BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ -----------------------------
Nguyễn Thị Thu Vân
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN NHIỄM
KÝ SINH TRÙNG SỐT RÉT Ở VÙNG DÂN DI BIẾN ĐỘNG
TẠI BÌNH PHƯỚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ: SINH HỌC
Hà Nội - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ -----------------------------
Nguyễn Thị Thu Vân
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN NHIỄM
KÝ SINH TRÙNG SỐT RÉT Ở VÙNG DÂN DI BIẾN ĐỘNG
TẠI BÌNH PHƯỚC
Chuyên ngành: Động vật học
Mã số: 8 42 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪ N KHOA HỌC:
Hướng dẫn 1: TS. Nguyễn Thị Hồng Phúc
Hướng dẫn 2: TS. Nguyễn Văn Hà
Hà Nội - 2019
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới: TS.
Nguyễn Thị Hồng Phúc và TS. Nguyễn Văn Hà là những người thầy đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành
luận văn.
Xin chân thành cảm ơn tới toàn thể cán bộ Khoa Dịch tễ Sốt rét đã tạo điều
kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin cảm ơn cán bộ của Trung tâm y tế huyện Bù Gia Mập, cán bộ và
nhân viên các trạm y tế xã Bù Gia Mập và xã Đắk Ơ đã cộng tác, tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong thời gian thực hiện nghiên cứu tại thực địa.
Cuối cùng, tôi muốn dành sự biết ơn và tình cảm sâu sắc nhất đến gia
đình, những người đã luôn là động lực mạnh mẽ cho tôi trong thời gian học
tập, hoàn thành luận văn của mình.
Tác giả
Nguyễn Thị Thu Vân
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Thị Thu Vân, học viên cao học khóa 2017- Học viện Khoa
học và Công nghệ, chuyên ngành Động vật học, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng
dẫn của TS. Nguyễn Thị Hồng Phúc và TS. Nguyễn Văn Hà.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác
đã được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,
trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 23 tháng 7 năm 2019
Người viết cam đoan
Nguyễn Thị Thu Vân
CHỮ VIẾT TẮT
BNSR : Bệnh nhân sốt rét
BSR : Bệnh sốt rét
BĐTĐ : Bẫy đèn trong nhà đêm
IOM : International Organization for Migration - Tổ chức Di dân Quốc
tế
KHV : Kính hiển vi
KST : Ký sinh trùng
KSTSR : Ký sinh trùng sốt rét
MNTN : Mồi người trong nhà
MNNNĐ : Mồi người ngoài nhà
MNTR : Mồi người trong rừng
PCR : Polymerase Chain Reaction
PCSR : Phòng chống sốt rét
PH : Phối hợp
SCGSĐ : Soi chuồng gia súc
SL : Số lượng
SRLH : Sốt rét lưu hành
STNN : Soi trong nhà ngày
TCYTTG : Tổ chức Y tế Thế giới
UNDP : United Nations Development Programe – Chương trình phát
triển Liên hiệp quốc
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ .....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .......................................................................3
1.1. Vài nét về bệnh sốt rét ................................................................................................. 3
1.1.1. Định nghĩa sốt rét...................................................................................................... 3
1.1.2. Đặc điểm chung về bệnh sốt rét .............................................................................. 3
1.1.3. Tác nhân gây bệnh sốt rét ........................................................................................ 3
1.1.4. Tác nhân truyền bệnh sốt rét ................................................................................... 4
1.1.5. Chu kỳ phát triển của ký sinh trùng sốt rét giai đoạn ở muỗi và giai đoạn ở
người ..................................................................................................................................... 4
1.1.6. Chiến lược phòng chống bệnh sốt rét ở Việt Nam ............................................... 5
1.2. Tình hình s ốt rét trên thế giới ..................................................................................... 5
1.3. Tình hình s ốt rét tại Việt Nam .................................................................................... 7
1.4. Tình hình s ốt rét tỉnh Bình Phước.............................................................................. 8
1.5. Các yếu tố chủ yếu liên quan đến mắc sốt rét ở nhóm dân di biến động ..................... 9
1.5.1. Sốt rét biên giới ......................................................................................................... 9
1.5.2. Di biến động dân cư do chiến tranh........................................................................ 9
1.6. Tình hình s ốt rét và di biến động dân cư tại Việt Nam ......................................... 10
1.6.1. Đặc điểm nhóm dân di biến động tại Việt Nam ................................................. 10
1.6.2. Di cư ng ắn hạn và dài h ạn ..................................................................................... 11
1.6.3. Di cư do biến đổi khí hậu....................................................................................... 11
1.6.4. Thực trạng sốt rét ở nhóm dân di biến động tại Việt Nam ................................ 13
1.7. Véc tơ truyền bệnh sốt rét ......................................................................................... 14
1.7.1. Các véc tơ chính truyền bệnh sốt rét trên thế giới .............................................. 14
1.7.2. Véc tơ truyền bệnh sốt rét ở Việt Nam ................................................................ 15
1.8. M iễn dịch trong bệnh sốt rét ..................................................................................... 17
