BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
*****
ĐẶNG THÙY VÂN TRANG
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH CỔ TỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT SÀN HOSE GIAI ĐOẠN 2007 - 2009
CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ – TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
: 60.31.12
MÃ SỐ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS TRẦN NGỌC THƠ
TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không sao
chép của ai. Nội dung luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu,
thông tin được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí và các trang web theo
danh mục tài liệu của luận văn.
Tác giả luận văn
Đặng Thùy Vân Trang
LỜI CÁM ƠN
Trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn thầy – GS.TS Trần Ngọc Thơ đã tận
tình chỉ bảo, góp ý và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt
nghiệp này.
Tôi xin gửi lời tri ân đến các quý Thầy Cô trường Đại học Kinh Tế
TPHCM, những người đã tận tình truyền đạt kiến thức cho tôi trong hai năm
học cao học vừa qua.
Sau cùng, tôi xin gửi lời đến cha mẹ, người thân trong gia đình và bạn bè
đã hết lòng quan tâm và tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành được luận văn
tốt nghiệp này.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CP
: Cổ phần
CTCP
: Công ty cổ phần
DN
: Doanh nghiệp
TTCK
: Thị trường chứng khoán
DNNN
: Doanh nghiệp nhà nước
SGD
: Sở giao dịch
UBCKTQ
: Ủy ban chứng khoán Trung Quốc
ETC
: Chỉ số đo lường mức độ tham nhũng
PP
: Chỉ số đo lướng mức độ bảo vệ quyền sở hữu
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Tỷ lệ chia cổ tức tiền mặt bình quân của các DN phân loại theo ngành
nghề.
Bảng 2: So sánh điểm khác nhau trong chính sách cổ tức giữa Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ
Bảng 3 : Các nhân tố ảnh hưởng cổ tức tại thị trường Trung Quốc.
Bảng 4: Thống kê giá trị trung bình các biến đối với các hình thức chi trả cổ tức.
Bảng 5: Hệ số tương quan các yếu tố tác động chính sách cổ tức.
Bảng 6: Quan điểm các nhà quản trị về những nhân tố ảnh hưởng đến quyết
định chính sách cổ tức.
Bảng 7: Quan điểm các nhà quản trị về những vấn đề liên quan đến chính sách
cổ tức.
Bảng 8: Quan điểm các nhà quản trị về những nhân tố ảnh hưởng đến quyết
định mua lại cổ phần.
MỤC LỤC
Trang bìa
Lời cam đoan
Lời cám ơn
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng biểu
GIỚI THIỆU CHUNG
1
PHẦN 1:TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
5
1.1. Các yếu tố quyết định chính sách cổ tức:
5
1.1.1.
Hạn chế pháp lý:
5
1.1.1.1. Anh, Mỹ:
5
1.1.1.2. Đức và Thụy Sĩ:
5
1.1.1.3. Thổ Nhĩ Kỳ:
6
1.1.1.4. Phần Lan:
8
1.1.1.5. Việt Nam:
9
1.1.2.
Các điều khoản hạn chế:
10
12
1.1.3.
Các ảnh hưởng của thuế:
1.1.4.
Nhu cầu thanh khoản:
12
1.1.5.
Khả năng vay nợ và tiếp cận các thị trường vốn:
13
1.1.6.
Tính ổn định của lợi nhuận:
14
1.1.7.
Các cơ hội tăng trưởng vốn:
14
1.1.8.
Lạm phát:
14
1.1.9.
Các ưu tiên của cổ đông (hiệu ứng khách hàng):
14
1.1.9.1. Mức độ tham nhũng trong công ty:
15
1.1.9.2. Mức độ bảo vệ quyền lợi cổ đông:
15
1.1.10. Bảo vệ chống loãng giá:
15
1.2. Một số nghiên cứu tại các nước trên thế giới về các yếu tố ảnh hưởng chính sách cổ tức:
16
1.2.1.
Lý thuyết “The Bird In The Hand” (tạm dịch “Chú chim trong lòng bàn tay”:
16
1.2.2.
Lý thuyết “Catering” – Vấn đề hiệu ứng khách hàng:
16
1.2.3.
Lý thuyết “Signalling” – Vấn đề phát tín hiệu:
17
1.2.4.
Lý thuyết chu kỳ kinh doanh:
18
1.2.5.
Lý thuyết MM - Miller và Modigliani (1961):
18
1.2.6. Mô hình Lintner:
19
PHẦN 2: ỨNG DỤNG NGHIÊN CỨU TẠI TRUNG QUỐC PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHÍNH SÁCH CỔ TỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TẠI HOSE 2007-2009.
25
2.1.
Lý do sử dụng nghiên cứu Trung Quốc ứng dụng vào thị trường chứng khoán Việt Nam:
25
2.1.1.
Thị trường chứng khoán tại một số nước châu Á:
25
2.1.2.
Thị trường chứng khoán Trung Quốc:
26
2.2. Nghiên cứu của Xi He et al (2009) về các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách cổ tức của các doanh nghiệp tại Trung Quốc:
27
2.2.1.
Quy trình công bố cổ tức chi trả tại các công ty niêm yết Trung Quốc:
27
2.2.2.
Quy định về chính sách cổ tức và huy động nguồn vốn tài trợ của Trung Quốc:
28
2.2.3.
Các nhân tố được khảo sát tại thị trường Trung Quốc :
30
2.2.4.
Nghiên cứu của Xi He et al (2009)
32
2.3. Ứng dụng khảo sát số liệu tại Việt Nam:
34
2.3.1. Mô tả chi tiết số liệu:
34
2.3.2.
Đánh giá chính sách cổ tức của các doanh nghiệp tại Việt Nam:
40
PHẦN 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ TRONG VIỆC XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH CỔ TỨC TỐI ƯU TRONG DOANH NGHIỆP
46
3.1. Giải pháp đối với doanh nghiệp:
46
3.1.1.
Nghiên cứu đặc thù công ty khi xây dựng chính sách cổ tức:
46
3.1.2.
Xây dựng chính sách cổ tức dưới tác động của thị trường không hoàn hảo:
50
3.1.3.
Đề cao vai trò của nhà quản trị tài chính doanh nghiệp:
53
3.2. Giải pháp hỗ trợ của nhà nước để phát triển thị trường chứng khoán ổn định và bền vững: 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 01: SỐ LIỆU CỔ TỨC CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT HOSE 2007 - 2009
PHỤ LỤC 02: KHẢO SÁT QUAN ĐIỂM QUẢN TRỊ VỀ CHÍNH SÁCH CỔ TỨC CHÂU ÂU VÀ MỸ
GIỚI THIỆU CHUNG
Cổ tức được định nghĩa là một hình thức phân phối lợi nhuận hợp lý cho
các cổ đông (Baker et al., 2007), là một khoản thù lao cho phần vốn đầu tư và
khả năng chịu đựng rủi ro của các cổ đông. Thông thường, cổ tức được chia
dưới dạng tiền mặt hoặc bằng cổ phiếu.
Chính sách cổ tức có tác động đến giá cổ phiếu của công ty; đến nguồn tiền
công ty có thể sử dụng để tái đầu tư và đến nguồn thu nhập của các cổ đông
hiện hành. Do vậy, Brealey và Myers (2005) liệt kê cổ tức là một trong mười
vấn đề quan trọng đến nay vẫn chưa được giải quyết thấu đáo trong lĩnh vực
quản trị tài chính. Black (1976) cho rằng việc chia cổ tức là bài toán đố cơ bản
nhất trong kinh tế.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến chính sách cổ tức của doanh nghiệp có thể
được kể đến như sau: hạn chế pháp lý; các điều khoản hạn chế; thuế; khả năng
thanh khoản; khả năng vay nợ và tiếp cận thị trường vốn; ổn định thu nhập;
triển vọng tăng trưởng; lạm phát; các ưu tiên của cổ đông; bảo vệ chống loãng
giá.
Các lý thuyết ở những nước đã phát triển cũng như ở những nền kinh tế mới
nổi (Aivazian, Booth and Cleary, 2003; Booth, Aivazian, Demirguc-Kunt, and
Maksimovic, 2001; Fan, Titman and Twite, 2009; Glen, Karmokolias, Shah,
1995; La Porta, Lopez-de-Silanes, Shleifer, Vishny, 2000; Mitton, 2004) đều
muốn xác định các yếu tố quyết định chính sách cổ tức là gì; có mối liên kết
giữa những đặc điểm công ty, cơ cấu tổ chức và các quyết định quản trị tài
chính hay không; và, họ đã rút ra rất nhiều kết luận khác nhau, chẳng hạn như:
(cid:190)
Đối với chính sách cổ tức, các lý thuyết hiện nay cho rằng giống như
nền kinh tế các nước đã phát triển, chính sách cổ tức của các doanh nghiệp nằm
trong khu vực kinh tế mới nổi, đều bị ảnh hưởng bởi lợi nhuận, nợ, và tỷ lệ giá
trị sổ sách so với thị giá (Aviazian et al., 2003). Và, các công ty trong nền kinh
tế mới nổi thì trả cổ tức cao hơn các công ty ở nền kinh tế đã phát triển.
- Trang 1 -
(cid:190)
Việc bảo vệ quyền lợi cổ đông càng mạnh mẽ thì chính sách cổ tức
càng cao. (Mitton, 2004; La Porta et al., 2000).
Từ kết quả nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách cổ tức bằng
tiền mặt và bằng cổ phần trước đây tại các nền kinh tế mới nổi; và đặc biệt là
kết quả nghiên cứu cụ thể về trường hợp của Trung Quốc, luận văn đã ứng
dụng vào thực tế tại thị trường chứng khoán Việt Nam để tìm hiểu liệu chính
sách cổ tức tại Việt Nam có chịu những tác động tương tự hay không, từ đó đưa
ra những gợi ý cho việc thiết lập chính sách cổ tức tại doanh nghiệp. Cụ thể
nghiên cứu tập trung vào các vấn đề chính như sau:
(cid:190)
Các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán TPHCM thường chi trả
cổ tức hay không chi trả cổ tức? Chi trả với tỷ lệ ra sao?
(cid:190)
Các nhân tố nào ảnh hưởng đến chính sách cổ tức của các doanh
nghiệp. Tác động của các nhân tố đó diễn ra như thế nào?
Luận văn sẽ sử dụng các dữ liệu thứ cấp thu thập từ các nguồn báo cáo tài
chính từ 2007 – 2009 của các doanh nghiệp niêm yết tại sàn giao dịch chứng
khoán Hồ Chí Minh đến thời điểm 31/12/2007, đồng thời sử dụng phương pháp
thống kê mô tả, mô hình hồi quy để tìm hiểu tác động của một số yếu tố như
đặc điểm công ty (lợi nhuận, quy mô, đòn cân nợ,…), cơ cấu tổ chức (cơ cấu sở
hữu vốn của nhà nước trong tổng vốn sở hữu của doanh nghiệp),… đối với
chính sách cổ tức của các doanh nghiệp và đưa đến một số kết luận cụ thể như
sau:
(cid:190)
Các doanh nghiệp Việt Nam thường chuộng việc chi trả cổ tức nhiều
hơn là không chi trả cổ tức.
(cid:190)
Các công ty có số năm niêm yết ít hơn, lợi nhuận cao, đòn cân nợ
thấp, lượng tiền mặt nắm giữ nhiều, có sở hữu vốn nhà nước nhiều thường chi
cổ tức nhiều hơn, và đặc biệt chi trả cổ tức bằng tiền mặt nhiều hơn bằng cổ
phiếu.
(cid:190)
Kết quả khảo sát tại thị trường Việt Nam có phần khác so với các
nghiên cứu trước đây tại một số quốc gia và cụ thể là Trung Quốc, đó là các
- Trang 2 -
doanh nghiệp không chi trả cổ tức lại có quy mô (được đo bằng tổng tài sản,
doanh thu) lớn hơn các doanh nghiệp chi trả cổ tức. Tương ứng, các doanh
nghiệp chi trả cổ tức bằng tiền mặt lại có quy mô nhỏ hơn doanh nghiệp chi trả
bằng cổ tức.
Từ đó luận văn đã tiếp tục sử dụng hệ số tương quan để giải thích và nhận
thấy cổ tức của doanh nghiệp bị yếu tố lợi nhuận tác động nhiều hơn là nhân tố
quy mô. Các doanh nghiệp không chi trả cổ tức chủ yếu vì lợi nhuận trong năm
hiện hành âm, cụ thể số doanh nghiệp có lợi nhuận âm chiếm 41.38% (12/29
doanh nghiệp không chi trả cổ tức).
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, luận văn cũng có một số hạn chế,
đó là: không khảo sát được hết tác động của một số nhân tố như: thuế, thông tin
bất cân xứng, mức độ bảo vệ quyền sở hữu của các cổ đông, khả năng tiếp cận
nguồn vốn,… tại thị trường chứng khoán Việt Nam do không có đủ cơ sở thu
thập dữ liệu phục vụ cho việc nghiên cứu.
Cuối cùng, tác giả không có tham vọng thiết lập một mô hình khuôn mẫu
chính sách cổ tức chung nhất để áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp, bởi việc
ra quyết định chi trả cổ tức cho đến nay vẫn là một bài toán khó và nó hoàn
toàn tùy thuộc vào từng đặc điểm cụ thể của từng doanh nghiệp, phụ thuộc vào
các yếu tố luật pháp, thị trường, “khẩu vị” khác nhau của các nhà đầu tư tổ
chức cũng như cá nhân mà điều này đặc biệt đòi hỏi sự khôn khéo, tài năng và
nghệ thuật của các nhà quản trị tài chính cấp cao của doanh nghiệp.
Vì lẽ đó nên luận văn thực tế chỉ là một cơ hội nhằm khái quát lại một số lý
thuyết nghiên cứu trên thế giới, vận dụng vào thị trường Việt Nam để các
doanh nghiệp có thêm một số cơ sở mang tính khoa học hơn trong việc xây
dựng chính sách cổ tức của mình được tốt hơn nhằm đáp ứng yêu cầu vừa có
nguồn để tái đầu tư vào các dự án sinh lợi, tối đa hóa lợi ích của cổ đông, vừa
phù hợp với thị trường và khẩu vị của các nhà đầu tư.
Phần tiếp theo của luận văn sẽ được trình bày theo cấu trúc như sau:
- Trang 3 -
(cid:190)
Phần 1 - Tổng quan lý thuyết: nghiên cứu hệ thống lý thuyết hiện tại
ở các quốc gia trên thế giới có liên quan đến những nhân tố ảnh hưởng đến
chính sách cổ tức của các doanh nghiệp.
(cid:190)
Phần 2 - Ứng dụng nghiên cứu tại Trung Quốc để khảo sát các nhân
tố ảnh hưởng đến chính sách cổ tức tại TTCK Việt Nam 2007-2009.
(cid:190)
Phần 3 – Một số khuyến nghị nhằm xây dựng chính sách cổ tức tối
ưu đối với một doanh nghiệp.
- Trang 4 -
PHẦN 1
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
1.1 . Các yếu tố quyết định chính sách cổ tức:
1.1.1. Hạn chế pháp lý:
Hầu hết các quốc gia đều có những luật lệ riêng để điều tiết việc chi trả cổ
tức của những doanh nghiệp đã đăng ký hoạt động kinh doanh ở nước đó. Có 3
hạn chế chủ yếu được quy định, cụ thể:
(cid:190) Hạn chế suy yếu vốn: không thể dùng vốn của công ty để chi trả cổ tức.
(cid:190) Hạn chế lợi nhuận ròng: cổ tức phải được chi trả từ lợi nhuận ròng lũy
kế đến thời điểm hiện hành. Hạn chế này đòi hỏi một công ty phải có phát sinh
lợi nhuận trước khi được phép chi trả cổ tức tiền mặt. Điều này nhằm ngăn cản
các chủ sở hữu sử dụng cổ tức để rút lại vốn đầu tư ban đầu và làm suy yếu vị
thế an toàn của các chủ nợ.
(cid:190) Hạn chế mất khả năng thanh toán: không thể chi trả cổ tức khi công ty
mất khả năng thanh toán. Theo quy định này, một công ty mất khả năng thanh
toán có thể không chi trả cổ tức tiền mặt. Công ty mất khả năng thanh toán
nghĩa là nợ đang nhiều hơn tài sản, việc tiếp tục chi trả cổ tức sẽ dẫn tới cản trở
các trái quyền ưu tiên của các chủ nợ đối với tài sản của công ty.
Một số quy định về chi trả cổ tức của một số nước trên thế giới:
1.1.1.1.
Anh, Mỹ:
Đây là hai thị trường phát triển, có hệ thống các quy định pháp luật về
thương mại khá thoáng. Aytac (1997) cho rằng các công ty Anh và Mỹ được
phép linh hoạt trong việc tăng vốn cổ phần và sử dụng nguồn tài trợ từ nội bộ
(các quỹ, thặng dư vốn và lợi nhuận giữ lại). Ngoài ra, ở hai nước này, quy
định của một số luật thuế liên quan cũng đi theo xu hướng hỗ trợ cho 2 vấn đề
trên.
1.1.1.2.
Đức và Thụy Sĩ:
Tại 2 nước này, không có bất kỳ hạn chế nào đối với quyết định chia cổ tức,
nhưng lại có một số hạn chế áp dụng đối với tài trợ nội bộ để tạo cân bằng giữa
- Trang 5 -
các khoản thanh toán cổ tức và lợi nhuận giữ lại. Aytac cho rằng mục tiêu của
Đức và Thụy Sĩ đó là nếu thị trường không hiệu quả, không phản ánh được giá
trị (nội tại) thật sự của cổ phiếu thì lúc này một số quy định đối với các quyết
định chính sách cổ tức sẽ được thực hiện để bảo vệ quyền lợi được hưởng cổ
tức của các cổ đông.
1.1.1.3.
Thổ Nhĩ Kỳ:
Ở một số thị trường mới nổi này, chính phủ cũng áp dụng các hạn chế về
chính sách cổ tức để bảo vệ cho cả cổ đông thiểu số và chủ nợ (Glen et al.,
1995).
“Luật thương mại Thổ Nhĩ Kỳ được gộp chung với Luật dân sự chung của
các nước Châu Âu từ năm 1950. Nhìn chung, Luật chung này có sự bảo vệ
quyền lợi của cổ đông thiểu số yếu hơn luật của từng quốc gia” (La Porta et al,
1999, p.6.).
Đối với giai đoạn 1982-1994, theo quy định về thị trường vốn của Thổ Nhĩ
Kỳ, các doanh nghiệp phải trả một tỷ lệ phần trăm nhất định của lợi nhuận của
họ dưới hình thức cổ tức bằng tiền mặt. Khoản cổ tức bắt buộc này gọi là "cổ
tức đầu tiên", nếu không chi trả khoản này, tất cả các khoản thanh toán tiếp
theo khác như lương hoặc khoản thu nhập giữ lại đều có thể bị cho là không
hợp pháp. Đồng thời, số tiền tối thiểu của "cổ tức đầu tiên" này phải chiếm
50% lợi nhuận phân phối và khoản này phải trả cho các cổ đông trong vòng 9
tháng sau khi kết thúc năm tài chính.
Đến năm 1995, đã có một số thay đổi lớn trong các quy định cổ tức tại nước
này. Sự thay đổi lớn đầu tiên là rút ngắn thời gian thanh toán cổ tức đến 5
tháng. Thứ hai là "cổ tức đầu tiên" không còn mang tính bắt buộc nữa và khoản
này có thể được chi trả dưới dạng cổ tức tiền mặt hoặc cổ tức cổ phần. Nó cũng
có thể phân phối cổ tức dưới mức giới hạn 50% nếu quyết định này được chấp
nhận trong đại hội cổ đông thường niên.
Nói cách khác năm 1995 đánh dấu cho các công ty Thổ Nhĩ Kỳ có quyền tự
do lựa chọn chính sách cổ tức cho công ty mình (được thông qua tại đại hội cổ
- Trang 6 -
đông thường niên): khoản “cổ tức đầu tiên" được phân phối dưới dạng tiền mặt
hoặc cổ phần hoặc vừa tiền mặt vừa cổ phần; thậm chí có thể giữ lại một phần
hoặc toàn bộ để tiếp tục tái đầu tư.
Bảng 1: Tỷ lệ chia cổ tức tiền mặt bình quân của các DN phân loại theo
ngành nghề
Khoảng Thời gian / Trung bình (%)
Ngành
1985–1989
1990-1994
1995 – 1997
DN sản xuất
54.4
52.2
36.6
Định chế tài chính
67.8
63.0
32.3
Thương mại, dịch vụ
48.3
44.2
28.3
khách sạn
Điện nước & khí đốt
57.4
65.4
85.0
Nguồn: Asst. Prof. Dr. Cahit Adaoglu (2000)
Qua bảng thống kê trên, ta thấy rõ hạn chế pháp lý đã ảnh hưởng như thế
nào đến chính sách cổ tức. Trong giai đoạn 1985 – 1994, do có quy định của
pháp luật, các doanh nghiệp buộc phải trả cổ tức hàng năm và tỷ lệ chi trả đều
xoay quanh con số 50%. Đến 1995, khi quy định đã được gỡ bỏ, các doanh
nghiệp chủ động hơn trong việc quyết định chính sách cổ tức, tỷ lệ chi trả cổ
tức có sụt giảm so với giai đoạn trước ngoại trừ ngành điện, nước và khí đốt.
Điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết và thực nghiệm đã nghiên cứu tại
nhiều nước khác nhau trên thế giới, đó là những quy định pháp luật có ảnh
hưởng đến quyết định chi trả cổ tức tại doanh nghiệp.
- Trang 7 -
Bảng 2: So sánh điểm khác nhau trong chính sách cổ tức giữa Mỹ và
Thổ Nhĩ Kỳ
Sự khác biệt
Yếu
tố
Mỹ và Anh
Thổ Nhĩ Kỳ
Chính sách cổ tức sẽ do
Chính sách cổ tức được ban
Tổng Giám Đốc xác định và
quản trị công ty trình bày tại
được nêu tại Đại hội cổ đông
Quyết định
đại hội cổ đông thường niên
thường niên, tuy nhiên tại
chính sách
và được quyết định thông
đây các cổ đông không có
cổ tức
qua việc bỏ phiếu của các cổ
tiếng nói nào thông qua việc
đông.
biểu quyết cả.
Các công ty phải chia cổ tức
Không có quy định bắt buộc,
Kỳ trả
định kỳ (thường là 1
các công ty thường chi hàng
cổ tức
năm/lần).
quý hoặc hàng năm.
Được chi trả từ lợi nhuận
ròng sẵn sàng phân phối – đó
Nguồn chi
Được chi trả từ lãi ròng của
là lợi nhuận sau khi đã trừ
trả cổ tức
năm tài chính.
các khoản lỗ của những năm
trước (nếu có).
Nguồn: Asst. Prof. Dr. Cahit Adaoglu (2000)
1.1.1.4.
Phần Lan:
Seppo Kinkki đã bảo vệ luận án tiến sĩ của mình với đề tài " Vấn đề bảo vệ
cổ đông thiểu số và chính sách cổ tức" tại Trường Kinh tế Helsinki vào thứ sáu
04/04/2008. Luận án này bàn luận về tác động của việc bảo vệ cổ đông thiểu số
đối với chính sách cổ tức. Ông cho rằng cổ đông đa số cũng như ban quản trị
công ty đều có cơ hội tận dụng lợi thế vị trí của mình tác động đến việc phân
phối cổ tức, cơ hội này chính là chi phí đối với các cổ đông thiểu số. Và lúc
này, pháp luật sẽ được dùng để bảo vệ quyền lợi của các cổ đông thiểu số. Vụ
- Trang 8 -
phá sản của tập đoàn Enron đã chứng minh vai trò cần thiết của pháp luật trong
việc điều phối chính sách cổ tức.
