng so với chi phí thay thế dẫn đến một sự gia tăng

trong Tobin‟s q của nhà cửa, từ đó kích thích thị trường nhà đất phát triển. Tương tự,

giá nhà và giá đất là thành phần rất quan trọng trong của cải. Vì thế một sự gia tăng

trong giá nhà và giá đất làm tăng của cải và do đó làm tăng tiêu dùng. Mở rộng tiền

tệ làm gia tăng giá đất và nhà thông qua cơ chế được miêu tả ở phần trên vì thế dẫn

đến gia tăng trong tổng cầu. Do đó kênh cơ chế truyền dẫn tiền tệ cũng vận hành

thông qua kênh giá nhà và đất.

2.2.3. Truyền dẫn chính sách tiền tệ thông qua kênh tín dụng

Xuất phát từ vấn đề thông tin trên thị trường tín dụng, có hai kênh cơ bản của truyền

dẫn tiền tệ: kênh cho vay của ngân hàng và kênh bảng cân đối kế toán.

a. Kênh cho vay ngân hàng

Kênh cho vay ngân hàng dựa trên quan điểm ngân hàng đóng vai trò đặc biệt trong hệ

thống tài chính bởi vì chúng được thiết kế một cách đặc biệt để giải quyết những vấn

đề thông tin bất cân xứng trên thị trường tín dụng. Do vai trò đặc biệt của ngân hàng,

người đi vay sẽ không tiếp cận được thị trường tín dụng trừ phi họ vay từ ngân hàng.

Một cách giải thích thứ 2 thông qua bảng cân đối kế toán Ngân hàng. Ngân hàng

thường sử dụng bất động sản như một tài sản đảm bảo. Khi mở rộng tiền tệ làm giá

bất động sản tăng, khi đó khả năng mất khoản nợ ngân hàng tăng, làm tăng nguồn

vốn của ngân hàng, do đó khả năng cho vay của ngân hàng cũng sẽ tăng. Do vai trò

đặc biệt của ngân hàng, có rất nhiều khách hàng phụ thuộc vào họ, vì vậy đầu tư và

tổng cầu sẽ tăng.

_ 13 _

M   Tiền gửi   Cho vay   I   Y  (6)

b. Kênh bảng cân đối kế toán

Kênh bảng cân đối kế toán xuất phát từ vấn đề thông tin bất cân xứng trên thị trường

tín dụng. Giá trị ròng của các doanh nghiệp càng giảm thì vấn đề rủi ro đạo đức và

lựa chọn đối nghịch càng trở nên nghiêm trọng khi ngân hàng cho doanh nghiệp này

vay. Giá trị ròng thấp hơn nghĩa là người cho vay nhận tài sản thế chấp ít hơn khoản

cho vay, và vì thế thiệt hại từ lựa chọn đối nghịch cao hơn. Một sự sụt giảm trong

giá trị ròng làm gia tăng vấn đề lựa chọn đối nghịch vì vậy dẫn đến sự sụt giảm

trong cho vay để tài trợ cho chi tiêu đầu tư. Giá trị ròng thấp hơn của các doanh

nghiệp cũng làm gia tăng vấn đề rủi ro đạo đức bởi vì những người chủ sở hữu có

vốn cổ phần thấp hơn có động cơ để tham gia vào các trò đầu tư lệch lạc. Bởi vì đầu

tư vào các dự án rủi ro cao hơn có khả năng làm cho chủ nợ bị thiệt hại, một sự sụt

giảm trong giá trị ròng của doanh nghiệp làm cho vay sụt giảm và do đó chi tiêu đầu

tư cũng giảm đi.

CSTT có thể tác động đến bảng cân đối kế toán theo nhiều cách. Trước hết chúng ta

xem việc mở rộng tiền tệ (M) làm gia tăng vốn cổ phần (Pe), làm cho giá trị

ròng của doanh nghiệp tăng lên vì thế chi tiêu đầu tư cao hơn (I) và tổng nhu cầu

tăng ( Y ) bởi vì có sự sụt giảm trong lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức:

M  Pe  Lựa chọn đối nghịch&rủi ro đạo đức   Cho vay   I  Y (7)

Thứ hai, CSTT mở rộng làm giảm lãi suất danh nghĩa, từ đó cải thiện bảng cân đối

kế toán của doanh nghiệp do dòng tiền tăng lên. Điều này làm giảm rủi ro đạo đức

và lựa chọn đối nghịch. Như vậy, cơ chế truyền dẫn tiền tệ theo kênh khác của bảng

cân đối kế toán như sau:

M  IN  Dòng tiền   Lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức   (8) Cho vay   I  Y (*)

_ 14 _

Một đặc điểm quan trọng của kênh truyền dẫn này là lãi suất danh nghĩa tác động

đến dòng tiền của doanh nghiệp. Như vậy, kênh truyền dẫn lãi suất này khác với

kênh truyền dẫn lãi suất truyền thống trước đây là lãi suất thực chứ không phải lãi

suất danh nghĩa tác động đến đầu tư. Thêm vào đó, lãi suất ngắn hạn đóng vai trò

đặc biệt trong kênh truyền dẫn này bởi vì việc chi trả lãi suất trên nợ ngắn hạn thay

vì nợ dài hạn có tác động mạnh nhất lên dòng tiền của công ty.

Cơ chế có liên quan đến việc lựa chọn đối nghịch thông qua đó CSTT mở rộng làm

giảm lãi suất có thể kích thích tổng sản lượng bao gồm hiện tượng tín dụng hợp lý

(credit rationing). Theo Stiglits và Weiss(1981) tín dụng hợp lý xảy ra trong trường

hợp người đi vay nợ bị từ chối cho vay khi họ chấp nhận chi trả lãi suất cao hơn bởi

vì các cá nhân và doanh nghiệp với dự án đầu tư quá rủi ro sẽ là người hưởng lợi

chính. Như vậy, lãi suất cao hơn làm gia tăng lựa chọn đối nghịch còn lãi suất thấp

hơn sẽ làm giảm lựa chọn đối nghịch. Khi CSTT mở rộng làm giảm lãi suất, người

đi vay có thiên hướng ít chấp nhận rủi ro chiếm tỷ phần lớn trong tổng lượng cho

vay và như thể chủ nợ sẽ sẵn lòng cho vay hơn. Điều này làm gia tăng cả đầu tư và

sản lượng giống như các cơ chế truyền dẫn trên.

Kênh truyền dẫn tiền tệ thứ ba thông qua bảng cân đối kế toán là tác động lên mức

giá chung. Bởi vì việc thanh toán nợ được cố định theo danh nghĩa, một sự gia tăng

không kỳ vọng trong mức giá chung sẽ làm giảm giá trị khoản nợ thực của công ty

(giảm gánh nặng nợ) nhưng không làm giảm giá trị thực tài sản công ty. Việc mở

rộng tiền tệ dẫn đến gia tăng không kỳ vọng trong mức giá chung (P tăng). Do đó sẽ

làm gia tăng giá trị thuần thực. Điều này làm giảm lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo

đức, do đó chi tiêu đầu tư và tổng sản lượng sẽ tăng lên:

M  Mức giá chung không kỳ vọng  

(9) Lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức   Cho vay   I  Y

_ 15 _

Quan điểm mà các biến động không kỳ vọng trong mức giá chung có hiệu ứng quan

trọng lên tổng cầu có truyền thống lâu đời trong kinh tế học: đây là đặc điểm chính

trong quan điểm nợ - giảm phát trong thời kỳ Đại suy thoái được phát triển bởi

Irving Fisher (1983).

c. Hiệu ứng bảng cân đối kế toán hộ gia đình

Mặc dù hầu hết các nghiên cứu trước đây về kênh tín dụng tập trung vào chi tiêu của

doanh nghiệp, kênh tín dụng cũng có ý nghĩa tương tự như chi tiêu tiêu dùng, đặc

biệt là hàng hóa lâu bền và nhà cửa. Sự sụt giảm trong cho vay ngân hàng do thắt

chặt tiền tệ gây ra một sự sụt giảm trong sức mua nhà và hàng hóa lâu bền của người

tiêu dùng, là những người không tiếp cận được nguồn tín dụng khác. Tương tự, sự

gia tăng trong lãi suất gây biến dạng trong bảng cân đối kế toán hộ gia đình do dòng

tiền của người tiêu dùng bị tác động bất lợi.

Một cách khác để xem xét bảng cân đối kế toán hoạt động như thế nào thông qua

người tiêu dùng là xem xét hiệu ứng thanh khoản lên chi tiêu nhà cửa và hàng hóa

lâu bền. Đây là các nhân tố quan trọng được phát triển trong thời kỳ Đại suy thoái

(Mishkin 1978). Theo quan điểm hiệu ứng thanh khoản, hiệu ứng bảng kế toán

thông qua hoạt động của chúng lên mong đợi chi tiêu của người tiêu dùng chứ

không phải dự định cho vay của chủ nợ. Bời vì thông tin bất cân xứng về dự định

trong tương lai của họ, làm cho hàng hóa lâu bền và nhà cửa mất tính thanh khoản.

Nếu kết quả không tốt cho thu nhập của người tiêu dùng thì họ cần bán hàng hóa lâu

bền và nhà cửa của họ để có tiền, họ sẽ kỳ vọng một khoản lỗ vì họ không nhận

được giá trị đầy đủ của tài sản trong bối cảnh thị trường trầm lắng. (Điều này chỉ là

sự khếch đại của vấn đề “lemon problem” (Akerloff 1970)). Ngược lại, nếu người

tiêu dùng nắm giữ các tài sản chính (như tiền trong ngân hàng, cổ phiếu, trái phiếu)

thì họ sẽ dễ dàng chuyển chúng sang tiền mặt. Như vậy, nếu người tiêu dùng kỳ

vọng họ rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính thí họ sẽ ít nắm giữ tài sản ít thanh

khoản mà thay vào đó nhiều tài sản tài chính có tính thanh khoản cao hơn.

_ 16 _

Bảng cân đối kế toán của người tiêu dùng có ảnh hưởng quan trọng lên đánh giá khả

năng chịu đựng kiệt quệ tài chính của họ. Đặc biệt khi người tiêu dùng có một số

lượng lớn tài sản tài chính trên nợ của họ, xác suất rơi vào kiệt quệ tài chính thấp và

như vậy họ sẽ sẵn lòng mua hàng hóa lâu bền và nhà cửa. Khi giá cổ phần tăng thì

giá trị của các tài sản tài chính cũng tăng theo làm chi tiêu tiêu dùng hàng hóa lâu

bền tăng lên vì người tiêu dùng có vị thế tài chính an toàn, từ đó làm giảm khả năng

kiệt quệ tài chính. Điều này dẫn đến cơ chế truyền dẫn tiền tệ khác thông qua mối

liên kết giữa tiền và giá cổ phần.

M  Pe  Tài sản tài chính   Khả năng kiệt quệ tài chính   (10) Chi tiêu hàng hóa lâu bền   Y

Việc mất thanh khoản của hàng hóa lâu bền và nhà cửa cho thấy một lý do khác giải

thích tại sao thắt chặt tiền tệ làm gia tăng lãi suất và do đó làm giảm dòng tiền của

người tiêu dùng dẫn đến sụt giảm trong chi tiêu về hàng hóa lâu bền nhà cửa. Một sự

sụt giảm trong dòng tiền của người tiêu dùng sẽ làm gia tăng khả năng kiệt quệ tài

chính. Điều này làm giảm dự định của người tiêu dùng trong việc nắm giữ hàng hóa

lâu bền và nhà cửa, như vậy làm giảm chi tiêu trên các loại hàng hóa này và do đó

làm giảm tổng sản lượng.

2.3. Các kết quả nghiên cứu về tác động của các kênh truyền dẫn

2.3.1. Các quan điểm về truyền dẫn chính sách tiền tệ

Trong nghiên cứu, có một nhận định chung rằng CSTT ảnh hưởng đến nền kinh tế

thực ít nhất là trong ngắn hạn. Tuy nhiên, không có một tán thành chung về các kênh

mà qua đó CSTT ảnh hưởng đến hành vi của sản lượng và giá cả. Giải thích lý

thuyết về truyền dẫn CSTT đã phát triển trong những năm qua, với những giai đoạn

chính của cuộc khủng hoảng đóng một vai trò quan trọng trong thúc đẩy cải cách các

giáo lý trước đó.

_ 17 _

Keynes trong lý thuyết tổng quát của ông về sản lượng và việc làm đã mô tả tầm

quan trọng của kênh lãi suất truyền dẫn CSTT. Friedman và Schwartz (1963) nhấn

mạnh vai trò của cung tiền ngoài các tài sản khác. Giả thuyết chu kỳ sống của Ando

và Modigliani (1963) nhấn mạnh hiệu lực của sự giàu có, trong khi Tobin (1969)

nhấn mạnh tầm quan trọng của chi phí vốn và lựa chọn danh mục đầu tư trong việc

truyền dẫn CSTT.

Trong những năm gần đây, truyền dẫn CSTT là một vấn đề nghiên cứu sâu rộng đặc

biệt kể từ bài viết chuyên đề Bernanke vào năm 1986 trong đó cung cấp cách giải

thích khác về nguồn gốc thực tế và danh nghĩa của giá cả để giải thích mối quan hệ

tiền – thu nhập. Tuy nhiên, những phát hiện về hiệu quả của các kênh khác nhau của

truyền dẫn vẫn là một vấn đề chưa được giải quyết. Bernanke và Blinder (1988) đã

chỉ ra tầm quan trọng của kênh tín dụng truyền dẫn CSTT tại Mỹ. Tuy nhiên, Romer

và Romer (1990) lại không tìm thấy hỗ trợ nào cho kênh tín dụng truyền dẫn tiền tệ.

Việc thiếu một sự đồng thuận trên các kênh truyền dẫn tiền tệ có thể được nhìn thấy

rõ ràng từ các cuộc tranh luận trong Hội nghị chuyên đề về “truyền dẫn chính sách

tiền tệ” được công bố trên Tạp chí Triển vọng kinh tế năm 1995. Taylor (1995) sử

dụng một khung giá thị trường tài chính xem xét tác động truyền dẫn CSTT trên

GDP thực và giá cả, và tìm thấy kênh lãi suất truyền thống là một kênh quan trọng.

Obstfeld và Rogoff (1995) nhấn mạnh tầm quan trọng của kênh tỷ giá và kết luận

rằng việc thực hiện CSTT có ý nghĩa quốc tế. Meltzer (1995) nhấn mạnh lần nữa

việc truyền dẫn thông qua giá tài sản, vượt ra ngoài lãi suất, tỷ giá và giá cổ phiếu.

Bernanke và Gertler (1995) đã tranh luận về hiệu quả của kênh lãi suất. Họ cho rằng

CSTT ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn nhưng ít có tác động lên lãi suất dài hạn thứ

chỉ có thể có tác động lớn lên quyết định mua sắm tài sản lâu bền, ngụ ý sự không

hiệu quả của CSTT. Họ cho rằng các câu đố (Puzzle) có thể được giải quyết thông

qua các kênh tín dụng. Tuy nhiên, Edwards và Mishkin (1995) nghi ngờ tính hiệu

_ 18 _

quả của kênh tín dụng ngân hàng tranh luận rằng với những đổi mới tài chính, ngân

hàng ngày càng trở nên ít quan trọng trong thị trường tín dụng.

Mặc dù có các quan điểm lý thuyết khác nhau và thiếu sự đồng thuận, nhiều nghiên

cứu thực nghiệm đã cố gắng để xác định các kênh truyền dẫn CSTT khác nhau trên

một số quốc gia. Sử dụng phương pháp tiếp VECM , Ramey (1993) phát hiện ra

rằng các kênh tiền quan trọng hơn nhiều so với kênh tín dụng trong việc giải thích

hiệu ứng truyền dẫn trực tiếp của cú sốc CSTT lên nền kinh tế Mỹ. Nhận thức được

tầm quan trọng của những rào cản tài chính bất chấp sự phát triển của kinh tế vĩ mô ,

Bean và cộng sự (2002) nhấn mạnh sự bất cập của kênh lãi suất trong việc giải thích

tác động của cú sốc CSTT lên nhu cầu.

2.3.2. Truyền dẫn CSTT tại các nƣớc phát triển

Tại các quốc gia khu vực đồng Euro, Smets và Wouters (2002) thấy rằng cú sốc

CSTT thông qua kênh lãi suất ảnh hưởng đến sản lượng thực, tiêu dùng và nhu cầu

đầu tư. Angeloni và cộng sự (2003) cũng tìm thấy kênh lãi suất là kênh hoàn toàn

chiếm ưu thế của hiệu ứng truyền dẫn ở một số nước khu vực đồng euro. Những nơi

mà kênh lãi suất không chi phối, một trong hai kênh tín dụng ngân hàng hoặc kênh

truyền dẫn tài chính khác phát huy hiệu quả.

Khảo sát các nghiên cứu thực nghiệm về truyền tải CSTT sau đó, Loyaza và

Schmidt-Hebbel (2002) kết luận rằng kênh lãi suất truyền thống vẫn là kênh thích

hợp nhất ảnh hưởng đến sản lượng và giá cả, trong khi kênh tỷ giá hối đoái trở nên

quan trọng trong nền kinh tế mở. Khảo sát gần đây của Boivin và cộng sự (2010)

cũng kết luận rằng các kênh tân cổ điển, như lãi suất trực tiếp tác động lên chi tiêu

đầu tư, sự giàu có và ảnh hưởng thay thế liên thời gian lên tiêu dùng, và những tác

động thương mại thông qua tỷ giá, tiếp tục duy trì các kênh cốt lõi trong mô hình

kinh tế vĩ mô, trong khi có rất ít bằng chứng về hiệu lực của các kênh truyền dẫn

không phải tân cổ điển dựa trên nền tảng ngân hàng.