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................... 19
2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu ............................................................. 19
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................................. 19
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu .............................................................................................. 19
2.1.3. Thời gian nghiên cứu ............................................................................................. 19
2.2. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................... 19
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu ................................................................................................ 19
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu................................................................................................. 19
2.2.3. Một số đặc điểm xã hội và tự nhiên các xã trong nghiên cứu........................... 21
2.2.4. Nội dung nghiên cứu .............................................................................................. 22
2.2.5. Các chỉ số đánh giá ................................................................................................. 23
2.2.6. Các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu ............................................................... 26
2.2.7. Sai số và phương pháp loại trừ sai số................................................................... 27
2.3. Phương pháp thống kê và phân tích số liệu ............................................................ 27
2.4. Đạo đức trong nghiên cứu......................................................................................... 28
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.................................................................. 29
3.1. Thực trạng bệnh sốt rét tại khu vực nghiên cứu..................................................... 29
3.1.1. Một số thông tin về đối tượng nghiên cứu .......................................................... 29
3.1.2. Thực trạng mắc sốt rét tại Bình Phước ................................................................ 30
3.2. Một số yếu tố liên quan mắc sốt rét tại vùng sốt rét lưu hành nặng có dân di
biến động tại Bình Phước ................................................................................................. 35
3.2.1. Phân bố nhóm dân di biến động, trình độ học vấn, thu nhập hộ gia đình: ...... 35
3.2.2. Đặc điểm nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu .............................................. 36
3.2.3. Thực trạng về kiến thức hiểu biết về bệnh sốt rét............................................... 38
3.2.4. Thực hành của người dân về phòng chống sốt rét .............................................. 40
3.2.5. Liên quan giữa các yếu tố di biến động dân cư với mắc sốt rét........................ 41
3.2.6. Liên quan giữa các yếu tố dân di cư ..................................................................... 43
3.2.7. Liên quan giữa kiến thức, thái độ phòng bệnh với tình trạng mắc sốt rét tại
các điểm nghiên cứu.......................................................................................................... 44
3.2.8. Thực hành phòng bệnh của người dân phòng chống mắc sốt rét ..................... 45
3.2.9. Thói quen lựa chọn dịch vụ y tế khi bị sốt .......................................................... 46
3.2.10. Véc tơ truyền bệnh sốt rét tại các điểm nghiên cứu ......................................... 47
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ............................................................................................ 49
1. Thực trạng bệnh sốt rét tại khu vực nghiên cứu ........................................................ 49
2. Một số yếu tố liên quan ở vùng sốt rét lưu hành có dân di biến động tại Bình
Phước .................................................................................................................................. 50
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................ 60
5.1. Kết luận ....................................................................................................................... 60
5.1.1. Thực trạng bệnh sốt rét .......................................................................................... 60
5.1.2. Yếu tố liên quan ở vùng sốt rét lưu hành có dân di biến động ......................... 60
5.2. Kiến nghị ..................................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 61
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3. 1. Số người đ iều tra theo giới tại các điểm nghiên cứu .................................. 29
Bảng 3. 2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi (n =1027) ......................... 29
Bảng 3. 3. Phân bố nhóm đối tượng điều tra theo dân tộc (n =1.027) ........................ 30
Bảng 3. 4. Tỷ lệ sốt rét lâm sàng (n = 1027) .................................................................. 30
Bảng 3. 5. Phân bố bệnh nhân mắc sốt rét tại các xã tìm thấy ký sinh trùng sốt rét
trong máu (n = 1027) ........................................................................................................ 31
Bảng 3. 6. Tỷ lệ BNSR phân bố theo thôn bản điều tra ............................................... 32
Bảng 3. 7. Tỷ lệ người nhiễm KSTSR có sốt................................................................. 33