Một số quy định pháp luật như Sarbanes Oxley (2002) tại Hoa Kỳ thì luôn
tìm cách tăng cường việc bảo vệ nhà đầu tư. Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp
chung ở Châu Âu (2001) lại không thể hiện bất kỳ quy định nào về việc bảo vệ
cổ đông thiểu số. Vì vậy, bảo vệ cổ đông thiểu số chỉ còn là trách nhiệm của
từng quốc gia trong khối liên minh, hoặc có mặt trong các quy định hay điều lệ
của công ty. Thông thường ở châu Âu, những quy định pháp luật bảo vệ cổ
đông thiểu số đều theo xu hướng tác động gián tiếp thông qua cách chia cổ tức.
Riêng tại Phần Lan, Luật lại đi theo hướng tác động trực tiếp, bằng cách quy
định số cổ đông thiểu số (chiếm tỷ lệ ít nhất là 1/10) có quyền đưa ra yêu cầu ít
nhất ½ lợi nhuận phải được chia, miễn là số tiền chia không vượt quá 8% vốn
sở hữu của họ. Thực tế cho thấy, thị trường là không hoàn hảo, dù bất cứ nơi
đâu, thị trường chứng khoán ở những nước phát triển hay là những thị trường
mới ra đời tại các nền kinh tế mới nổi, vẫn luôn tồn tại tình trạng thông tin bất
cân xứng. Do đó, với quy định trên, pháp luật đã thực hiện nhiệm vụ của mình,
bảo vệ quyền lợi các cổ đông thiểu số trong trường hợp các nhà quản trị thực
hiện mục tiêu hạn chế phân phối cổ tức, không chia lợi nhuận mà tái đầu tư vào
các dự án liều lĩnh, rủi ro gây hại cho nguồn vốn chủ sở hữu của các cổ đông.
Và cũng với quy định này, chính sách cổ tức cũng bị ảnh hưởng đáng kể, đó
là các nhà quản trị sẽ phải đảm bảo quy định này khi cân nhắc cần chi trả cổ tức
như thế nào, bao nhiêu và cách thức ra sao.
1.1.1.5.
Việt Nam:
Việt Nam chỉ quy định chung về việc chi trả cổ tức, các văn bản luật không
nêu ra bất kỳ yếu tố nào mang tính chất bắt buộc doanh nghiệp phải chi trả cổ
tức hay không. Cụ thể, luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 quy định:
Cổ tức trả cho cổ phần phổ thông được xác định căn cứ vào số lợi nhuận
ròng đã thực hiện và khoản chi trả cổ tức được trích từ nguồn lợi nhuận giữ lại
- Trang 9 -
của công ty. Công ty cổ phần chỉ được trả cổ tức cho cổ đông khi công ty đã
hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của
pháp luật; trích lập các quỹ công ty và bù đắp đủ lỗ trước đó theo quy định của
pháp luật và Điều lệ công ty; ngay sau khi trả hết số cổ tức đã định, công ty vẫn
phải bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến hạn.
Cổ tức có thể được chi trả bằng tiền mặt, bằng cổ phần của công ty hoặc
bằng tài sản khác quy định tại Điều lệ công ty.
Hội đồng quản trị phải lập danh sách cổ đông được nhận cổ tức, xác định
mức cổ tức được trả đối với từng cổ phần, thời hạn và hình thức trả chậm nhất
ba mươi ngày trước mỗi lần trả cổ tức.
Như vậy những ảnh hưởng của vấn đề hạn chế pháp lý đối với chính sách
cổ tức tại Việt Nam vẫn chưa rõ ràng. Doanh nghiệp không chịu bất kỳ quy
định nào của luật buộc phải chi trả cổ tức hay không, mức chi trả là bao nhiêu.
Điều này làm cho hành lang pháp lý về cổ tức tại Việt Nam vẫn chưa chặt chẽ.
1.1.2. Các điều khoản hạn chế:
Các điều khoản hạn chế nằm trong các giao kèo trái phiếu, điều khoản vay,
thỏa thuận vay ngắn hạn, hợp đồng thuê tài sản và các thỏa thuận cổ phần ưu
đãi nhằm giới hạn tổng mức cổ tức một công ty có thể chi trả. Những điều
khoản này có thể quy định:
(cid:190) Không thể chi trả cổ tức cho đến khi lợi nhuận đạt đến một mức nhất
định nào đó.
(cid:190) Yêu cầu trích lập một quỹ dự trữ để thanh toán nợ trước khi phân phối
cổ tức.
(cid:190) Vốn luân chuyển (tài sản lưu động trừ nợ ngắn hạn) hay tỷ lệ nợ hiện
hành không cao hơn một mức định sẵn nào đó…
Theo nghiên cứu của Xi He et al. (2009), căn cứ vào Luật Công ty của
CHDCND Trung Hoa (gọi tắt là Luật DN), trước khi kiểm toán hàng năm và
thực hiện nghĩa vụ thuế để xác định lợi nhuận sau thuế, có một số khoản mục
kế toán cần được trình bày trong các báo cáo kế toán dưới dạng các quỹ bắt
- Trang 10 -
buộc trích lập. Đó là quỹ dự phòng tài chính (SRF), quỹ khen thưởng và phúc
lợi (EWBF) và quỹ đầu tư phát triển (OSRF). Tỷ lệ phân phối của các quỹ
được xác định theo quy định của Luật DN hoặc của Hội đồng quản trị.
Quỹ dự phòng tài chính (Surplus Reserve Fund – SRF)
Luật DN quy định rằng số tiền của quỹ này phải lớn hơn 10% lợi nhuận sau
thuế. Quỹ được dùng để trang trải bất cứ những khoản lỗ nào của công ty. Tuy
nhiên nếu như số lũy kế của quỹ vượt quá 50% vốn điều lệ của công ty thì công
ty không cần phải trích lập nữa. Ngoài việc sử dụng như là một nguồn thanh
toán tạm thời cho các khoản lỗ của doanh nghiệp, quỹ còn được dùng để tăng
vốn công ty, mở rộng quy mô sản xuất.
Quỹ khen thưởng phúc lợi (Employee Welfare and Bonus Fund –EWBF)
Theo Luật DN, số tiền trích quỹ khen thưởng phúc lợi EWBF sẽ nằm ở
khoảng từ 5-10% lợi nhuận sau thuế. EWBF có thể sử dụng một phần để
thưởng đột xuất cho nhân viên (tiền thưởng sáng chế và tiền thưởng kết thúc
năm) và một phần cho công đoàn chăm lo phúc lợi cho tập thể nhân viên (giữ
trẻ, xây dựng hoặc cải tạo nhà ở cho nhân viên,…)
Quỹ đầu tư phát triển (Other Surplus Reserve Fund – OSRF)
Luật doanh nghiệp không quy định rõ số tiền tối thiểu được trích lập cho
quỹ đầu tư và phát triển. Do đó, tỷ lệ phân bổ được xác định dựa trên những
quy định trong quy chế tài chính hoặc do Hội đồng quản trị quyết định. Quỹ
này được dùng để mua sắm tài sản cố định, tăng vốn lưu động và mở rộng quy
mô sản xuất của DN.
Chỉ sau khi phân phối xong ba quỹ trên, các công ty mới công bố việc chia
cổ tức từ phần còn lại của lợi nhuận sau khi phân phối. Lợi nhuận không được
phân phối từ những năm trước có thể được thêm vào để chia trong năm nay. Và
một vấn đề không kém phần quan trọng là khi sử dụng các quỹ dự trữ được
dùng để bù đắp các khoản lỗ, quỹ đầu tư phát triển (OSRF) phải được dùng
trước quỹ dự phòng tài chính SRF. Tuy nhiên, cổ tức không được chi trả nếu
lợi nhuận năm nay và các quỹ không đủ bù đắp cho khoản lỗ của doanh nghiệp.
- Trang 11 -
Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp không được phép chi trả cổ tức từ
nguồn thặng dư vốn hoặc khi công ty có dấu hiệu kinh doanh không hiệu quả
dẫn đến lợi nhuận âm. Tại Việt Nam, vấn đề này chưa được quy định rõ ràng
nên trong thực tế đã phát sinh một số trường hợp công ty có lợi nhuận lũy kế
âm mà vẫn chi trả cổ tức, lấy từ nguồn vốn thặng dư. Điều này nếu không có
quy định rõ ràng không những chính sách cổ tức trở thành một hình thức thoái
vốn khỏi doanh nghiệp mà còn gây mâu thuẫn lợi ích của các nhà đầu tư ngắn
hạn và dài hạn.
1.1.3. Các ảnh hưởng của thuế:
Scholz (1992) phân tích dữ liệu từ cuộc khảo sát năm 1983 và cho rằng có
mối liên hệ nghịch chiều giữa tỷ suất cổ tức của các cổ đông và thuế đánh trên
cổ tức. Trong khi đó, Allen và Michaely (2003) lại nhận thấy rằng thuế cổ tức
càng cao thì các nhà đầu tư càng nhận được phần cổ tức nhiều hơn. Những
nghiên cứu mới nhất đã khẳng định thuế cổ tức là một yếu tố đầu tiên xét đến
trong các quyết định của các nhà đầu tư.
Một số nghiên cứu khác đã cố gắng phân tích một cách trực tiếp hơn ảnh
hưởng của thuế đối với quyết định chi trả cổ tức của doanh nghiệp. Perez –
Gonzalez (2003) thấy rằng khi thuế cổ tức tăng (hoặc giảm) thì các nhà đầu tư
chịu thuế sẽ bị giảm (hoặc được tăng) cổ tức của mình. Poterba và Summers
(1984) cũng có kết luận tương tư khi nghiên cứu tại thị trường nước Anh.
Những nghiên cứu này đều hàm ý rằng thuế có ảnh hưởng đến các quyết định
chính sách cổ tức của doanh nghiệp.
Cuối cùng, Lie và Lie (1999) thấy rằng các doanh nghiệp có tỷ lệ chi trả cổ
tức thấp (tương ứng mức thuế lũy tiến đánh trên nhà đầu tư cao) có khả năng
thực hiện việc mua lại cổ phần hơn là tăng cổ tức định kỳ hoặc chi trả cổ tức
bằng tiền mặt. Và họ kết luận thuế đánh vào nhà đầu tư ảnh hưởng đến chính
sách chi trả cổ tức.
1.1.4. Nhu cầu thanh khoản:
Chi trả cổ tức là dòng tiền chi ra. Vì vậy khả năng thanh khoản của doanh
- Trang 12 -
nghiệp càng lớn, doanh nghiệp càng có nhiều khả năng chi trả cổ tức. Trong
khi đó, thậm chí một doanh nghiệp đã từng có quá khứ là tái đầu tư lợi nhuận
cao, số dư lợi nhuận giữ lại lớn, vẫn có thể không có khả năng chi trả cổ tức
nếu không có đủ tài sản có tính thanh khoản cao, nhất là tiền mặt.
Khả năng thanh khoản luôn được nhiều doanh nghiệp quan tâm và thường
trở thành một vấn đề rất nhạy cảm trong giai đoạn kinh doanh gặp khó khăn,
khi cả lợi nhuận và dòng tiền đều sụt giảm. Các doanh nghiệp tăng trưởng
nhanh chóng có nhiều các cơ hội đầu tư sinh lợi, nhu cầu tiền cao cũng thường
thấy khó khi phải vừa duy trì đủ thanh khoản vừa chi trả cổ tức cùng một lúc.
1.1.5. Khả năng vay nợ và tiếp cận các thị trường vốn:
John et al. (2007) cho rằng:
(cid:190) Vị trí địa lý có ảnh hưởng đến môi trường tiếp nhận thông tin của doanh
nghiệp, và do đó ảnh hưởng đến chính sách cổ tức.
(cid:190) Thông tin bất cân xứng, quản lý giám sát yếu kém tại các doanh nghiệp
đặt vị trí quá xa tỉnh thành sẽ làm tăng rủi ro cho các cổ đông, đó là nhà quản lý
sử dụng dòng tiền tự do để thực hiện các quyết định đầu tư kém hiệu quả, ví dụ
xây dựng quyền lực cho bản thân người quản lý. Để giảm thiểu việc đầu tư kém
hiệu quả này, các nhà đầu tư đều mong muốn được nhận cổ tức tiền mặt cao.
(cid:190) Nếu các doanh nghiệp ở xa các trung tâm tài chính, việc tiếp cận với các
định chế tài chính, ngân hàng, hay các tổ chức cho vay nợ hoặc đầu tư vào
doanh nghiệp sẽ khó khăn hơn (do các tổ chức này không có thông tin nhiều về
doanh nghiệp so với trường hợp doanh nghiệp ở gần). Do khó khăn trong việc
huy động vốn, để đáp ứng nhu cầu đầu tư, những công ty càng xa trung tâm thì
càng tích lũy tiền mặt cao và sẽ giảm việc chi trả cổ tức bằng tiền mặt.
Như vậy, doanh nghiệp lớn, có uy tín, dễ dàng tiếp cận với thị trường tín
dụng và các nguồn vốn khác thì càng có nhiều khả năng chi trả cổ tức bởi khả
năng thanh khoản linh hoạt và tận dụng các cơ hội đầu tư và tài chính bất
thường. Ngược lại, đối với các doanh nghiệp nhỏ, vốn cổ phần được kiểm soát
chặt chẽ và ít giao dịch thường xuyên nên khó tiếp cận vốn bên ngoài khi có cơ
- Trang 13 -
hội đầu tư mới thuận lợi, nên việc chi trả cổ tức cũng một phần bị hạn chế,
doanh nghiệp thường giữ lại một tỷ lệ lợi nhuận khá cao để tiện cho việc tái
đầu tư, hạn chế huy động vốn từ bên ngoài.
1.1.6. Tính ổn định của lợi nhuận:
Một doanh nghiệp có lịch sử lợi nhuận ổn định thường sẵn lòng chi trả cổ
tức cao hơn doanh nghiệp có thu nhập không ổn định. Hầu hết các doanh
nghiệp lớn, có cổ phần được nắm giữ rộng rãi, thường do dự đối với việc hạ
thấp chi trả cổ tức, ngay cả những lúc gặp khó khăn nghiêm trọng về tài chính.
1.1.7. Các cơ hội tăng trưởng vốn:
Một doanh nghiệp tăng trưởng nhanh chóng có nhu cầu vốn lớn để tài trợ
cho các cơ hội đầu tư hấp dẫn của mình. Vì thế, thay vì chi trả cổ tức nhiều và
sau đó cố gắng bán cổ phần mới để huy động đủ số vốn mới cần thiết, doanh
nghiệp thuộc loại này thường chi trả cổ tức ở mức thấp, giữ lại một phần lớn lợi
nhuận và tránh bán cổ phần mới ra công chúng vừa tốn kém vừa bất tiện.
1.1.8. Lạm phát:
Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, vốn tích lũy từ khấu hao thường
không đủ để bù đắp cho việc thay thế tài sản của một doanh nghiệp khi các tài
sản này cũ kỹ, lạc hậu. Khi đó, một doanh nghiệp có thể buộc phải giữ lại một
tỷ lệ lợi nhuận cao hơn để duy trì năng lực hoạt động cho tài sản của mình.
Lạm phát cũng có một tác động trên nhu cầu vốn luân chuyển của doanh
nghiệp. Trong môi trường giá cả tăng, số tiền thực tế đầu tư vào kho hàng và
các khoản phải thu có chiều hướng tăng để hỗ trợ cho cùng một khối lượng
hiện vật kinh doanh. Mặt khác do giá cả tăng, số tiền của các tài khoản phải trả
cũng đòi hỏi một khoản chi tiền mặt lớn; giá cả tăng cho nên số dư tiền mặt
giao dịch thường cũng phải tăng. Như vậy, lạm phát có thể buộc một doanh
nghiệp giữ lại lợi nhuận nhiều hơn để duy trì vị thế vốn luân chuyển giống như
trước khi có lạm phát.
1.1.9. Các ưu tiên của cổ đông (hiệu ứng khách hàng):
Việc đo lường mức độ bảo vệ quyền lợi cổ đông sẽ tập trung vào 2 chỉ số:
- Trang 14 -
1.1.9.1. Mức độ tham nhũng trong công ty:
Đo lường bằng cách sử dụng chỉ số ETC “Entertainment and Travel Cost”
được thiết lập bởi Cai, Fang và Xu (2009). Chỉ số này đo lường độ lớn các
khoản thanh toán của doanh nghiệp cho các quan chức chính phủ và được tổng
hợp theo vùng.
Giá trị chỉ số càng cao tương ứng với khoản thanh toán cho các chi phí giải
trí và du lịch càng cao (nghĩa là mức độ tham nhũng càng cao). Trong mối liên
hệ với chính sách cổ tức của công ty, chỉ số ETC đại diện cho mối đe dọa tất cả
hay một phần quyền lợi của cổ đông là bị chiếm bởi các nhà quản lý hoặc các
quan chức nhà nước.
1.1.9.2. Mức độ bảo vệ quyền lợi cổ đông:
Djankov, La Porta, Lopez-de-Silanes and Shleifer (2003) xác định việc bảo
vệ quyền lợi chủ sở hữu là yếu tố quan trọng hình thành các điều khoản trong
các hợp đồng kinh tế mà hệ thống pháp luật tạo ra để bảo vệ quyền sở hữu tư
nhân tạo điều kiện cho các cổ đông tư nhân bảo vệ lợi tức của mình. Chỉ số bảo
vệ quyền sở hữu (cũng được phát triển từ Cai, Fang và Xu (2009)) đo lường
mức độ mà tại đó hệ thống luật pháp của mỗi vùng bảo vệ quyền lợi chủ sở hữu
tư nhân như thế nào. Giá trị chỉ số cao đồng nghĩa với mức độ bảo vệ cao. Đối
với chính sách cổ tức của doanh nghiệp, chỉ số (PP) bảo vệ quyền sở hữu, chỉ
số này đại diện cho áp lực của các cổ đông buộc doanh nghiệp phân phối cổ tức
tiền mặt.
1.1.10. Bảo vệ chống loãng giá:
Nếu một doanh nghiệp chấp nhận chính sách sử dụng phần lớn lợi nhuận
của mình để chi trả cổ tức, thì khi có các dự án tiềm năng sinh lời cao doanh
nghiệp có thể phải bán cổ phần mới nhằm huy động thêm vốn đầu tư cho dự án.
Nếu các nhà đầu tư hiện hữu của doanh nghiệp không mua hay không thể mua
một tỷ lệ cân xứng cổ phần mới phát hành, quyền lợi chủ sở hữu theo phần
trăm của họ trong doanh nghiệp sẽ bị giảm xuống (bị loãng). Do đó, một vài
doanh nghiệp chọn cách giữ lại lợi nhuận nhiều hơn và chi trả cổ tức thấp hơn
- Trang 15 -
để tránh rủi ro loãng giá.
Tuy nhiên, có nhiều cách khác thay cho cách giữ lại lợi nhuận cao, chẳng
hạn như huy động vốn từ bên ngoài qua hình thức nợ. Nhưng nếu sử dụng cách
này thì doanh nghiệp phải lưu ý vì nó làm tăng rủi ro tài chính của đơn vị, tăng
chi phí sử dụng vốn cổ phần và ở một thời điểm nào đó sẽ làm giảm giá cổ
phần. Mặt khác, nếu doanh nghiệp đã có sẵn một cấu trúc vốn tối ưu, chính
sách huy động vốn từ bên ngoài dưới hình thức nợ rất có thể phản tác dụng, trừ
khi doanh nghiệp giữ lại hay mua lại được vốn cổ phần mới trong thị trường
vốn đủ để bù trừ cho nợ gia tăng.
Tóm lại, trong thực tế còn rất nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến sự lựa chọn
chính sách cổ tức theo một cách nào đó như: cấu trúc cổ đông, hình thức sở
hữu, quy mô doanh nghiệp, khả năng tạo lợi nhuận, đặc điểm phát triển của
doanh nghiệp, lãi suất ngân hàng,...Hội đồng quản trị của doanh nghiệp nên cân
nhắc ảnh hưởng các yếu tố này tùy trường hợp để đạt đến một chính sách cổ
tức tối ưu.
1.2. Một số nghiên cứu tại các nước trên thế giới về các yếu tố ảnh hưởng
đến chính sách cổ tức:
1.2.1. Lý thuyết “The Bird In The Hand” (tạm dịch “Chú chim trong
lòng bàn tay”:
Được đưa ra bởi Gordon và Walter (1963), trong đó họ kết luận rằng các
nhà đầu tư luôn luôn thích tiền mặt trong tay hơn là việc hứa hẹn tăng vốn
trong tương lai để họ có thể giảm thiểu rủi ro đối mặt khi đầu tư vào cổ phiếu.
1.2.2. Lý thuyết “Catering” – Vấn đề hiệu ứng khách hàng:
Được đưa ra bởi Baker và Wurgler (2004), cho rằng các nhà quản lý quyết
định chính sách cổ tức phải quan tâm đáp ứng được những nhu cầu và mong
muốn của nhà đầu tư theo cách chi trả cổ tức ổn định nếu nhà đầu tư thuộc loại
thích trả cổ tức, xem nó như là một phần phí bảo hiểm cho việc đầu tư của họ,
hoặc không chi trả cổ tức nếu nhà đầu tư thuộc loại không cần cổ tức mà cần sự
gia tăng vốn trong tương lại.
- Trang 16 -
1.2.3. Lý thuyết “Signalling” – Vấn đề phát tín hiệu:
Được đưa ra bởi Bhattacharya (1980) và John Williams (1985), cho rằng cổ
tức là công cụ để xoa dịu vấn đề thông tin bất đối xứng giữa người quản lý và
cổ đông thông qua việc nó đưa đến các cổ đông những thông tin nội bộ về triển
vọng trong tương lai của công ty. Tương tự, Jensen và Meckling (1976),
Easterbrook (1984) cũng đề cập đến vấn đề thông tin bất cân xứng và chi phí
người đại diện, cho rằng phần trăm vốn chủ sở hữu cổ phần mà các nhà quản trị
đang quản lý có thể ảnh hưởng đến chính sách cổ tức. Tại sao các cổ đông
thường đòi cổ tức cao? Đó là do thị trường luôn tồn tại vấn đề thông tin bất cân
xứng nên các cổ đông sẽ không tin tưởng các giám đốc có thể chi tiêu lợi nhuận
giữ lại 1 cách thông minh, họ lo sợ rằng tiền sẽ được tái đầu tư vào việc xây các
biệt điện lớn hoặc đầu tư vào các dự án liều lĩnh, rủi ro quá cao chứ không phải
đầu tư vào các dự án có khả năng sinh lãi với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận cho
các cổ đông. Các nhà nghiên cứu cho rằng gia tăng cổ tức không phải bởi vì
các nhà đầu tư thích cổ tức mà bởi vì họ cho rằng như thế sẽ làm cho các giám
đốc quản lý tốt hơn.
De Angelo et al (2004) cũng tiến hành các nghiên cứu về mối liên quan
giữa chính sách cổ tức, chi phí người đại diện và lợi nhuận giữ lại. Họ thấy
rằng các khoản thanh toán cổ tức có thể ngăn ngừa được mâu thuẫn trong vấn
đề chi phí đại diện vì lợi nhuận giữ lại quá nhiều có thể nảy sinh những quyết
định liều lĩnh, không quan tâm đến các cơ hội đầu tư tốt hơn nếu không có sự
giám sát của cổ đông. Điều này cho thấy các công ty có lợi nhuận giữ lại cao
đặc biệt thích chi trả cổ tức. Với quan điểm này, các công ty sẽ trả cổ tức cao
nếu lợi nhuận giữ lại trên tổng vốn chủ sở hữu cao, và giảm nếu tỷ lệ này giảm
và bằng 0 nếu tỷ lệ tiến về gần 0, khi đó công ty không có lợi nhuận giữ lại.