_ 19 _

Kết quả thực nghiệm cũng cho thấy thực tiễn CSTT của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ

(Fed) và Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB ) trong thời gian 2001-2007 là khác

nhau. Trong thời gian này, FED cắt giảm lãi suất mạnh mẽ hơn ECB. Bằng cách so

sánh với Fed, ECB đi theo một con đường thận trọng hơn. Sử dụng mô hình DSGE

với cọ xát tài chính, Christiano và cộng sự (2008) phát hiện ra rằng các hành động

chính sách của ECB có ảnh hưởng ổn định hơn so với của Fed. Kết quả là, một cuộc

suy thoái nghiêm trọng tiềm tàng chỉ có thể ở mức làm sản lượng sản xuất giảm, và

lạm phát không bao giờ đi chệch khỏi mức phù hợp với xác định định lượng của

ECB về ổn định giá cả. Các yếu tố khác tính đến sản lượng kinh tế khác nhau trong

khu vực đồng euro và Mỹ bao gồm sự khác biệt trong những cú sốc và sự khác biệt

trong mức lương và tính linh hoạt giá cả.

2.3.3. Truyền dẫn CSTT tại các nền kinh tế mới nổi, đang phát triển (EDEs)

Một số nghiên cứu cũng đã khảo sát hiệu quả của các kênh khác nhau trong EDEs

với kết quả trái ngược nhau. Sử dụng khung VAR, Disyatatand Vongsinsirikul

(2003), ở Thái Lan, tìm thấy rằng bên cạnh kênh truyền thống lãi suất, các ngân

hàng đóng vai trò quan trọng trong cơ chế truyền dẫn CSTT, trong khi tỷ giá hối

đoái và các kênh giá tài sản tương đối ít quan trọng. Tại Sri Lanka, Amarasekara

(2008) tìm thấy kênh lãi suất là quan trọng cho truyền tải CSTT. Đối với

Philippines, Bayangos (2010) phát hiện kênh tín dụng truyền dẫn tiền tệ là quan

trọng. Trong trường hợp của Nam Phi, Kabundi và Nonhlanhla (2011) sử dụng một

khung FAVAR kết luận rằng cú sốc CSTT có tác động ngắn hạn lên cả kinh tế thực

và giá cả, và, ngoài kênh lãi suất, kênh tín nhiệm là quan trọng trong truyền dẫn

CSTT. Ncube và Ndou (2011) cho thấy CSTT thắt chặt ở Nam Phi có thể làm giảm

áp lực lạm phát thông qua sự giàu có của hộ gia đình và kênh tín dụng.

Mohanty và Turner (2008) lập luận rằng các khuôn khổ CSTT đáng tin cậy đặt

trong các quốc gia EMEs những năm gần đây đã tăng sức mạnh của kênh lãi suất

trong truyền dẫn CSTT. Mukherjee và Bhattacharya (2011) phát hiện kênh lãi

_ 20 _

suất tác động lên tiêu dùng tư nhân và đầu tư tại EMEs, và không vì mục tiêu lạm

phát. Acosta - Ormaechea và Coble (2011) so sánh việc truyền tải CSTT trong nền

kinh tế sử dụng đồng đô-la và không sử dụng đồng đô-la tìm thấy rằng kênh lãi suất

truyền thống thì đóng vai trò quan trọng hơn ở Chile và New Zealand trong khi các

kênh tỷ giá hối đoái đóng một vai trò quan trọng hơn trong việc kiểm soát áp lực

lạm phát ở Peru và Uruguay.

Mặt khác, một số nghiên cứu đã tranh luận rằng truyền dẫn CSTT là yếu trong

EMEs và các nước có thu nhập thấp. Xem xét truyền dẫn CSTT ở các nước có thu

nhập thấp, Mishra và cộng sự (2010) phát hiện ra rằng cơ chế thể chế yếu kém làm

suy yếu hiệu quả của kênh truyền dẫn CSTT truyền thống như lãi suất, cho vay ngân

hàng và giá tài sản. Tương tự, đối với nhóm các quốc gia EMEs, Bhattacharya và

cộng sự (2011) lập luận rằng sự yếu kém trong hệ thống tài chính trong nước và sự

hiện diện của một khu vực không chính thức lớn và phân khúc dẫn đến truyền dẫn

CSTT không hiệu quả. Dựa trên mô hình VECM, họ đề nghị rằng cơ chế hiệu quả

nhất của CSTT ảnh hưởng đến lạm phát là thông qua các kênh tỷ giá hối đoái, trong

khi lãi suất không ảnh hưởng đến tổng cầu.

Nhiều nghiên cứu cũng đã xem xét tầm quan trọng của các kênh khác nhau của

truyền dẫn CSTT ở Ấn Độ. Al- Mashat (2003) sử dụng mô hình VECM cấu trúc

cho giai đoạn năm 1980:Q1 đến 2002:Q4, tìm thấy rằng kênh lãi suất và tỷ giá hối

đoái là quan trọng trong truyền dẫn cú sốc CSTT lên các biến số kinh tế vĩ mô quan

trọng. Cho vay ngân hàng không phải là một kênh quan trọng do sự hiện diện của

việc cho vay trực tiếp trong lĩnh vực ưu tiên. Mặt khác, Aleem (2010) nghiên cứu

kênh tín dụng, kênh giá tài sản và kênh tỷ giá hối đoái của truyền dẫn CSTT sử dụng

mô hình VAR cho giai đoạn 1996:Q4 năm 2007:Q4 thấy rằng kênh tín dụng là kênh

duy nhất quan trọng trong truyền dẫn tiền tệ Ấn Độ.

The RBI Working Group on Money Supply (Chairman: Y.V. Reddy, 1998) chỉ

ra một số bằng chứng của kênh lãi suất truyền dẫn tiền tệ. RBI (2005) sử dụng

_ 21 _

khung VAR cho giai đoạn 1994-95 đến 2003-04 phát hiện rằng thắt chặt tiền tệ

thông qua một cú sốc dương trên lãi suất Ngân hàng có tác động tiêu cực dự kiến lên

sản lượng và giá cả với tác động tối đa đạt được sau khoảng 6 tháng. Việc nới lỏng

tiền tệ thông qua một cú sốc dương trên cung tiền rộng có tác động tích cực lên sản

lượng và giá cả với tác động tối đa xảy ra sau khoảng lần lượt hai (2) năm và một

(1) năm. Thêm vào đó, sự mất giá của đồng nội tệ làm gia tăng giá cả hàng hóa với

tác động tối đa đạt được sau 6 tháng và tác động dương lên sản lượng.

Sử dụng phương pháp cointergrated VAR, Singh và Kalirajan (2007) cho thấy tầm

quan trọng của lãi suất như các biến chính sách quan trọng để thực hiện CSTT trong

bài – tự do hóa nền kinh tế Ấn Độ, với dự trữ bắt buộc(CRR) đóng vai trò bổ sung.

Patra và Kapur (2010) cũng tìm thấy tổng cầu đáp ứng lại những thay đổi trong lãi

suất với độ trễ ít nhất là ba (3) quý. Tuy nhiên, họ chỉ ra rằng sự hiện diện của

những rào cản về thể chế trong thị trường tín dụng như lãi suất có quản lý có thể làm

cho CSTT tác động dai dẳng đến hai năm. Bhaumik và cộng sự (2010) nhấn mạnh

tầm quan trọng của sở hữu ngân hàng trong truyền dẫn CSTT thông qua các kênh tín

dụng. Pandit và Vashisht (2011) tìm thấy kênh lãi suất chính sách của cơ chế

truyền dẫn, một dạng lai hợp của kênh lãi suất truyền thống và kênh tín dụng, hoạt

động ở Ấn Độ, như trong 6 EMEs khác mà họ xem xét.

Soo Y Chua (2012) nghiên cứu tác động của các cú sốc CSTT do tăng lãi suất trên

một loạt các biến số kinh tế vĩ mô tại Malaysia (gồm: sản xuất công nghiệp, lạm

phát, chứng khoán chính phủ, khối tiền tệ, thị trường chứng khoán, tỷ giá, việc làm,

doanh số bán lẻ và niềm tin tiêu dùng), sử dụng mô hình Vectơ tự hồi quy tăng thêm

nhân tố (Factor Augmented Vector Autoregression (FAVAR)) bằng cách kết hợp

phân tích nhân tố và vectơ tự hồi quy, trên chuỗi dữ liệu theo tháng từ tháng 3/2000

đến tháng 10/2010. Kết quả từ các hàm phản ứng xung cho thấy mô hình FAVAR

có thể giảm thiểu tác động của các puzzle giá so với các mô hình VAR truyền thống.

Một kiểm tra chặt chẽ độ trễ của các phản ứng trên cùng bộ dữ liệu cho ra các kết

_ 22 _

quả khác nhau, ví dụ, các khoản vay ngân hàng, tỷ giá hối đoái, nhập khẩu và chi

tiêu dài hạn phản ứng ngay lập tức đối với thu hẹp tiền tệ; trong khi biến lao động,

xuất khẩu và IPI phản hồi những cú sốc tiền tệ với độ trễ khoảng 6 tháng. Nhìn

chung, kết quả của các biến số kinh tế vĩ mô khác phù hợp với lý thuyết kinh tế và

cung cấp một cái nhìn toàn diện hơn về nền kinh tế.

Deepak Mohanty (2012) nghiên cứu truyền dẫn CSTT thông qua kênh lãi suất dựa

trên bộ dữ liệu quý từ 1996-97:Q1 đến 2010-11:Q4 tại Ấn Độ bằng phương pháp

SVAR với mô hình nghiên cứu theo thứ tự: sản lượng, lạm phát, lãi suất chính sách

và cung tiền (hay tín dụng); tác giả sau đó kiểm định độ vững chắc bằng 24 mô hình

thay thế khác khi thay đổi phương pháp đo lường của các biến trong mô hình.

Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng với sự phát triển của thị trường tài chính trong

nước và bãi bỏ dần các quy định lãi suất, cơ chế điều hành CSTT ở Ấn Độ trong

những năm gần đây đã phát triển theo hướng phụ thuộc nhiều hơn vào lãi suất đặc

trưng cho quan điểm về CSTT. Quá trình này được củng cố bởi bằng chứng quan

trọng rằng truyền dẫn thay đổi lãi suất chính sách thông qua cấu trúc kỳ hạn của lãi

suất, mặc dù mức độ truyền dẫn khác nhau trên các thị trường tài chính. Tác giả

cũng tìm thấy bằng chứng rằng sự gia tăng lãi suất chính sách có tác động âm lên

tăng trưởng sản lượng với độ trễ là 2 quý và ảnh hưởng điều hòa lên lạm phát với độ

trễ 3 quý. Tác động tổng thể dai dẳng trong suốt 8 – 10 quý. Hơn nữa, quan hệ nhân

quả một chiều đáng kể đã được tìm thấy từ lãi suất chính sách đến sản lượng, lạm

phát và các đo lường khác nhau của tính thanh khoản ngoại trừ cung tiền rộng (M3)

càng nhấn mạnh tầm quan trọng của lãi suất như một công cụ CSTT.

2.3.4. Chính sách tiền tệ và giá cả hàng hóa

Sự thay đổi giá cả hàng hóa là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà

hoạch định chính sách trong những năm gần đây. Trước làn sóng tăng giá hàng hóa

suốt năm 2008, sau đó giảm đột ngột, khởi đầu cho cuộc khủng hoảng tài chính và

_ 23 _

suy thoái kinh tế toàn cầu, một số nhà bình luận cho rằng CSTT lỏng lẻo và lãi suất

thấp kéo dài một phần nào đó ít nhất châm ngòi cho việc tăng giá (Hamilton, 2009).

Vì giá cả hàng hóa nói chung và giá dầu, năng lượng, thực phẩm nói riêng là một

thành phần quan trọng của chỉ số giá tiêu dùng (CPI); hay giá cổ phiếu thì tác động

gián tiếp thông qua chi tiêu trên thị trường chứng khoán; sự biến hóa của chúng và

các động lực thúc đẩy bên cạnh nó rõ ràng là yếu tố quyết định cho việc điều hành

CSTT (Svensson, 2005). Việc nghiên cứu tác động của CSTT lên giá hàng hóa gợi ý

nhiều câu trả lời quan trọng về truyền dẫn CSTT lên nền kinh tế thực.

Trong khi các yếu tố cung và cầu nói chung có thể giải thích phần lớn các biến động

trong giá hàng hóa, các nhân tố khác có thể đóng vai trò vào những thời điểm nhất

định. (Hamilton, 2009). Kilian (2009) và Alquist và Kilian (2010) làm nổi bật sự

liên quan, thích hợp, trong hành vi của giá dầu, những cú sốc nhu cầu phòng ngừa,

làm tăng nhu cầu hiện tại đối với dầu mỏ thông qua việc tăng sự không chắc chắn về

việc thiếu hụt nguồn cung dầu trong tương lai. Nhờ những đóng góp có ảnh hưởng

sâu sắc của Frankel (1984), các điều kiện tiền tệ và lãi suất đã thu hút sự quan tâm

vì có khả năng là nhân tố dẫn dắt giá hàng hóa. Frankel (1986) mở rộng học thuyết

tăng vọt tỷ giá đối với hàng hóa, và điều kiện không có kinh doanh chênh lệch giá,

xuất hiện một liên kết lý thuyết giá dầu và lãi suất. Barsky và Kilian (2002, 2004)

cho thấy lập trường CSTT là một chỉ báo tốt cho giá cả hàng hóa. Đặc biệt, Barsky

và Kilian (2002) cũng đưa ra rằng sự tăng giá những năm 1970 có thể đã được gây

ra, ít nhất một phần bởi điều kiện tiền tệ.

Frankel và Hardouvelis (1985) thấy rằng giá của kim loại quý và một số mặt hàng

nông sản có xu hướng phản ứng tiêu cực với tin tức về tăng trưởng cung tiền. Phát

hiện này phù hợp với kết quả lý thuyết được trình bày bởi Frankel (1986).

Frankel (2008) tiếp tục lập luận rằng CSTT nới lỏng làm tăng giá cả hàng hóa

thông qua ba kênh. Đầu tiên, Lãi suất thấp làm tăng động cơ trì hoãn sản xuất, khai

thác hàng hóa. Thứ hai, lãi suất thấp giúp giảm chi phí tích trữ hàng tồn kho, dẫn

_ 24 _

đến nguồn cung thấp hơn và giá hàng hóa sẽ tăng. Thứ 3, lãi suất thấp khuyến khích

các nhà đầu cơ đầu tư vào hàng hóa để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn. Tuy nhiên,

Frankel (2008) tìm thấy không có tương quan đáng kể, có ý nghĩa giữa lãi suất thực

và giá cả hàng hóa thực trong giai đoạn từ năm 1980.

Yun Li (Đại học Dalhousie – 2004): Dựa trên mô hình VAR đệ quy và không đệ

quy với những dấu hiệu hạn chế cung cấp phân tích thực nghiệm các phản ứng của

giá cổ phiếu trước những cú sốc CSTT cho giai đoạn từ tháng Giêng năm 1988 đến

tháng 12 năm 2002 tại Canada và Hoa Kỳ. Bằng chứng cho thấy một cú sốc chính

sách thắt chặt tiền tệ làm cho giá cổ phiếu giảm ngay lập tức và liên tục. Kết quả là

vững chắc cho tất cả các mô hình với các chiến lược mô phỏng khác nhau. Phân tích

phân rã phương sai chỉ ra rằng sự đổi mới CSTT chiếm một phần khiêm tốn trong

phương sai sai số dự báo của giá cổ phiếu: khoảng 1-3% trong sáu tháng và 5-10% ở

xa hơn. Nhìn chung, các bằng chứng trong bài viết này là phù hợp với giả thuyết cho

rằng, sau một cú sốc chính sách thắt chặt tiền tệ, những người tham gia thị trường

chứng khoán kỳ vọng một tỷ suất sinh lợi cao hơn, thu nhập thực tế thấp hơn, và do

đó giá cổ phiếu thấp hơn.

Arabinda Basistha and Alexander Kurov (2012) xem xét các tác động của bất

ngờ CSTT lên giá năng lượng bằng phương pháp tiếp cận nghiên cứu sự kiện đơn

giản; sử dụng bộ dữ liệu từ tháng 01/1994 đến tháng 12/2008 trên thị trường giao

sau, bao gồm 129 công bố thông tin của FOMC và hai đo lường về cú sốc CSTT bắt

nguồn từ lãi suất giá tương lai: bất ngờ mục tiêu và bất ngờ hướng đi. Bất ngờ mục

tiêu mô tả những thay đổi bất ngờ trong lãi suất cơ bản liên bang mục tiêu. Bất ngờ

hướng đi đại diện cho tin tức về con đường dự kiến của CSTT và nền kinh tế. Tác

giả tìm thấy một phản ứng tiêu cực ngay lập lức của giá năng lượng (giao ngay và

giao sau) đối với sự gia tăng bất ngờ trong tỷ lệ lãi cơ bản liên bang mục tiêu. Phản

ứng này trong thời kỳ suy thoái thì mạnh mẽ hơn so với thời kỳ kinh tế hưng thịnh.

Tác giả cũng tìm thấy một phản ứng tích cực của giá năng lượng đối với sự gia tăng

_ 25 _

bất ngờ hướng đi trong thời kỳ suy thoái, cho thấy rằng các kỳ vọng về nền kinh tế

được chuyển vào giá năng lượng. Nhìn chung, các mẫu hình của phản ứng của giá

năng lượng đối với những cú sốc CSTT tương tự như kết quả quan sát phản ứng của

tỷ suất sinh lợi cổ phiếu.