Cuối cùng nhận thấy rằng có mối liên kết đáng kể giữa quyết định chi trả cổ tức
và tỷ lệ lợi nhuận giữ lại trên tổng vốn chủ; đồng thời quyết định chia cổ tức
cũng chịu sự tác động bởi quy mô doanh nghiệp, lợi nhuận, sự tăng trưởng, đòn
cân nợ, lượng tiền mặt và lịch sử chi trả cổ tức.
- Trang 17 -
1.2.4. Lý thuyết chu kỳ kinh doanh:
Lease et al (2000), Fama và French (2001) cho rằng công ty nào cũng có
chu kỳ kinh doanh của nó gồm 5 giai đoạn: khởi sự, tăng trưởng, phát triển, bão
hòa và suy thoái. Các ông cho rằng các công ty đều phải tuân theo một chu kỳ
kinh doanh nhất định và quản trị doanh nghiệp cần phải tiếp cận những khuyết
tật của thị trường tương ứng với chu kỳ kinh doanh bao gồm vấn đề thuế, chi
phí giao dịch và thông tin bất cân xứng,… từ đó quyết định việc chi trả cổ tức
cho phù hợp với từng giai đoạn của doanh nghiệp.
Miller và Scholes (1978) dựa trên những số liệu thực tế của Mỹ đưa ra kết
luận về ảnh hưởng của ưu đãi thuế đối với chính sách cổ tức. Đó là thuế suất
đánh trên cổ tức và thuế đánh trên lãi vốn khác nhau sẽ dẫn đến những hiệu
ứng khác nhau về chính sách cổ tức.
1.2.5. Lý thuyết MM - Miller và Modigliani (1961):
Tại các thị trường hoàn hảo, cổ tức không có ảnh hưởng đến giá trị doanh
nghiệp, do đó cổ đông sẽ không quan tâm đến việc phát sinh dòng tiền của
mình là dưới hình thức cổ tức hay là hình thức tăng vốn. Vì vậy, trong trường
hợp này, việc có chia cổ tức hay không sẽ phụ thuộc vào dòng tiền của doanh
nghiệp – chia cổ tức tiền mặt nếu dòng tiền đang dương và ngược lại sẽ phát
hành cổ phiếu để hỗ trợ cho việc chia cổ tức.
D'Souza (1999), nghiên cứu mối liên hệ giữa vấn đề chi phí đại diện, rủi ro
thị trường, cơ hội đầu tư và chính sách cổ tức. Kết quả của nghiên cứu này cho
thấy rõ ràng giữa chi phí người đại diện và rủi ro thị trường có mối quan hệ
nghịch chiều đối với việc chi trả cổ tức; trong khi đó, mối quan hệ giữa chính
sách cổ tức và cơ hội đầu tư đối với các công ty quốc tế trong mẫu khảo sát là
nhỏ và không đáng kể.
- Trang 18 -
1.2.6. Mô hình Lintner:
Adaoglu (2000), đã tiến hành nghiên cứu về sự bất ổn trong chính sách cổ
tức của các công ty cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Istanbul
(ISE), một nền kinh tế điển hình cho thị trường mới nổi bằng cách sử dụng mô
hình Lintner trên 916 mẫu quan sát thông báo cổ tức các công ty thuộc khu vực
phi tài chính được niêm yết trên ISE. Kết quả phân tích thực nghiệm cho thấy
rằng các công ty niêm yết trên ISE đi theo chính sách chia cổ tức tiền mặt
không ổn định và yếu tố chính ảnh hưởng đến lượng cổ tức được chia chính là
thu nhập của công ty.
Omet (2004), cũng sử dụng mô hình của Lintner đã khảo sát việc chia cổ
tức của thị trường vốn Jordan thông qua việc chạy dữ liệu biến phụ thuộc DPSit
và 2 biến giải thích EPSit và DPSit-1. Phân tích thực hiện trên 44 công ty
Jordan niêm yết trên thị trường chứng khoán Amman (ASM). Kết quả cho thấy
các công ty này tuân theo chính sách cổ tức ổn định; chỉ số DPS năm hiện
hành phụ thuộc nhiều vào DPS năm trước hơn là EPS năm nay. Ngoài ra kết
quả báo hiệu rằng thuế đánh trên cổ tức không có tác động đáng kể đến các
quyết định chia cổ tức của các công ty niêm yết.
Eriotis (2005), khảo sát tác động của lợi nhuận được phân phối và quy mô
doanh nghiệp đối với chính sách cổ tức của các công ty Hy Lạp. Tác giả thấy
rằng các công ty Hy Lạp thiết lập các chính sách cổ tức của họ không chỉ dựa
trên thu nhập ròng được phân phối, mà còn dựa trên những thay đổi trong cổ
tức, sự thay đổi từ các khoản thu nhập năm ngoái và quy mô công ty. Kết quả
nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng thu nhập được phân phối và quy mô
doanh nghiệp được xem như là tín hiệu cho cổ tức các công ty. Các công ty Hy
Lạp cũng duy trì việc thanh toán cổ tức trong dài hạn.
Stulz et al (2005), tiến hành nghiên cứu mối liên hệ chính sách cổ tức và lợi
nhuận giữ lại lũy kế bằng cách áp dụng lý thuyết chu kỳ kinh doanh về cổ tức.
Các công ty của khu vực phi tài chính trả cổ tức nhiều hơn khi lợi nhuận giữ lại
chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn chủ sở hữu và tiến về 0 khi hầu hết lợi
- Trang 19 -
nhuận giữ lại đã được phân phối. Họ quan sát được mối liên kết đáng kể giữa
quyết định chi trả cổ tức và lợi nhuận giữ lại lũy kế. Họ còn sử dụng lợi nhuận,
tăng trưởng, quy mô công ty, lịch sử chi trả cổ tức, đòn cân tài chính, và số dư
tiền mặt để khảo sát và thấy rằng lợi nhuận giữ lại lũy kế có tác động lớn hơn
tác động lợi nhuận và cơ hội phát triển.
Amidu và Abor (2006), tiến hành các nghiên cứu về yếu tố quyết định
chính sách cổ tức tại Ghana.
Họ chọn mẫu 20 công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Ghana
(GSE) để đại diện cho 76% tổng số công ty niêm yết trên GSE. Họ đã lấy tỷ số
cổ tức chi trả là biến phụ thuộc và được xác định bằng cổ tức trên mỗi cổ phiếu
chia cho thu nhập trên mỗi cổ phiếu. Biến giải thích bao gồm lợi nhuận (prof),
rủi ro (risk), dòng tiền (cash), thuế doanh nghiệp (tax), tỷ lệ cổ phần tổ chức
nắm giữ (INSH), tăng trưởng doanh thu và giá trị thị trường so với giá trị sổ
sách của cổ phiếu (MTBV).
Kết quả nghiên cứu cho thấy:
(cid:190) Các doanh nghiệp lợi nhuận nhiều hơn thì chi trả cổ tức nhiều hơn.
(cid:190) Khả năng thanh khoản doanh nghiệp càng tăng thì doanh nghiệp càng
trả cổ tức nhiều hơn.
(cid:190) Thu nhập ròng hay thay đổi, không ổn định thường làm cho doanh
nghiệp khó khăn trong việc chi trả cổ tức dẫn đến chi cổ tức thấp hoặc không
chi trả.
Tóm lại, chính sách chi trả cổ tức tại các doanh nghiệp niêm yết trên thị
trường chứng khoán Ghana bị tác động bởi lợi nhuận, dòng tiền, tăng trưởng và
các cơ hội đầu tư của doanh nghiệp.
Naceur et al (2006), tiến hành các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến
chính sách cổ tức trên thị trường chứng khoán Tunisia. Họ đã chọn 48 công ty
(không thuộc ngành tài chính) và kiểm tra xem liệu các công ty niêm yết có
duy trì chính sách cổ tức ổn định hay không.
- Trang 20 -
Họ cố gắng trả lời các câu hỏi: các công ty có theo đuổi chính sách cổ tức
ổn định không, tỷ suất cổ tức có khác nhau giữa các ngành không, những yếu tố
chính ảnh hưởng đến chính sách cổ tức tại Tunisia là gì?
Bằng cách sử dụng mô hình của Lintner, họ kết luận rằng các cổ tức chi trả
tại các công ty ở Tunisia chủ yếu dựa vào khoản thu nhập hiện tại, cổ tức các
năm trước, theo cách này cổ tức sẽ nhạy cảm với thu nhập hiện tại nhiều hơn,
bất kỳ sự thay đổi nào của lợi nhuận năm nay của công ty đều ảnh hưởng trực
tiếp đến mức chia cổ tức. Họ nhận thấy rằng các công ty Tunisia đều giống như
các thị trường mới nổi khác hầu như không đi theo phương thức cổ tức ổn định
hàng năm.
Ngoài ra, tỷ lệ chi trả cổ tức mục tiêu thường rất thấp (14% cho cả mẫu và
32% đối với các công ty có chi trả cổ tức). Do tỷ lệ này thấp mà tốc độ điều
chỉnh thay đổi quá cao dẫn đến sự mất ổn định trong chính sách cổ tức tại
Tunisia. Nghiên cứu cũng đưa đến kết luận rằng các công ty lợi nhuận cao, thu
nhập ổn định, dòng tiền lớn hơn có thể chi trả cổ tức cao hơn. Ngoài ra doanh
nghiệp có tỷ lệ cổ tức chi trả cao thì sẽ thu hút các nhà đầu tư nhiều hơn. Vấn
đề tập trung quyền sở hữu không ảnh hưởng đến việc thanh toán cổ tức. Bởi vì
mâu thuẫn giữa người quản lý và cổ đông tại các công ty ở Tunisia ít hơn, đồng
thời cổ đông không được lựa chọn chính sách cổ tức như thế nào để giảm sự
tùy tiện trong các quyết định quản lý của ban giám đốc nhằm bảo vệ lợi ích của
họ.
Reddy (2006), xem xét chính sách cổ tức, xu hướng và yếu tố quyết định
của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Bombay (BSE) dựa trên
nền tảng lý thuyết của lý thuyết trade-off ( lý thuyết về đòn bẩy tài chính) và lý
thuyết signal (vai trò tín hiệu của cổ tức). Phân tích cổ phiếu giao dịch trên
New York Stock Exchange (NYSE) và (BSE) cho thấy tỷ lệ phần trăm các
công ty trả cổ tức đã giảm từ 60,5% năm 1990 xuống 32,1% năm 2001 và có
rất ít công ty duy trì việc trả cổ tức. Hơn nữa, các công ty chi trả cổ tức thường
- Trang 21 -
có lợi nhuận cao, quy mô lớn và đang trong giai đoạn tăng trưởng. Thuế doanh
nghiệp, ưu đãi thuế không có tác động đối với Ấn Độ.
Megginson và Eije (2006), bằng cách sử dụng cơ sở dữ liệu của hơn 3.400
công ty niêm yết, họ đã xem xét sự tiến triển của chính sách cổ tức từ năm
1989-2003 của 15 nước là thành viên của Liên minh châu Âu trước T05/2004.
Một phát hiện quan trọng trong khảo sát là sự gia tăng thu nhập giữ lại trong
tổng vốn chủ sở hữu không làm tăng tỷ lệ chi trả cổ tức, nhưng độ tuổi của các
công ty thì có ảnh hưởng.
Avazian et al (2006), tiến hành các nghiên cứu về các công ty Hoa Kỳ
niêm yết tại sàn giao dịch chứng khoán New York (NYSE) cho rằng quyết định
cổ tức ổn định thường xuyên phụ thuộc vào một phần việc tiếp cận với thị
trường. Trong nghiên cứu của họ chính sách cổ tức ổn định sẽ là giải pháp tối
ưu đối với các công ty tăng vay nợ dưới hình thức trái phiếu trong đó các trái
chủ thường mù mờ thông tin. Tuy nhiên,chính sách này lại không tối ưu đối với
các công ty vay nợ từ các ngân hàng vốn tư nhân. Điều này cho thấy rằng quyết
định chính sách cổ tức có liên quan đến vấn đề thông tin bất cân xứng giữa các
nhà quản trị và các chủ nợ của công ty.
Baker et al (2007), tiến hành nghiên cứu nhận thức về chính sách cổ tức
của các nhà quản lý người Canada và lấy mẫu 291 công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Toronto (TSE). Mục tiêu của các nghiên cứu liên quan đến
các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách cổ tức, các vấn đề chính sách cổ tức và
giải thích về lý do tại sao các công ty trả cổ tức. Theo khảo sát tiến hành ở các
nhà quản lý của TSE, thì yếu tố quan trọng nhất đối với quyết định chia cổ tức
là mức độ kỳ vọng thu nhập trong tương lai, các khoản thu nhập ổn định, mô
hình chia cổ tức các năm trước và thu nhập hiện hành. Kết quả nghiên cứu này
hoàn toàn phù hợp với mô hình của Lintner. So sánh với kết quả khảo sát đối
với các doanh nghiệp của Mỹ cho thấy, thứ tự xếp hạng các yếu tố quyết định
của chính sách cổ tức của các nhà quản lý Canada tương tự với các giám đốc
công ty Mỹ. Tuy nhiên cũng có sự khác biệt là nhà quản lý Canada đề cao vấn
- Trang 22 -
đề tập trung quyền sở hữu và đặc điểm của công ty hơn là Mỹ. Nghiên cứu
cũng cho thấy chính sách cổ tức các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán
Toronto nghiêng về lý thuyết “signalling” và lý thuyết chu kỳ kinh doanh hơn
là lý thuyết “catering” và “bird in hand”- ưu đãi thuế và vấn đề chi phí đại diện
mâu thuẫn quyền lợi giữa người quản lý và cổ đông. So với các công ty không
chi trả cổ tức, những công ty trả cổ tức thường là các công ty lớn hơn, lợi
nhuận nhiều hơn, dòng tiền cao hơn, có nhiều cơ hội phát triển hơn, bảo vệ
quyền lợi chủ sở hữu mạnh hơn.
Jeong (2008), kiểm tra sự năng động của chính sách cổ tức tại Hàn Quốc,
tìm hiểu cách các công ty niêm yết tại Hàn Quốc thiết lập chính sách cổ tức
trong môi trường thể chế khác với các nước phát triển như Hoa Kỳ. Nghiên cứu
khảo sát liệu các doanh nghiệp Hàn Quốc có theo đuổi chính sách cổ tức ổn
định như các nước phát triển không? Đồng thời ông xác định các nhân tố ảnh
hưởng đến tính ổn định của chính sách cổ tức. Kết quả thực nghiệm cho thấy
các doanh nghiệp Hàn Quốc quyết định chính sách cổ tức dựa trên mệnh giá cổ
phiếu, sát với mức lãi suất tiền gửi bình quân. Sự thay đổi cổ tức cũng ít phản
ánh sự thay đổi những yếu tố cơ bản trong doanh nghiệp. Mức chi trả cổ tức
hàng năm có liên quan mật thiết với mức lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1 năm. Để
kiểm tra mức độ ổn định của cổ tức, nghiên cứu thấy rằng phần lớn các công ty
niêm yết ở Hàn Quốc trả cổ tức ổn định. Nhưng tốc độ điều chỉnh tỷ lệ thanh
toán cổ tức mục tiêu thì nhanh hơn so với thị trường tại nước phát triển.
Mặt khác, luận văn cũng xem xét các yếu đóng vai trò quan trọng ảnh
hưởng đến chính sách cổ tức như rủi ro công ty đối mặt, quy mô và sự tăng
trưởng. Đồng thời nghiên cứu nhận thấy rằng có sự khác biệt giữa các công ty
Hoa Kỳ và Hàn Quốc: các công ty lớn hơn, lâu đời hơn và chịu nhiều rủi ro
hơn thì chi trả cổ tức ổn định hơn. Nhân tố quyền sở hữu đóng vai trò quyết
định đối với chính sách cổ tức của các công ty niêm yết tại Hàn Quốc.
Như vậy, từ việc nghiên cứu các lý thuyết đã có về các nhân tố ảnh hưởng
đến chính sách cổ tức, luận văn đã đưa đến một cái nhìn tổng quát về các mối
- Trang 23 -
quan hệ giữa các chỉ tiêu tài chính đối với quyết định chi trả cổ tức. Điều này
làm cơ sở để luận văn tiếp tục đi vào nghiên cứu thực tế trong thị trường chứng
khoán Việt Nam, mối liên hệ của những yếu tố này với chính sách cổ tức diễn
ra như thế nào. Trên kết quả nghiên cứu, các nhà quản trị Việt Nam sẽ có
những căn cứ khoa học hơn trong thực tế để đưa ra các quyết định chi trả cổ tức
tối ưu đối với bản thân doanh nghiệp mình, hướng đến mục tiêu tối đa hóa lợi
ích cổ đông, những người chủ của doanh nghiệp.
- Trang 24 -
PHẦN 2
ỨNG DỤNG NGHIÊN CỨU TẠI TRUNG QUỐC
PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHÍNH SÁCH CỔ
TỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TẠI HOSE 2007-2009.
2.1 .Lý do sử dụng nghiên cứu Trung Quốc ứng dụng vào thị trường chứng
khoán Việt Nam:
2.1.1. Thị trường chứng khoán tại một số nước châu Á:
Điểm lại 30 năm hoạt động của TTCK các nước đang phát triển châu Á, từ
Hàn Quốc đến Hồng Kông…, qua Thái Lan người ta cũng không khó gì để nêu
ra một số đặc điểm rất đáng quan tâm như sau:
(cid:190) Chính phủ trực tiếp chỉ đạo TTCK ngay khi vừa thành lập, trước hết là
sử dụng những biện pháp kích thích phát hành chứng khoán. Những doanh
nghiệp nào có đủ điều kiện mà không phát hành chứng khoán thì sẽ gặp khó
khăn trong huy động vốn từ ngân hàng.
(cid:190) Thúc đẩy thị trường tiền tệ làm tiền đề cho việc lập TTCK.
(cid:190) Tìm cách thu hút vốn nước ngoài để kích thích TTCK trong nước.
(cid:190) Cổ phần hóa DNNN.
(cid:190) Do thiếu kinh nghiệm tổ chức – quản lý nên hầu hết các TTCK đều
không kiểm soát được các hoạt động đầu cơ. Hoạt động đầu cơ đã thúc đẩy sự
sụp đổ của TTCK ở Hàn Quốc năm 1962, rồi ở Hồng Kông cuối năm 1974 –
vốn được gọi là “casino lớn nhất châu Á”.
(cid:190) TTCK ở khu vực này bất chấp thăng trầm vẫn phát triển với tốc độ cực
lớn. Ngay từ năm 1985, nhiều sở giao dịch chứng khoán ở châu Á đã giữ được
vị trí then chốt trên TTCK thế giới, đó là SGD Bangkok đạt vị trí thứ 7, SGD
Hồng Kông thứ 16, SGD Singapore thứ 18 về dung lượng giao dịch. Có được
những thành tựu trên chính là nhờ việc áp dụng kinh nghiệm của phương Tây
và Nhật Bản và nhờ tốc độ tăng trưởng cao ở các nền kinh tế khu vực này.
- Trang 25 -
2.1.2. Thị trường chứng khoán Trung Quốc:
TTCK Trung Quốc, vừa mang đặc điểm của một nền kinh tế chuyển đổi, lại
vừa có những nét chung của một nền kinh tế đang phát triển của châu Á, vừa có
cái riêng mang màu sắc Trung Quốc.
Giáo sư trường Đại học Fudan, thầy Xie Baisan đã đề cập đến 10 đặc điểm
của thị trường chứng khoán Trung Quốc, cụ thể như sau:
(cid:190) Thứ nhất, thị trường chứng khoán không là một phong vũ biểu của nền
kinh tế. Nó không đi lên khi kinh tế lên, nhưng nếu nền kinh tế suy giảm nó lại
rơi không phanh.
(cid:190) Thứ hai, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều niêm yết trên thị
trường, nhưng quyền sở hữu và chức năng của nhà nước trong các doanh
nghiệp này vẫn còn ảnh hưởng nặng nề.
(cid:190) Thứ ba, nhiều công ty niêm yết hoạt động không hiệu quả, không khả
năng để chia cổ tức hoặc thậm chí không muốn cổ tức.
(cid:190) Thứ tư, bất kể thị trường đang tăng giá hay xuống giá, các công ty niêm
yết bị tham ô một cách nghiêm trong, luôn trong tình trạng khát vốn đầu tư.
(cid:190) Thứ năm, thị trường không có hành lang pháp lý ổn định, tình trạng
thông tin bất cân xứng quá cao ảnh hưởng sự vận hành của thị trường.
(cid:190) Thứ sáu, các chính sách vĩ mô, kiểm soát thị trường biến đổi liên tục,
không ổn định.
(cid:190) Thứ bảy, chính sách tiền tệ tác động quá lớn đến thị trường chứng
khoán.
(cid:190) Thứ tám, công tác quản trị tại các công ty niêm yết mang tính doanh
nghiệp nhà nước nặng nề, quan liêu, bao cấp.
(cid:190) Thứ chín, là một thị trường chứng khoán đóng cửa, nhỏ bé, đồng nhân
dân tệ không được tự do chuyển đổi.
(cid:190) Cuối cùng, khi có một biến cố lớn xảy ra, thông tin quan trọng được phổ
biến, thị trường dễ dàng mất tính thanh khoản.
- Trang 26 -
Lướt qua các đặc điểm của các thị trường chứng khoán của các nước trong
nền kinh tế mới nổi, Châu Á và đặc biệt là Trung Quốc, ta nhận thấy thị
trường chứng khoán Việt Nam có một số điểm tương đồng với Trung
Quốc. Chẳng hạn như tỷ lệ sở hữu nhà nước còn rất cao trong cơ cấu vốn của
các công ty niêm yết; chính sách tiền tệ tác động quá lớn đến thị trường chứng
khoán; hành lang pháp lý chưa ổn định, chính sách kinh tế vĩ mô thay đổi liên
tục dẫn đến tình trạng thông tin bất cân xứng quá cao dẫn đến khả năng dễ dàng
mất tính thanh khoản của thị trường khi có bất kỳ những tin đồn xấu nào.
Chính vì lẽ đó, luận văn sẽ sử dụng những kết quả có được từ một nghiên cứu
mới nhất về các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách cổ tức tại thị trường Trung
Quốc để dựa trên cơ sở đó tiến hành khảo sát những tác động tương tư đối với
thị trường chứng khoán Việt Nam.
2.2. Nghiên cứu của Xi He et al (2009) về các nhân tố ảnh hưởng đến chính
sách cổ tức của các doanh nghiệp tại Trung Quốc:
2.2.1. Quy trình công bố cổ tức chi trả tại các công ty niêm yết Trung
Quốc:
Căn cứ vào tình hình kinh doanh vào cuối năm trước, tại ngày công bố, hội
đồng quản trị sẽ đưa ra kế hoạch phân phối lợi nhuận (Profit Distribution
Scheme – PDS) trong báo cáo thường niên. Kế hoạch phân phối lợi nhuận
được trình Đại hội cổ đông thường niên (Annual General Meeting – AGM) để
duyệt, việc thông báo bao gồm hình thức cổ tức (tiền mặt hay cổ phần) và mức
cổ tức đề xuất (bằng 0 hoặc cao hơn).
Sau Đại hội cổ đông, kế hoạch phân phối cuối cùng được nộp lên Trung tâm
lưu ký chứng khoán (CSDCC) để thẩm định và phê duyệt. Sau ngày CSDCC
duyệt, doanh nghiệp sẽ công bố ngày chốt danh sách cổ đông, ngày không
hưởng quyền và chi tiết liên quan trong kế hoạch phân phối cổ tức.
Phản ứng của các nhà đầu tư đối với việc công bố chia cổ tức bằng tiền mặt
hay bằng cổ phần được dự đoán là khác nhau. Đối với các công ty đang tăng
trưởng đòi hỏi nguồn tài trợ từ bên ngoài thì chi trả cổ tức cổ phần là lựa chọn
- Trang 27 -
tối ưu cho phép giữ lại nguồn vốn nội bộ để tiếp tục đầu tư. Do đó, thanh toán
cổ tức cổ phần có thể là tín hiệu rằng công ty có tiềm năng tăng trưởng.
Hơn nữa, cổ tức cổ phần được chi trả bởi những công ty đối mặt với tình
trạng thông tin bất cân xứng cao và cho rằng mình đang bị định giá thấp. Trong
bối cảnh đó, cổ tức cổ phần sẽ là một phương cách hiệu quả thu hút sự chú ý
của các nhà phân tích tài chính. Không giống như hình thức cổ tức cổ phần, chi
cổ tức bằng tiền mặt có thể sẽ không liên quan đế việc tăng trưởng của doanh
nghiệp, do đó, các nhà đầu tư phản ứng cũng khác hơn so với những công bố
cổ tức cổ phần. Hơn nữa, chi trả cổ tức tiền mặt có thể là một cách để doanh
nghiệp đáp ứng nhu cầu của các cổ đông sở hữu cổ phiếu chưa được giao dịch:
cổ tức tiền mặt chính là thu nhập của những cổ đông này. Việc này không được
xem là vì lợi ích chung của các nhà đầu tư, do đó những công bố chia cổ tức
bằng tiền mặt có thể có mối liên hệ trái chiều với những phản ứng của thị
truờng
2.2.2. Quy định về chính sách cổ tức và huy động nguồn vốn tài trợ của
Trung Quốc:
Các doanh nghiệp ở các nước phát triển thường có khuynh hướng duy trì
chính sách cổ tức ổn định. Ngược lại, hầu hết các doanh nghiệp niêm yết Trung
Quốc đều đang ở giai đoạn phát triển nhanh, tập trung vào việc tích lũy vốn và
mở rộng quy mô sản xuất. Do đó, các doanh nghiệp ít chi trả cổ tức hoặc chi trả
thấp. (Shao và Lin, 2004). Kết quả là, Ủy Ban Chứng khoán Trung Quốc
(China Securities Regulation Commission – CSRC) đã tìm cách khuyến khích
các doanh nghiệp TQ phải thiết lập chính sách chi trả cổ tức dài hạn với mục
tiêu đảm bảo việc chi trả cồ tức bằng tiền mặt.
Trong tháng 03 năm 2001, UBCKTQ đã ban hành “Các quy định hành
chính đối với việc phát hành cổ phiếu mới của các công ty niêm yết” và quy
định rằng các tổ chức bảo lãnh phát hành cổ phiếu phải đặc biệt chú ý đến các
đơn xin tái cấp vốn (chẳng hạn: phát hành quyền mua cổ phiếu, trái phiếu
chuyển đổi, theo như định nghĩa của CSRC) của các công ty không chi trả cổ
- Trang 28 -
tức trong 3 năm mà không có bất kỳ giải trình nào từ Hội đồng quản trị. Đây là
lần đầu tiên tại Trung Quốc, UBCK đã chính thức điều tiết các chính sách chi
trả cổ tức tại các doanh nghiệp. Tuy nhiên, CSRC không xác định loại hình cổ
tức được chi trả (tiền mặt hoặc cổ phiếu). Quan trọng hơn nữa, việc chi trả cổ
tức không bắt buộc miễn là Ban Giám Đốc có những giải trình thỏa đáng về
việc không chi trả cổ tức.
Vào tháng 12 năm 2004, UBCKTQ đã tiến thêm 1 bước xa hơn bằng quy
định rằng các doanh nghiệp sẽ không được chấp thuận việc tái tài trợ vốn nếu
không chi trả cổ tức tiền mặt trong 3 năm liền kề trước đó. Hơn nữa, để phù
hợp với “Quy định hành chính đối với phát hành cổ phiếu mới” được ban hành
vào tháng 5 năm 2006, UBCKTQ quy định việc phát hành cổ phiếu mới phải
phù hợp với quy định các doanh nghiệp niêm yết phải có cổ tức tiền mặt hoặc
cổ phiếu đã chi trả lũy kế trong 3 năm lớn hơn 20% lợi nhuận có thể phân phối
trung bình hàng năm.
Dựa trên những quy định của chính phủ Trung Quốc nhằm điều tiết chính
sách cổ tức tại các công ty niêm yết, doanh nghiệp sẽ phải thực hiện việc thanh
toán cổ tức của mình trước khi tìm kiếm nguồn tài trợ từ bên ngoài. Theo
khẳng định của Chen, Jian và Xu (2009), điều này nổi lên mối quan hệ cùng
chiều giữa mức độ cổ phần được phép giao dịch, tài trợ vốn tiếp theo và chính
sách cổ tức.
Ngoài ra, các ông đã xem xét sự khác biệt giữa 2 hình thức chi trả cổ tức:
tiền mặt và cổ phiếu. Sự chọn lựa cổ tức tiền mặt hay cổ phiếu thường bị ảnh
hưởng trực tiếp bởi tiềm năng tăng trưởng và sự đầu tư vào doanh nghiệp.Đối
với công ty tăng trưởng mạnh đòi hỏi huy động vốn tài trợ từ bên ngoài, chi trả
cổ tức cổ phiếu là sự lựa chọn tối ưu vì cổ tức vừa đáp ứng nhu cầu vốn tài trợ
từ bên ngoài đồng thời cho phép doanh nghiệp giữ lại tiền để tiếp tục đầu tư.
Ngược lại, cổ tức tiền mặt cũng đáp ứng quy định của chính phủ về tài trợ vốn
bên ngoài, nhưng nó làm giảm đồng thời lượng tiền mặt và các nguồn quỹ nội
bộ sẵn có cho các cơ hội phát triển của doanh nghiệp, còn các mặt khác thì
- Trang 29 -
không thay đổi. Như vậy, với lập luận tăng vốn tài trợ từ bên ngoài thì tốn kém
và chi trả cổ tức bằng cổ phiếu vẫn đảm bảo quy định của chính phủ, có thể nói
các doanh nghiệp đang tăng trưởng thì thích trả cổ tức cổ phiếu hơn, và ngược
lại.
Ngoài ra, doanh nghiệp càng muốn thu hút sự chú ý của các nhà phân tích
tại thời điểm huy động tài trợ vốn bên ngoài càng làm giảm tình trạng thông tin
bất cân xứng. Với những ý trên, sẽ có một mối liên hệ cùng chiều giữa nhu cầu
tăng vốn và việc thanh toán cổ tức cổ phần.
2.2.3. Các nhân tố được khảo sát tại thị trường Trung Quốc :
Việc lựa chọn các nhân tố để phân tích ảnh hưởng của chúng đối với hình
thức cổ tức khác nhau của doanh nghiệp xuất phát từ những lý thuyết thực
nghiệm hiện có. Cụ thể, các nghiên cứu cho rằng sự quyết định đầu tư vào công
ty, cấu trúc vốn và chính sách cổ tức có liên quan với nhau. Ví dụ, một lý
thuyết thực nghiệm lớn cho rằng quyết định chia cổ tức ảnh hưởng trực tiếp
đến dòng tiền, rồi ảnh hưởng đến lựa chọn đầu tư của doanh nghiệp. (Xem
thêm Higgin, 1981; Lang và Litzenberger, 1989). Ngoài ra, Aivazian et al.
(2003) báo cáo rằng tương tự với các nước đã phát triển, chính sách cổ tức tại
các nền kinh tế mới nổi bị tác động bởi các yếu tố lợi nhuận, nợ và các cơ hội
phát triển của doanh nghiệp.
Đi theo Aivazian et al.(2003), nghiên cứu đã thiết lập một loạt các biến số là
các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách cổ tức như sau:
(cid:190) Quy mô doanh nghiệp: là biến số đại diện cho sự tiếp cận với thị trường
tài chính, doanh nghiệp nào càng lớn thì càng tiếp cận với thị trường tốt hơn và
càng có khả năng thanh toán cổ tức tiền mặt nhiều hơn. Do vậy, quy mô
doanh nghiệp sẽ được đo lường bằng tổng tài sản (Total asset – TA)
(cid:190) Cơ hội phát triển: Theo lý thuyết ta cũng có một mối liên kết giữa sự
tăng trưởng, lợi nhuận và nhu cầu tài chính. Cụ thể hơn, công ty nào tăng
trưởng nhanh nói chung sẽ khan hiếm tiền mặt và trả cổ tức bằng tiền mặt ít
hơn, trong khi doanh nghiệp nào có nhiều lợi nhuận hơn và tỷ lệ tăng trưởng
- Trang 30 -
thấp thì dư dả tiền mặt nên sẽ chi trả cổ tức cao hơn. Do đó luận văn sử dụng
đại lượng tốc độ tăng trưởng tài sản cố định - Fixed asset (FA) growth rate,
được xác định bởi tốc độ tăng trưởng hàng năm của tổng tài sản cố định đại
diện cho cơ hội phát triển.
(cid:190) Lợi nhuận: sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) và được
dùng để đo lường khả năng sinh lợi. Lợi nhuận càng cao doanh nghiệp càng có
nhiều khả năng chi trả cổ tức hơn.
(cid:190) Lượng tiền mặt nắm giữ:
Để đo lường khả năng thanh toán của doanh nghiệp, nghiên cứu sẽ sử
dụng đại lượng Cash holding (Tiền mặt / Tổng tài sản) được xác định bằng
tổng tiền mặt, tương đuơng tiền và các khoản đầu tư ngắn hạn chia cho tổng tài
sản.
(cid:190) Tuổi doanh nghiệp:
Ngược lại với thị trường các nước phát triển, các công ty niêm yết Trung
Quốc thường là trẻ và đang trong giai đoạn tăng trưởng mạnh tập trung vào
việc tích lũy vốn và mở rộng quy mô sản xuất (Shao và lin, 2004; Wei và Jiang,
2001). Tương tự, trong nghiên cứu của Xi He et al (2009) cũng đã kiểm định
đại lượng tuổi của doanh nghiệp (Age) được tính bằng số ngày kể từ ngày
niêm yết đầu tiên, quy thành năm và kết luận rằng các công ty càng trẻ càng ít
trả cổ tức bằng tiền mặt. Việt Nam cũng có những điểm tương đồng, do đó,
nghiên cứu cũng sử dụng đại lượng này để khảo sát. Đại lượng cũng được tính
từ ngày niêm yết đến thời điểm chia cổ tức và quy đổi thành năm.
(cid:190) Cơ cấu sở hữu:
Nghiên cứu tại Trung Quốc cho rằng các doanh nghiệp trả cổ tức bằng
tiền mặt có liên quan đến mức độ kiểm soát doanh nghiệp của Nhà nước, sau
khi niêm yết, việc chia tách quyền sở hữu của nhà nước thay đổi, lượng dòng
tiền chảy về nhà nước bị giảm so với trước khi niêm yết. Chi trả cổ tức bằng
tiền mặt làm giảm dòng tiền, do đó những doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước
lại có động cơ lớn để chi trả cổ tức bằng tiền mặt. Để khảo sát mối quan hệ này
- Trang 31 -
tại Việt Nam , chúng tôi dùng mức độ sở hữu của nhà nước (GV/TS), được đo
bằng số cổ phần của nhà nước sở hữu so với tổng số cổ phần đang lưu hành.
(cid:190) Đòn cân tài chính:
Để phản ánh sự thay thế giữa việc chi trả cổ tức và vay nợ, chúng tôi sử
dụng đòn bẩy tài chính, được tính bằng tỷ lệ giá trị sổ sách nợ trên tài sản (DE).
(cid:190) Chỉ số tham nhũng (ETC): được tính bằng tổng các khoản thanh toán
cho các quan chức chính phủ, nhà nước.
2.2.4. Nghiên cứu của Xi He et al (2009)
Số liệu được thu thập từ Dịch vụ dữ liệu GTA (CSMAR). GTA lưu trữ dữ
liệu về các thông tin công bố chi trả cổ tức, thông tin 10 tổ chức đầu tư, các dữ
liệu trên báo cáo tài chính. Công ty cũng được lưu trữ thông tin trên các thị
trường chứng khoán nơi doanh nghiệp niêm yết (Sàn GDCK Thượng Hải và
Thâm quyến). Để bảo đảm số liệu được chính xác và phục hồi các dữ liệu còn
thiếu, nghiên cứu đã thực hiện việc kiểm tra chéo dữ liệu GTA và các nguồn
khác nhau, như là dữ liệu được biên soạn bởi Trung tâm thông tin tài chính
SinoFin, Công ty chứng khoán China Merchants, Thông tin tài chính Trung
quốc và trang web Eastmoney.com
Lưu ý rằng, các công ty Trung Quốc thông báo hình thức chi trả cổ tức
(hoặc không trả cổ tức) định kỳ hàng năm trên các báo cáo tài chính của họ từ
T1 – T4 năm sau. Chẳng hạn, thông báo kế hoạch chi trả cổ tức được đưa vào
trong báo cáo tài chính năm 2007 nhưng thực sự là thanh toán cổ tức cho năm
tài chính 2006.
Mẫu dữ liệu ban đầu gồm 6.584 thông báo chi trả cổ tức hàng năm từ 2003-
2007. Mẫu bắt đầu từ 2003 vì các dữ liệu chi tiết từ năm 2003 trước về trước
không có sẵn. Trong số 6584 công bố cổ tức, có 315 thông báo còn thiếu thông
tin ngày báo cáo tài chính và những thông báo này được loại khỏi mẫu. Cuối
cùng, luận văn đã áp dụng các bộ lọc khác nhau để giảm thiểu lỗi có thể xảy ra
mà không thể phục hồi được thông qua việc kiểm tra chéo.
Bảng 3: Các nhân tố ảnh hưởng cổ tức tại thị trường Trung Quốc
- Trang 32 -
Who
Stock
Cash
Variable
Non
Pay
le
Dividend
Dividend
-payers
ers
Sample
Payers
Payers
0.07
0.14
3.97
0.13
0
DPS
74.1
1466.7
40.13
0
80.16
DPS/EPS
4
5
2,503
3,15
1,82
3,160.
3,089.
TA
.68
2.70
1.86
03
74
0.02
0.05
0
0.05
0.06
ROA
0.79
0.55
1.05
0.53
0.65
DE
0.23
0.25
0.21
0.25
0.24
Cash/TA
FA
0.16
0.12
0.2
0.19
0.26
growth
0.58
0.59
0.56
0.59
0.55
NT/TS
0.35
0.38
0.32
0.39
0.31
GV/TS
0.06
CSC/TA
0.08
0.05
0.08
0.09
6.39
5.68
7.15
5.6
6.34
Age
0.23
0.51
-0.06
0.49
0.68
REPS
0.01
0.01
0.01
0.01
0.01
ETC
0.6
0.61
0.59
0.61
0.59
PP
3.05
3.3
2.28
3.31
3.26
SEOAGE
InstHoldi
0.06
0.05
0.07
0.07
0.06
ng
- Trang 33 -
22.9
% of
30.29
38
21.65
34.18
Private
5
% of
8.67
8.6
8.75
9.09
5.82
Cross-list
2,51
2,64
2,365
275
5,153
# of Obs
3
0
Nghiên cứu khảo sát chính sách cổ tức tại Trung Quốc, một nền kinh tế mới
nổi lớn nhất thế giới và nhận thấy rằng:
(cid:190) Khuynh hướng chi trả cổ tức chịu tác động bởi đặc điểm riêng có của
công ty chẳng hạn các công ty có lợi nhuận cao hơn, đòn cân nợ thấp hơn,
lượng tiền mặt nắm giữ nhiều sẽ có nhiều khả năng chi trả cổ tức hơn, đặc biệt
là cổ tức bằng tiền mặt.
(cid:190) Cơ cấu sở hữu trong doanh nghiệp có liên quan đến việc chi trả cổ tức.
Cụ thể là, doanh nghiệp có sở hữu nhà nước nhiều hơn thường chi trả cổ tức
tiền mặt. Hơn nữa, phù hợp với lý thuyết Catering – hiệu ứng khách hang với
lập luận rằng việc thiết lập chính sách cổ tức nhằm đáp ứng yêu cầu của các
nhà đầu tư, các công ty có tỷ lệ cổ phiếu hạn chế giao dịch cao thường trả cổ
tức bằng tiền mặt hơn. Ngoài ra, các công ty hoạt động ở những vị trí tập trung
nhiều tổ chức đầu tư, có nhiều khả năng tiếp cận nguồn vốn hơn có nhiều khả
năng trả cổ tức hơn.
(cid:190) Tác động của việc công bố thông tin đối với từng hình thức chi trả cổ
tức cũng khác nhau. Các công ty tăng trưởng với tỷ lệ lợi nhuận giữ lại cao, đầu
tư nhiều vào tài sản cố định thường chi trả cổ tức bằng cổ phiếu, những công ty
này thường bị định giá thấp và đang tìm kiếm nguồn tài trợ từ bên ngoài, do đó
họ sử dụng việc chia cổ tức bằng cổ phiếu nhằm thu hút nhiều hơn sự chú ý của
các nhà phân tích tài chính.
2.3. Ứng dụng khảo sát số liệu tại Việt Nam:
2.3.1. Mô tả chi tiết số liệu: (Xem thêm phụ lục 01)
Một khó khăn trong việc thu thập dữ liệu đó là Việt Nam không có một đơn
- Trang 34 -
vị hay trang web nào thống kê chính thức các số liệu liên quan đến chính sách
cổ tức của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán như là ở một
số quốc gia khác trên thế giới. Chẳng hạn, trang www.dividend.com thống kê
số liệu các công ty niêm yết trên thị trường Mỹ, Anh, Canada hay trang
www.asx.com.au thống kê các công ty của Úc hoặc một hệ thống lưu trữ dữ
liệu như Dịch vụ dữ liệu GTA của Trung Quốc, hay hệ thống dữ liệu
Datastream (Danish Stock Data) liên quan đến các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Copenhaghen của Đan Mạch.
Luận văn tập hợp các dữ liệu liên quan đến chính sách cổ tức của doanh
nghiệp thông qua việc tổng hợp số liệu từ các báo cáo tài chính các năm, bản
cáo bạch, báo cáo thường niên và các công bố chi trả cổ tức của doanh nghiệp
trên các trang web thông tin của Sở giao dịch chứng khoán TPHCM nơi doanh
nghiệp niêm yết, Trung tâm lưu ký chứng khoán, nơi các doanh nghiệp niêm
yết,….
Mẫu dữ liệu khảo sát bao gồm 324 thông báo chi trả cổ tức trong ba năm
2007 – 2009 của 108 doanh nghiệp niêm yết trên sàn HOSE tính đến hết
31/12/2007. Mẫu bắt đầu từ 2007 vì các dữ liệu chi tiết từ năm 2007 trước về
trước không có sẵn, các doanh nghiệp niêm yết nhiều chủ yếu trong 2006 –
2007 và bắt đầu chi trả cổ tức từ khi niêm yết, số liệu chi trả cổ tức từ các năm
trước đó không được công bố đại chúng, chỉ có rải rác trong các bản cáo bạch
nhưng không đầy đủ qua các năm, khó có việc kiểm tra tính chính xác trong dữ
liệu được thu thập.
Việc khảo sát sẽ tập trung vào các nhân tố ảnh hưởng đến việc doanh
nghiệp chi trả cổ tức và không chi trả cổ tức; doanh nghiệp chi trả cổ tức bằng
tiền mặt hay bằng cổ phần. Do đó, mẫu khảo sát cũng cần thiết phân loại các
doanh nghiệp tương ứng.
Doanh nghiệp không trả cổ tức là các công ty không chi trả cổ tức dưới bất
kỳ hình thức nào trong kỳ hiện tại.
Doanh nghiệp chi trả cổ tức sẽ chi dưới dạng tiền mặt hoặc bằng cổ phiếu
- Trang 35 -
hoặc bằng cả 2 hình thức. Trong số các doanh nghiệp chi trả cổ tức, doanh
nghiệp chi trả bằng tiền mặt là các doanh nghiệp chỉ trả dưới dạng tiền mặt, còn
lại doanh nghiệp chi trả bằng cổ phiếu là doanh nghiệp trả cổ tức dưới dạng cổ
phiếu hoặc bằng cả hai hình thức (tiền mặt và cổ phiếu).
Bảng 4: Thống kê giá trị trung bình các biến đối với các hình thức chi
trả cổ tức
Whole
Non-
Payers
Cash
Stock
Variable
sample
payers
2,608.93
-
2,865.40
1,579.58
8,008.71
DPS
3,400.35
(641.07)
3,797.65
3,450.58
5,185.93
EPS
0.80
-
0.88
0.66
1.76
DPS/EPS
1,380.15
1,412.82
1,376.94
1,256.34
1,859.33
TA
0.10
(0.01)
0.10
0.11
0.12
ROA
1.19
1.74
1.13
1.14
1.17
DE
0.11
0.10
0.11
0.12
0.11
Cash/TA
0.68
0.48
0.61
0.70
1.08
FA growth
0.22
0.15
0.23
0.26
0.13
GV/TS
2.75
3.44
2.70
2.58
2.68
Age
Lợi nhuận
94.92
(26.37)
106.84
92.13
165.67
lũy kế (RE)
1,310.43
794.31
1,361.16
1,307.90
1,574.20
Doanh thu
324
29
295
236
59
#Observes
- Trang 36 -
Các công ty niêm yết tại Việt Nam thường chi trả cổ tức hơn là không chi
trả cổ tức và đặc biệt chi trả cổ tức bằng tiền mặt, cụ thể theo số liệu thống kê
chỉ có 29 thông báo không chi trả cổ tức trên tổng mẫu là 324, chiếm 8.95%,
tương ứng, trong 295 thông báo chi trả cổ tức, có 236 thông báo chi trả cổ tức
chỉ bằng tiền mặt, còn lại 59 thông báo vừa chi trả cổ tức bằng cổ phiếu vừa chi
trả bằng tiền mặt.
Các công ty không chi trả cổ tức chủ yếu là do lợi nhuận âm, doanh thu ít.
Điều này có thể là do trong giai đoạn 2007 – 2009, khủng hoảng tài chính tài
chính toàn cầu đã ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh doanh và lợi nhuận của
các doanh nghiệp. Quan sát chi tiết hơn, các doanh nghiệp không chi trả cổ tức
chủ yếu trong năm 2008 – năm chịu sự ảnh hưởng lớn nhất của cuộc khủng
hoảng. Trong năm này thị trường chứng khoán đã rơi tự do từ đỉnh VN – Index
1.104 điểm ngày 10/10/2007 xuống 496 điểm ngày 25/03/2008 (giảm hơn
50%) và tiếp tục phá đáy 367 điểm ngày 11/06/2008 và 286 điểm ngày
09/12/2008.