Anzuini và cộng sự (2012) mô tả một cú sốc CSTT trong một hệ thống VAR cho

nền kinh tế Mỹ theo Kim (1999) và sau đó đánh giá tác động của nó lên giá hàng

hóa. Điều này cho phép tác giả không chỉ kiểm tra được tác động của CSTT trong

mạng lưới các kênh tương tác khác nhau, mà còn để tránh việc sử dụng các chỉ số

điều kiện tiền tệ toàn cầu – vốn rất khó đo lường. Nhóm tác giả tìm thấy bằng chứng

thực nghiệm của một tác động mặc dù khá hạn chế nhưng có ý nghĩa của CSTT lên

giá hàng hóa. Đặc biệt, một cú sốc CSTT mở rộng 100 điểm cơ bản dẫn đến làm

tăng chỉ số giá hàng hóa và tất cả các thành phần của nó, nhưng quy mô tăng thì nhỏ

hơn, từ 4% đến tối đa 7%. Họ đánh giá sự chắc chắn của kết quả bằng cách lặp lại

các thử nghiệm sử dụng nhiều chiến lược mô phỏng khác nhau của cú sốc CSTT, cụ

thể như sơ đồ mô phỏng Choleski theo Boivin và Giannoni (2006), chiến lược dựa

trên dấu hiệu hạn chế theo tinh thần của Uhlig (2005) và Canova và De Nicolò

(2002); tác giả cũng phân tích ảnh hưởng lên giá hàng hóa của cả cú sốc CSTT được

nhận diện bởi Kuttner (2001) và Romer và Romer (2004). Nhìn chung, tác giá thấy

rằng tất cả các chiến lược cho ra những kết quả tương tự nhau. Sự phân tích của biến

sai số dự báo cho thấy rằng những cú sốc CSTT giúp dự đoán sự dao động trong giá

cả hàng hóa, mặc dù chúng không phải là nguồn chính. Xem xét việc tăng mạnh giá

hàng hóa giai đoạn 2003 - 2008, phân tích lịch sử cho thấy những cú sốc CSTT tích

lũy trong quá khứ góp phần vào sự gia tăng của chỉ số giá hàng hóa rộng và các

thành phần chính của nó, nhưng chúng chỉ giải thích cho một phần nhỏ các mức

đỉnh điểm của giá dầu và không giải thích được giá lương thực. Cuối cùng, tác giả

làm sáng tỏ những kênh mà qua đó các cú sốc CSTT có thể ảnh hưởng lên giá cả

hàng hóa, hơn hết là giá dầu. Đặc biệt, theo Frankel (2007), tác giả điều tra xem liệu

_ 26 _

những tác động tích cực lên giá dầu của một CSTT nới lỏng có thể được gán cho

động cơ thúc đẩy tích trữ hàng tồn kho, cản trở sản xuất trực tiếp (immediate

production) hay dòng tài chính. Các kết quả chỉ ra rằng tất cả các kênh biểu hiện dấu

hiệu mong đợi, nhưng cũng xác nhận rằng độ lớn của tác động trực tiếp của CSTT

lên giá hàng hóa thì nhỏ hơn. Ngoài ra, theo nhóm tác giả CSTT có thể ảnh hưởng

lên giá hàng hóa thông qua kênh gián tiếp như tốc độ tăng trưởng kỳ vọng hay lạm

phát, như đề nghị của Barsky và Kilian (2004).

2.3.5. Truyền dẫn chính sách tiền tệ và khủng hoảng kinh tế - tài chính

Cuộc khủng hoảng tài chính gần đây đã cho thấy sự bất cập trong cơ chế truyền dẫn

tiền tệ thông qua các kênh truyền thống. Do vậy, trong giai đoạn hậu khủng hoảng,

nhiều nghiên cứu đã cố gắng để nắm bắt khía cạnh tăng thêm của chính sách ngân

hàng trung ương như là bước trung tâm trong truyền dẫn chính sách. Trong khi các

nghiên cứu trước khủng hoảng thường nghi ngờ sức mạnh của các kênh tín dụng

ngân hàng, bằng chứng trong cuộc khủng hoảng cho thấy, đặc điểm đặc trưng của

ngân hàng, đổi mới tài chính, mô hình kinh doanh có thể kéo theo việc cung cấp tín

dụng và truyền dẫn nhịp nhàng CSTT. Vì vậy, cuộc khủng hoảng gần đây đã nêu bật

vai trò của các ngân hàng như một nguồn tiềm năng của những va chạm trong cơ

chế truyền dẫn CSTT.

Cecchetti và cộng sự (2009) nhấn mạnh những tác động gỡ rối của các kênh khác

nhau trong thời gian khủng hoảng là khó khăn. Thật vậy, họ chỉ ra rằng khủng hoảng

đã vạch trần các bất cập của mô hình mà không thể đánh giá (i) vai trò của yếu tố tài

chính trong quá trình truyền dẫn CSTT thông qua các kênh khác nhau và (ii ) làm

thế nào rối loạn tài chính có thể được khuếch đại và lan sang kinh tế thực. Walsh

(2009) cho rằng những rào cản tài chính, mặc dù không phải là một phần của mô

hình đồng thuận của CSTT, ảnh hưởng đến cả quá trình truyền dẫn CSTT và tạo ra

biến dạng trong nền kinh tế thực. Đối với khu vực đồng euro, ECB (2010) nhận thấy

rằng trong suốt các giai đoạn rối loạn tài chính gần đây, các biện pháp CSTT dưới

_ 27 _

chuẩn được thực hiện để giữ kênh truyền dẫn lãi suất được chứng minh hoạt động có

hiệu quả. Trichet (2011) nhấn mạnh rằng mặc dù các biện pháp phi chuẩn đã giúp

khôi phục việc truyền dẫn CSTT trong suốt cuộc khủng hoảng, họ cần phải được

theo đuổi một cách độc lập từ các biện pháp tiêu chuẩn.

Taylor và Williams (2010) xem rằng mặc dù quy định lãi suất đơn giản đã phát huy

hiệu quả trong việc truyền dẫn CSTT, nghiên cứu sâu xa hơn là cần thiết để kết hợp

chặt chẽ một tập hợp rộng lớn hơn các mô hình và môi trường kinh tế, đặc biệt là

mối liên kết quốc tế của CSTT. Công nhận việc sử dụng trên diện rộng các biện

pháp CSTT không theo quy ước thông qua nới lỏng định lượng trong cuộc khủng

hoảng gần đây, Curdia và Woodford (2010) mở rộng mô hình New Keynesian cơ

bản về cơ chế lan truyền tiền tệ bao gồm một cách rõ ràng bảng cân đối của ngân

hàng trung ương. Làm nổi bật vai trò của các trung gian tài chính trong truyền tải

CSTT, Bean và cộng sự (2010) đã nhấn mạnh vai trò của CSTT trong thời gian dẫn

đến cuộc khủng hoảng là ít hơn thông qua các kênh CSTT thông thường nhưng

nhiều hơn từ “kênh chấp nhận rủi ro”.

Bernanke (2011) và Yellen (2011) tranh luận rằng các kênh truyền dẫn mà thông

qua đó CSTT thông thường ảnh hưởng lên các điều kiện kinh tế là khá tương đồng.

Tuy nhiên, Yellen (2011) nhấn mạnh tầm quan trọng của “kênh cân bằng danh mục

đầu tư” và “kỳ vọng” trong suốt thời kỳ khủng hoảng. Phân tích tác động của chính

sách nới lỏng định lượng được chấp nhận trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu

gần đây tại nền kinh tế Anh, Joyce và cộng sự (2011) đã nêu bật tầm quan trọng của

các kênh truyền dẫn khác nhau, đặc biệt là giá tài sản cái mà đã được dự kiến có

hiệu ứng ước định lên sản lượng và lạm phát.

Nói tóm lại, khủng hoảng đã nêu bật hai khía cạnh quan trọng của truyền dẫn CSTT.

Đầu tiên, do bất cân xứng thông tin và sự thiếu hiệu quả khác trên thị trường tài

chính, các kênh thông thường của truyền dẫn CSTT có thể không luôn luôn làm việc

hiệu quả. Trong bối cảnh này, một số nghiên cứu đã nhấn mạnh tầm quan trọng của

_ 28 _

sự ổn định của trung gian tài chính để tạo điều kiện cho một truyền dẫn chính sách

nhịp nhàng. Thứ hai, khi các kênh lãi suất truyền thống của cơ chế truyền dẫn CSTT

bị phá vỡ sau khi lãi suất chính sách tiến tới zero lower bound trong suốt cuộc khủng

hoảng, vai trò của các biện pháp chính sách phi chuẩn trở nên nổi bật hơn, làm việc

chủ yếu thông qua giá tài sản và các kênh kỳ vọng.

2.3.6. Truyền dẫn chính sách tiền tệ tại Việt Nam

Lê Việt Hùng và Wade Plau (2008): phân tích cơ chế lan truyền tiền tệ ở Việt

Nam, sử dụng phương pháp vectơ tự hồi quy (VAR) và tập trung vào các mối quan

hệ giữa cung tiền, sản lượng thực tế, mức giá, lãi suất thực, tỷ giá hối đoái thực và

tín dụng trên mẫu quan sát từ Quý 2 năm 1996 đến Quý 4 năm 2005. Tác giả đã tìm

thấy bằng chứng phù hợp rằng CSTT có thể ảnh hưởng đến sản lượng thực tế. Mức

độ tác động của cú sốc CSTT đối với sản lượng mạnh nhất sau 4 quý nhưng đối với

chỉ số giá thì kéo dài từ quý thứ 3 đến quý thứ 6. Đáng ngạc nhiên, mối liên hệ giữa

cung tiền và lạm phát là ít rõ ràng hơn trong trường hợp Việt Nam. Đối với các cơ

chế truyền dẫn, kênh tín dụng và tỷ giá hối đoái quan trọng hơn kênh lãi suất.

Trần Ngọc Thơ và cộng sự (2013) nghiên cứu cơ chế truyền dẫn CSTT ở Việt Nam

bằng mô hình SVAR. Nhóm tác giả sử dụng bộ dữ liệu gồm biến ngoại sinh (giá dầu

thế giới và lãi suất cơ bản Mỹ) và biến nội sinh (Sản lượng công nghiệp, chỉ số giá

tiêu dùng, cầu tiền M2, lãi suất tiền gửi kỳ hạn 3 tháng, tỷ giá danh nghĩa) trên hai

thời kỳ quan sát từ tháng 1 năm 1998 đến tháng 12 năm 2006 (trước khi gia nhập

WTO) và tháng 1 năm 2007 đến tháng 5 năm 2012 (sau khi gia nhập WTO) để phân

tích các kênh truyền dẫn như chi đầu tư và chi tiêu dùng được nghiên cứu mô phỏng

thông qua kênh lãi suất và kênh tín dụng; kênh ngoại thương được mô phỏng qua

kênh tỷ giá hối đoái; kênh lãi suất mô phỏng tác động của CSTT thắt chặt; kênh tín

dụng mô phỏng CSTT mở rộng. Kết quả cho thấy rằng thắt chặt tiền tệ để giảm lạm

phát phát huy hiệu quả sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Tuy nhiên hiệu quả chỉ

thật sự đạt được sau 6 tháng. Cú sốc tăng lãi suất 0.5% tạo ra phản ứng tăng lạm

_ 29 _

phát tích lũy 0.014% sau 12 tháng. Cú sốc mở rộng tín dụng 0.13% trước WTO và

0.186% sau WTO tạo ra phản ứng tích lũy lạm phát tương ứng là 0.008% và 0.01%.

Đối với kênh tỷ giá, trước WTO, tỷ giá tăng 0.13% làm lạm phát tăng 0.007 –

0.007% sau 2 – 3 tháng, sau đó mức độ tăng giảm dần; trong khi một cú sốc rất nhỏ

ở giai đoạn sau WTO (0.008%) lại tạo ra phản ứng tăng lạm phát tích lũy 0.003 –

0.004% ngay những tháng đầu tiên và liên tục.

Gần đây nhất, nghiên cứu tác động của CSTT lên nền kinh tế của Nguyễn Khắc

Quốc Bảo và cộng sự (2013) sử dụng phương pháp VECM trên mẫu quan sát từ

1999:M1 đến 2012:M12 gồm giá dầu thế giới, lãi suất cơ bản FED đại diện cho biến

ngoại sinh và sản lượng công nghiệp Việt Nam, chỉ số giá tiêu dùng, cung tiền, lãi

suất kỳ hạn 3 tháng, tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương (NEER), chỉ số giá chứng

khoán đại diện cho nền kinh tế trong nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng giá

chứng khoán tăng 1% có tác động cùng chiều lên sản lượng, phản ứng tăng 0.0674%

vào ký thứ 1, sụt giảm ở kỳ thứ 2 và 3 rồi nhanh chóng đạt đỉnh ở kỳ thứ 5 với mức

tăng 0.13%. Trong khi đó kênh lãi suất và tỷ giá cho kết quả có hiện tượng Puzzle;

cú sốc lãi suất làm sản lượng tăng trong dài hạn và đạt trạng thái ổn định sau 1 năm;

khi xuất hiện cú sốc tỷ giá tăng 1% thì sản lượng tuy có tăng 0.6% vào kỳ 3 nhưng

nhìn chung thì sản lượng vẫn suy giảm trong dài hạn. Đối với phản ứng của lạm phát

trước cú sốc tỷ giá, lãi suất, cung tiền và giá chứng khoán thì đạt kết quả như kỳ

vọng; biến tỷ giá có phản ứng nhanh mạnh lên chỉ số giá nhất đạt mức tối đa 0.25%

sau 6 tháng; cung tiền và giá chứng khoán có tác động dai dẳng hơn, đạt đỉnh tương

ứng 0.66% và 0.05% sau 18 tháng; tuy nhiên, trường hợp lãi suất lại gặp phải Puzzle

khi mà lạm phát tăng trước cú sốc tăng lãi suất 1% ngụ ý rằng công cụ lãi suất chưa

thực sự hiệu quả trong giai đoạn nghiên cứu. Đặc biệt, tác giả kết luận truyền dẫn

CSTT qua kênh tín dụng (phân tích cung tiền) có ảnh hưởng lớn đến sản lượng công

nghiệp, lạm phát và thị trường chứng khoán hơn so với các kênh còn lại.

_ 30 _

3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để đo lường ảnh hưởng định lượng của những cú sốc CSTT lên giá cả hàng hóa, tác

giả ước lượng một VAR cho Việt Nam tương tự như Anzuini và cộng sự (2012).

Đây là mô hình thường được sử dụng trong các nghiên cứu về tác động hay truyền

dẫn CSTT do khả năng giải thích tốt bất kỳ biến quan sát nào bằng tất cả các biến

nội sinh và các giá trị trễ của các biến đó.

3.1. Giới thiệu mô hình VAR

Mô hình nhiều phương trình cổ điển coi một số biến là nội sinh, một số khác là biến

ngoại sinh và các nội sinh trễ, tức là trước khi ước lượng mô hình, các phương trình

trong hệ phải chắc chắn được định dạng. Việc này thường được thực hiện bằng các

giả thiết rằng một số biến được xác định trước chỉ có mặt trong một số phương trình,

quyết định này thường mang tính chủ quan và đã bị Sims (1980) chỉ trích. Theo

Sims, nếu tồn tại mối quan hệ đồng thời giữa một số biến thì các biến này phải được

xét có vai trò như nhau, không có sự phân biệt biến nội sinh và ngoại sinh, tất cả đều

là biến nội sinh. Dựa trên tinh thần đó, Sims (1980) đã xây dựng mô hình vector tự

hồi quy (VAR). VAR là một mô hình động của một số biến thời gian có cấu trúc

gồm nhiều phương trình (Vector) và các độ trễ của biến số (Autoregression).

3.2. Dữ liệu và chi tiết về mô hình nghiên cứu

Bài nghiên cứu này tham khảo các kết quả đã đạt được trong nghiên cứu của

Anzuini và cộng sự (2012) khi phân tích tác động của cú sốc CSTT lên giá cả hàng

hóa – nhóm tác giả mô tả cú sốc chính sách tiền tại Mỹ thông qua các biến gồm: Lãi

suất cơ bản liên bang (FFR), khối tiền tệ M2, chỉ số CPI, chỉ số sản xuất công

nghiệp IP và giá hàng hóa (tính bằng đơn vị tiền). Tuy nhiên, đối với Việt Nam –

một nền kinh tế mở nhỏ, tất yếu chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố tiền tệ nước ngoài,

do vậy tôi tiếp tục tham khảo Jarkko P. Jääskelä, David Jennings (2011) về mối

quan hệ giữa CSTT và tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế mở nhỏ và Yunly (2004) về

truyền dẫn thông qua thị trường chứng khoán.

_ 31 _

Cùng với việc vận dụng các lý thuyết truyền thống đã trích dẫn ở phần trên, để đánh

giá tác động của CSTT lên nền kinh tế thông qua các kênh truyền dẫn khác nhau, bài

nghiên cứu này ước lượng một khung VAR cho nền kinh tế Việt Nam gồm các biến

nội sinh: Lãi suất cho vay kỳ hạn 3 tháng (IR), khối tiền tệ (M2), chỉ số giá chứng

khoán (VNI), chỉ số giá tiêu dùng (CPI), sản lượng (Y), tỷ giá hối đoái (ERUS); và

biến ngoại sinh: giá dầu thế giới (OIL) và lãi suất cơ bản liên bang Mỹ (FFR). Bộ dữ

liệu bao gồm các biến hàng quý từ quý 4 năm 1998 đến quý 2 năm 2013.

Hệ thống các biến được mô tả tóm tắt trong Bảng 1.