Sử dụng phương pháp thống kê mô tả mẫu quan sát, ta nhận thấy:
Công ty trả cổ tức thường là những công ty trẻ hơn với Age thấp
(2.68<3.44), lợi nhuận nhiều hơn - ROA cao hơn (0.11>-0.01), đòn cân nợ thấp
hơn – tỷ số nợ / vốn DE thấp hơn (1.14<1.74), lượng tiền mặt nắm giữ cao hơn
–Cash/TA cao (0.11>0.10); cổ phần thuộc sở hữu nhà nước nhiều hơn – tỷ lệ
GV/TS cao hơn (0.23>0.15).
Các kết quả này đều phù hợp với các lý thuyết hiện tại (Aivazian và Booth,
2003) và các kết luận từ việc nghiên cứu thị trường Trung Quốc (Xi He et al. –
2009) cho rằng cũng như các nền kinh tế mới nổi khác, đặc điểm công ty đã
ảnh hưởng rất mạnh đến chính sách cổ tức. Đồng thời, phù hợp với kết quả
trước đó của Wei, Zhang và Xiao (2003) và Xi He et al.(2009), các doanh
nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước hoặc có tỷ lệ cổ phần của nhà nước tại thời
điểm công bố chính sách cổ tức nhiều hơn hoặc gồm cả 2 yếu tố này (GV/TS
lớn) thường chuộng chi cổ tức bằng tiền mặt hơn.
- Trang 37 -
Tuy nhiên, kết quả khảo sát liên quan đến chỉ tiêu tổng tài sản có điểm khác
biệt so với nghiên cứu tại Trung Quốc và các lý thuyết hiện có. Tổng tài sản
của các doanh nghiệp chi trả cổ tức thấp hơn các doanh nghiệp không chi trả cổ
tức; của các doanh nghiệp chi trả cổ tức bằng cổ phần cao hơn chi trả bằng tiền
mặt. Điều này khác so với lập luận cho rằng doanh nghiệp càng lớn (tổng tài
sản lớn) càng có nhiều khả năng tiếp cận với thị trường vốn, dễ dàng trong việc
huy động vốn tài trợ từ bên ngoài nên khả năng chi trả cổ tức bằng tiền mặt cao
hơn.
Điểm khác biệt này tại Việt Nam có thể được giải thích theo hướng: các
doanh nghiệp Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, nên cần đầu tư nhiều
vào tài sản tăng quy mô công ty, làm cho lượng tiền mặt ít đi, và khả năng chi
trả cổ tức của doanh nghiệp giảm tương ứng (giải thích cho chỉ số TA của các
doanh nghiệp không chi trả cổ tức cao hơn các doanh nghiệp chi trả). Ngoài ra,
một số trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải lên kế hoạch tăng
vốn điều lệ, tăng quy mô công ty để có thể trụ vững trên thị trường, tạo thế
cạnh tranh tốt với các đối thủ cùng ngành (chẳng hạn, nhà nước có quy định
các ngân hàng thương mại cổ phần đến hết 2010 phải tăng vốn điều lệ từ 3000
tỷ đồng trở lên). Đồng thời, để đáp ứng nhu cầu cần được chi trả cổ tức, một số
doanh nghiệp thuộc dạng trên chọn hình thức chi trả cổ tức bằng cổ phiếu để
một mặt tạo tâm lý được lợi cả về cổ tức cũng như lợi chênh lệch về giá cồ
phiếu để thu hút các nhà dầu tư; mặt khác huy động được thêm nguồn tài trợ
bên ngoài thông qua việc phát hành thêm cổ phần để doanh nghiệp có thêm
nguồn để tái đầu tư vào các dự án có khả năng sinh lợi (giải thích cho chỉ số
TA của các doanh nghiệp chi trả cổ tức cồ phần cao hơn các doanh nghiệp chi
trả tiền mặt).
Về xu hướng chi trả cổ tức cổ phần, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng
công ty lớn (TA cao, TA = 1,859.3 >1,256.3) và có tỷ lệ tăng trưởng cao (FA
growth cao, 1.08 > 0.61), lợi nhuận cao (ROA cao, 0.12>0.1), đòn cân nợ cao
(DE cao, 1.17 > 1.13), đầu tư nhiều hơn vào tài sản cố định (Cash/TA thấp,
- Trang 38 -
0.11<0.12), lợi nhuận giữ lại cao (RE cao, 165.67>92.13) thường chọn hình
thức chi trả cổ tức bằng cổ phần. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với lập luận
cho rằng các công ty có những đặc điểm trên chọn việc chi trả cổ tức cổ phần
như là việc thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư.
Để kiểm tra liệu các đặc điểm lựa chọn phân tích có xảy ra hiện tượng cộng
tuyến hay không, nghiên cứu tiếp tục xem xét sự tương quan giữa các biến độc
lập được sử dụng. Kết quả cho thấy rằng các biến không quan hệ chặt chẽ với
nhau ngoại trừ sự tương quan giữa ROA và DE.
Bảng 5: Hệ số tương quan các yếu tố tác động chính sách cổ tức
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Tỷ lệ
SH Nhà
Log(A
nợ/vốn
tiền/Tổ
tăng
Log(TA)
ROA
nước
ge)
chủ sở
ng TS
TSCĐ
hữu
1.0000
Log(TA)
0.0552
1.0000
ROA
Tỷ lệ
1.0000
nợ/vốn chủ
(0.2505)
(0.3562)
sở hữu
Tỷ lệ
0.1052
(0.1240)
1.0000
tiền/Tổng
0.2922
TS
Tỷ lệ tăng
(0.1248)
0.0298
0.0678
0.0980
1.0000
TSCĐ
SH Nhà
(0.0506)
0.0873
0.0799
0.0614
(0.1567)
1.0000
nước
0.0841
(0.0031)
0.0777
0.0339
0.0000
(0.0051)
1.0000
Log(Age)
Tuy nhiên, luận văn cũng có một số hạn chế, không ứng dụng khảo sát được
hết các yếu tố ảnh hưởng được tìm thấy tại thị trường Trung Quốc. Chẳng hạn
như: mức độ bảo vệ quyền lợi các cổ đông được thể hiện qua các chỉ số đo
lường mức độ tham nhũng trong công ty – ETC hay những áp lực của các cổ
đông buộc doanh nghiệp phân phối cổ tức bằng tiền mặt được quy định bởi các
- Trang 39 -
văn bản pháp luật. Nguyên nhân do Việt Nam chỉ mới bắt đầu tiếp cận với vấn
đề phòng chống tham nhũng, dù đã có một cuộc khảo sát về tình hình tham
nhũng được tiến hành vào cuối năm 2005 của Ban Nội chính trung ương. Cuôc
khảo sát này do Tổ chức Thụy Điển tài trợ, đây là nỗ lực đầu tiên được tiến
hành tại VN rất đáng ghi nhận, nhưng mới chỉ trong một phạm vi hẹp, chưa
đưa ra được một mô hình tính toán chỉ số đo lường, xếp hạng mức độ tham
nhũng. Hơn nữa, chỉ số đo lường mức độ tham nhũng trong nghiên cứu được
tính toán dựa trên chi phí liên quan đến việc tiếp khách, đối ngoại, những “chi
phí bôi trơn” trong việc sản xuất kinh doanh. Trong khi đó, những chi phí này
thuộc vấn đề nhạy cảm, không hề có một cơ sở dữ liệu nào thống kê tại Việt
Nam. Vì thế luận văn không có cơ sở thu thập dữ liệu phục vụ cho việc khảo
sát ảnh hưởng của các nhân tố này đối với chính sách cổ tức.
2.3.2. Đánh giá chính sách cổ tức của các doanh nghiệp tại Việt Nam:
Mặc dù luận văn chỉ khảo sát chính sách cổ tức trong khoảng thời gian
ngắn, đồng thời 2007 – 2009 là giai đoạn thị trường chứng khoán Việt Nam
chịu nhiều ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu; số liệu chưa thực
sự phản ánh hết được xu hướng của chính sách nhưng cũng đủ thấy rằng chính
sách cổ tức trong những năm vừa qua chưa thực sự chuyên nghiệp, chỉ chạy
theo thị trường nhằm thỏa mãn tâm lý nhà đầu tư ngắn hạn, duy trì vị thế về giá
cổ phiếu trên TTCK, chưa chú ý tới việc xây dựng một cấu trúc vốn hợp lý để
phát triển bền vững. Mặt khác lợi nhuận giữ lại sử dụng không đúng mục đích
gây thiệt hại cho nhà đầu tư khi kết quả kinh doanh của doanh nghiệp thua lỗ.
(cid:190)
Hoạch định chính sách cổ tức chạy theo sự biến động của thị
trường
Năm 2007, tâm lý của các nhà đầu tư Việt Nam là khi các DN chuẩn bị chia
cổ tức bằng cổ phiếu, giá cổ phiếu sẽ được đẩy lên rất cao. Thỏa mãn tâm lý
này, rất nhiều DN tăng vốn điều lệ bằng hình thức chia cổ tức bằng cổ phiếu
với tỷ lệ rất cao để đẩy giá cổ phiếu lên rất cao trước khi chia: DQC chia cổ tức
bằng cổ phiếu 100%, FPT 50%, HRC 80%, SJS 100%.., giá cổ phiếu của
- Trang 40 -
những công ty này bị đẩy lên rất cao, có lúc gấp 30-40 lần mệnh giá. Thực tế,
chia cổ tức bằng cổ phiếu không phải là mục đích cần vốn để tái đầu tư mà để
đẩy giá cổ phiếu lên cao trong lúc thị trường phát triển. Nguồn vốn lợi nhuận
giữ lại từ cổ tức cổ phiếu các DN không có dự án đầu tư nên sử dụng để đầu tư
vào lĩnh vực tài chính, không phải sở trường của mình. Khi thị trường chứng
khoán sụt giảm do khủng hoảng tài chính, kéo theo sự sụt giảm của DN thể
hiện hàng loạt các DN Blue chip có kết quả kinh doanh năm 2008 âm do trích
lập dự phòng tài chính do đầu tư tài chính. Điển hình là Công ty cổ phần cơ
điện lạnh REE: năm 2007 chia cổ tức bằng cổ phiếu với tỷ lệ 50%, năm 2008 tỷ
lệ 40%, phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ tạo ra nguồn thặng dư khổng lồ
1.315 tỷ đồng, công ty sử dụng nguồn này đầu tư sang lĩnh vực tài chính nên
dẫn đến kết quả kinh doanh năm 2008 lỗ 152 tỷ do trích lập dự phòng giảm giá
chứng khoán 467 tỷ đồng.
Khi thị trường sụt giảm vào cuối năm 2008, với hình thức chia cổ tức bằng
cổ phiếu vì sẽ bị loãng giá, nhà đầu tư lại thích hình thức chia cổ phiếu bằng
tiền mặt nhằm thu được tiền mặt trong thời kỳ TTCK sụt giảm, các DN lại trấn
an tâm lý nhà đầu tư bằng cách chuyển sang chia cổ tức bằng tiền mặt nhiều
hơn. Trong thời điểm này, đối với tất cả nhà đầu tư, tiền mặt là rất quý, nên
việc trả cổ tức cao sẽ tạo thuận lợi cho các cổ đông lớn có thêm nhiều cơ hội
đầu tư. Nhưng cũng phải nói thêm rằng, do sức ép về thanh toán cổ tức bằng
tiền mặt cho các cổ đông, một số doanh nghiệp cổ phần kinh doanh kém hiệu
quả, thua lỗ vẫn thanh toán cổ tức cho các cổ đông nhằm xoa dịu cổ đông và để
giữ vị trí quản lý của những người lãnh đạo. Hành động chia cổ tức như trên
thực chất là lấy vốn điều lệ chia cho cổ đông, trái Luật Doanh nghiệp nhưng
không bị xử lý. Hơn nữa, việc thanh toán cổ tức bằng tiền mặt này sẽ làm giảm
giá trị doanh nghiệp, giảm khả năng huy động vốn từ các cổ đông hiện hữu,
giảm tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp. Mặt khác, để cứu vãn giá chứng
khoán thì các DN này lại mua cổ phiếu làm cổ phiếu quỹ nhằm giảm bớt khối
lượng cổ phiếu lưu hành trên thị trường, bảo vệ giá chứng khoán.
- Trang 41 -
(cid:190)
Tỷ lệ chi trả cổ tức một số DN quá cao ảnh hưởng đến khả năng
tích lũy vốn cho đầu tư từ nguồn lợi nhuận giữ lại:
Các DN niêm yết Việt Nam là các DN đang phát triển, cần phải tích lũy vốn
để tăng trưởng thì lại thường có mức chia cổ tức tiền mặt cao hơn nhiều so với
các công ty niêm yết trên thế giới. Đối với một số nước có tốc độ phát triển
bình thường như Anh, Mỹ, Nhật, Đức, …mức lợi nhuận mà Công ty niêm yết
giữ lại không chia cổ tức chiếm khoảng 60-80%. Mức lợi nhuận giữ lại của các
công ty VN thường ở khoảng 40-50%. Nhiều DN thậm chí lợi nhuận bao nhiêu
đem chia hết cho cổ đông bấy nhiêu. Một số DN có tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần
lớn hơn 1, thậm chí gấp 2-4 lần, nhưng vẫn chi trả cổ tức cao như: PVD,
HDC,... Việc các DN chạy đua chia cổ tức bằng tiền mặt ở mức cao trong bối
cảnh hiện nay sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn phục vụ kinh doanh. Các công cố
tình đẩy cổ tức lên cao không chỉ làm đẹp lòng cổ đông cũng như tạo ra sự hấp
dẫn cho cổ phiếu của mình, mà còn là một hình thức trả cổ tức để chạy thuế.
Hơn nữa , trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế trong năm 2008, tình hình tài
chính doanh nghiệp gặp khó khăn, việc trả cổ tức đuợc xem như là một hình
thức rút vốn của các nhà đầu tư, một hình thức thu tiền bỏ chạy như trong lý
thuyết trò chơi của quản trị, lợi dụng vào tình hình thông tin bất cân xứng giữa
các nhóm cổ đông.
(cid:190)
Chính sách cổ tức chưa hướng tới việc xây dựng một cấu trúc
vốn tối ưu :
Việc sử dụng vốn hiệu quả và chính sách cổ tức hợp lý là điều kiện sống
còn cho sự phát triển của mỗi DN. Nếu DN kinh doanh có lãi thì phần lợi
nhuận sau thuế được chia làm 2 phần: trả cổ tức và đầu tư hoặc mở rộng sản
xuất. Một nghịch lý đối với DN Việt Nam là thỏa mãn cổ tức cao trong khi
thiếu vốn đầu tư, phải huy động bằng nguồn vốn tín dụng với chi phí cao hơn
và rủi ro hơn. Số liệu khảo sát cho thấy rất nhiều DN chỉ số nợ/vốn chủ sở hữu
(chỉ số D/E) rất cao nhưng vẫn thực hiện chia cổ tức ở mức cao.
- Trang 42 -
Phần lớn các DN không giữ lại lợi nhuận cao để tái đầu tư. Mà thực tế rất
khó xây dựng một chính sách cổ tức tối ưu mà phải tùy trường hợp cụ thể đề có
quyết định cụ thể. Câu hỏi đặt ra là mỗi phần chiếm tỷ lệ bao nhiêu, ưu tiên trả
cổ tức cho cổ đông hay dành nhiều hơn cho cơ hội đầu tư? Hầu như các DN
niêm yết VN giải quyết bài toán này chưa hướng tới được một phương án tối
ưu nhằm xây dựng một cấu trúc vốn hợp lý để phát triển bền vững.
Với một dự án đầu tư, nếu sử dụng lợi nhuận giữ lại và hạn chế trả cổ tức
thì sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư mà mối quan tâm hàng đầu là cổ tức, họ sẽ
bán cổ phần của mình đi, vô hình chung sẽ làm giảm giá trị cổ phiếu, điều này
sẽ mâu thuẫn với mục tiêu mà công ty theo đuổi là tối đa hóa giá trị cho cổ
đông. Mặt khác, việc bán cổ phiếu, giá cổ phiếu xuống doanh nghiệp sẽ đứng
trước nguy cơ thao túng mua. Nếu trả cổ tức cao và phát hành cổ phiếu mới để
huy động vốn thì sẽ tốn kém chi phí và quyền kiểm soát của cổ đông hiện hành
sẽ bị đe dọa. Như vậy, mỗi phương án đều có những điểm bất lợi riêng, nên
phải tùy trường hợp cụ thể để lựa chọn phương án mang lại hiệu quả cao nhất.
(cid:190)
Chính sách cổ tức bị bóp méo trước tác động của chính sách
thuế thu nhập:
Năm 2008, nhiều công ty chi trả cổ tức tiền mặt rất cao, có thể hiểu như một
hình thức chạy thuế trước thời điểm luật thuế thu nhập cá nhân được áp dụng.
Quyết định chia cổ tức tiền mặt ở mức cao như hiện nay có thể được coi là
phản ứng của doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông của mình.
Về phía các cổ đông, do thị trường chứng khoán đi xuống trong một thời gian
dài nên đa số đều hào hứng với việc sẽ nhận được một khoản tiền đáng kể từ cổ
tức tiền mặt. Cả công ty và nhà đầu tư chưa nhận thức được thuế là nghĩa vụ
của cá nhân và tổ chức khi thực hiện kinh doanh để nghiên cứu chính sách thuế
nhằm xây dựng một chính sách cổ tức trên cơ sở tối đa hóa giá trị lợi nhuận của
cổ đông và đảm bảo nguồn vốn phát triển bền vững công ty, mà chỉ nghĩ đến
lợi ích trước mắt là tránh được thuế. Mặc dù vậy, theo các chuyên gia, việc chia
cổ tức cao không đồng nghĩa với việc làm cho doanh nghiệp phát triển lớn
- Trang 43 -
mạnh và tăng giá trị cổ phiếu trong tương lai, điều mà cổ đông luôn kỳ vọng và
cũng là trách nhiệm tối cao của lãnh đạo DN. Nhưng đây chỉ là một phần rất
nhỏ trong tổng thể các công ty cổ phần. Hầu hết các công ty đều cân nhắc một
cách cẩn thận trong chính sách chi trả cổ tức, bởi nó không những phụ thuộc
vào mong muốn của các nhà đầu tư mà phụ thuộc vào mục đích cũng như chiến
lược phát triển của công ty trong tương lai.
(cid:190)
Sử dụng chính sách cổ tức như một công cụ để nâng cao thương
hiệu cổ phiếu trên TTCK:
Chính sách cổ tức của các công ty niêm yết là một yếu tố rất quan trọng
quyết định gía cổ phiếu, thương hiệu cổ phiếu trên thị trường. Các DN niêm yết
tìm mọi biện pháp xây dựng thương hiệu cho mình trên sàn giao dịch. Một
trong những biện pháp mà DN thực hiện tương đối có hiệu quả là chính sách cổ
tức. Chính sách cổ tức đã làm cho trên TTCK đã hình thành những thương hiệu
chứng khoán Blue – chip.
Đối với các công ty niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, mức cổ
tức là một trong những yếu tố quyết định mua bán của nhà đầu tư mới, đặc biệt
là các nhà đầu tư ngắn hạn, ngoài các đánh giá về tiềm năng tăng, giảm giá cổ
phiếu. Đối với những nhà đầu tư này, nắm giữ cổ phiếu trong khi chưa có cơ
hội bán ra để hưởng chênh lệch giá thì việc hưởng cổ tức hoàn toàn giống gửi
tiền tiết kiệm. Mức cổ tức càng cao thì nhà đầu tư càng có lợi. Một cổ phiếu có
mức cổ tức không cao thường bị thị trường đánh giá thấp và tính thanh khoản
kém.
Chính cách đánh giá này đã biến chính sách cổ tức ở không ít công ty trở
thành công cụ để đánh bóng hình ảnh. Trường hợp này thậm chí còn khá phổ
biến ở các công ty mới cổ phần hóa. Hội đồng quản trị ở các công ty này mong
muốn trả một mức cổ tức cao để tạo cảm giác hoạt động hiệu quả, tạo tâm lý an
toàn trong người lao động và cổ đông. Để có mức cổ tức cao, thậm chí công ty
phải chia hết cả lợi nhuận thu được và lợi nhuận tích lũy qua các năm. Mức cổ
tức cao đương nhiên cổ đông được hưởng lợi, nhưng còn tiềm năng phát triển
- Trang 44 -
dài hạn của công ty? Đối với một công ty nguồn vốn hạn hẹp thì cơ hội tăng
trưởng là rất thấp, thậm chí bị gánh nặng nợ nần. Hiện nay cũng chưa có tiền lệ
hay quy định nào xử lý các hội đồng quản trị sử dụng cổ tức như một cách thức
để xoa dịu cổ đông trong khi công ty kinh doanh kém hiệu quả.
Có lẽ đây là cách ứng xử thích hợp đối với tình trạng bất cân xứng của Thị
trường Việt nam cộng thêm việc TTCK còn non trẻ, các DN luôn dùng mọi
cách để có thể truyền đạt thông tin đến nhà đầu tư. Chính sách cổ tức là một
công cụ phát tín hiệu hay là công cụ đánh bóng hình ảnh DN. Chi phí trả cổ tức
được xem như một chi phí quảng cáo, Marketing…bởi vì những lợi ích mà nó
mang lại vô cùng to lớn: DN có nhiều khách hàng tiềm năng hơn, nhiều cổ
đông lớn, chuyên nghiệp sẽ đóng góp thúc đẩy vào việc nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh của DN. Mặt khác, việc thu hút sự quan tâm của các nhà đầu
tư sẽ làm giá cổ phiếu tăng lên, tạo điều kiện cho việc phát hành cổ phiếu mới.
Tóm lại, những vấn đề còn tồn tại trong chính sách cổ tức của các doanh
nghiệp niêm yết Việt Nam cho thấy thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn
non trẻ mặc dù đã hình thành được 10 năm. Thị trường chứng khoán tuy là
kênh đầu tư hấp dẫn bậc nhất bên cạnh các kênh đầu tư như ngoại tệ, vàng,…
nhưng để phát triển được toàn diện thị trường rất cần hành lang pháp lý vững
chắc, đồng thời bản thân những người tham gia thị trường phải có những hành
vi phù hợp. Các doanh nghiệp niêm yết tránh tình trạng thỏa mãn nhu cầu của
nhà đầu tư bằng tỷ lệ chi trả cổ tức quá cao mà không đảm bảo được các mục
tiêu: tối đa hóa giá trị tài sản các cổ đông, đủ nguồn lực để tái đầu tư, đảm bảo
khả năng thanh khoản. Các nhà đầu tư cũng cần có những nhận định phù hợp
về chính sách cổ tức một cách đúng đắn để từ đó có những chiến lược đầu tư
hợp lý. Về phía các cơ quan chức năng, cần có những biện pháp hành chính
liên quan đến chính sách cổ tức để bảo vệ quyền sở hữu của các cổ đông, đặc
biệt là các cổ đông thiểu số.