Bảng 1: Mô tả các biến trong mô hình

Stt Biến Diễn giải Đvt Nguồn

1. Oil Giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ - WTI USD/ thùng IEA

2. FFR Lãi suất cơ bản liên bang Mỹ %/ năm FED

3. IR Lãi suất cho vay kỳ hạn 3 tháng. %/ năm IFS

4. M2 Khối tiền tệ M2 Tỷ VND IFS

5. VNI Chỉ số giá chứng khoán - VN index Phần mềm MetaStock

6. CPI Chỉ số giá tiêu dùng, 2005 = 100 % GSO

Y Sản lượng – GDP, năm gốc 1994 Tỷ VND 7. GSO

8. EX Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đôla Mỹ USD/VND IFS

Tôi ước lượng một hệ thống VAR bao gồm giá dầu thế giới (OIL) và lãi suất cơ bản

liên bang Mỹ (FFR), Lãi suất cho vay kỳ hạn 3 tháng (IR), khối tiền tệ (M2), chỉ số

giá chứng khoán (VNI), chỉ số giá tiêu dùng (CPI), sản lượng (Y), tỷ giá hối đoái

(ERUS)vector yt. Tất cả các biến ngoại trừ lãi suất cơ bản liên bang Mỹ (FFR), Lãi

suất cho vay kỳ hạn 3 tháng (IR) được biểu diễn dưới dạng Log.

Hình thức cấu trúc (SVAR):

_ 32 _

(11) C(L) yt = ηt

Trong đó:

C (L): là ma trận đa thức trong toán tử trễ

Var (ηt) = Λ: Là ma trận đường chéo với các biến của những cú sốc cấu trúc.

Mô hình rút gọn (bỏ qua các biến đƣợc xác định trƣớc):

(12)

( )

Trong đó:

A (L): là ma trận đa thức trong toán tử trễ

(13) Var ( ) = ∑ và ηt = C0 Vì vậy ∑

giới hạn; mục đích

Để đạt được một hệ thống mô tả phù hợp, chúng ta cần ( )

nhằm mô phỏng một cú sốc chính sách tiền tệ Việt Nam:

1 0 0 0 0 0 0 0

1 0 0 0 0 0 0

0 1 0 0 0 0

1 0 0 = 1 0 0 0

0 1 0 0

1 0

1

Với biểu thị các nhiễu cấu trúc trong khi là các số dư trong phương trình dạng

rút gọn được thể hiện cho các thay đổi ngoài mong đợi (cung cấp thông tin trong hệ

thống) của mỗi biến. Tất cả các hạn chế là hạn chế không (loại trừ).

_ 33 _

Để thiết lập ma trận, tác giả căn cứ:

 Mô phỏng trong nghiên cứu của Anzuini và cộng sự (2012), Jääskelä &

Jennings (2011) và Yunly (2004);

 Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ của J.Keynes;

 Thuyết số lượng tiền tệ;

 Cầu tiền tệ: Lý thuyết chuộng thanh khoản của J.Keynes;

 Lý thuyết tổng cầu: Mô hình IS-LM;

 Lý thuyết về các kênh truyền dẫn CSTT khác nhau theo Mishkin (1992).

Cụ thể:

Hai dòng đầu tiên của hệ thống VAR thể hiện cú sốc ngoại sinh của nền kinh tế thế

giới đối với nền kinh tế Việt Nam, gồm giá dầu thế giới và lãi suất cơ bản Mỹ. Hai

biến này không chịu ảnh hưởng bởi bất kỳ biến nào của nền kinh tế trong nước.

Dòng thứ ba của hệ thống VAR, với lãi suất xuất hiện ở phía tay trái, là phương

trình cung tiền được mô phỏng như là một chức năng phản ứng lại của các nhà chức

trách (cơ quan) tiền tệ. Các giả định ở đây cho rằng mức độ hiện tại của giá cả và chỉ

số sản xuất công nghiệp là không sẵn có cho các nhà chức trách tiền tệ do sự chậm

trễ thông tin.

Dòng thứ tư là một phương trình cầu tiền tiêu chuẩn. Nhu cầu về số dư tiền thực phụ

thuộc vào mối quan hệ với nền kinh tế thế giới, hoạt động thực tế và chi phí cơ hội

của việc giữ tiền – lãi suất danh nghĩa.

Dòng thứ năm là phương trình giá chứng khoán cho rằng thị trường tài chính chịu

ảnh hưởng bởi quan hệ cung cầu tiền và cả điều kiện tiền tệ thế giới.

Dòng thứ sáu và thứ bảy là 2 biến đại diện cho nền kinh tế thực bao gồm các giải

thích về dính giá hay chi phí điều chỉnh: hoạt động thực đáp ứng lại giá cả thế giới

_ 34 _

và các tín hiệu tài chính chỉ với một độ trễ. Lãi suất, tiền và chỉ số giá chứng khoán

được giả định là không tác động đến hoạt động thực một cách đồng thời.

Tỷ giá hối đoái là biến nội sinh nhất, chịu tác động đồng thời của tất cả các biến còn

lại, được xếp sau cùng, ngụ ý về chính sách điều hành kinh tế Vĩ Mô của Việt Nam.

3.3. Các bƣớc thực hiện

Để đo lường mức độ tác động của cú sốc chính sách tiền tệ lên giá hàng hóa, tôi lần

lượt các bước sau được thực hiện trên phần mềm Eviews 6:

(1) Hiệu chỉnh yếu tố mùa vụ theo phương pháp Cencus X12.

(2) Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu bằng kiểm định nghiệm đơn vị.

(3) Xác định bước trễ tối đa để đạt được mô hình dự báo tốt nhất.

(4) Kiểm định tính ổn định của mô hình.

(5) Chạy SVAR.

(6) Giải thích hàm phản ứng xung và phân rã phương sai.

4. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM

4.1. Kiểm định nghiệm đơn vị

Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị bằng kiểm định ADF đối với từng biến riêng lẻ

(đã được hiệu chỉnh yếu tố mùa vụ bằng Cencus X12) thể hiện ở bảng 2 cho thấy tất

cả chuỗi dữ liệu không dừng ở chuỗi gốc và dừng ở sai phân bậc 1.

Việc giải quyết tính không dừng bằng cách lấy sai phân bậc 1 có thể đánh mất mối

quan hệ dài hạn quý giá giữa các biến trong mô hình. Trong khi việc hồi quy chuỗi

thời gian không dừng này với một chuỗi thời gian không dừng khác có thể cho kết

quả “không xác thực” với mức ý nghĩa cao bất ngờ do tính xu hướng ngẫu nhiên của

mỗi biến riêng lẻ chưa bị loại bỏ. Tuy nhiên, với mục đích nghiên cứu hiệu ứng

truyền dẫn CSTT (IR) lên nền kinh tế, hơn là xác định hệ số tương quan, tôi tin rằng

phương pháp VAR vốn đã được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu thực nghiệm

_ 35 _

trên thế giới sẽ vẫn cho kết quả đáng tin cậy tại Việt Nam. Vì vậy, tôi quyết định sử

dụng mô hình VAR với các chuỗi sai phân bậc 1.

Bảng 2: Kết quả kiểm định Unit root bằng phƣơng pháp ADF

Chuỗi gốc Sai phân bậc 1 Stt Biến

-1.689641 1. Oil -6.044090*

-1.932219 2. FFR -3.547998**

-1.974474 3. IR -6.056331*

-1.535697 4. M2 -4.169004*

-0.328787 5. VNI -15.05497*

1.356452 6. CPI -3.963500*

-1.249354 7. Y -7.676395*

-0.066763 8. EX -4.336005*

Chú thích: dấu *, **, *** tương ứng biểu thị cho hiện tượng dừng của biến ở các

mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%.

4.2. Lựa chọn độ trễ thích hợp

Để đạt được mô hình dự báo tốt nhất, tôi tiến hành kiểm tra độ trễ tối đa với các tiêu

chuẩn LogL, LR, FPE, AIC, SC, HQ. Với cấu trúc dữ liệu quý, kết quả cho thấy độ

trễ bằng 4 có nhiều ý nghĩa hơn cả. Vì vệc áp dụng mô hình VAR để phân tích tác

động của CSTT khá phổ biến trong các nghiên cứu của giá dầu (ví dụ Kilian 2009),

tôi quyết định lựa chọn độ trễ bằng 4 khi thực hiện các ước lượng mô hình VAR với

cấu trúc dữ liệu quý, độ trễ được ghi nhận trong một năm năng động, dường như đủ

khả năng để loại bỏ các phần dư tương quan.

_ 36 _

VAR Lag Order Selection Criteria Endogenous variables: DOIL DFFR DIR DM2 DVNI DCPI DY DEX Exogenous variables: C Date: 11/06/13 Time: 21:03 Sample: 1998Q4 2013Q2 Included observations: 48

FPE 9.19e-21 2.29e-21 1.08e-21 1.21e-22 5.28e-24*

Lag 0 1 2 3 4

LogL 570.4079 668.6186 755.8911 888.1591 1065.282

AIC -23.43366 -24.85911 -25.82880 -28.67330 -33.38675*

LR NA 159.5925 112.7270 126.7568 110.7018* * indicates lag order selected by the criterion LR: sequential modified LR test statistic (each test at 5% level) FPE: Final prediction error AIC: Akaike information criterion SC: Schwarz information criterion HQ: Hannan-Quinn information criterion

SC -23.12179* -22.05231 -20.52706 -20.87662 -23.09514

HQ -23.31581 -23.79842 -23.82526 -25.72692 -29.49753*

Bảng 3: Kiểm định độ trễ tối đa của mô hình

4.3. Kiểm định tính ổn định của mô hình

Về nguyên tắc, một mô hình VAR nếu muốn phân tích hàm phản ứng xung và phân

rã phương sai thì cần phải đạt tính ổn định. Một mô hình được gọi là ổn định khi nó

tạo ra các giá trị biến dao động xung quanh giá trị trung bình và phương sai không

đổi theo thời gian.

Trên phần mềm Eviews 6, kết quả kiểm định tính ổn định của mô hình được thể hiện

dưới dạng bảng hoặc biểu đồ có số dấu chấm bằng số biến nhân với số độ trễ. Vì tất

cả các dấu chấm đều nằm trong vòng tròn đơn vị, ta kết luận mô hình đạt được tính

ổn định cần có.

_ 37 _

Hình 1: Kiểm định sự ổn định của mô hình

4.4. Kết quả ƣớc lƣợng SVAR

Các giá trị tham số trong ma trận A tương ứng với hệ thống SVAR được trình bày

trong bảng 4. Mặc dù một số tham số tìm được không như kỳ vọng hoặc chưa phù

hợp với lý thuyết. Điều này có thể do cơ chế của nền kinh tế đang phát triển như

Việt Nam có nhiều khác biệt so với các nền kinh tế phát triển, mở nhỏ khác nên một

số quy luật kinh tế được tìm thấy chưa thể giải thích hết. Tuy vậy, kết quả kiểm định

LR cho thấy cấu trúc ma trận có ý nghĩa thống kê (xem bảng 4 và phụ lục).

_ 38 _

Bảng 4: Kết quả ƣớc lƣợng ma trận tham số

4.5. Hàm phản ứng xung

Trong phần này tôi tiến hành phân tích phản ứng xung nhằm mô tả cơ chế truyền

dẫn CSTT trước cú sốc của các biến độc lập. Độ lớn của cú sốc được đo bằng một

đơn vị độ lệch chuẩn của phần dư từ mô hình VAR. Phản ứng của các biến số đối

với một cú sốc (độ lớn và độ trễ) vừa hàm ý về hiệu quả điều hành CSTT, đồng thời

thể hiện mức độ bất ổn của nền kinh tế.

Để thuận tiện cho việc theo dõi, một số quy ước cần lưu ý như sau:

 Shock 1: Cú sốc giá dầu thế giới  Shock5: Cú sốc giá chứng khoán

 Shock 2: Cú sốc lãi suất cơ bản Mỹ  Shock 6: Cú sốc giá tiêu dùng

 Shock 3: Cú sốc cung tiền  Shock 7: Cú sốc sản lượng

 Shock 4: Cú sốc cầu tiền  Shock 8: Cú sốc tỷ giá

_ 39 _

4.5.1. Phản ứng của sản lƣợng và lạm phát đối với cú sốc giá dầu

Cả sản lượng và lạm phát cùng phản ứng tăng trước cú sốc giá dầu thế giới tuy nhiên

với mẫu hình khác nhau. Sản lượng thay đổi tăng giảm sau mỗi kỳ còn lạm phát giữ

được xu hướng tăng trong suốt 4 kỳ đầu tiên, với đỉnh cao nhất đạt được sau 2 kỳ

(0.47%σ), mức tăng sau đó giảm dần và đạt trạng thái ổn định kể từ quý thứ 10.

Hình 2: Phản ứng của sản lƣợng và lạm phát đối với cú sốc giá dầu

Ghi chú: Trục X thể hiện số quý sau cú sốc. Đường nét đứt là khoảng tin cậy 90%.

Phản ứng của chỉ số giá Phản ứng của sản lượng

4.5.2. Phản ứng của sản lƣợng, lạm phát và lãi suất trƣớc cú sốc tiền tệ Mỹ

Trong khi sản lượng có phản ứng khá phức tạp thì phản ứng của lãi suất và chỉ số

giá khá giống nhau trước cú sốc tiền tệ Mỹ. Khi lãi suất nước ngoài tăng, lãi suất và

sản lượng trong nước phản ứng ngay lập tức bằng một cú sốc giảm, nhưng lãi suất

thì giảm nhiều hơn chỉ số giá, hồi phục vào quý 5 và đạt trạng thái ổn định sau 7 – 8

quý.

_ 40 _

Hình 3: Phản ứng của sản lƣợng, lạm phát và lãi suất đối với cú sốc tiền tệ Mỹ

Phản ứng của lãi suất Phản ứng của chỉ số giá

Ghi chú: Trục X thể hiện số quý sau cú sốc. Đường nét đứt là khoảng tin cậy 90%.

Phản ứng của sản lượng

4.5.3. Tác động của cú sốc thắt chặt tiền tệ

Như đã giải thích, cú sốc CSTT Việt Nam được mô phỏng thông qua hệ thống VAR

8 biến. Trong phần này, tôi tập trung vào phản ứng của nền kinh tế thực, được xác

định bằng biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đặc trưng cho lạm phát, và biến sản lượng

thực đối với cú sốc CSTT, được xác định bằng thay đổi 1 đơn vị độ lệch chuẩn trong

phương trình lãi suất. Kênh lãi suất cho thấy có hiện tượng puzzle.

_ 41 _

Một cú sốc thắt chặt tiền tệ kéo theo xu hướng tăng lãi suất, mặc dù phản ứng khá

chậm chạp nhưng chỉ sau 5 quý mức tăng đạt 6.6% σ; tốc độ tăng giảm dần đến quý

thứ 7 thì triệt tiêu hẳn, chuyển sang xu hướng giảm với mức giảm sau đó 2 quý lên

đến -58%σ, và tiến vào trạng thái ổn định sau 12 quý.

Tương đồng với kết quả nghiên cứu trong Nguyễn Khắc Quốc Bảo và cộng sự

(2013), bài nghiên cứu cũng tìm thấy rằng rằng khối tiền rộng và lãi suất có tương

quan âm rõ rệt; một cú sốc dương trong lãi suất làm cho cầu tiền giảm ngay lập tức

0.4%σ và đạt mức thấp nhất sau 2 quý (giảm 0.57%σ), hiệu ứng kết thúc và về trạng

thái cân bằng sau 8 quý.

Trong khi đó, thị trường chứng khoán có phản ứng khá phức tạp trước cú sốc lãi

suất. Ngay khi lãi suất tăng, thị trường chứng khoán giao động tăng giảm quanh mức

0.31%σ - 0.37% σ ở 2 kỳ đầu tiên, sau đó tăng mạnh đạt đỉnh 0.57%σ sau 4 quý. Xu

hướng tăng tiếp tục và từ từ đạt trạng thái ổn định sau 13 quý.

Kết quả phản ứng xung cho thấy lãi suất tăng chỉ phát huy hiệu quả kiềm chế lạm

phát trong 2 quý đầu tiên, với mức giảm trong chỉ số giá tiêu dùng đạt 0.27%σ. Kể

từ quý thứ 3, tác động nghịch chiều bị triệt tiêu, thay vào đó là xu hướng tăng khá

mạnh bắt đầu, với mức tăng đạt cao nhất 1.2%σ sau 5 quý và ổn định sau 9 quý kể

từ khi xảy ra cú sốc. Điều này ngụ ý việc kiểm soát lạm phát bằng công cụ lãi suất

vẫn chưa thực sự hiệu quả trong giai đoạn nghiên cứu. Trần Ngọc Thơ & cộng sự

(2013) và Nguyễn Khắc Quốc Bảo & cộng sự (2013) cũng tìm thấy hiện tượng

puzzle tương tự.

Ngược lại, phản ứng của sản lượng trước cú sốc lãi suất khá phù hợp với lý thuyết

mặc dù không phải ngay lập tức. Sản lượng bắt đầu giảm kể từ quý thứ 4, đạt mức

thấp nhất -0.2%σ sau 7 quý xảy ra cú sốc. Mức giảm dao động nhưng vẫn tiếp tục

cho đến quý 12 và sau đó đi vào trạng thái ổn định.

_ 42 _

Phản ứng của tỷ giá thì tương đối yếu với xu hướng chính là tăng, mức tăng đạt cao

nhất 0.49%σ sau 4 quý, ổn định kể từ quý thứ 12.

Lãi suất

Tổng lượng tiền M2

Chỉ số giá CPI

Giá chứng khoán VNI

Sản lượng Y

Tỷ giá EX

Hình 4: Hàm phản ứng xung đối với cú sốc thắt chặt chính sách tiền tệ

Ghi chú: Trục X thể hiện số quý sau cú sốc. Đường nét đứt là khoảng tin cậy 90%.

_ 43 _

Tổng lượng tiền M2

Lãi suất

Chỉ số giá CPI

Giá chứng khoán VNI

Sản lượng Y

Tỷ giá EX

Ghi chú: Trục X thể hiện số quý sau cú sốc. Đường nét đứt là khoảng tin cậy 90%.

Hình 5: Hàm phản ứng xung tích lũy đối với cú sốc thắt chặt chính sách tiền tệ

_ 44 _

4.5.4. Phản ứng của cầu tiền trƣớc các cú sốc trong nƣớc

Hình 6 mô phỏng phản ứng của cầu tiền trước các cú sốc, cầu tiền phản ứng ngay với

tất cả các cú sốc ngoại trừ cú sốc tỷ giá, nhưng nhìn chung mức độ phản ứng khá yếu.

Ghi chú: Trục X thể hiện số quý sau cú sốc. Đường nét đứt là khoảng tin cậy 90%.

Hình 6: Phản ứng của cầu tiền (M2) trƣớc các cú sốc (shock) trong nƣớc

_ 45 _

Cụ thể đối với cú sốc lãi suất, cầu tiền giảm ngay lập tức 0.4%σ và đạt mức thấp

nhất sau 2 quý (giảm 0,57%σ), hiệu ứng kết thúc và về trạng thái cân bằng sau 8

quý. Cầu tiền phản ứng dương trước cú sốc của chính nó với mức tăng đạt cao nhất

0.68%σ vào quý 7 và đạt trạng thái ổn định sau 9 quý. Đối với cú sốc giá tiêu dùng,

cầu tiền chỉ tăng sau 7 quý và đạt đỉnh vào quý thứ 8 (+0.63%σ). Đối với cú sốc sản

lượng, sản lượng tăng làm cầu tiền tăng nhưng liên tục biến động tăng giảm sau mỗi

kỳ. Phản ứng của cầu tiền trước cú sốc tỷ giá thì rất yếu, hầu như xoay quanh trạng

thái ổn định.

Ghi chú: Trục X thể hiện số quý sau cú sốc. Đường nét đứt là khoảng tin cậy 90%.

Hình 7: Phản ứng tích lũy của cầu tiền trƣớc các cú sốc trong nƣớc

_ 46 _

4.5.5. Phản ứng của giá chứng khoán trƣớc các cú sốc trong nƣớc

Hình 8 mô phỏng phản ứng của giá chứng khoán trước các cú sốc. Kết quả tìm thấy

có nhiều điểm khác biệt so với nghiên cứu của Nguyễn Khắc Quốc Bảo và cộng sự

(2013), và gặp phải nhiều puzzle. Giá chứng khoán có phản ứng không đáng kể

trước cú sốc cầu tiền và tỷ giá, trong khi đó lại phản ứng ngay lập tức trước cú sốc

lãi suất và giá chứng khoán với mức độ phản ứng khá phức tạp.

Đối với cú sốc cầu tiền, giá chứng khoán giảm ngay lập tức (-0.4%σ), biến động

giảm kéo dài trong suốt 8 quý và hồi phục sau đó, tuy nhiên không ổn định. Phản

ứng này không phù hợp với lý thuyết Tobin‟q và hiệu ứng giá tài sản. Điều này có

thể giải thích do tại Việt Nam áp lực lạm phát luôn là vấn đề được quan tâm nhiều

hơn cả diễn biến của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán vẫn chưa phát

triển toàn diện; cung tiền tăng làm gia tăng áp lực lạm phát kỳ vọng, dẫn đến lãi suất

tăng và kết cục làm mức giá chứng khoán giảm (Yu Hsing, 2011).

Một cú sốc lãi suất dương khiến giá chứng khoán tăng ngay lập tức 0.37%σ, nhưng

sụt giảm ngay sau đó. Xu hướng tăng dần được hồi phục và đạt đỉnh (+0.57%σ) vào

quý thứ 4. Mặc dù có một vài kỳ có hiện tượng phản ứng nghịch chiều, nhưng xu

hướng tăng vẫn chiếm ưu thế. Kết quả này thì không đồng nhất hoàn toàn với phát

hiện của Nguyễn Khắc Quốc Bảo và cộng sự (2013): giá chứng khoán tăng trong

ngắn hạn và giảm trong dài hạn và Sellin (2001) đã giải thích lãi suất tăng làm chậm

lại phần nào hoạt động của nền kinh tế, dẫn đến sụt giá chứng khoán. Sự khác nhau

về mẫu nghiên cứu có thể giúp giải thích phần nào cho sự khác biệt này: Nguyễn

Khắc Quốc Bảo (2013) sử dụng chỉ số giá chứng khoán Việt Nam theo IFS, còn tôi

sử dụng chỉ số VN-index trên sàn HOSE, nhưng puzzle này vẫn cần các nghiên cứu

sâu hơn để giải đáp.

_ 47 _

Hình 8: Phản ứng của giá chứng khoán trƣớc các cú sốc lãi suất, cầu tiền, giá

Ghi chú: Trục X thể hiện số quý sau cú sốc. Đường nét đứt là khoảng tin cậy 90%.

chứng khoán và tỷ giá

_ 48 _

Hình 9: Phản ứng tích lũy của giá chứng khoán trƣớc cú sốc lãi suất, cầu tiền,

Ghi chú: Trục X thể hiện số quý sau cú sốc. Đường nét đứt là khoảng tin cậy 90%.

giá chứng khoán và tỷ giá

4.5.6. Phản ứng của chỉ số giá tiêu dùng trƣớc các cú sốc trong nƣớc

Hình 10 mô tả phản ứng của chỉ số giá tiêu dùng đại diện cho lạm phát trước các cú

sốc trong nước. Nhìn chung, kết quả tác động của cú sốc giá chứng khoán, chỉ số

giá, sản lượng và tỷ giá khá phù hợp với kỳ vọng ban đầu. Tất cả các biến đều có tác

động cùng chiều lên chỉ số giá, với một vài kỳ tác động nghịch chiều trước khi đạt

trạng thái cân bằng và tốc độ phản ứng khác nhau. Giá chứng khoán tăng làm chỉ số

_ 49 _

gia tiêu dùng tăng, đạt mức cao nhất (0.43%σ) sau 7 quý, đạt trạng thái ổn định sau

9 quý. Trong khi đó, chỉ số giá phản ứng ngay tức khắc trước cú sốc của chính nó,

tăng 0.76%σ, tiến về trạng thái cân bằng sau 5 quý. Theo sau một cú sốc sản lượng,

CPI tăng kể từ quý thứ 2 và đạt đỉnh sau 4 quý (tăng 0.48%σ), trạng thái ổn định bắt

đầu từ quý thứ 9. Phản ứng của lạm phát trước cú sốc tỷ giá thì khá yếu so với các

nghiên cứu trước đây, mức tăng cao nhất chỉ đạt 0.35%σ (quý 5) và đạt trạng thái ổn

định sau 8 quý xảy ra cú sốc.

Phản ứng của CPI trước cú sốc lãi suất và cung tiền thì phức tạp hơn. Trước một cú

sốc lãi suất, CPI giảm tích lũy 0.53%σ trong 2 quý đầu tiên. Tuy nhiên, kể từ quý

thứ 3, tác động nghịch chiều bị triệt tiêu, thay vào đó là xu hướng tăng khá mạnh bắt

đầu, với mức tăng đạt cao nhất 1.2%σ sau 5 quý và ổn định sau 9 quý kể từ khi xảy

ra cú sốc. Điều này ngụ ý việc kiểm soát lạm phát bằng công cụ lãi suất vẫn chưa

thực sự hiệu quả trong giai đoạn nghiên cứu. Trần Ngọc Thơ & cộng sự (2013) và

Nguyễn Khắc Quốc Bảo & cộng sự (2013) cũng tìm thấy hiện tượng puzzle tương

tự.

Đối với cú sốc cầu tiền, lạm phát chỉ bắt đầu tăng kể từ quý thứ 2 nhưng xu hướng

tăng chỉ kéo dài trong 2 quý thì bị triệt tiêu, sau đó lạm phát giảm mạnh trong suốt

giai đoạn 4 quý tiếp theo. Trước khi di chuyển vào trạng thái cân bằng, cú sốc CPI

đạt đỉnh thứ 2 vào quý 10 (+0.3%σ). Điều này có thể hàm ý rằng cung tiền gia tăng

được hấp thụ tốt trong giai đoạn nghiên cứu nên áp lực lạm phát được kiềm chế, tuy

nhiên tôi vẫn chưa tìm ra cách giải thích thỏa đáng cho hiện tượng puzzle trong giai

đoạn 4 – 8 quý sau khi xảy ra cú sốc.

_ 50 _

Ghi chú: Trục X thể hiện số quý sau cú sốc. Đường nét đứt là khoảng tin cậy 90%.

Hình 10: Phản ứng của chỉ số giá tiêu dùng trƣớc các cú sốc trong nƣớc

_ 51 _

Ghi chú: Trục X thể hiện số quý sau cú sốc. Đường nét đứt là khoảng tin cậy 90%.

Hình 11: Phản ứng tích lũy của chỉ số giá tiêu dùng trƣớc các cú sốc trong nƣớc

_ 52 _

4.5.7. Phản ứng của sản lƣợng trƣớc các cú sốc trong nƣớc

Trong phần này, chúng ta xem xét phản ứng của sản lượng trước cú sốc lãi suất, cầu

tiền, tỷ giá và chỉ số giá tiêu dùng.

Đối với kênh lãi suất, phản ứng của sản lượng khá phù hợp với lý thuyết mặc dù

không phải ngay lập tức. Sản lượng bắt đầu giảm kể từ quý thứ 4, đạt mức thấp nhất

-0.2%σ sau 7 quý xảy ra cú sốc. Mức giảm dao động nhưng vẫn tiếp tục cho đến quý

12 và sau đó đi vào trạng thái ổn định. Điều này thì hoàn toàn trái ngược với phát

hiện của Nguyễn Khắc Quốc Bảo và cộng sự (2013) khi cho rằng kênh lãi suất

không phát huy hiệu quả mong muốn và/hoặc kênh truyền dẫn từ lãi suất chính sách

đến lãi suất thị trường không hiệu quả.

Cầu tiền hầu như có tác động tích cực lên sản lượng, mặc dù có giai đoạn sau cú sốc

sản lượng sụt giảm nhưng nhìn chung cú sốc cầu tiền dương có tác động tích lũy làm

gia tăng sản lượng.

Trong khi đó, tác động của cú sốc giá tiêu dùng lên sản lượng thì không ổn định,

mức tăng giảm thay đổi đáng kể sau mỗi kỳ.

Tỷ giá lại có tác động khá yếu lên sản lượng và một cú sốc tỷ giá có tác động tích

lũy làm giảm sản lượng cả trong dài hạn và ngắn hạn. Mặc dù đạt được một vài

đồng thuận trong nghiên cứu của Nguyễn Khắc Quốc Bảo và cộng sự (2013) nhưng

lại khác với kết quả của Trần Ngọc Thơ và cộng sự (2013). Có hỏi đặt ra là: có phải

nguyên nhân chính là do việc áp đặt thứ tự các biến và các dấu hiệu hạn chế trong

hàm phản ứng xung? Vì thế, tôi tiến hành 2 thử nghiệm: (i) thay đổi thứ tự các biến

theo Nguyễn Khắc Quốc Bảo và cộng sự (2013) và (ii) thay đổi thứ tự các biến theo

Trần Ngọc Thơ và cộng sự (2013). Kết quả kiểm định (i) cho thấy tỷ giá danh nghĩa

vẫn có tác động âm lên sản lượng trong suốt 14 quý đầu tiên từ khi xảy ra cú sốc.

Theo cách thứ (ii), xu hướng tác động âm vẫn tiếp tục xảy ra, mặc dù mức độ có

thấp hơn. Cả lý thuyết kinh tế cùng nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng

_ 53 _

giữa tỷ giá và cán cân thương mại có mối tương quan dương, có nghĩa là tỷ giá tăng

(tức đồng nội tệ giảm giá) làm tăng cán cân thương mại, tuy nhiên mức tăng có thể

chưa bù đắp các chi phí khác khi tỷ giá tăng và cuối cùng là sản lượng không thể

tăng theo. Cơ chế tác động của tỷ giá lên sản lượng tại nền kinh tế mở nhỏ như Việt

Nam vẫn còn nhiều tranh cãi, vì vậy đây sẽ là hướng sâu hơn cho các nghiên cứu sau

này.

Ghi chú: Trục X thể hiện số quý sau cú sốc. Đường nét đứt là khoảng tin cậy 90%.

Hình 12: Phản ứng của sản lƣợng trƣớc các cú sốc trong nƣớc

_ 54 _

Ghi chú: Trục X thể hiện số quý sau cú sốc. Đường nét đứt là khoảng tin cậy 90%.

Hình 13: Phản ứng tích lũy của sản lƣợng trƣớc các cú sốc trong nƣớc

4.5.8. Phản ứng của tỷ giá trƣớc các cú sốc

Hình 14 mô tả phản ứng của tỷ giá trước các cú sốc trong và ngoài nước. Tác động

cú sốc giá dầu, chính sách tiền tệ thế giới và Việt Nam lên tỷ giá là vấn đề cần được

nghiên cứu cặn kẻ trên nền tảng các lý thuyết tài chính quốc tế như lý thuyết ngang

giá lãi suất, ngang giá sức mua. Mặc dù nó là quan trọng, nhưng trọng phạm vi của

_ 55 _

bài nghiên cứu này, tôi không làm tất cả mà chỉ tập trung vào các hiệu ứng truyền

dẫn. Các cú sốc nước ngoài có tác động phức tạp, dai dẳng lên tỷ giá.

Tỷ giá có phản ứng tương đối yếu đối với hầu hết cú sốc nhưng khá phù hợp với kỳ

vọng ban đầu mặc dù kết quả cũng có nhiều điểm khác biệt so với phát hiện của

Nguyễn Khắc Quốc Bảo (2013) và Trần Ngọc Thơ (2013) có thể do mẫu nghiên

cứu: bài nghiên cứu sử dụng tỷ giá hối đoái USD/VND danh nghĩa, còn các tác giả

sử dụng tỷ giá hối đoái đa phương (thực hoặc danh nghĩa).

Với một cú sốc tăng lãi suất, tỷ giá phản ứng ngay lập tức và đạt mức tăng cao nhất

0.005% sau 4 quý, mức tăng giảm từ từ và đi vào trạng thái ổn định từ quý thứ 12.

Tôi nhận thấy rằng, tỷ giá và lãi suất tuân theo lý thuyết hiệu ứng Fisher Quốc tế.

Theo đó, một sự gia tăng trong lãi suất trong nước, tương quan với lãi nước ngoài, tỷ

giá gia tăng nhằm phản ánh cân bằng ngang giá sức mua.

Cú sốc cung tiền không tác động ngay lập tức lên tỷ giá, tác động xảy ra sau 3 quý

với mức tăng đạt cao nhất 0.35%σ vào quý thứ 5. Theo tác động tích lũy, một cú sốc

cung tiền làm tăng tỷ giá trong dài hạn, điều này phù hợp với lý thuyết của Mishkin.

Một mối quan hệ đáng lưu ý nữa là tỷ giá và giá chứng khoán. Phản ứng của tỷ giá

đối với thị trường chứng khoán thì khá rõ nét. Với một cú sốc tăng giá chứng khoán,

tỷ giá có xu hướng tăng với mức tăng đạt cao nhất sau 4 quý (+0.44%σ) rồi giảm

dần mức tăng và ổn định sau 11 quý. Thị trường chứng khoán tăng trưởng biểu thị

cho sự giàu có của nền kinh tế, cung tiền đồng gia tăng, trong khi đó người dân có

nhu cầu nắm giữ ngoại tệ tăng, dẫn đến tỷ giá danh nghĩa tăng. Đây cũng là vấn đề

được nhiều nghiên cứu nhắc đến như là tình trạng đôla hóa tại Việt Nam.

_ 56 _

Ghi chú: Trục X thể hiện số quý sau cú sốc. Đường nét đứt là khoảng tin cậy 90%.

Hình 14: Phản ứng của tỷ giá trƣớc các cú sốc

_ 57 _

Ghi chú: Trục X thể hiện số quý sau cú sốc. Đường nét đứt là khoảng tin cậy 90%.

Hình 15: Phản ứng tích lũy của tỷ giá trƣớc các cú sốc

4.6. Phân rã phƣơng sai

Do ảnh hưởng đáng kể của những cú sốc tiền tệ ta có thể tự hỏi độ lớn ảnh hưởng

tương đối của chúng đến biến động giá hàng hóa là như thế nào. Câu hỏi này có thể

được giải quyết bằng công cụ phân rã phương sai sai số dự báo, đo lường tỷ lệ phần

Trong 3 hình dưới đây tôi trình bày phép phân rã phương sai sai số dự báo của sản lượng,

giá tiêu dùng và tỷ giá đối với những cú sốc tiền tệ.

trăm của phương sai sai số dự báo do một cú sốc cụ thể tại mốc thời gian cụ thể.

_ 58 _

100%

90%

80%

EX

70%

Y

60%

CPI

50%

VNI

40%

M2

30%

IR

20%

10%

0%

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Hình 16: Phân rã phƣơng sai của sản lƣợng

Kết quả tìm thấy 48.2% biến động sản lượng được gây ra bởi cú sốc của chính nó và

44.4% được gây ra bởi cú sốc giá chứng khoán. Theo thời gian, tác động của các cú

sốc này giảm dần nhưng vẫn chiến tỷ trọng lớn tương ứng 42.2% và 34.8% sau 4

quý, đồng thời các biến khác cũng tăng tỷ trọng đóng góp gây biến động trong sản

lượng như CPI 9.5%, cầu tiền 9.2%, lãi suất 2.3%, tỷ giá 2.0%.