- Trang 45 -
PHẦN 3
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ TRONG VIỆC XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH
CỔ TỨC TỐI ƯU TRONG DOANH NGHIỆP
3.1. Giải pháp đối với doanh nghiệp: Cổ tức là một trong những chính sách quan trọng của bất cứ công ty cổ
phần đại chúng nào trên thế giới, không chỉ ở Việt Nam. Lãnh đạo doanh
nghiệp luôn cân nhắc thận trọng về chính sách này vì nó phải đáp ứng đồng
thời 3 mục tiêu: làm hài lòng các cổ đông qua việc trả cổ tức định kỳ, đảm
bảo luôn có tái đầu tư để phát triển doanh nghiệp, mức trả cổ tức phải ổn
định để dự phòng cho cả những năm kinh doanh không như mong đợi (vì
một khi đã trả cổ tức cao trong 1 hay vài năm trước, doanh nghiệp sẽ khó
thuyết phục cổ đông nếu năm sau hạ mức cổ tức xuống). Để thực hiện
được các mục tiêu trên, luận văn đề xuất một số giải pháp như sau:
3.1.1. Nghiên cứu đặc thù công ty khi xây dựng chính sách cổ tức:
Trước khi quyết định về chính sách cổ tức của mình, các công ty nên
phân tích các yếu tố sau:
(cid:190)
Cơ hội đầu tư trong tương lai: Cân nhắc tới cơ hội đầu tư trong
dài hạn khi quyết định tỷ lệ trả cổ tức sẽ giúp công ty có được sự chủ động
về tài chính và giảm các chi phí do việc phải huy động nguồn vốn bên
ngoài. Bản thân doanh nghiệp, hay nói cách khác là ban lãnh đạo doanh
nghiệp – hơn ai hết hiểu rõ những lợi thế và khó khăn của mình. Họ biết lúc
nào công ty cần vốn và cần giữ lại lợi nhuận để bổ sung cho nguồn vốn
của mình, cũng như lúc nào mới bắt đầu tăng thêm cổ tức cho cổ đông. Do
đó, nếu doanh nghiệp đang làm ăn tốt, thì nên giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư.
Bản thân cổ đông cũng sẽ được hưởng lợi ích cho dù không nhận cổ tức, vì
khoản lợi nhuận giữ lại đó sẽ góp phần làm gia tăng các giá trị nội tại của
doanh nghiệp, và từ đó sẽ làm tăng giá cổ phiếu trong tương lai. Một công ty
đang có tốc độ tăng trưởng cao với nhiều dự án hấp dẫn nên trả mức cổ
tức thấp hơn một công ty không có nhiều cơ hội đầu tư.
- Trang 46 -
(cid:190)
Rủi ro kinh doanh: Việc cắt giảm cổ tức thường gây tác động tiêu
cực lên giá cổ phiếu, các công ty phải đưa ra một mức cổ tức mà họ có thể
duy trì trong tương lai. Vì thế một công ty với thu nhập không ổn định hoặc
theo chu kỳ nên đặt một tỷ lệ trả cổ tức thấp để tránh những phiền phức khi
phải cắt giảm cổ tức.
(cid:190)
Yêu cầu của cổ đông của công ty: Chính sách cổ tức cần phù hợp
với yêu cầu của cổ đông. Nếu cổ đông công ty là các cá nhân có mức thuế thu
nhập cao và mong muốn được nhận lãi vốn thì việc trả cổ tức cao sẽ không có
ý nghĩa đối với họ.
(cid:190)
Tính thanh khoản và khả năng tiếp cận nguồn vốn của công ty:
Khối lượng tài sản có tính thanh khoản cao và khả năng huy động vốn trên
thị trường tài chính cũng là các yếu tố quyết định mức chi trả cổ tức của
công ty. Một công ty có tốc độ tăng trưởng nhanh với thu nhập cao có thể
không muốn trả mức cổ tức cao nếu phần lớn vốn của công ty được đầu tư
vào các tài sản cố định và các tài sản lưu động có tính thanh khoản thấp như
hàng tồn kho và tài khoản phải thu. Khả năng huy động vốn trên thị trường
càng thấp thì càng khiến công ty muốn giữ lại thu nhập để tái đầu tư thay vì
trả cổ tức cho cổ đông.
(cid:190)
Khả năng mất quyền kiểm soát công ty: Nếu các nhà quản lý
công ty e ngại về khả năng mất quyền kiểm soát công ty thì họ sẽ rất ngại
phát hành thêm cổ phiếu mới. Trong trường hợp này thì giữ lại thu nhập để
phục vụ nhu cầu đầu tư, và do đó duy trì mức cổ tức thấp, là chính sách hợp
lý, đặc biệt là khi tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần của công ty đã ở mức tối đa cho
phép.
Chính sách cổ tức công ty phải gắn liền với những chiến lược đầu tư cụ
thể của công ty trong tương lai. Mỗi công ty khác nhau sẽ có những đặc
điểm riêng, hoạt động trong những lĩnh vực kinh doanh và chịu tác động
bởi những nhân tố khác nhau. Trong từng hoàn cảnh, điều kiện kinh doanh
cụ thể, các công ty có chiến lược và quan điểm kinh doanh riêng. Vì vậy
- Trang 47 -
không thể xây dựng chính sách cổ tức chuẩn mực chung cho tất cả các công
ty trong mọi thời điểm. Mà cần xây dựng chính sách cổ tức cho từng công ty
trong từng giai đoạn phát triển và trong từng hoàn cảnh cụ thể. Nhưng nhìn
chung chính sách cổ tức của các công ty tại Việt Nam cần phải chú ý những
vấn đề sau:
Công ty nên theo đuổi một chính sách cổ tức an toàn, đảm bảo sự ổn
định, ngay cả trong trường hợp lợi nhuận hoạt động giảm.
Một chính sách cổ tức an toàn không đồng nghĩa với một chính sách cổ
tức thấp. Chính sách cổ tức thấp đồng nghĩa với việc tăng tỉ lệ lợi nhuận giữ
lại. Nếu tiền mặt tích lũy từ lợi nhuận giữ lại quá lớn thì khiến cho nhà đầu tư
suy diễn là công ty bế tắc trong sự tăng trưởng và công ty lãng phí do giữ
tiền mặt quá nhiều ảnh hưởng không tốt lên giá trị cổ phiếu của công ty.
Một chính sách cổ tức an toàn là một chính sách cổ tức có tỷ lệ chia cổ
tức hợp lý sao cho vừa thoả mãn được nhu cầu có một nguồn thu nhập ổn
định, nhất quán của cổ đông vừa đảm bảo một tỷ lệ lợi nhuận giữ lại đủ để
tài trợ cho những nhu cầu đầu tư bình thường nhằm duy trì sự tăng trưởng
bền vững của công ty.
Chính sách cổ tức không nên thay đổi thường xuyên, cần tập trung vào
những vấn đề mà những cổ đông lớn hiện tại quan tâm và hướng tới các nhóm
nhà đầu tư tiềm năng luôn sẵn sàng đầu tư vào công ty.
Đối với tổ chức phát hành có độ biến động lớn, có thể áp dụng phương
thức duy trì mức cổ tức thấp, đồng thời chi trả những khoản cổ tức phụ trội
vào các thời điểm hợp lý và khi thu nhập cho phép nhằm bảo đảm việc chi trả
cổ tức luôn thực hiện đối với nhà đầu tư.
Công ty nên có lộ trình thay đổi chính sách cổ tức trong mối quan hệ
với đặc thù công ty.
Sự thay đổi chính sách cổ tức của công ty có thể được các nhà đầu tư suy
diễn như là một thông điệp mà ban quản trị muốn gởi đến cho các nhà đầu tư
về sự phồn vinh của công ty trong tương lai hoặc thể hiện một sự khó khăn về
- Trang 48 -
tài chính trong từng giai đoạn nhất định. Ở những nước thị trường chứng
khoán mới phát triển như Việt Nam, do thông tin bất cân xứng nên nhà đầu tư
thường dựa vào mức chi trả cổ tức như là “tín hiệu” cho thấy triển vọng của
công ty trong tương lai. Công ty trả cổ tức cao thường được nhà đầu tư suy
diễn đồng nghĩa với triển vọng tốt và ngược lại. Do vậy, ở những nước này
chính sách cổ tức càng có tác động đến giá trị cổ phiếu. Những cổ đông quan
tâm đến dòng thu nhập tương lai ổn định và đáng tin cậy từ cổ tức sẽ rất quan
tâm đến sự thay đổi chính sách cổ tức đột ngột của công ty, đặc biệt là khi cổ
tức bị cắt giảm với lý do là dùng lợi nhuận giữ lại để đầu tư vào một dự án
mới tạo giá trị gia tăng cho công ty trong tương lai. Nếu công ty không thể
huy động đủ vốn từ nguồn tài trợ bên ngoài mà buộc phải cắt giảm cổ tức, thì
công ty cần phải cung cấp thông tin đầy đủ và giải thích một cách rõ ràng cho
các nhà đầu tư biết về chương trình đầu tư sắp tới cũng như nhu cầu tài chính
cần thiết để tài trợ cho dự án đó, để tối thiểu hoá những hậu quả gây ra từ một
sự cắt giảm cổ tức đột ngột như thế.
Công ty niêm yết cần phối hợp với cơ quan quản lý tuyên truyền phổ
biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng như những
lợi ích thiết thực mà công ty sẽ mang lại cho cổ đông khi công ty đưa ra
chính sách cổ tức tăng cường nguồn vốn tích lũy, đầu tư mở rộng sản xuất
kinh doanh, tạo sự phát triển trong tương lai.
Công ty có thể mua lại cổ phiếu của chính mình hay của các công ty có
khả năng phát triển khác nếu chưa dùng vốn để đầu tư. Điều này giúp
công ty giảm sự phân tán cổ phiếu lưu hành, mang lại lợi nhuận từ thặng dư
vốn cổ đông, tăng thu nhập trên mỗi cổ phiếu và tăng giá cổ phiếu.
Hoạt động mua bán cổ phiếu quỹ là một trong những công cụ hiệu quả
và nhanh chóng giúp các công ty niêm yết điều hoà vốn cổ phần, tạo khoản
thu nhập chênh lệch giá (thặng dư vốn) là nguồn để công ty có thể linh hoạt
thay đổi tỷ lệ chi trả cổ tức mà không tác động lớn đến các nhà đầu tư.
Triển khai các chương trình ưu đãi cổ phần cho nhân viên để khuyến
- Trang 49 -
khích công nhân viên làm việc và gắn bó lâu dài công ty, đặc biệt là các vị
trí chủ chốt trong công ty.
3.1.2 Xây dựng chính sách cổ tức dưới tác động của thị trường không
hoàn hảo:
Không hoàn hảo có thể kể đến là: thuế, chi phí phát hành, chi phí giao dịch,
bất cân xứng thông tin và tâm lý của nhà đầu tư, ... các yếu tố này làm cho
chính sách cổ tức có tác động đến giá trị của công ty. Như vậy khi xây dựng
chính sách cổ tức, công ty phải xây dựng trong sự tác động của chúng sao cho
giá trị của công ty tăng lên.
(cid:190)
Thuế:
Các quy định về thuế thu nhập hiện nay, đặc biệt Luật thuế thu nhập cá
nhân có hiệu lực từ ngày 01/01/2009 có tác động mạnh đến chính sách cổ tức
của doanh nghiệp, luật quy định cổ tức nhận được bằng cổ phiếu phải quy đổi
ra tiền theo giá thị trường của cổ phiếu tại thời điểm cổ đông nhận chi trả, nếu
cổ đông không thực hiện bán cổ phiếu nhận được mà giữ lại thì việc chi trả cổ
tức bằng cổ phiếu sẽ làm giảm lợi ích của cổ đông, cụ thể cổ đông phải nộp
thuế thu nhập cá nhân (20%) cao gấp 5 lần so với chi trả cổ tức bằng tiền mặt
(5%). Tác động của thuế phức tạp đồng thời chính sách thuế lại hay thay đổi,
vì vậy các nhà quản trị cần đứng ở nhiều góc độ khác nhau (góc độ của nhà
đầu tư, cổ đông, doanh nghiệp,…) để có chính sách cổ tức phù hợp.
Nên chi trả hay giữ lại lợi nhuận?
Trả lời cho câu hỏi này trước hết phải xem xét đến nhu cầu vốn của
công ty trong kỳ kế hoạch. Theo lý thuyết trật tự phân hạng thì lợi nhuận
giữ lại luôn được ưu tiên hàng đầu do tính sẵn có và chi phí rẻ nhất, mức độ
rủi ro thấp. Nếu như công ty có dự án mới hoặc trong kế hoạch kỳ tới có
những khoản chi vượt trội thì việc nhắm đến khoản lợi nhuận này phải được
các giám đốc tài chính đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, chính sách cổ tức của
công ty không đơn giản như thế, nó còn có hàm ý thông tin. Một công ty nếu
không chi trả, hoặc không có mức chi trả cố định hay không theo đuổi một
- Trang 50 -
chính sách cổ tức nhất quán có thể gây tác động đến các nhà đầu tư về triển
vọng và khả năng sinh lời của công ty. Ngoài ra, việc chi trả cổ tức còn đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của nhà đầu tư.
Dưới tác động của thuế thu nhập đối với thu nhập từ chứng khoán, ta thấy
nếu công ty không chi trả cổ tức, nhưng nhà đầu tư thực sự cần tiền mặt, họ sẽ
bán cổ phần để nhận được lượng tiền mà mình mong muốn. Trong trường
hợp này, nhà đầu tư phải chịu thiệt thòi vì lượng thuế phải nộp cho khoản lãi
vốn sẽ cao hơn so với khi nộp thuế cho cùng mức cổ tức tiền mặt. Trong
trường hợp công ty không chi trả cổ tức mà giữ lại để bổ sung vào nguồn
vốn hoạt động thì trên góc độ thuế, quyết định này có hợp lý hay còn không
tùy thuộc vào khả năng sinh lợi của công ty và phương pháp tính thuế đối với
lãi vốn mà nhà đầu tư chọn lựa.
Tóm lại, việc ưu tiên chọn chi trả cổ tức hay giữ lại lợi nhuận tùy thuộc
vào nhiều yếu tố như nhu cầu vốn của công ty trong năm tới, đòi hỏi tiền mặt
của cổ đông, chính sách cổ, tức mà công ty đang theo đuổi. Tuy nhiên, nếu
đứng dưới góc độ tìm phương cách nào để được lợi nhất về thuế, thiết nghĩ
công ty nên chi trả cổ tức nếu công ty có mức sinh lời cao hơn 10%. Còn
nhà đầu tư thì nên chọn phương pháp tính lãi vốn là 0,1% trên giá lúc chuyển
nhượng.
Nếu chi trả thì nên chọn chi trả theo phương thức nào?
Hiện tại có hai phương thức chi trả cổ tức phổ biến là chi trả bằng tiền
mặt và chi trả bằng cổ phiếu (thường gọi là cổ phiếu thưởng). Việc chi trả
bằng cổ phiếu có đặc điểm là tiền mặt không đi khỏi công ty mà về bản
chất vẫn được bổ sung vào nguồn vốn hoạt động. Số tiền này được chuyển
thành cổ phiếu nắm giữ cho công ty. Một cách hoàn hảo, nghĩa là tất cả các
nhà đầu tư đều nhận số cổ phiếu này và không chuyển nhượng cho ai, thì
sau khi chi trả cổ tức bằng cổ phiếu, tỷ lệ nắm giữ công ty của các cổ đông
không thay đổi. Sự khác biệt của phương thức chi trả này so với giữ lại lợi
nhuận không chi trả là số cổ phiếu được tăng lên và giá cổ phiếu được tính
- Trang 51 -
khi chi trả bằng mệnh giá, do đó sẽ gây ra loãng giá nếu cổ phiếu công ty
đang có giá cao hơn mệnh giá.
Phương pháp chi trả cổ tức bằng cổ phiếu kết hợp với việc lựa chọn
phương pháp tính thuế 0,1% trên giá chuyển nhượng có thể tối thiểu hóa
mức thuế phải nộp, tạo lợi ích cao nhất cho nhà đầu tư. Phương pháp này còn
có một lợi điểm rất thiết thực là góp phần gia tăng nguồn vốn hoạt động
cho công ty và tính thanh khoản cho cổ phiếu.
(cid:190)
Vấn đề thông tin, chi phí đại diện:
Tình hình công bố và tiếp cận thông tin hiện nay còn nhiều hạn chế,
niềm tin của các nhà đầu tư đối với công ty niêm yết chưa được xây dựng
và củng cố có thể cho thấy sự bất cân xứng thông tin rất lớn giữa các nhà
đầu tư và ban quản lý. Và chi phí đại diện đối với các công ty niêm yết Việt
Nam hiện nay là rất cao. Để tạo niềm tin cho cổ đông và giảm chi phí đại
diện thì cổ tức bằng tiền mặt là phương tiện hữu hiệu nhất.
(cid:190)
Chi phí phát hành cổ phiếu mới:
Việc phát hành cổ phiếu để huy động vốn thông qua thị trường chứng
khoán hiện nay ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Các thủ tục, qui định làm
mất nhiều thời gian, công sức của các tổ chức phát hành chứng khoán mới.
Do đó, nếu công ty niêm yết cần vốn chủ sở hữu để tài trợ cho các đầu tư
mới của mình thì sử dụng lợi nhuận giữ lại hơn là phát hành cổ phần mới.
Trong trường hợp này, chính sách không chi trả cổ tức hoặc trả cổ tức ở mức
thấp sẽ được ưu tiên lựa chọn.
Trong ngắn hạn chính sách cổ tức nên áp dụng như sau:
+ Mức cổ tức ban đầu phải được cân nhắc kỹ lưỡng.
+ Tỷ lệ chi trả cổ tức có thể thay đổi nếu cần thiết.
+ Tránh việc giảm cổ tức tiền mặt định kỳ.
+ Chỉ tăng cổ tức khi chắc chắn rằng khoản tăng này có thể duy trì tiếp
tục trong tương lai.
Trong dài hạn thì nên xây dựng theo hướng cổ tức là lợi nhuận còn lại
- Trang 52 -
nhưng mục tiêu ổn định cổ tức phải được ưu tiên hơn. Đối với các công ty
trong giai đoạn phát triển, nếu cần có thể phát hành cổ phiếu mới để huy
động vốn nhằm duy trì cổ tức ổn định.
3.1.3. Đề cao vai trò của nhà quản trị tài chính doanh nghiệp:
Các công ty niêm yết chủ yếu là cổ phần hóa từ các DNNN, đội ngũ quản
lý được đào tạo từ thời bao cấp, các kiến thức về quản lý tài chính đến nay
không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường, nền kinh tế đã hội nhập với
kinh tế thế giới. Việc tiếp cận các lý thuyết tài chính hiện đại để ứng dụng
nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp là cần thiết với đội ngũ các nhà
quản trị hiện nay (xem thêm phụ lục 02 – khảo sát các quan điểm về chính
sách cổ tức của các nhà quản trị Châu Âu và Mỹ)
Kinh doanh trong môi trường đầy biến động và thách thức (nhất là khi
Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới), các nhà quản
lý về tài chính không chỉ cần phải nắm vững các kiến thức cơ bản về quản lý
tài chính mà còn cần phải có khả năng vận dụng linh hoạt các kiến thức đó
nhằm đưa ra các quyết định tài chính sáng suốt và hiệu quả.
Theo như các nghiên cứu được công bố gần đây, các doanh nghiệp
niêm yết, tư nhân và quốc doanh ở Việt Nam đều thừa nhận rằng trong
hoàn cảnh kinh doanh hội nhập như hiện nay, bộ phận tài chính của mình
cần có những cải tiến lớn, trong một số công tác như dự báo, lên kế hoạch,
lập ngân sách và quan hệ khách hàng. Sự bất ổn định kinh tế hiện nay khiến
nhu cầu có thông tin chính xác và kịp thời tăng lên, khuyến khích các doanh
nghiệp Việt Nam thực hiện yêu cầu về năng lực dự báo và xây dựng kịch
bản cao hơn.
Sự thiếu thốn nhân tài là vấn đề nan giải cho bất kỳ doanh nghiệp nào
dự định cải thiện bộ phận Tài chính. Sự khó khăn trong việc tìm kiếm và
giữ chân các chuyên gia tài chính có năng lực chuyên môn cao là rào cản lớn
nhất để thay đổi bộ phận tài chính.
Vì vậy, việc nâng cao năng lực của các nhà quản trị tài chính có thể thực
- Trang 53 -
hiện bằng cách thiết lập năng lực tài chính nội bộ như đào tạo, tuyển dụng
với mức lương hấp dẫn hoặc có thể thuê các công ty dịch vụ chuyên nghiệp
để đảm bảo đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn
3.2. Giải pháp hỗ trợ của nhà nước để phát triển thị trường chứng
khoán ổn định và bền vững:
Sự phát triển ổn định và bền vững của thị trường chứng khoán Việt
Nam đang là một trong những vấn đề đại sự trong chiến lược vốn của Việt
Nam từ nay đến năm 2010 và 2020. Việt Nam đã là thành viên của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO). Phát triển thị trường chứng khoán không
chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị và cả về kinh tế bởi vì Việt Nam hiện đang
phát triển rất nhanh, cần rất nhiều vốn để phát triển kinh tế. Vì vậy, chứng
khoán trở thành một kênh huy động vốn quan trọng. Thông qua thị trường
chứng khoán, các doanh nghiệp có thể tìm được nguồn vốn mới cho sự phát
triển của mình. Trong thời gian qua, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cũng
đã nhiều lần chỉ đạo và nhấn mạnh là thị trường chứng khoán cần phải phát
triển một cách ổn định, bền vững và hiệu quả. Để TTCK phát triển ổn định,
bền vững, Chính phủ cần:
(cid:190)
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, thực hiện các cam kết WTO một
cách nghiêm túc, hoàn thiện thể chế thị trường tài chính nói chung và
TTCK nói riêng, tổ chức và điều hành TTCK theo đúng chuẩn mực quốc tế,
đảm bảo tính minh bạch công khai trong các hoạt động của thị trường và có
thể kiểm soát được thị trường.
(cid:190)
Tăng cường năng lực quản lý nhà nước bảo đảm sự quản lý linh
hoạt, nhạy bén đối với thị trường chứng khoán. Nhà nước thực hiện điều
chỉnh, điều tiết thị trường thông qua các chính sách, công cụ kinh tế tài chính
- tiền tệ như chính sách thuế, lãi suất, đầu tư và các công cụ tài chính khác.
(cid:190)
Kiểm soát khủng hoảng thông qua quản lý các tài khoản vốn, giám
sát chặt chẽ các tổ chức tài chính và ngân hàng, tăng cường hợp tác quốc tế
để tránh những bất ổn cho thị trường tài chính nói chung cũng như TTCK,
- Trang 54 -
điển hình như cú sốc tài chính năm 2007-2008.
(cid:190)
Phối hợp giữa công tác giám sát và công tác thanh tra, kiểm tra
việc tuân thủ pháp luật của các thành viên thị trường và áp dụng nghiêm các
chế tài dân sự, hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán
và thị trường chứng khoán. Đối với công ty cổ phần tham gia TTCK, cần có
biện pháp chế tài để các công ty cung cấp thông tin minh bạch cho thị
trường, áp dụng các chuẩn mực quốc tế tốt nhất cho quản trị doanh nghiệp.
Mặt khác nhà nước cần bán bớt cổ phần của nhà nước trong các công ty cổ
phần nhằm tăng hàng hóa cho thị trường, đồng thời thực hiện chức năng chi
phối thị trường với tiềm lực đủ mạnh.
Để xây dựng một thị trường chứng khoán minh bạch và bền vững, điều
quan trọng là phải tạo dựng được niềm tin của các nhà đầu tư, nâng cao việc
tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán cho các nhà đầu tư.
Từ những bất cập trong chính sách chi trả cổ tức của các doanh nghiệp tại
Việt Nam, lụân văn đã đưa ra một số gợi ý đối với doanh nghiệp trong việc
lựa chọn chính sách phân phối như thế nào cho phù hợp nhất. . Tuy nhiên do
hạn chế về thời gian cũng như thị trường Việt Nam chưa có một cơ sở dữ liệu
nào thống kê đầy đủ để nghiên cứu có thể khảo sát được hết tác động của thuế,
mức độ bảo vệ lợi ích cổ đông, lạm phát,…đối với chính sách cổ tức của các
doanh nghiệp. Vì vậy, nghiên cứu các tác động của nhóm các yếu tố nói trên
hay lựa chọn một yếu tố cụ thể và nghiên cứu sâu tác động của nó đối với
chính sách cổ tức tại Việt Nam sẽ là một hướng đi tiếp theo của đề tài này.