100%

90%

80%

EX

70%

Y

60%

CPI

50%

VNI

40%

M2

30%

IR

20%

10%

0%

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Hình 17: Phân rã phƣơng sai của chỉ số giá tiêu dùng

_ 59 _

Kết quả phân rã phương sai chỉ số giá tiêu dùng cho thấy, trong 2 quý đầu tiên hơn

80% biến động của chi số giá tiêu dùng được gây ra bởi cú sốc của chính nó. Mặc dù

theo thời gian vai trò của cú sốc này giảm dần nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong

suốt 1 năm. Kể từ quý thứ 5, cú sốc lãi suất giúp giải thích hơn 50% biến động trong

chỉ số giá, các cú sốc khác chiếm tỷ trọng lần lượt là CPI 28.2%, sản lượng 10.2%,

cầu tiền 5.2%, tỷ giá 4.4%, giá chứng khoán 2.4%.

100%

90%

80%

EX

70%

Y

60%

CPI

50%

VNI

40%

M2

30%

IR

20%

10%

0%

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Hình 18: Phân rã phƣơng sai của tỷ giá

Khác với sản lượng và giá tiêu dùng, biến động của tỷ giá được giải thích bởi tất cả

các cú sốc với mức độ đóng góp trong quý đầu tiên là VNI 32.7%, M2 23.6%, CPI

17.5%, EX 15.9%, IR 9.8%, Y 0.5%. Theo thời gian, cú sốc sản lượng và lãi suất

ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong việc giải thích biến động của tỷ giá.

Nhìn chung, chúng ta có thể kết luận rằng những cú sốc chính sách tiền tệ giúp dự

đoán xu hướng của nền kinh tế nhưng chúng không phải là nguyên nhân chính dẫn

đến biến động sản lượng, giá cả và tỷ giá. Kết quả này phù hợp với của Barsky và

Kilian (2002), Frankel (2007) và Frankel và Rose (2010), những người tìm ra bằng

chứng phức hợp về tác động của lãi suất lên nền kinh tế thực.

_ 60 _

5. THẢO LUẬN KẾT QUẢ

Kết quả trình bày ở trên dựa vào giả định mô phỏng cú sốc CSTT. Phải thừa nhận

rằng, phương án mà tôi sử dụng (Kim, 1999) không phải là khả năng duy nhất, và

tôi lựa chọn trên cơ sở sự liên quan chặt chẽ của mô hình với thiết lập của mình,

cũng như vì sự đơn giản và phổ biến của nó trong các tài liệu nghiên cứu.

Trong phần này, chúng ta cùng thảo luận về các puzzle gặp phải trong nghiên cứu

này, đồng thời đánh giá các kết quả ở trên vững chắc đến mức nào khi sử dụng các

chiến lược mô phỏng khác cho cú sốc CSTT.

Bảng 5 mô tả 3 loại Puzzle gặp phải trong bài nghiên cứu này.

Bảng 5: Các Puzzle gặp phải trong bài nghiên cứu

Stt Puzzle Mô tả

1 The output puzzle Sản lượng tăng khi thắt chặt CSTT

2 The price puzzle Giá cả tăng lên khi thắt chặt CSTT

3 The exchange rate puzzle

Đồng nội tệ mất giá (tỷ giá tăng) ngay lập tức hoặc tăng giá suốt thời gian dài khi có cú sốc tăng lãi suất. Theo lý thuyết kinh doanh chênh lệch lãi suất không phòng ngừa đồng nội tệ tăng giá ngay lập tức khi tăng lãi suất và mất giá trong tương lai.

Trong nghiên cứu này, tôi tìm thấy tồn tại 3 puzzle (output, price, exchange rate).

Đây là hiện tượng rất khó giải thích một cách thấu đáo bởi còn rất nhiều tranh cãi

xung quanh vấn đề này. Nguyên nhân có thể do (i) nguồn dữ liệu thu thập được chưa

chuẩn xác, việc lựa chọn biến có tính đại diện chưa cao, ví dụ như lãi suất thì nên

lấy lãi suất cơ bản hay lãi suất cho vay ngắn hạn, tỷ giá nên là tỷ giá thực đa

phương, tỷ giá danh nghĩa đa phương hay song phương?... hoặc (ii) do kỹ thuật phân

tích, bao gồm chọn phương pháp VAR, SVAR, VECM hay phương pháp nào khác

hoàn hảo hơn và việc sắp xếp trật tự các biến trong mô hình và cũng có thể bắt

_ 61 _

nguồn từ (iii) đặc điểm của nền kinh tế, ngoài ra (iv) trong nghiên cứu này, chúng ta

chỉ mới tập trung vào các kênh truyền dẫn CSTT gián tiếp mà chưa quan tâm tới các

kênh truyền dẫn trực tiếp lên giá cả hàng hóa như nguồn cung toàn thế giới, sản

lượng tồn kho, và thay đổi vị thế mua ròng trên thị trường giao sau (theo Alessio

Anzuini và cộng sự, 2012).

Các tài liệu về những cú sốc CSTT thì rất nhiều và tôi không nhằm mục đích thấu

đáo mọi khía cạnh. Thay vào đó, tôi tập trung vào hai sơ đồ mà bằng cách này hay

cách khác xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau về vấn đề này và rất phổ biến

trong các tài liệu được ứng dụng:

Sơ đồ 1: Y = (oilt, ffrt, m2t, irt, ext, vnit, yt, cpit) (1) theo Nguyễn Khắc Quốc Bảo và

cộng sự (2013) bao gồm biến chỉ số giá chứng khoán trong mô hình để dùng làm đại

diện nghiên cứu kênh truyền dẫn qua giá tài sản.

Và thay đổi trật tự các biến:

(2) Y = (oilt, ffrt, cpit, yt, m2t, irt, ext, vnit)

(3) Y = (oilt, ffrt, yt, cpit, m2t, irt, ext, vnit)

(4) Y = (oilt, ffrt, cpit, yt, vnit, m2t, irt, ext)

(5) Y = (oilt, ffrt, cpit, yt, vnit, irt, m2t, ext)

(6) Y = (oilt, ffrt, cpit, yt, vnit, ext, irt, m2t)

Với trật tự 6 ngụ ý rằng cung tiền hấp thu tất cả các cú sốc của nền kinh tế; trong khi

các trật từ từ 1 đến 5 cho rằng cung tiền là một trong những nhân tố điều hành nền

kinh tế thực. Điều này thể hiện cho những tranh cãi gần đây về nền kinh tế vĩ mô

Việt Nam, rằng CSTT điều hành bằng cung tiền nhằm giải quyết các mục tiêu kinh

tế vĩ mô hay chỉ là hệ lụy, chạy theo các cú sốc trong nước.

Kết quả hàm phản ứng xung của khối tiền tệ M2, sản lượng, lạm phát và tỷ giá

tương ứng với các mô phỏng theo sơ đồ 1 được trình bày dưới đây.

_ 62 _

Hình 19: Hàm phản ứng xung đối với cú sốc thắt chặt tiền tệ theo sơ đồ 1

0,002

0,001

0

MH1

1

2

3

4

5

6

7

8

9 10 11 12 13 14 15 16

MH2

-0,001

MH3

-0,002

MH4

-0,003

MH5

MH6

-0,004

-0,005

-0,006

Phản ứng của Khối tiền tệ M2

0,005

0,004

MH1

0,003

MH2

MH3

0,002

MH4

MH5

0,001

MH6

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9 10 11 12 13 14 15 16

-0,001

Phản ứng của tỷ giá

_ 63 _

0,0015

0,001

MH1

0,0005

MH2

0

MH3

1

2

3

4

5

6

7

8

9 10 11 12 13 14 15 16

MH4

-0,0005

MH5

-0,001

MH6

-0,0015

-0,002

Phản ứng của sản lƣợng

0,003

0,0025

0,002

MH1

0,0015

MH2

0,001

MH3

0,0005

MH4

0

MH5

1

2

3

4

5

6

7

8

9 10 11 12 13 14 15 16

-0,0005

MH6

-0,001

-0,0015

-0,002

Phản ứng của chỉ số giá tiêu dùng

Kết quả hàm phản ứng xung theo sơ đồ mô phỏng nhóm 1 cho thấy phản ứng của

khối tiền tệ M2, lạm phát, sản lượng và tỷ giá danh nghĩa song phương gần như

giống nhau trước cú sốc thắt chặt tiền tệ, trừ trật tự (6). Các puzzle về giá, sản lượng

và tỷ giá vẫn tiếp tục tồn tại trong các trật tự từ (1) – (5). Riêng trật tự 6 chỉ còn lại 2

puzzle là sản lượng và tỷ giá.

_ 64 _

Có một thực tế rằng quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhỏ, phát triển

chưa toàn diện, số lượng các công ty niêm yết chưa đủ đại diện cho toàn bộ nền kinh

tế. Ngoài ra, sự bùng nổ của thị trường chứng khoán năm 2006 cùng làm cho biến

VN-index gây ra các mẫu hình bất thường trong nghiên cứu này. Vì vậy, tôi tiếp tục

thử nghiệm với sơ đồ 2:

Sơ đồ 2: Y = (oilt, ffrt, yt, cpit, m2t, irt, ext) ( 7) theo Trần Ngọc Thơ và cộng sự

(2013) với chỉ số VN-index được bỏ ra khỏi mô hình.

Ghi chú: Trục X thể hiện số quý sau cú sốc. Đường nét đứt là khoảng tin cậy 90%.

Hình 20: Hàm phản ứng tích lũy đối với cú sốc thắt chặt tiền tệ theo sơ đồ 2

_ 65 _

Hàm phản ứng xung trong hình 20 cho thấy, sơ đồ 2 giúp giải quyết puzzle về sản

lượng và giá, nhưng lại gặp puzzle về tính thanh khoản và tỷ giá. Điều này càng

khẳng định việc chỉ số giá chứng khoán có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng giải

thích của mô hình.

6. KẾT LUẬN

Bài nghiên cứu này xây dựng một đánh giá kinh tế chính thức về kết quả lý thuyết,

lần đầu tiên được trình bày bởi Frankel (1984), CSTT có tác động đến nền kinh tế

thực và giúp trả lời câu hỏi: CSTT được truyền dẫn thông qua kênh nào.

Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, các cú sốc nước ngoài như giá dầu thế giới và lãi

suất cơ bản Mỹ có tác động đến sản lượng, chỉ số giá và lãi suất trong nước. Điều

này là phù hợp trong điều kiện Việt Nam là một quốc gia mở cửa, hội nhập kinh tế

quốc tế. Một hướng nghiên cứu chuyên sâu hơn sau này bằng việc chia mẫu nghiên

cứu theo giai đoạn nghiên cứu tiền/ hậu khủng hoảng kinh tế thế giới, trước/ sau mở

cửa kinh tế, theo tôi sẽ cho nhiều kết quả ý nghĩa hơn.

Với các kênh truyền dẫn CSTT: lãi suất, cầu tiền, tỷ giá, giá chứng khoán tôi phát

hiện tại Việt Nam gặp phải 3 trong số 4 loại Puzzle phổ biến, ngoại trừ liquidity

puzzle. Kênh lãi suất vẫn đóng vai trò là kênh quan trọng trong truyền dẫn CSTT.

Một cú sốc thắt chặt CSTT kéo theo xu hướng tăng lãi suất, mặc dù phản ứng khá

chậm chạp nhưng chỉ sau 5 quý mức tăng đạt 6.6%σ; cầu tiền giảm ngay lập tức

0.4%σ và đạt mức thấp nhất -0,57%σ sau 2 quý; phản ứng của sản lượng trước cú

sốc lãi suất khá phù hợp với lý thuyết mặc dù không phải ngay lập tức, trong khi đó

công cụ kiểm soát lạm phát bằng lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì

chưa thực sự phát huy hiệu quả và trong một vài trường hợp có thể hiểu có thể gây

“hậu quả” cho nền kinh tế.

_ 66 _

Kênh cầu tiền cho thấy có nhiều hiện tượng không phù hợp với lý thuyết tuy nhiên

mối hệ nghịch chiều giữa khối tiền tệ M2 và lãi suất vẫn không thay đổi, cho dù có

thay đổi trật tự các biến trong mô hình.

Khả năng các hiện tượng Puzzle xuất hiện nhiều hơn khi bổ sung việc xem xét hiệu

ứng truyền dẫn thông qua thị trường chứng khoán đại diện cho kênh giá tài sản.

Điều này có thể quy kết cho việc lựa chọn chỉ số VN-index làm biến đại diện khi mà

quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung và sàn Hose nói riêng chưa

phát triển toàn diện. Một khi tìm được biến đại diện tốt hơn cho tổng thể thị trường,

hay giá trị thị trường của tất cả các công ty có thể tính chính xác thì mô hình đạt

được sẽ tốt hơn. Nhưng khi nào thì điều này có thể làm được vẫn là một câu hỏi

chưa có câu trả lời.

Kênh tỷ giá cho thấy có tác động rất yếu lên nền kinh tế, trong khi chủ yếu chịu ảnh

hưởng bởi các biến số kinh tế Vĩ mô, điều này càng khẳng định chính sách điều

hành tỷ giá thả nổi có kiểm soát của Việt Nam.

Một điểm hạn chế nữa của nghiên cứu này là chỉ mới xem xét tác động của cú sốc

thắt chặt tiền tệ được xác định bằng cú sốc tăng 1 đơn vị độ lệch chuẩn trong

phương trình lãi suất. Trong khi đó, hầu hết các học thuyết kinh tế chủ yếu đề cập

đến tác động của việc nới lỏng tiền tệ.

Khi xem xét dữ liệu lịch sử, tôi phát hiện thấy rằng việc nới lỏng CSTT bất thường

được triển khai để chống lại tác động thực sự của khủng hoảng tài chính dường như

có thể đẩy giá hàng hóa lên, gây áp lực lạm phát, mặc dù ở mức độ nhỏ. Tuy nhiên

phải thừa nhận rằng sơ đồ mô phỏng của tôi không được thiết kế để giải thích cho

các thước đo CSTT bất thường, do đó các ảnh hưởng lớn hơn không thể bị loại trừ.

Tất nhiên, trong khi điều này là một con đường nghiên cứu thú vị, nó sẽ đòi hỏi một

chiến lược mô phỏng mới cho các cú sốc CSTT.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Danh mục tài liệu Tiếng Việt

1. Nguyễn Khắc Quốc Bảo và cộng sự, 2013. Nghiên cứu tác động của chính sách tiền

tệ lên nền kinh tế Việt Nam. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở số CS-2013-19.

Đại học Kinh tế TPHCM.

2. Trần Ngọc Thơ và cộng sự, 2012. Nghiên cứu sơ thảo về phá giá tiền tệ và một số

khuyến nghị chính sách cho Việt Nam. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở mã số

CS-2011-14. Đại học Kinh tế TPHCM.

3. Trần Ngọc Thơ và cộng sự, 2013. Cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ ở Việt Nam.

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở mã số CS-2013-21. Đại học Kinh tế TPHCM.

Danh mục tài liệu Tiếng Anh

1. Acosta-Ormaechea, Santiago and David Coble [2011]. “Monetary transmission in

dollarized and non-dollarized economies: The cases of Chile, New Zealand, Peru

and Uruguay”. IMF Working Paper No.11/87. International Monetary Fund.

2. Aleem, Abdul, 2010. Transmission mechanism of monetary policy in Indi. Journal

of Asian Economics, 21, 186-197.

3. Al-Mashat, R., & Billmeier, A., 2008. The monetary transmission mechanism in

Egypt. Review of Middle East Economics and Finance, 4(3), 32-82. Online

available at:

.4.3.1126.xml> [Accessed 01 October 2013].

4. Al-Mashat, R., 2003. Monetary policy transmission in India: Selected issues and

statistical appendix. Country report no. 03/261. International Monetary Fund.

5. Amarasekar, C., 2008. The impact of monetary policy on economic growth and

inflation in Sri Lanka. CBSL Staff Studies, 38, No 1&2.

6. Ando, Albert, and Franco Modigliani [1963]. The „life-cycle‟ hypothesis of saving:

aggregate implications and tests. American Economic Review, 53, 55–84.

7. Angeloni, et al., 2003. Monetary transmission in the euro area: does the interest rate

channel explain all?. NBER Working Paper No. 9984. National Bureau of Economic

Research.

8. Anzuini, A., et al., 2012. The impact of monetary policy shocks on commodity

prices. Bank of Italy Temi di Discussione, (851). Banca D‟Italia Eurosistema. Online

available at:

[Accessed 01 March 2013].

9. Basistha, A., & Kurov, A., 2012. The Impact of Monetary Policy Surprises on

Energy Prices. West Virginia University. Online available at: <

http://www.be.wvu.edu/divecon/finance > [Accessed 01 March 2013].

10. Bayangos, Veronica B., 2010. Does the bank credit channel of monetary policy

matter in the Philippines?. Online available at

www.bis.org/repofficepubl/arpresearch201003.12.pdf.

11. Bea, at al., 2010. Monetary policy after fall. Paper presented at Jackson Hole

Symposium Wyoming, September 16.

12. Bean, et al., 2002. Financial frictions and the monetary transmission mechanism:

theory, evidence and policy implications. ECB Working Paper No.113. European

Central Bank.

13. Bernanke, Ben S., 1986. Alternative explanations of the money-income correlation.

14. Bernanke, Ben S., 2011. The economic outlookand macroeconomic policy. Speech

at the National Press Club, Washington, D.C., February 3.

15. Bernanke, et al., 1988. Credit, money, and aggregate demand. American Economic

ReviewPapers and Proceedings, 78, 435-439.

16. Bernanke, et al., 1992. The federal funds rate and the channels of monetary

transmission. American Economic Review, 82, 901-21.

17. Bernanke, et al., 1995. Inside the black box: the credit channel of monetary

transmission. Journal of Economic Perspectives, 9, 27-48.

18. Bhattacharya, et al., 2011. Monetary policy transmission in an emerging market

setting. IMF Working Paper No.11/5.

19. Bhaumik, et al., 2010. Implications of bank ownership for the credit channel of

monetary policy transmission: evidence from India. William Davidson Institute

Working Paper No 988. University of Michigan.

20. Bhuiyan, 2008. The Effects of Monetary Policy Shocks in a Small Open Economy:

A Structural VAR Approach. Canadian Journal of Economics/Revue canadienne

d'économique, 45(3), 1037-1061. Online available at: <

http://onlinelibrary.wiley.com/> [Accessed 01 March 2013].

21. Boivin., et al., 2010. How has the monetary transmission mechanism evolved over

time?. NBER Working Paper No. 15879, National Bureau of Economic Research.

22. Carnegie-Rochester Conference Series on Public Policy, Elsevier, Vol. 25, 49-99.

23. Cecchetti, et al., 2009. Financial crises and economic activity. Paper presented at

Jackson Hole Symposium Wyoming, August 10-11.

24. Christiano Lawrence, et al., 2008. Shocks, structures or monetary policies? The Euro

Area and US after 2001. Journal of Economic Dynamics and Control, 32, 2476-

2506.

25. Ciccarelli, M., at al., 2012. Heterogeneous Transmission mechanism Monetary

Policy and Financial fragility in the euro area. European Central Bank.

26. Curdia Vasco and Michael Woodford, 2010. The central-bank balance sheet as an

instrument of monetary policy. NBER Working Paper No. 16208, National Bureau

of Economic Research.

27. Deepak Mohanty, 2012. Evidence on Interest Rate Channel of Monetary Policy

Transmission in India. Second International Research Conference. The Reserve

Bank of India, February (pp. 1-2). Online available at:

http://sirc.rbi.org.in/downloads/SIRCPaper.pdf [Accessed 01 October 2013].

28. Disyatat, et al., 2003. Monetary policy and the transmission mechanism in Thailand.

Journal of Asian Economics, 14.

29. Edwards, Franklin and Frederic S. Mishkin, 1995. The decline oftraditional banking:

implications for financial stability and regulatory policy. NBER Working Papers No.

4993, National Bureau of Economic Research.

30. European Central Bank, 2010. Monetary policy transmission in the Euro Area, a

decade after the introduction of the Euro. ECB Monthly Bulletin, May.

31. Friedman, et al., 1963. A monetary history of the United States, 1867-1960.

Princeton University Press.

32. Joyce, et al., 2011. The United Kingdom‟s quantitative easing policy: design,

operation and impact. Quarterly Bulletin 2011 Q3. Bank of England.

33. Kabundi A., and Nonhlanhla, N., 2011. Assessing monetary policy in South Africa

in a data-rich environment. South African Journal of Economics, 79, 91-107.

34. Keynes, J. M., 2006. General theory of employment, interest and money. Atlantic

Books.

35. Le Viet Hung & Wade D. Plau, 2008. VAR Analysis of the moneytary transmission

mechanism in Vietnam. Applied Econometrics and International Development. Vol.

9, No. 1, PP. 165-179, January – June 2009. Online available at:

http://ssrn.com/abstract=1257854 [Accessed 01 October 2013].

36. Loayza, et al., 2002. Monetary policy functions and transmission mechanisms: an

overview. Available at http://www.bcentral.cl/estudios/banca-

central/pdf/v4/001_020Gallego.pdf.

37. MacCarthy, J., 2000. Pass-through of exchange rates and import prices to domestic

inflation in some industrialized economies (No. 111). Staff Report. Federal Reserve

Bank of New York. Online available at: <

http://www.econstor.eu/handle/10419/60561> [Accessed 01 October 2013].

38. Meltzer, Allan H., 1995. Monetary, credit and (other) transmission processes: a

monetarist perspective. Journal of Economic Perspectives, 9, 49-72.

39. Mishkin, Frederic S., 1992. The economics of Money, Banking, and Financial

markets. 7th ed. The Addison-Wesley Series in Economics.

40. Mishkin, Frederic S., 1995. Symposium on the monetary transmission mechanism.

Journal of Economic Perspectives, 9, 3-10.

41. Mishkin, Frederic S., 1996. Channels of monetary transmission and lessons for

monetary policy. NBER Working Paper No.5464, National Bureau of Economic

Research.

42. Mishkin, Frederic S., 2001. The transmission mechanism and the role of asset prices

in monetary policy. NBER Working paper No.8617, National Bureau of Economic

Research.

43. Mishra, et al., 2010. Monetary transmission in low income countries. CEPR

Discussion Paper No.DP7951.

44. Mohanty, et al., 2008. Monetary policy transmission in emerging market economies:

what is new?. BIS Papers No.35. Bank of International Settlements.

45. Mukherjee, et al., 2011. Inflation targeting and monetary policy transmission

mechanisms in emerging market economies. IMF Working Paper No.WP/11/229.

International Monetary Fund.

46. Ncube, Mthuli and Eliphas Ndou, 2011. Monetary policy transmission, house prices

and consumer spending in South Africa: an SVAR approach. Working Paper No.

133. African Development Bank Group.

47. Obstfeld, Mauriceand Kenneth Rogoff, 1995. The mirage of fixed exchange rates.

Journal of Economic Perspectives, 9, 73-96.

48. Pandit, B. L and Pankaj Vashisht, 2011. Monetary policy and credit demand in India

and some EMEs. ICRIER Working Paper No.256.

49. Patra, et al., 2010. A monetary policy model without money for India. IMF Working

Paper No.10/183. International Monetary Fund.

50. Ramey, Valerie A., 1993. How important is the credit channel in the transmission of

monetary policy. NBER Working Paper No. 4285, National Bureau of Economic

Research.

51. Reserve Bank of India, 1985. Report of the committee to review the working of the

monetary system (Chairman: S. Chakravarty), Bombay.

52. Reserve Bank of India, 1998. Report of the working group on money supply:

analytics and methodology of compilation (Chairman: Dr. Y.V. Reddy), June.

53. Reserve Bank of India, 2005. Report on currency and finance, 2003-04.

54. Reserve Bank of India, 2011. Report of the working group on operating procedure

of monetary policy (Chairman: Deepak Mohanty).

55. Romer, C. D. and Romer, D. H., 1990. New evidence on the monetary transmission

mechanism. Brookings Paper on Economic Activity, 1, 149-213.

56. Singh, et al., 2007. Monetary transmission in post-reform India: an evaluation.

Journal of the Asia Pacific Economy, 12, 158–187.

57. Smets, et al., 2002. An estimated dynamic stochasticgeneral equilibrium model of

the Euro Area. ECB Working Paper No.171. European Central Bank.

58. Soo Y Chua, 2012. Assessing the Effects of Monetary Policy Shocks in Malaysia:

A Factor Augmented Vector Autoregressive Approach. Economics Programme.

Universiti Sains Malaysia.

59. Soyoung Kim, 1997. Do monetary policy shocks matter in the G-7 countries? using

common identifying assumptions about monetary policy across countries. Journal of

International Economics 48 (1999) 387–412.

60. Taylor, et al., 2010. Simple and robust rules for monetary policy. NBER Working

Paper No.15908, National Bureau of Economic Research.

61. Taylor, John B., 1995. The monetary transmission mechanism: an empirical

framework. Journal of Economic Perspective, 9, 11-26.

62. Tobin, J., 1969. A general equilibrium approach to monetary theory. Journal of

Money Credit and Banking, 1, 15–29.

63. Trichet, Jean-Claude, 2011. Introductory statement to the press conference.

European Central Bank, Frankfurt, February 3.

64. Walsh, Carl E., 2009. Using Monetary Policy to Stabilize Economic Activity. Paper

presented at Jackson Hole Symposium Wyoming, August 10-11.

65. Yellen, Janet L., 201]. Unconventional monetary policy and central bank

communication. Speech at the University of Chicago Booth School of Business U.S.

Monetary Policy Forum, New York, New York, February 25.

66. Yun Li, 2004. The impact of monetary policy on stock prices: evidence from

Canada and the United States. Submitted in partial fulfillment o f the requirements

for the degree o f Master of Arts. Dalhousie University.

PHỤ LỤC

PL 1. Mô tả dữ liệu đầu vào

Giá dầu thế giới (oil)

140,00

120,00

100,00

80,00

60,00

g n ù h t / D S U

40,00

20,00

-

1 1 - n u J

1 0 - n u J

6 0 - n u J

9 9 - t c O

4 0 - t c O

9 0 - t c O

2 0 - r p A

7 0 - r p A

2 1 - r p A

3 0 - b e F

8 0 - b e F

3 1 - b e F

8 9 - c e D

3 0 - c e D

8 0 - c e D

0 1 - g u A

0 0 - g u A

5 0 - g u A

Lãi suất cơ bản Mỹ (FFR)

7,00

6,00

5,00

4,00

3,00

m ă n / %

2,00

1,00

-

1 0 - n u J

6 0 - n u J

1 1 - n u J

9 9 - t c O

4 0 - t c O

9 0 - t c O

2 0 - r p A

7 0 - r p A

2 1 - r p A

3 0 - b e F

8 0 - b e F

3 1 - b e F

8 9 - c e D

3 0 - c e D

8 0 - c e D

0 0 - g u A

5 0 - g u A

0 1 - g u A

Khối tiền tệ (M2)

D N V ỷ T

4.500.000 4.000.000 3.500.000 3.000.000 2.500.000 2.000.000 1.500.000 1.000.000 500.000 -

1 0 - n u J

6 0 - n u J

1 1 - n u J

9 9 - t c O

4 0 - t c O

9 0 - t c O

2 0 - r p A

7 0 - r p A

2 1 - r p A

3 0 - b e F

8 0 - b e F

3 1 - b e F

8 9 - c e D

3 0 - c e D

8 0 - c e D

0 0 - g u A

5 0 - g u A

0 1 - g u A

Lãi suất cho vay

m ă n / %

18,00 16,00 14,00 12,00 10,00 8,00 6,00 4,00 2,00 -

1 0 - n u J

6 0 - n u J

1 1 - n u J

9 9 - t c O

4 0 - t c O

9 0 - t c O

2 0 - r p A

7 0 - r p A

2 1 - r p A

3 0 - b e F

8 0 - b e F

3 1 - b e F

8 9 - c e D

3 0 - c e D

8 0 - c e D

0 0 - g u A

5 0 - g u A

0 1 - g u A

Chỉ số giá tiêu dùng (gốc 2005)

250,00

200,00

150,00

100,00

50,00

-

0 0 - n u J

3 0 - n u J

6 0 - n u J

9 0 - n u J

2 1 - n u J

9 9 - p e S

2 0 - p e S

5 0 - p e S

8 0 - p e S

1 1 - p e S

8 9 - c e D

1 0 - c e D

4 0 - c e D

7 0 - c e D

0 1 - c e D

1 0 - r a M

4 0 - r a M

7 0 - r a M

0 1 - r a M

3 1 - r a M

Sản lượng GDP (gốc 1994)

D V ỷ T

200.000 180.000 160.000 140.000 120.000 100.000 80.000 60.000 40.000 20.000 -

1 0 - n u J

6 0 - n u J

1 1 - n u J

9 9 - t c O

4 0 - t c O

9 0 - t c O

2 0 - r p A

7 0 - r p A

2 1 - r p A

3 0 - b e F

8 0 - b e F

3 1 - b e F

8 9 - c e D

3 0 - c e D

8 0 - c e D

5 0 - g u A

0 0 - g u A

0 1 - g u A

VN-index

1200

1000

800

600

400

200

0

0 0 - l u J

2 0 - l u J

4 0 - l u J

6 0 - l u J

8 0 - l u J

0 1 - l u J

2 1 - l u J

9 0 - v o N

1 0 - v o N

3 0 - v o N

5 0 - v o N

7 0 - v o N

1 1 - v o N

3 1 - r a M

1 0 - r a M

3 0 - r a M

5 0 - r a M

7 0 - r a M

9 0 - r a M

1 1 - r a M

Tỷ giá danh nghĩa song phương

25.000

20.000

15.000

10.000

D N V / D S U

Series1

5.000

-

6 0 - l u J

0 0 - n a J

3 1 - n a J

5 0 - n u J

9 0 - t c O

3 0 - r p A

1 0 - b e F

8 0 - p e S

8 9 - c e D

1 1 - c e D

7 0 - g u A

0 1 - v o N

2 0 - r a M

4 0 - y a M

Structural VAR Estimates Date: 11/14/13 Time: 01:02 Sample (adjusted): 2001Q3 2013Q2 Included observations: 48 after adjustments Estimation method: method of scoring (analytic derivatives) Convergence achieved after 26 iterations Structural VAR is over-identified (2 degrees of freedom)

Model: Ae = Bu where E[uu']=I Restriction Type: short-run pattern matrix A =

0 1 C(6) C(7) C(8) 0 0 C(9)

1 C(1) 0 C(2) 0 C(3) C(4) C(5)

B =

0 0 0 0 1 0 C(19) C(20) 0 0 0 0 C(31) 0 0 0 Prob. 0.8241 0.0228 0.2346 0.0008 0.0000 0.2237 0.0257 0.0765 0.0000 0.0671 0.0007 0.1759 0.0000 0.0000 0.0037 0.4505 0.1069 0.3227 0.0000 0.0000 0.2138

0 0 0 C(21) 0 1 C(22) C(23) 0 0 0 0 0 C(32) 0 0

0 0 0 C(24) 0 C(25) 1 C(26) 0 0 0 0 0 0 C(33) 0

0 C(28) 0 0 0 0 0 0 Coefficient -0.088024 0.190522 -0.016461 -0.024246 0.026564 0.509842 -0.065506 -0.010365 -0.008062 -0.034065 -0.011546 0.003461 -0.007365 -0.005612 62.11279 -0.102656 0.171669 -0.036449 0.427884 -0.344393 0.777755

0 0 1 C(10) C(11) C(12) C(13) C(14) 0 0 C(29) 0 0 0 0 0 Std. Error 0.395904 0.083688 0.013848 0.007245 0.005451 0.419003 0.029369 0.005852 0.001811 0.018602 0.003400 0.002557 0.001681 0.001138 21.42756 0.136049 0.106474 0.036858 0.067995 0.054424 0.625566

0 0 C(15) 1 C(16) C(17) 0 C(18) 0 0 0 C(30) 0 0 0 0 z-Statistic -0.222337 2.276568 -1.188663 -3.346645 4.873144 1.216798 -2.230412 -1.771141 -4.452437 -1.831216 -3.396441 1.353458 -4.381022 -4.932088 2.898733 -0.754551 1.612313 -0.988915 6.292828 -6.328014 1.243281

C(27) 0 0 0 0 0 0 0 C(1) C(2) C(3) C(4) C(5) C(6) C(7) C(8) C(9) C(10) C(11) C(12) C(13) C(14) C(15) C(16) C(17) C(18) C(19) C(20) C(21)

0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 C(34)

PL 2. Kết quả mô hình SVAR

C(22) C(23) C(24) C(25) C(26) C(27) C(28) C(29) C(30) C(31) C(32) C(33) C(34)

0.127229 0.058853 1.180053 0.251662 0.098870 0.012737 0.034938 0.246916 0.008998 0.001300 0.000980 0.000567 0.000305

1.422255 -4.388096 -2.019529 -0.636821 -2.043446 9.797959 9.797959 3.591098 2.594509 8.450828 8.032644 8.639879 9.797959

Probability

0.180952 -0.258253 -2.383152 -0.160263 -0.202035 0.124801 0.342318 0.886701 0.023345 0.010985 0.007869 0.004895 0.002988 Log likelihood 838.8319 LR test for over-identification: 6.250143 Chi-square(2)

0.000000 0.000000 1.000000 -0.034065 -0.011546 0.003461 -0.007365 -0.005612

0.000000 1.000000 0.509842 -0.065506 -0.010365 0.000000 0.000000 -0.008062

0.000000 0.000000 62.11279 1.000000 -0.102656 0.171669 0.000000 -0.036449 0.000000 0.000000 0.000000 0.023345 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000

0.000000 0.000000 0.886701 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000

Estimated A matrix: 1.000000 -0.088024 0.000000 0.190522 0.000000 -0.016461 -0.024246 0.026564 Estimated B matrix: 0.124801 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000

0.000000 0.342318 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000

0.1550 0.0000 0.0434 0.5242 0.0410 0.0000 0.0000 0.0003 0.0095 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0439 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 1.000000 0.000000 0.427884 -0.344393 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.010985 0.000000 0.000000 0.000000

0.000000 0.000000 0.000000 0.777755 0.000000 1.000000 0.180952 -0.258253 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.007869 0.000000 0.000000

0.000000 0.000000 0.000000 -2.383152 0.000000 -0.160263 1.000000 -0.202035 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.004895 0.000000

0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 1.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.000000 0.002988

PL 3. Khái niệm Chính sách tiền tệ

CSTT là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế của nhà nước để

thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế

– xã hội trong từng giai đoạn nhất định.

Theo Điều 3 (Luật NHNN 2010): CSTT quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm

quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn

định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công

cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra.

Theo nghĩa rộng thì CSTT là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền

kinh tế quốc dân nhằm tác động đến 4 mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô gồm tăng

trưởng kinh tế, kiểm soát giá cả, tạo việc làm mới cho xã hội và tăng xuất khẩu ròng;

trên cơ sở đó đạt được mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của

đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá.

PL 4. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ

Công cụ tái cấp vốn: NHTW cấp tín dụng cho các NHTM để nâng cao năng lực

thanh toán, đồng thời làm tăng cung ứng tiền tệ.

Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: NHTW sử dụng để kiểm soát, điều chỉnh khả năng

thanh toán, cho vay của các NHTM thông qua tỷ lệ bắt buộc giữa số lượng phương

tiện thanh toán cần vô hiệu hoá trên tổng số tiền gửi huy động. Tăng tỷ lệ dự trữ

bắt buộc, nghĩa là làm giảm khả năng tín dụng của các NHTM, do đó làm giảm

lượng tiền trong lưu thông. Ngược lại, khi NHTW giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm

tăng khả năng tín dụng cho các NHTM, làm tăng lượng tiền trong lưu thông.

Công cụ nghiệp vụ thị trƣờng mở: OMO là hoạt động của ngân hàng mua, bán các

giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ thông qua cung cầu các giấy tờ có giá,

tác động đến tỷ lệ dự trữ của các NHTM, do đó tác động đến khả năng cung ứng tín

dụng của các NHTM dẫn đến tăng hay giảm lượng tiền cung ứng. Khi bán các giấy

tờ có giá ngắn hạn, NHTW đã thu hẹp tín dụng làm giảm khối lượng tiền tệ nhằm

mục đích ngăn chặn tỷ lệ lạm phát tăng cao. Ngược lại, khi NHTW mua các giấy tờ

có giá ngắn hạn thì sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu

tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh toán của các NHTM.

Công cụ lãi suất tín dụng: Đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện

CSTT bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng

tiền trong lưu thông, mà chỉ có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất.

Công cụ hạn mức tín dụng: Là công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính

của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ

chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM

phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.

Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là công cụ, đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ có

tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.

Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập

khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn

dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của CSTT vì

tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước,

đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan

trọng cho CSTT.

PL 5. Tình hình kinh tế vĩ mô & thực tiễn thực thi CSTT việt nam

6.1. Giai đoạn 1986 – 1999

Năm 1986 – 1988: là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,

tổng cầu luôn vượt tổng cung. Do đó, tình trạng hàng hóa bị khan hiếm đến mức

nghiêm trọng đồng thời do thiếu hụt ngân sách, nhà nước liên tục phát hành tiền. Vì

vậy nền kinh tế luôn ở trạng thái bất ổn, lạm phát phi mã ở mức kỳ lục ba con số

(774.7% năm 1986). Chống lạm phát trở thành nhiệm vụ trọng tâm, hai thay đổi lớn

trong CSTT là: (1) tỷ giá hối đoái nên ngang mức giá thị trường và (2) thi hành lãi

suất thực dương đã tạo thành xung lực mạnh nhất đảo ngược tình hình. Trên cả hai

phương diện TGHĐ và lãi suất, hai mũi neo của nền kinh tế đã góp phần đẩy lùi lạm

phát và khủng hoảng, khôi phục lòng tin của người dân đối với đồng nội tệ. Từ đó,

các quan hệ thị trường hình thành đặt ra cơ sở vững chắc.

Giai đoạn 1989 – 1995: Các chính sách kinh tế mới đã có ý nghĩa quyết định giúp

kiềm chế được cơn sốt lạm phát xuống còn 66% (1990 – 1991), 14.4% (1994) và

12.7% (1995); trong khi nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định, 8.8% (1994) và

9.5% (1995). Những nhận thức về ảnh hưởng của cung tiền lên lạm phát trong điều

hành kinh tế của nhà nước ngày càng rõ nét, việc cung ứng tiền để bù đắp bội chi

ngân sách dần chấm dứt. Trong giai đoạn này, nhà nước tập trung vào các chính

sách tài khóa để thắt chặt chi tiêu, giảm bội chi, tăng thu ngân sách thông qua thuế.

Giai đoạn 1995 – 1999:

Tháng 9 năm 1994, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được thiết lập, NHNN thực

hiện vai trò là người mua bán cuối cùng trong ngày, tỷ giá chính thức được ngân

hàng công bố, chỉ có biên độ giao động là thay đổi.

Năm 1996, mức thâm hụt cán cân thương mại ở nước ta lên đến 4 tỷ USD, nhập siêu

16% GDP, nhu cầu ngoại tệ tăng làm giảm giá trị VND. Do vậy, NHNN đã mở rộng

biên độ giao động tỷ giá từ 0.5% lên 1% rồi lên 5% vào tháng 2/1997.

Trong năm 1997, với mục tiêu góp phần tăng trưởng kinh tế và phù hợp xu hướng

giảm lãi suất, việc quy định trần lãi suất cho vay giảm mạnh, tháng 7/1997 lãi suất

cho vay ngắn hạn giảm từ 1.2%/tháng xuống còn 1%/tháng, chênh lệch lãi suất huy

động và cho vay bình quân quy định là 0.35%/tháng (4.2%/năm). Ngày 2/7/1997

ngòi nổ cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á bắt đầu xuất phát từ Thailand, ảnh hưởng

tiêu cực đến nền kinh tế, tâm lý Việt Nam. Ngày 13/10/1997, NHNN công bố quyết

định nới lỏng biên độ tỷ giá và mua bán ngoại tệ lên 10% so với tỷ giá chính thức.

Đồng USD có xu hướng tăng giá và lãi suất USD ở mức cao trong khi lãi suất huy

động VND ở mức thấp dẫn đến hiện tượng người gửi rút VND để chuyển sang

USD, nền kinh tế đứng trước nguy cơ “đô-la hóa” và tiềm ẩn nhiều bất ổn cho thị

trường tiền tệ, tăng sức ép lên đồng nội tệ, các NHTM gặp khó khăn trong việc huy

động vốn.

Trước tình hình đó, ngày 20/11/1998, Thống đốc NHNN ra quyết định số

39/1998/QĐ-NHNN với nội dung chủ yếu là:

 Mức trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng (TCTD) bằng USD: ngắn hạn

từ 1 – 1.2% tháng, trung và dài hạn là 1.1 – 1.25% tháng; xóa bỏ chênh lệch lãi

suất giữa khu vực thành thị và nông thôn. Đây là cơ sở tăng lãi suất huy động vốn

VND so với USD.

 Trần lãi suất cho vay bằng USD giữ nguyên mức 8.5% năm, đồng thời quy định

lãi suất tiền gửi USD tối đa của các pháp nhân tại TCTD nhằm hạn chế việc quản

lý ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi góp phần tăng cường quản lý ngoại hối.

 Đến cuối năm, trần lãi suất cho vay bằng USD được điều chỉnh giảm từ 8.5%

xuống 7.5% năm để phù hợp với cân bằng lãi suất LiBOR, SiBOR hiện hành;

đồng thởi mở rộng cho vay ngoại tệ đối với nền kinh tế.

Ngoài ra, do sự tồn tại của cả 2 thị trường chính thức và chợ đen giao dịch ngoại hối,

tình trạng bất ổn trong tỷ giá khiến NHNN phải điều chỉnh tỷ giá từ 11,175

VND/USD lên 11,800 VND/USD (16/2/1998) và từ 11,888 VND/USD lên 12,998

VND/USD giúp thu hẹp khoảng cách giữa hai thị trường.

Nhìn chung việc điều chỉnh lãi suất trong năm 1998 là phù hợp với diễn biến kinh tế

vĩ mô và tỷ giá, có tác động tích cực lên kênh huy động vốn và cho vay, tỷ giá

VND/USD trở về trạng thái ổn định, kết quả lạm phát năm 1998 được kiểm chế ở

mức 9,2%; tăng trưởng kinh tế đạt 5.8% so với mức tương ứng của năm 1997 là

8.8% và 3.5%.

Bƣớc sang năm 1999, nền kinh tế có dấu hiệu chững lại, để giải quyết các mục tiêu

lạm phát trong bối cảnh nền kinh tế có nguy cơ giảm pháp, vấn đề cung cầu vốn trên

thị trường tiền tệ và thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của chính phủ, NHNN đã

5 lần điều chỉnh trần lãi suất cho vay VND theo hướng giảm tư 1.2% tháng (ngắn

hạn) và 1.25% tháng (trung và dài hạn) xuống mức thấp nhất là 0.85% tháng (thành

thị), 1% tháng (nông thôn), 0.7% (NH phục vụ người nghèo). Cuối cùng, lạm phát

năm 1999 thấp nhất trong lịch sử 0.1% và tăng trưởng kinh tế đạt 4.8%.

6.2. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay

Năm 2000, lãi suất trong nước diễn biến phức tạp; thực hiện chủ trương kích cầu

của chính phủ, lãi suất vay bằng VND tiếp tục được điều chỉnh giảm từ 0.75%

xuống 0.70% tháng. Trong khi lãi suất ngoại tệ chịu ảnh hưởng của thị trường tài

chính quốc tế, liên tục tăng từ 3.5% lên 4.5% năm. Cũng trong năm này, ngày 2/8,

NHNN đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất từ lãi suất trần sang lãi suất

cơ bản đối với vay bằng VND và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho

vay bằng ngoại tệ.

Ngày 12/7/2000, NHNN chính thức khai trương đưa nghiệp vụ thị trường mở vào

hoạt động theo hướng sử dụng như là một công cụ điều tiết tiền tệ linh hoạt và co

hiệu quả. Trong năm, NHNN đã thực hiện 17 giao dịch OMO, trong đó 14 phiên

mua 1,353.5 tỷ đồng (lãi suất 4.4% – 5.58% năm) và 3 phiên bán 550 tỷ đồng (lãi

luất 4.0 – 4.6% năm). Đến 31/12, NHNN đã bơm 405 tỷ đồng qua thị trường mở.

Từ tháng 05 – 08 năm 2001, NHNN thực hiện CSTT thắt chặt nhằm kiểm soát lạm

phát, tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngoại tệ lúc này tăng lên đến 5%, và đến tháng 11 tỷ lệ

này giảm còn 10%.

Ngày 1/6/2002: NHNN quyết định chuyển sang cơ chế lãi suất ổn định VND tạo

điều kiện cho các tổ chức tín dụng chủ động trong hoạt động huy động vốn và cho

vay; thị trường tín dụng hoạt động sôi nổi và cạnh tranh hơn. Mức lãi suất huy động

tăng từ 0.6% (đầu năm) lên 0.7% thậm chí 0.72% trong tháng 8, 9. Lãi suất nội tệ

tiếp tục tăng trong năm 2003, trong khi lãi suất ngoại tệ giảm.

Năm 2005: Trước sức ép của chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng nhanh và mục

tiêu tăng trưởng kinh tế cao trong năm cuối cùng thực hiện Kế hoạch Phát triển kinh

tế - xã hội 5 năm 2001-2005, NHNN vẫn tiếp tục thực thi một CSTT thận trọng cùng

với giải pháp ổn định tỷ giá (“neo” tỷ giá), song linh hoạt hơn trong điều hành lãi

suất và kiểm soát tín dụng. Việc điều hành chính sách lãi suất dựa trên cơ sở phân

tích diễn biến lãi suất tiền tệ, lạm phát trong nước, và lãi suất trên thị trường quốc tế,

với 2 lần điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 7,5%/năm lên 7,8%/năm và 8,25%/năm,

3 lần điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn từ 5,0-5,5-6,0-6,5%/năm, và 3 lần tăng lãi

suất tái chiết khấu từ 3,0-3,5-4,0-4,5%/năm. Mặt khác, NHNN thực hiện kiểm soát

tăng trưởng tín dụng song song với nâng cao chất lượng tín dụng.

Trong giai đoạn 2007 –2008, kiên trì với chính sách ổn định TGHĐ, NHNN phải

tăng cung tiền đồng để mua lại các khoản ngoại tệ gia tăng cùng với các dòng vốn

đầu tư nước ngoài và kiều hối. Mặc dù vậy, NHNN chưa thực hiện hiệu quả việc

trung hòa hóa đối với lượng tiền tăng thêm này, khiến cung tiền tăng nhanh. Cùng

với áp lực dồn tụ từ tăng trưởng đầu tư công và tín dụng trong một thời gian dài,

cũng như việc giá thế giới tăng mạnh, điều này đã làm tăng áp lực lạm phát. Lạm

phát đã tăng nhanh và đạt đỉnh ở mức 28,3% vào tháng 8/2008.

Từ năm 2008, khi thị trường tín dụng tăng trưởng quá nóng, lãi suất cho vay của

các ngân hàng bị đẩy lên cao, NHNN đã liên tục bơm tiền vào hệ thống ngân hàng

thông qua việc mua lại giấy tờ có giá của các ngân hàng thương mại trên thị trường

mở. Cùng với việc đẩy mạnh cung ứng tiền qua OMO, giai đoạn này, NHNN ban

hành các chỉ đạo yêu cầu các NHTM nghiêm túc thực hiện và duy trì việc cho vay

lẫn nhau tập trung ở Hội sở chính, với mức lãi suất không vượt quá 150% lãi suất cơ

bản do NHNN công bố, qua đó, đã góp phần không nhỏ hạ nhiệt lãi suất thị trường,

cung ứng nguồn thanh khoản cho các thanh viên thị trường, nhất là những thành

viên gặp khó khăn về nguồn vốn.

Từ tháng 9/2008 đến hết năm 2009, tình hình kinh tế thế giới có xu hướng đảo

chiều: khủng hoảng tài chính toàn cầu đi kèm suy thoái và xu hướng giảm đáng kể

giá dầu và nhiều nguyên liệu khác. Một lần nữa, Chính phủ lại chuyển hướng sang

tập trung chống suy giảm kinh tế. CSTT lại được nới lỏng dần một cách thận trọng.

NHNN cũng đã ban hành một số văn bản nhằm kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng

trưởng dư nợ tín dụng năm 2009 phù hợp với cơ cấu nguồn vốn, bảo đảm các tỷ lệ

an toàn và tăng cường kiểm soát chất lượng tín dụng, không hạ thấp các điều kiện

tín dụng. Tính chung, tổng phương tiện thanh toán chỉ tăng khoảng 20,3% trong năm

2008, song đã tăng xấp xỉ 29,0% trong năm 2009. Tương tự, dư nợ tín dụng đã tăng

39,6% trong năm 2009.

Trong 8 tháng đầu năm 2010 khi lạm phát còn ở mức thấp, NHNN đã duy trì mức

lãi suất chỉ đạo, tăng cung tiền nhằm hỗ trợ giảm mặt bằng lãi suất. Mặt khác,

NHNN cũng từng bước hủy bỏ các quy định ràng buộc về các loại lãi suất của các tổ

chức tín dụng. Trong 4 tháng cuối năm 2010, do lạm phát có dấu hiệu tăng cùng

với áp lực giảm giá VNĐ, NHNN đã áp dụng CSTT thắt chặt từ ngày 5/11 bằng

cách nâng thêm 1% các mức lãi suất chỉ đạo, quy định lãi suất tiền gửi tối đa bằng

USD của các tổ chức kinh tế ở mức 1% năm, và giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng

ngoại tệ từ 7% xuống 4%. Đến cuối năm 2010, do cạnh tranh huy động trên thị

trường, NHNN phải quy định bắt buộc trần lãi suất tiền gửi VNĐ ở mức 14%/năm.

Bƣớc sang năm 2011, kinh tế toàn cầu bắt đầu le lói phục hồi nhưng còn nhiều khó

khăn, tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế trong nước. NHNN đã điều hành CSTT

chặt chẽ, thận trọng để kiểm soát lạm phát và hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm

an toàn hệ thống, thực hiện mạnh mẽ các biện pháp điều hành nhằm kiểm soát tốc

độ tăng trưởng tín dụng dưới 20% và điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo hướng tập

trung vốn cho sản xuất, giảm tỉ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất xuống

22% đến 30/6/2011 và xuống 16% đến 31/12/2011.

Từ tháng 5/2012, NHNN quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với lĩnh

vực ưu tiên là nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp

vừa và nhỏ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, giảm từ mức 15%/năm xuống

12%/năm. Đến cuối năm 2012, lãi suất huy động VND giảm mạnh từ 3-6%/năm, lãi

suất cho vay giảm từ 5-9%/năm so với cuối năm 2011 và trở về mức lãi suất của

năm 2007. Tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng lần lượt khoảng 20% và

9%, phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức thấp (6,8%), góp phần ổn định

kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Năm 2013, mặt bằng lãi suất VND trong 8 tháng đầu năm đã giảm khoảng 2-

5%/năm so với đầu năm, trong đó lãi suất huy động giảm 2-3%/ năm, lãi suất cho

vay giảm 3-5%/năm và đã trở về mức lãi suất của thời kỳ 2005-2006, các TCTD

cũng chủ động giảm lãi suất đối với những khoản cho vay còn tồn đọng. Sau nhiều

tháng tăng chậm, tín dụng bắt đầu có dấu hiệu khởi sắc, nhu cầu của doanh nghiệp

về vốn cho sản xuất kinh doanh đã tăng mạnh do nhu cầu tiêu thụ hàng hóa đã cải

thiện mạnh. Tính đến cuối tháng 8/2013, tín dụng cho nền kinh tế đã tăng 6,45% so

với đầu năm, khả năng đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 12% trong năm 2013 đang

trở thành hiện thực.

Về chính sách tỷ giá nói chung: Nhằm hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu nói

riêng và tăng trưởng kinh tế dựa trên xuất khẩu nói chung, nước ta đã thực hiện chế

độ neo tỷ giá điều chỉnh dần. Cụ thể, đồng Việt Nam được điều chỉnh để giảm giá

danh nghĩa so với USD, căn cứ vào đánh giá của NHNN về diễn biến thương mại

thế giới và tình hình cụ thể trên thị trường ngoại tệ.

Diễn biễn kinh tế Việt Nam giai đoạn 2000 – 2013 được tóm tắt trong hình 1.

Hình: Tốc độ tăng trƣởng GDP và lạm phát giai đoạn 2000 - 2013

Tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát

25%

20

15

10

5

0

-5

Tăng trưởng GDP

Lạm phát

Nguồn: Tổng cục thống kê