Tóm lại, dù còn nhiều hạn chế, luận văn cũng phần nào tổng kết lại được
những kiến thức về chính sách cổ tức đã và đang được tiến hành nghiên cứu
không chỉ tại Việt Nam mà ở khắp các thị trường chứng khoán các quốc gia
không phân biệt phát triển hay đang phát triển. Trên cơ sở đó, những số liệu
thống kê đã phản ánh rất rõ xu hướng chi trả cổ tức tại Việt Nam, đó là tiền đề,
cơ sở khoa học cho những quyết định của nhà quản trị trong việc đưa ra quyết
định tài chính của mình nhằm đem đến những lợi ích tốt nhất, cao nhất cho cổ
- Trang 55 -
đông của mình, đặc biệt là những nhà đầu tư trung dài hạn, những người mà
lợi ích của họ luôn gắn bó với sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp.
- Trang 56 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHỦ YẾU
Tiếng Việt:
1. GS.TS Trần Ngọc Thơ (2005), Tài chính doanh nghiệp hiện đại, NXB
Thống kê.
Tiếng Anh:
1. Xi He, Mingsheng Li, Jing Shi and Garry Twite, The Australian National
University (2009) – Determinants of Dividend Policy in Chinese Firms: Cash
versus Stock Dividends.
2. Asst. Prof. Dr. Cahit Adaoglu, Department of Banking and Finance,
Eastern Mediterranean University, Gazimagusa (2000) - Regulation influence
on the dividend policy of the Istanbul Stock Exchange (ISE) corporations.
3. Hafeez Ahmed and Attiya Javid, Pakistan Institute of Development
Economics, ISSN 1450-2887 Issue 25 (2009), EuroJournals Publishing, Inc. -
Dynamics and Determinants of Dividend Policy in Pakistan (Evidence from
Karachi Stock Exchange Non-Financial Listed Firms)
4. Kee S. Kim, Ph.D. Professor of Finance (2009) - Examining the Behavior
of Corporate Dividend Payment using an Artificial Intelligence Technique
5.
Seppo Kinkki, Ph.D, Helsinki School of Economics (2007) Blackwell
Publishing Ltd - Minority Shareholder Protection Can Impact Dividend Policy.
6.
“Ten characteristics of Chinese stock market” - China Investment Journal
PHỤ LỤC 01: CỔ TỨC CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT SÀN HOSE GIAI ĐOẠN 2007 - 2009
11,339,635
11,000,000
0.00%
3.65% 96.35% 33%
0%
35% 0%
30% 0%
Cổ tức Tổng tài sản Tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu SH Khác Mã Ngày niêm yết KL Niêm yết SH Nhà nước SH Nước ngoài 2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 TM CP 2008 TM CP 0.00% 17.68% 82.32% 30% 20% 40% 0% 2009 TM CP 20% 20% ABT 12/06/2006 417 407 531 44% 12% 23%
12,859,288
8.19%
4.78% 87.03% 12% 20% 10% 0%
10% 0%
07/12/2007
43,820,394
0.00%
5.86% 94.14%
0%
30%
6%
6%
6%
6%
66,000,000
0.00%
6.30% 93.70% 18%
18% 0%
5%
0%
0%
15,420,782
0.00% 49.00% 51.00%
10% 0%
16% 0%
6%
8%
21/11/2006
18,531,620 11.25% 5.39% 83.36%
10%
0%
0%
25% 0%
8%
ACL 23/08/2007 216 373 614 66% 171% 246% AGF 26/04/2002 845 1,352 1,210 36% 114% 93% ALP 749 966 1,196 19% 35% 71% ANV 28/11/2007 2,265 2,677 2,146 27% 65% 51% BBC 17/12/2001
8,261,820 24.29% 13.47% 62.24% 25% 40% 35% 0%
30% 0%
34,126,112 30.65% 46.98% 22.37% 10% 20% 20% 0%
15% 0%
12/04/2002
10,997,850 28.15% 45.75% 26.10%
8%
10% 15% 0%
18% 0%
24/02/2006
75,081,000
0.00% 35.71% 64.29% 14%
0%
18% 0%
10% 0%
13,103,830 51.00% 4.62% 44.38% 12% 30% 25% 0%
20% 0%
9,536,505 13.50% 0.62% 85.88%
15% 0%
11% 9%
6%
9%
1,990,530
0.00% 20.47% 79.53%
0%
0%
0%
0%
0%
0%
10,300,000
5.53%
7.95% 86.52% 10%
12% 0%
6%
0%
0%
27,223,647 12.50% 4.12% 83.38% 15%
15% 0%
15% 0%
0%
10,099,670 20.50% 36.57% 42.93% 20%
20% 0%
30% 0%
0%
26,662,962 44.28% 46.14% 9.58%
25%
25% 0%
30% 0%
0%
12,500,000 22.50% 3.76% 73.74% 19%
10% 15% 15% 0%
0%
BHS 380 667 629 599 738 889 83% 75% 27% 40% 81% 107% BMC 12/12/2006 94 132 154 23% 7% 26% BMP 12/06/2006 492 565 824 17% 16% 22% BT6 707 643 671 125% 100% 66% CII 1,692 2,027 2,505 119% 144% 106% CLC 18/10/2006 350 371 470 152% 134% 144% COM 12/05/2006 333 330 470 17% 13% 35% CYC 21/06/2006 279 334 352 150% 159% 183% DCC 25/11/2007 361 362 365 70% 89% 82% DCT 21/09/2006 374 348 710 22% 17% 120% DHA 12/04/2004 237 305 346 14% 8% 9% DHG 01/12/2006 943 1,133 1,531 45% 50% 48% DIC 22/11/2006 193 340 410 217% 236% 224%
17,809,336 38.61% 37.78% 23.61% 18% 10% 20% 30% 20% 0%
30,769,248 50.50% 13.95% 35.55% 30% 41% 19% 18% 15% 100%
8,151,820 18.85% 0.41% 80.74%
10% 0%
0% 26%
7%
0%
15,000,000 32.83% 0.11% 67.06%
0%
0%
8%
5%
0%
0%
8,000,000 17.47% 6.48% 76.05% 18%
12% 0%
0%
0%
0%
21/11/2006 192,206,764
7.30% 41.29% 51.41% 36%
26% 0%
25% 30%
0%
28/12/2001
12,774,588
4.36% 22.30% 73.34% 16%
25% 0%
20% 25%
0%
8,868,571 10.01% 9.44% 80.55% 15%
15% 0%
22% 0%
6%
47,772,281
5.89% 32.84% 61.27% 15%
0%
0%
15% 0%
0%
10,400,000 11.97% 0.64% 87.39% 13%
6%
0%
7%
0%
0%
18,651,678
0.00% 22.56% 77.44%
0%
0% 10%
0%
0%
15%
8,000,000 28.37% 16.15% 55.48% 15%
15% 30% 10% 0%
0%
8,055,846 30.45% 19.80% 49.75% 15% 12% 16% 0%
14% 0%
15,119,540
0.00%
7.51% 92.49%
0%
12%
0%
0%
12% 10%
15,475,730 14.97% 13.23% 71.80% 18%
19% 0%
10% 10%
0%
Cổ tức Tổng tài sản Tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu SH Khác Mã Ngày niêm yết KL Niêm yết SH Nhà nước SH Nước ngoài 2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 TM CP 2008 TM CP 2009 TM CP DMC 12/04/2006 591 609 709 29% 28% 38% DRC 28/11/2006 584 609 782 180% 189% 42% DTT 06/12/2006 108 105 125 7% 5% 9% FBT 27/12/2007 623 775 585 279% 116% 149% FMC 20/10/2006 383 334 623 135% 118% 306% FPT 5,346 6,146 10,645 155% 130% 224% GIL 384 375 440 15% 19% 29% GMC 06/12/2006 182 185 211 67% 65% 73% GMD 08/03/2002 3,150 3,502 4,573 38% 73% 78% GTA 04/07/2007 200 193 219 87% 24% 40% HAP 02/08/2000 726 786 735 41% 82% 59% HAS 18/12/2002 298 285 271 94% 79% 73% HAX 13/12/2006 89 176 234 207% 71% 103% HBC 22/11/2006
21,000,000 55.67% 0.27% 44.06% 12%
16% 0%
11% 0%
0%
0.00%
0.00% 100.00% 10% 30% 30% 0%
10% 50%
17,260,976 55.00% 10.04% 34.96% 30%
30% 0%
20% 0%
0%
12/12/2007
10,000,000
9.44%
3.87% 86.69% 11%
15% 0%
12% 0%
0%
31/10/2007 198,000,000 65.00% 4.93% 30.07%
7%
6%
0%
10% 0%
0%
10,080,000 50.08% 1.05% 48.87% 12%
6%
0%
12% 0%
0%
982 623 1,226 565 1,362 774 76% 104% 125% 347% 330% 276% HDC 25/09/2007 HMC 28/11/2006 460 821 924 136% 185% 203% HPG 31/10/2007 294,545,994 4,685 5,614 10,247 46% 31% 104% HRC 22/11/2006 408 388 437 20% 20% 19% HIS 599 864 760 342% 607% 450% HT1
HTV 07/12/2005 2,366 206 5,647 192 7,285 218 146% 488% 524% 9% 6% 5%
11/12/2007
12,807,000
0.00%
2.05% 97.95% 14%
10% 0%
15% 0%
0%
29/09/2006
6,875,359
0.00% 46.04% 53.96% 16%
0%
0%
0%
0%
0%
15/11/2006
11,659,820 26.04% 42.83% 31.13% 20%
20% 0%
20% 0%
0%
0.00% 27.27% 72.73%
0%
30%
0% 14%
0% 25%
0.00% 32.00% 68.00% 18%
18% 0%
24% 0%
0%
14,120,309 21.90% 5.57% 72.53% 10%
20% 0%
20% 0%
8%
41,551,296 47.82% 2.61% 49.57% 12%
10% 20% 11% 0%
0%
7%
11/12/2007
9,000,000 51.00% 0.12% 48.88%
13% 0%
15% 0%
0%
Cổ tức Tổng tài sản Tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu SH Khác Mã Ngày niêm yết KL Niêm yết SH Nhà nước SH Nước ngoài 2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 TM CP 2008 TM CP 2009 TM CP ICF 332 413 373 131% 142% 94% IFS 870 1,239 758 115% 624% 429% IMP 568 597 733 14% 15% 34% ITA 11/01/2006 341,275,565 4,687 6,314 8,036 41% 37% 58% KDC 18/11/2005 101,276,588 3,064 3,168 4,250 24% 36% 73% KHA 14/08/2002 358 349 383 52% 51% 33% KHP 08/12/2006 476 797 852 122% 242% 229%
7%
11/12/2000
8,118,384 23.74% 3.46% 72.80%
6%
0%
12% 0%
0%
L10 284 356 489 170% 210% 289%
6%
8,500,000
8.65%
1.56% 89.79%
12% 0%
7%
0%
0%
LAF 162 218 215 80% 142% 104%
8,283,561 20.00% 6.22% 73.78% 15%
17% 10% 15% 0%
0%
LBM 30/11/2006 108 169 198 74% 143% 56%
21/12/2007
30,000,000 12.14% 14.40% 73.46% 20%
15% 0%
25% 0%
0%
LGC 29/11/2006 262 332 356 208% 137% 119%
8,197,642 50.21% 3.59% 46.20%
0%
14% 20% 0%
12% 0%
LSS 869 894 999 39% 47% 41%
12,061,006
0.00% 17.42% 82.58% 12%
0% 12%
5%
0%
0%
MCP 18/12/2006 227 205 202 251% 66% 65%
13,555,514
0.00%
2.85% 97.15% 12%
0% 15%
0%
0%
0%
MCV 15/11/2006 274 317 384 239% 143% 189%
70,000,000
0.00% 11.81% 88.19% 15%
0%
0%
14% 0%
0%
MHC 31/12/2004 271 389 421 96% 126% 205%
8,000,000
9.38%
4.65% 85.97%
0%
12% 0%
12% 0%
6%
MPC 13/12/2007 1,830 2,292 2,215 82% 130% 101%
15,124,213
0.00% 20.60% 79.40% 18%
18% 0%
24% 0%
0%
NAV 30/11/2006 143 144 161 59% 54% 71%
8,014,161
1.35% 19.40% 79.25% 19%
15% 7%
18% 0%
0%
NKD 02/12/2004 623 619 597 140% 143% 119%
32,800,000
0.00% 19.38% 80.62%
0% 100% 25% 0%
30% 100%
NSC 01/12/2006 119 203 247 66% 40% 43%
NTL 06/12/2007 674 994 1,162 98% 235% 118%
22,550,122 51.00% 33.76% 15.24%
22% 0%
20% 10%
0%
5%
Cổ tức Tổng tài sản Tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu SH Khác Mã Ngày niêm yết KL Niêm yết SH Nhà nước SH Nước ngoài 2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 TM CP 2008 TM CP 2009 TM CP
55,472,000 50.16% 13.39% 36.45%
10% 0%
12% 0%
0%
6%
PAC 09/11/2006 442 498 670 126% 60% 61%
26,499,823 52.43% 7.35% 40.22% 12%
0%
6%
6%
0%
0%
PET 13/08/2007 1,217 1,561 2,822 124% 169% 262%
11/12/2006
8,400,000 51.21% 1.29% 47.50% 14%
7%
0%
0%
5%
0%
PGC 20/10/2006 821 749 1,009 54% 47% 81%
10,058,906 18.74% 16.60% 64.66% 11%
3% 24%
4%
0%
0%
PJT 130 180 140 136% 102% 44%
15% 0%
3%
0%
0%
PNC 21/06/2005 217 311 312 70% 152% 122%
25% 0%
0% 30%
0%
PPC 17/01/2007 326,235,000 67.82% 14.57% 17.61% 15% 9,685 10,802 11,741 153% 214% 172%
2%
0%
0%
0%
0%
0%
PVD 15/11/2006 210,508,215 36.52% 28.37% 35.11% 19% 4,318 8,675 12,405 105% 283% 193%
11,500,000 21.00% 10.54% 68.46% 18%
20% 0%
20% 0%
0%
PVT 27/11/2007 232,600,000 60.00% 6.55% 33.45% 1,758 5,870 6,376 131% 567% 287%
6.85% 34.25% 58.90%
0%
0%
7% 20%
0%
40%
RAL 23/10/2006 811 873 1,036 107% 111% 140%
15,570,714 11.96% 48.73% 39.31%
0% 10%
0%
5%
0%
10%
REE 18/07/2000 178,293,289 2,560 2,607 3,345 17% 24% 35%
65,399,216 37.63% 10.76% 51.61% 25% 20%
0%
0%
22% 0%
RIC 23/07/2007 779 944 1,083 14% 22% 26%
9,963,450 11.29% 29.97% 58.74% 14%
10% 0%
10% 0%
0%
SAM 18/07/2000 3,067 2,270 2,660 26% 2% 10%
10/04/2007
11,351,999 16.37% 4.52% 79.11% 10%
20% 0%
10% 10%
0%
SAV 26/04/2002 535 573 586 86% 98% 104%
8,500,000 51.00% 8.06% 40.94% 12%
15% 0%
19% 0%
0%
SC5 917 1,215 1,429 452% 557% 551%
10,270,378
10%
3.02% 86.98% 15%
10% 20% 30% 0%
0%
SCD 12/11/2006 154 167 189 27% 25% 31%
08/12/2006
8,289,981
15%
2.88% 82.12%
15% 10% 100% 5%
0%
0%
SFC 16/06/2004 143 137 243 91% 58% 82%
35,879,150
51%
32.36% 16.64%
15%
8%
0%
0% 20%
0%
SFI 181 285 431 505% 110% 158%
SJD 11/12/2006 1,213 1,140 1,065 244% 207% 133%
11/05/2006 100,000,000
51%
29.14% 19.86% 15%
0%
20% 0%
Cổ tức Tổng tài sản Tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu SH Khác Mã Ngày niêm yết KL Niêm yết SH Nhà nước SH Nước ngoài 2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 TM CP 2008 TM CP 2009 TM CP
15% 100% 1,517
14,659,463
0%
13.26% 86.74%
5%
10% 24% 30%
8%
0%
SJS 1,681 3,002 21% 35% 71%
10,000,000
20%
38.96% 41.04% 12%
0%
15% 0%
15% 0%
SMC 29/09/2006 612 750 1,563 194% 189% 401%
18/10/2007 351,111,742
45.83% 54.17% 30% 20% 10% 0%
15% 0%
0%
SSC 29/12/2004 156 170 233 25% 22% 33%
10/12/2007
11,957,902
48.96% 51.04%
0%
10% 15% 5%
10% 25%
0%
SSI 6,134 5,620 7,077 51% 44% 46%
18,980,200
51%
6.48% 42.52% 20%
20% 0%
14% 0%
0%
ST8 260 264 325 111% 56% 3%
43,438,243 33.72% 47.47% 18.81% 14%
0% 12%
5%
0%
0%
TAC 06/12/2006 837 687 653 132% 122% 118%
8,788,101
38.49% 61.51%
6%
4%
4%
4%
4%
0%
6%
TCM 05/10/2007 1,074 1,312 1,705 260% 264% 211%
37,875,000
38.30% 61.70% 10% 10% 30% 0%
30% 50%
0%
TCR 26/12/2006 1,159 1,155 1,171 96% 92% 98%
13,212,488
8.33% 37.98% 53.69% 15%
15% 0%
10% 10%
0%
TDH 23/11/2006 1,067 1,445 1,820 41% 42% 43%
8,000,000 20.68% 1.47% 77.85% 20%
18% 0%
20% 0%
0%
TMS 02/08/2000 212 226 458 18% 16% 33%
19,250,000 51.00% 1.95% 47.05% 10%
3%
0%
10% 0%
0%
TNA 04/05/2005 172 204 455 90% 110% 172%
30,000,000 60.00% 32.66% 7.34%
30%
30% 0%
20% 0%
0%
TNC 07/08/2007 276 266 269 27% 23% 10%
01/07/2002
11,500,000 13.72% 12.45% 73.83% 12%
10% 0%
10% 0%
0%
TRC 17/07/2007 829 664 792 73% 31% 25%
09/11/2006
14,999,998 29.13% 35.41% 35.46% 18%
30% 0%
18% 0%
0%
TS4 142 245 368 25% 56% 110%
5,578,493
0.00% 23.43% 76.57%
0%
0%
0%
0%
0%
5%
TTP 490 480 534 25% 16% 17%
8,000,000 51.00% 0.92% 48.08% 15%
14% 0%
14% 0%
0%
TYA 02/12/2005 1,037 658 611 204% 235% 222%
20,000,000 12.59% 9.04% 78.37% 10%
4%
0%
0%
0%
0%
UIC 31/10/2007 331 441 452 165% 264% 250%
VFC 26/06/2006 285 341 320 133% 24% 11%
35,328,000
0.00% 23.59% 76.41% 15%
12% 0%
15% 0%
0%
Cổ tức Tổng tài sản Tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu SH Khác Mã Ngày niêm yết KL Niêm yết SH Nhà nước SH Nước ngoài 2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 TM CP 2008 TM CP 2009 TM CP
0.00% 12.12% 87.88%
5%
0%
0% 60%
0%
0%
VHC 07/12/2007 623 1,241 1,509 57% 199% 128%
25,522,767
0.00%
0.90% 99.10%
10% 10% 0%
0% 11%
0%
VIC 07/09/2007 368,213,113 3,090 6,042 14,549 66% 293% 512%
09/11/2006
59,807,785 51.00% 18.05% 30.95% 12%
0%
8%
0%
6%
0%
VID 12/07/2006 431 502 552 75% 85% 98%
07/12/2006
30,000,000 29.98% 3.46% 66.56% 10% 10% 25% 0%
12% 0%
VIP 1,560 1,446 2,241 99% 84% 172%
32,000,000 29.53% 2.56% 67.91% 15%
0%
0%
0% 20%
0%
VIS 799 999 1,498 411% 272% 241%
29%
29% 0%
30% 0%
0%
VNE 01/08/2007 1,820 2,032 1,945 389% 519% 361%
8,000,000 44.16% 0.41% 55.43% 12%
4%
0%
0%
0%
0%
VNM 28/12/2005 353,072,120 47.60% 49.04% 3.36% 5,345 5,933 8,531 24% 30% 28%
12,030,551 28.16% 32.77% 39.07%
0%
20% 50% 0%
30% 0%
VPK 16/11/2006 182 190 175 94% 115% 95%
0%
18% 0%
10% 0%
VSC 12/12/2007 361 438 647 45% 52% 50%
11,982,050 11.77% 0.68% 87.55% 10% 10% 15% 0%
15% 0%
VSH 28/06/2006 206,241,246 60.00% 15.10% 24.90% 14% 2,459 2,484 2,524 22% 16% 14%
79,866,666 51.00% 3.57% 45.43% 14%
0%
4%
0%
4%
0%
VTB 08/12/2006 334 263 318 55% 31% 50%
VTO 01/10/2007 1,741 3,415 3,186 180% 335% 361%
Tỷ lệ tăng TSCĐ EPS ROA Tỷ lệ tiền/Tổng TS Mã
2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 2008 2009
ABT 90% 6% 6% 6,213 3,094 8,023 15% 6% 20% 4.3% 1.3% 17.0%
ACL 15% 106% 57% 4,399 7,940 5,588 22% 23% 9% 0.6% 5.0% 10.4% AGF 72% 64% -24% 2,957 962 1,123 6% 1% 1% 1.6% 1.5% 1.6% ALP 26% 84% 33% 3,762 585 936 22% 3% 5% 1.0% 2.9% 4.4% ANV 203% 25% 1% 5,611 1,490 (1,947) 21% 4% -5% 11.8% 3.6% 8.9% BBC 131% 16% 111% 1,585 1,352 3,727 8% 4% 9% 11.7% 4.9% 27.7% BHS 20% 2% -6% 3,183 (2,335) 6,480 9% -7% 16% 1.9% 3.3% 9.7% BMC 96% 171% -14% 10,998 5,642 2,617 57% 41% 15% 39.9% 21.7% 13.2% BMP 232% 46% 22% 6,838 5,693 7,188 21% 18% 36% 1.6% 3.2% 11.4%
47% 8% -7% 3,411 3,284 7,178 6% 5% 12% 5.3% 1.5% 4.7% BT6 CII -14% 29% 4% 2,395 3,423 6,312 7% 7% 14% 0.8% 0.9% 3.6% CLC 81% -7% -35% 4,524 3,750 3,873 14% 14% 12% 7.6% 9.8% 8.1% COM 80% 6% 25% 1,899 2,336 7,562 6% 6% 16% 35.1% 29.6% 4.2% CYC 33% 5% -9% 407 1,665 138 1% 5% 1% 3.3% 2.2% 0.9% DCC 25% 31% 9% 1,894 1,183 2,133 7% 3% 6% 2.0% 5.6% 6.0% DCT 4% 50% 632% 1,830 1,598 1,835 12% 10% 6% 31.6% 1.0% 4.8% DHA 78% 94% 32% 5,371 3,726 6,762 17% 14% 21% 1.9% 2.3% 7.3%
54% -1% 5% 6,416 6,445 13,397 18% 13% 28% 13.8% 18.7% 38.2% DHG DIC 43% 329% -56% 4,081 2,575 2,223 9% 5% 5% 5.7% 7.2% 5.6%
Tỷ lệ tăng TSCĐ EPS ROA Tỷ lệ tiền/Tổng TS Mã
2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 2008 2009
DMC 24% 43% 19% 4,661 4,561 4,363 13% 10% 12% 15.6% 5.4% 3.2% DRC 1% 25% 30% 5,435 3,366 25,563 13% 9% 56% 6.2% 2.4% 10.0% DTT 34% 155% 45% 789 1,116 149 6% 5% 1% 8.9% 17.5% 25.7% FBT -2% 1% -8% 1,121 655 (7,729) 3% 1% -13% 0.2% 2.6% 3.8% FMC 25% 26% 6% 3,985 1,599 1,939 9% 3% 3% 0.7% 0.4% 45.4% FPT 114% 50% 71% 7,985 5,941 7,407 20% 18% 17% 16.8% 20.2% 21.7% GIL 44% 128% 33% 2,596 3,049 5,715 9% 8% 14% 3.5% 10.4% 7.7% GMC 12% 38% 3,063 3,669 3,925 -9% 9% 9% 18% 21.8% 10.0% 12.7% GMD 8% 0% 4,267 670 6,802 -1% 9% 3% 8% 8.8% 5.7% 4.9% GTA 22% -1% 1,766 753 909 -9% 8% 4% 4% 5.4% 6.7% 5.1% HAP 74% -5% 2% -10% 7% 11.4% 4.9% 5.2% 4,962 (4,095) 2,213 15% HAS 104% -34% 5% 2,334 2,141 898 6% 5% 3% 13.7% 11.4% 8.6% HAX 18% 128% 17% 4,114 3,010 1,807 9% 10% 7% 20.3% 4.5% 6.3% HBC 798% -16% 41% 1,839 523 3,195 5% 1% 4% 20.4% 6.5% 13.5% HDC -17% 10% 110% 3,220 4,276 9,513 5% 6% 11% 4.0% 1.1% 6.5% HMC 6% 28% 28% 2,419 2,055 1,311 9% 7% 3% 1.8% 1.4% 1.3% HPG 142% 33% 142% 4,864 4,350 6,477 24% 17% 16% 8.5% 9.1% 14.4%
1% 7% 12% 7,700 5,129 3,814 35% 22% 16% 13.0% 3.3% 12.6% HRC HIS 23% 34% -10% 2,527 1,988 1,622 5% 3% 2% 9.0% 1.1% 1.8% HT1 40% 266% 64% 1,153 892 1,461 4% 2% 2% 1.7% 1.5% 2.2% HTV -17% 20% -2% 1,539 427 2,508 10% 2% 12% 52.4% 8.4% 18.3%
Tỷ lệ tăng TSCĐ EPS ROA Tỷ lệ tiền/Tổng TS Mã
2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 2008 2009
ICF -4% 3% 8% 1,792 1,102 2,256 7% 4% 7% 7.1% 1.0% 1.2% IFS 86% 119% -55% 2,352 (7,570) (888) 9% -20% -3% 0.8% 0.3% 0.6% IMP 27% 198% 15% 4,676 4,997 5,663 12% 10% 10% 8.7% 18.6% 18.4% ITA 1442% -90% 177% 3,780 2,124 2,057 12% 6% 6% 21.4% 1.8% 1.3% KDC -1% -4% 0% 6,226 (1,521) 6,120 11% -2% 14% 17.3% 6.5% 23.2% KHA -22% 36% -14% 1,984 2,957 3,367 5% 11% 13% 5.6% 18.5% 22.3% KHP -7% 147% -14% 2,665 2,568 1,205 11% 7% 6% 28.2% 16.6% 29.5%
L10 28% 12% 146% 1,652 2,492 2,694 6% 7% 6% 8.9% 2.4% 14.8%
LAF -6% 46% 3% 3,713 690 2,644 14% 2% 10% 3.0% 3.5% 3.4%
LBM 18% 121% 31% 1,422 2,254 1,040 8% 9% 6% 7.6% 11.9% 13.2%
LGC 1226% 45% 37% 803 1,835 3,474 2% 5% 8% 19.4% 0.7% 1.5%
LSS -31% -2% -25% 2,783 2,378 5,366 9% 8% 18% 15.3% 3.4% 16.0%
MCP 219% 8% -13% 3,493 3,482 1,493 7% 9% 6% 21.0% 0.6% 12.9%
MCV -13% -3% -20% 2,240 1,402 1,048 4% 3% 2% 0.3% 0.8% 0.6%
MHC 136% 56% 13% 3,568 7 (2,397) 14% 0% -8% 9.3% 7.6% 2.9%
MPC 217% -31% 45% 2,711 (544) 3,417 12% -2% 11% 0.9% 4.3% 6.8%
NAV 9% 8% 61% 5,110 2,038 1,469 20% 11% 8% 5.5% 5.9% 22.4%
NKD 8% -6% -3% 7,173 77 5,395 15% 0% 13% 40.7% 11.3% 16.7%
NSC 12% 36% 150% 3,753 4,916 4,162 13% 18% 15% 11.0% 35.0% 29.4%
NTL 7% 17% 85% 16,039 3,788 32,507 25% 8% 50% 8.6% 7.1% 32.2%
Tỷ lệ tăng TSCĐ EPS ROA Tỷ lệ tiền/Tổng TS Mã
2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 2008 2009
PAC 81% 3,740 4,801 9,154 16% 25% -9% 15% 13% 9.0% 12.6% 8.3%
PET 3% 25% 5% 1,051 1,839 2,055 6% 3.2% 5.0% 5% 15.3% 6%
PGC 5% 30% 13% 1,842 54 2,408 6% 6.2% 3.1% 8% 4.4% 0%
PJT 15% 149% -7% 3,303 865 945 10% 7.0% 18.9% 5% 24.9% 4%
PNC 14% 50% 14% 1,440 557 345 5% 3.2% 2.3% 1% 4.1% 1%
PPC -12% -11% -19% 2,653 (654) 2,743 8% 3.2% 4.7% 8% 11.8% -2%
PVD 70% 147% 50% 5,193 6,978 3,870 18% 12.1% 7.9% 8% 7.0% 14%
PVT 34% 134% 39% 318 468 59 1% 14.6% 34.0% 0% 16.0% 2%
RAL 38% 37% 28% 4,676 4,253 3,169 9% 21.0% 5.7% 4% 12.5% 6%
REE -70% -15% 98% 5,059 (1,903) 5,333 13% 11.9% 13.8% 14% 7.3% -6%
RIC 7% 1% 1% 1,354 136 632 8% 2.5% 0.4% 4% 4.5% 1%
SAM 95% 48% 114% 3,613 (1,197) 3,969 8% 10.3% 29.4% 10% 17.3% -3%
SAV 34% 15% -8% 1,555 1,467 1,478 3% 7.9% 15.3% 3% 21.7% 3%
SC5 171% 189% -8% 7,151 3,383 3,572 9% 4.9% 5.1% 3% 6.3% 3%
SCD 57% 21% 0% 2,667 3,013 4,104 15% 16.1% 21.1% 19% 42.8% 16%
SFC 140% 56% -29% 2,455 4,918 5,485 8% 9.1% 4.8% 24% 32.3% 12%
SFI 330% 16% 1% 20,615 12,606 4,043 13% 64.4% 38.5% 11% 20.6% 13%
SJD -6% -6% -8% 2,621 1,185 3,733 5% 24.6% 0.1% 10% 0.3% 3%
Tỷ lệ tăng TSCĐ EPS ROA Tỷ lệ tiền/Tổng TS Mã
2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 2008 2009
SJS 35% 29% 66% 8,982 2,991 8,814 29% 8% 31% 8.0% 0.5% 23.6%
SMC 418% 236% 55% 4,617 6,549 4,943 9% 11% 6% 9.5% 24.1% 4.1%
SSC 12% -2% 5% 2,201 3,063 5,064 15% 19% 25% 15.0% 26.3% 37.7%
SSI 1251% 48% 1% 7,201 1,857 5,244 13% 3% 13% 34.9% 28.7% 37.4%
ST8 724% -3% 38% 4,293 5,112 6,059 21% 21% 24% 20.0% 9.4% 16.0%
TAC 48% 22% -2% 6,623 624 1,466 18% 2% 4% 43.5% 11.7% 20.9%
TCM 43% 40% 31% 3,851 84 1,211 8% 0% 3% 4.4% 5.1% 7.9%
TCR 4% 10% -9% 2,169 1,037 112 7% 3% 0% 10.8% 7.4% 4.3%
TDH 59% 58% 162% 9,615 8,015 7,772 17% 17% 18% 1.3% 7.2% 5.4%
TMS 14% 49% 8% 2,675 4,313 2,901 9% 12% 11% 9.9% 10.0% 11.6%
TNA 38% 182% 238% 3,916 4,355 3,197 11% 8% 8% 6.9% 1.6% 17.7%
TNC -9% 6% -3% 1,735 436 1,536 12% 3% 11% 35.9% 7.2% 9.0%
TRC -3% 3% 2% 5,915 6,607 5,110 16% 27% 21% 36.2% 22.6% 31.0%
TS4 196% 99% 50% 1,376 1,205 3,170 6% 5% 9% 2.8% 1.4% 3.6%
TTP 118% -15% 10% 3,532 4,475 5,594 13% 14% 16% 1.4% 19.8% 26.7%
TYA 6% -10% -13% 316 (3,873) 98 1% -13% 0% 3.8% 5.3% 20.2%
UIC 7% 10% -48% 2,269 2,119 2,221 6% 4% 4% 8.7% 3.7% 0.9%
VFC -8% -39% -19% 2,396 596 985 6% 4% 6% 17.5% 13.9% 58.0%
Tỷ lệ tăng TSCĐ EPS ROA Tỷ lệ tiền/Tổng TS Mã
2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 2008 2009 2007 2008 2009
VHC 290% 72% 14% 3,205 2,668 5,933 21% 9% 15% 3.4% 1.7% 13.9%
VIC 940% 1839% 97% 3,367 1,113 4,759 14% 3% 11% 16.1% 0.4% 9.8%
VID 89% 3% 14% 1,156 1,176 1,369 7% 5% 6% 13.2% 1.3% 0.5%
VIP 235% -7% 92% 2,503 1,272 879 13% 5% 3% 17.0% 10.1% 0.6%
VIS 4% 46% -57% 1,461 8,747 15,028 3% 14% 18% 10.9% 9.0% 12.0%
VNE 51% 45% -26% 1,624 82 2,766 4% 0% 5% 4.7% 2.3% 3.9%
VNM 54% 18% 30% 5,497 7,132 6,764 21% 22% 33% 2.2% 5.7% 5.0%
VPK 16% 7% -5% 1,573 523 1,235 7% 2% 6% 0.3% 1.7% 2.2%
VSC 32% 5% 69% 8,096 10,952 12,888 20% 26% 29% 13.2% 18.1% 9.1%
VSH -7% -8% -5% 1,868 2,698 1,809 12% 15% 15% 9.3% 1.9% 7.8%
VTB -4% 587% 138% 2,196 2,138 2,484 9% 8% 10% 5.7% 17.3% 6.4%
VTO 93% 131% -8% 4,695 604 432 13% 1% 1% 2.3% 0.3% 3.9%
PHỤ LỤC 02
KHẢO SÁT CÁC QUAN ĐIỂM QUẢN TRỊ VỀ CHÍNH SÁCH CỔ
TỨC GIỮA CHÂU ÂU VÀ MỸ.
Các cuộc khảo sát về quan điểm nhà quản lý sẽ cung cấp một phương cách
hữu ích trong việc kiểm tra mối liên hệ giữa lý thuyết và thực tiễn của chính
sách cổ tức. Phương pháp điều tra sẽ bổ sung thêm cho kết luận của các nghiên
cứu thực nghiệm vì nó cho phép các nhà nghiên cứu trực tiếp đặt câu hỏi về tác
động, theo các giả định của các lý thuyết khác nhau từ đó thu thập được những
dữ liệu không có sẵn. Trong một tài liệu hội thảo, Lintner (1956) đã phát triển
một mô hình dựa trên một cuộc khảo sát các nhà quản lý Mỹ. Mô hình của ông
cho thấy rằng quan điểm các nhà quản lý (1) không muốn cắt giảm cổ tức, (2)
duy trì cổ tức ổn định theo thời gian, và (3) tăng cổ tức theo thu nhập bền vững
của công ty trong dài hạn. Kể từ đó, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu việc sử
dụng các cuộc khảo sát để tìm hiểu về những quan điểm quản trị nhằm xác định
các yếu tố quyết định trong chính sách chia cổ tức các công ty "(ví dụ, Baker,
Farrelly, và Edelman, 1985; Baker và Powell, 1999, 2000; Baker, Powell, và
Veit, 2001, 2002).
Gần đây, Brav et al. (2005) đã tiến hành một cuộc khảo sát toàn diện 384
giám đốc tài chính (CFO) của Mỹ để xác định những yếu tố quan trọng tác
động đến cổ tức và chính sách mua lại cổ phần của doanh nghiệp, đồng thời
kiểm định lại kết luận của nhiều lý thuyết khác nhau đã được ứng dụng trong
thực tiễn như thế nào. Bancel et al. (2006) thực hiện một cuộc khảo sát các
giám đốc đến từ 16 nước châu Âu để kiểm tra các yếu tố quyết định chính sách
chi trả cổ tức. Nghiên cứu của họ dựa chủ yếu vào khảo sát trước đây của Brav
et al. (2005) ngoài ra bao gồm thêm nhiều câu hỏi có liên quan trong bối cảnh
châu Âu, chẳng hạn như câu hỏi về việc tập trung quyền sở hữu của công ty.
Mẫu khảo sát tập trung vào các công ty có thông tin giao dịch hàng ngày được
báo cáo tại Sở giao dịch chứng khoán Châu Âu. Những công ty này đại diện
- Trang 1 -
cho nhiều lĩnh vực khác nhau và là những công ty điển hình có thể đại diện cho
chỉ số chứng khoán chung của thị trường Châu Âu.
Cuộc khảo sát mang lại 93 câu trả lời, chiếm tỷ lệ 8.2%. Sử dụng mô hình
phân tích cân bằng 5 điểm quan trọng, Bancel et al. đã hỏi CFO về việc xếp
hạng tầm quan trọng của các yếu tố khác nhau mà có thể ảnh hưởng đến chính
sách thanh toán cổ tức tại công ty của họ.
Bảng 1 đến bảng 3 tóm tắt các câu trả lời của giám đốc tài chính: Cột 1 báo
cáo tỷ lệ số người trả lời vấn đề xem xét là một yếu tố quan trọng hoặc rất quan
trọng. Cột 2 cho thấy giá trị trung bình của vấn đề để có sự đánh giá từ số liệu
thu thập. Cột 3 và 4 cung cấp các quan điểm của các giám đốc tài chính Mỹ về
các yếu tố tương ứng theo nghiên cứu của Brav et al. (2005).
Bảng 6: Quan điểm các nhà quản trị về những nhân tố ảnh hưởng
đến quyết định chính sách cổ tức.
Châu Âu
Mỹ
Nội dung
Trun g bình
Trun g bình
Qua n trọn g và Rất quan trọn g (%)
Qua n trọn g và Rất quan trọn g (%)
Mục A: Các nhân tố về vấn đề tài chính và cấu trúc vốn
89
1.36
70.7
0.9
77.8
1.08
66.7
0.8
68.5
0.85
59.4
0.09
Sự ổn định và mức thu nhập trong tương lai (A2) Sự thay đổi ổn định trong thu nhập (A1) Mong muốn chi trả 1 phần cố định từ thu nhập trong dài hạn (A3)
51.1
0.53
40.6
-0.58
36.3
0.24
35.1
0
Đòn cân tài chính hiện tại (A6) Thị giá của cổ phiếu (liệu cổ phiếu tốt để đầu tư thì có liên quan đến giá trị thực sự của nó không) (A4)
- Trang 2 -
28.1
0.19
30.2
-0.2
58.1
0.56
53.2
0.4
Khoản tiền mặt/ tương đương tiền liên quan đến khả năng nắm giữ tiền mặt (A5) Mục B: Mối quan hệ với các cổ đông Ảnh hưởng của các cổ đông tổ chức kinh tế (B8)
50.5
0.49
32.9
-0.1
Lôi cuốn các nhà đầu tư là tổ chức vì họ có thể giám sát các quyết định của các nhà quản lý (B9)
29.4
0.08
Cần phải làm hài lòng các cổ đông thiểu số (B9)
20.7
-0.08
21.4
-0.5
Thuế TN các cổ đông cá nhân phải trả khi chi trả cổ tức (B7)
Mục C: Khác
67.4
0.83
84.8
1.2
Duy trì sự nhất quán so với chính sách cổ tức trước đó (C16)
59.8
0.71
47.4
0.2
Tính có sẵn của các cơ hội đầu tư mà doanh nghiệp đang theo đuổi (C11)
34.4
0.14
38.5
-0.2
Chính sách cổ tức của các đối thủ cạnh tranh hoặc các doanh nghiệp cùng ngành khác (C13)
21.7
-0.05
12.6
-0.9
Chi trả cổ tức làm giảm tiền mặt, làm giảm hiệu quả các quyết định của doanh nghiệp (C14)
13.3
-0.18
18.2
-0.9
Chi trả cổ tức báo hiệu với các nhà đầu tư doanh nghiệp đang trong các dự án đầu tư sinh lợi thấp (C12)
7.9
-0.16
42.3
-0.26
Các điều khoản hạn chế như các hợp đồng nợ (C15)
4.4
-0.24
Cân đối việc tăng / giảm các khoản trả cho lao động (C17)
- Trang 3 -
3.3
-0.23
Khuyến khích các nhà quản trị cấp cao (C18)
Bảng 7 : Quan điểm các nhà quản trị về những vấn đề liên quan đến
chính sách cổ tức
Châu Âu
Mỹ
Nội dung
Trung bình
Trung bình
Quan trọng và Rất quan trọng (%)
Quan trọng và Rất quan trọng (%)
Mục A: Nguyên tắc chính sách cổ tức
82.8
1.22
94
1.6
Tránh việc giảm mức cổ tức chi trả - DPS (A2)
78.3
0.97
92.5
1.3
Chính sách cổ tức tối ưu tạo ra sự cân bằng giữa cổ tức hiện tại và sự tăng trưởng trong tương lai mà sẽ tối đa hóa giá trị cổ phiếu (A7)
77.4
1.09
90.1
1.3
Cố gắng duy trì chính sách cổ tức ổn định từ năm này qua năm khác(A13)
54.4
0.48
60.5
0.48
Doanh nghiệp nên đặt tỷ lệ chi trả cổ tức mục tiêu và điều chỉnh tỷ lệ chi trả hiện hành dựa theo mục tiêu đó (A14)
53.3
0.57
41
0
Cổ tức hiện nay quan trọng trong việc định giá cổ phiếu cũng như vai trò của nó cách đây 15 năm (A3)
44.6
0.38
33.5
-0.2
Daonh nghiệp quyết định chính sách cổ tức sau khi kế hoạch đầu tư đã được xác định (A1)
44.1
0.25
Chính sách chi trả cổ tức luôn được ưu tiên đầu tiên trong các quyết định tài chính (A5)
- Trang 4 -
37
0.25
51.1
0.32
Chính sách cổ tức nói chung ảnh hưởng đến chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp (A8)
Cổ tức thay đổi sau lợi nhuận (A6)
34.8
0.2
76.5
0.8
31.9
0.1
47.1
0.21
Doanh nghiệp nên xem cổ tức tiền mặt là phần còn lại sau khi sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư (A9)
18.5
-0.05
4.2
-1.2
Doanh nghiệp chi trả cổ tức để cho thấy doanh nghiệp đủ mạnh để thực hiện được các dự án đầu tư sinh lợi (A12)
7.7
-0.24
24.7
-0.4
Doanh nghiệp sử dụng cổ tức như là một công cụ để đạt được một mức đánh giá tốt về mặt tín dụng mong muốn (A4)
6.5
-0.14
Các ngân hàng đầu tư giúp doanh nghiệp trong việc xác định chính sách cổ tức của mình (A10)
1.1
-0.28
Thay đổi cổ tức ảnh hưởng đến việc khuyến khích các nhà quản lý (A11)
Mục B: Mối quan hệ với các cổ đông
60.2
0.56
36.5
0
53.8
0.49
17.2
-0.47
26.9
0.1
40.1
0.23
15.2
-0.15
Chi trả cổ tức giúp các cổ đông bớt rủi ro hơn (B15) Các nhà đầu tư nói chung thích cổ tức tiền mặt hơn vì họ không chắc chắn về hiệu quả có thể đạt được trong tương lai (B19) Các cổ đông thích đầu tư vào các doanh nghiệp mà chính sách cổ tức có thể bù lại cho họ khoản thuế thu nhập phải nộp (B18) Doanh nghiệp chi trả cổ tức để các cổ đông thiểu số không cảm thấy thiệt thòi (B21)
- Trang 5 -
11.8
-0.16
17.1
-0.6
Doanh nghiệp chi trả cổ tức để cho thấy cỏ phiếu có giá trị đủ để các nhà đầu tư có thể mua thậm chí trong trường hợp bị đánh thuế trên cổ tức (B20)
10.9
-0.17
24.1
-0.07
2.2
-0.25
Nhà đầu tư thích để lại lợi nhuận hơn là chi trả cổ tức vì cách đánh thuế khác nhau giữa lãi trên vốn và cổ tức (B17) Doanh nghiệp đồng thời quyết định tăng chi trả cổ tức và chi trả cho người lao động (B16)
Bảng 8: Quan điểm các nhà quản trị về những nhân tố ảnh hưởng đến quyết định mua lại cổ phần
Châu Âu
Mỹ
Nội dung
Trung bình
Trung bình
Quan trọng và Rất quan trọng (%)
Quan trọng và Rất quan trọng (%)
90.1
1.38
86.6
1.3
77.8
1.14
79.6
1.1
Thị giá của cổ phiếu (liệu cổ phiếu tốt để đầu tư thì có liên quan đến giá trị thực sự của nó không) (Q1) Tính có sẵn của các cơ hội đầu tư mà doanh nghiệp đang theo đuổi (Q2)
Chiến lược mua lại và sáp nhập (Q3)
64.4
0.8
72.7
0.9
64
0.75
60.6
0.6
0.9
51.7
0.57
75
0.7
50.6
0.46
65.9
0.7
46.7
0.39
65.5
0.4
30
0.08
51.5
29.2
0.19
67.1
0.8
Khoản tiền mặt/ tương đương tiền liên quan đến khả năng nắm giữ tiền mặt (Q6) Gia tăng lọi nhuận trên mỗi cổ phiếu EPS (Q9) Sự ổn định của lợi nhuận trong tương lai. (Q4) Sự thay đổi ổn định trong thu nhập (Q5) Ảnh hưởng của các cổ đông tổ chức kinh tế (Q7) Bù lại những tác động pha loãng của các kế hoạch cổ phần khác (Q10)
- Trang 6 -
27.8
0.08
20.2
-0.6
Mua lại cổ phần làm giảm lượng tiền mặt, do đó làm giảm hiệu quả các quyết định tài chính khác (Q8)
20
-0.02
18.9
0.09
14.4
-0.1
28.6
-0.3
12.2
-0.18
34.7
-0.1
Doanh nghiệp muốn hủy bỏ một lượng cổ phần (Q15) Mua lại cổ phần là giải pháp tốt hơn cổ tức tiền mặt đối với nhà đầu tư (Q13) Thuế thu nhập cá nhân đối với cổ đông (Q14) Sự thay đổi tạm thời trong thu nhập (Q12)
8.9
-0.13
Củng cố lại sự kiểm soát của các cổ đông chủ yếu (Q11)