Bảng 3. 8. Tỷ lệ người nhiễm KSTSR theo nhóm dân tộc........................................... 33
Bảng 3. 9. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét theo giới (n = 1027) .............................. 34
Bảng 3. 10. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét theo tuổi (n = 1027) ............................ 34
Bảng 3. 11. Phân bố nhóm dân di biến động ................................................................. 35
Bảng 3. 12. Trình độ học vấn của chủ hộ đại diện gia đình (n = 300) ........................ 35
Bảng 3. 13. Tỷ lệ hộ gia đình có người đi rừng, đi rẫy và qua lại biên giới .............. 36
Bảng 3. 14. Tần suất đi làm rẫy trong quần thể nghiên cứu ........................................ 36
Bảng 3. 15. Tần suất đi rừng trong quần thể nghiên cứu ............................................. 38
Bảng 3. 16. Hiểu biết về nguyên nhân gây bệnh sốt rét ............................................... 38
Bảng 3. 17. Hiểu biết về triệu chứng của bệnh sốt rét .................................................. 39
Bảng 3. 18. Hiểu biết về biện pháp phòng bệnh sốt rét (n = 300) ............................... 40
Bảng 3. 19. Tỷ lệ bao phủ màn tại các điểm nghiên cứu.............................................. 40
Bảng 3. 20. Tỷ lệ thường xuyên ngủ màn ...................................................................... 41
Bảng 3. 21. Liên quan giữa qua lại biên giới với mắc sốt rét ...................................... 41
Bảng 3. 22. Liên quan giữa đi rừng, ngủ rừng với mắc sốt rét .................................... 42
Bảng 3. 23. Liên quan giữa thời gian đi rừng, ngủ rừng với mắc sốt rét ................... 42
Bảng 3. 24. Liên quan giữa làm nương rẫy, trang trại, lâm nghiệp trong rừng với
nhiễm ký sinh trùng sốt rét ............................................................................................... 43
Bảng 3. 26. Mối liên quan giữa thời gian di cư với mắc sốt rét .................................. 44
Bảng 3. 27. Liên quan giữa hiểu biết về nguyên nhân gây bệnh sốt rét với tình trạng
mắc sốt rét........................................................................................................................... 44
Bảng 3. 28. Liên quan giữa biết sốt rét có thể phòng chống được với ....................... 45
mắc sốt rét........................................................................................................................... 45
Bảng 3. 29. Biện pháp bảo vệ khi ngủ tại rẫy ................................................................ 45
Bảng 3. 30. Biện pháp phòng tránh muỗi đốt khi ngủ trong rừng ............................... 46
Bảng 3. 31. Thói quen lựa chọn dịch vụ y tế khi bị sốt ................................................ 46
Bảng 3. 39. Tổng hợp các yếu tố phân tích giữa các yếu tố nguy cơ .......................... 47
và liên quan với mắc sốt rét.............................................................................................. 47
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Chu kỳ của ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể người và muỗi Nguồn. Bruce
- Chwatt’s Essential Malariology...................................................................................... 4
Hình 2. 1. Bản đồ xã Đắk Ơ và xã Bù Gia Mập ............................................................ 22
Hình 3. 1 .Tỷ lệ sốt rét chung tại các điểm nghiên cứu ( n = 1027)............................ 31
Hình 3. 2. Cơ cấu thành phần loài ký sinh trùng sốt rét tại điểm nghiên cứu ............ 32
ĐẶT VẤN ĐỀ
Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhiều loại thuốc mới cũng như các
biện pháp phòng chống bệnh sốt rét được áp dụng, mang lại hiệu quả cao cho công
tác phòng chống sốt rét. Mặc dù vậy cho đến nay bệnh sốt rét (BSR) vẫn còn là
vấn đề sức khỏe lớn trên Thế giới cũng như tại Việt Nam. Theo báo cáo của Tổ
chức Y tế Thế giới năm 2017 [55].
Mối liên quan giữa quần thể dân di cư và lan truyền bệnh không phải là
vấn đề mới, từ 400 năm TCN Hypocrates đã quan tâm đến sự lưu hành của
bệnh và quần thể dân di cư. Đồng thời nhận thấy có sự liên quan chặt chẽ giữa
không khí, nước và bệnh tật. Sự giao lưu qua lại giữa các Quốc gia, tốc độ phát
triển du lịch nhanh chóng cũng làm thay đổi mô hình bệnh tật [34]. Hành trình
khám phá Thế giới, sự giao thương giữa Châu Âu và Châu Mỹ và việc buôn
bán nô lệ là nguyên nhân chính gây ra các vụ dịch lớn. Thời Cổ đại rất nhiều
dịch bệnh lớn đã xảy ra do sự lây truyền bệnh từ những người du lịch.
Xu hướng toàn cầu hóa hiện nay dẫn đến tình trạng dân di cư từ khu vực
này qua khu vực khác. Hiện nay, trên Thế giới có khoảng 214 triệu người di cư
Quốc tế và khoảng 740 triệu người di cư hàng năm tại các Quốc gia. Sự phát triển
đa dạng của nền kinh tế, phát triển mạnh mẽ của thông tin dẫn đến giao lưu và di
chuyển dân cư giữa các khu vực ngày càng gia tăng [20]. Việc giao lưu dân cư
giữa các khu vực sẽ ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng trong quá trình di dân.
Ngày nay, khi xã hội trở thành đa văn hóa, đa sắc tộc, nhóm dân di cư và di biến
động đối mặt với việc khó khăn trong quá trình tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe. Sức khỏe của nhóm dân di cư bị ảnh hưởng.
Tại một số vùng, dân di cư thường có tính chất theo mùa, theo thời vụ,
di chuyển từ nơi có lưu hành sốt rét nhẹ đến khu vực có lưu hành sốt rét nặng
và thường nhạy cảm với bệnh sốt rét. Việc mang mầm bệnh từ vùng SRLH
sang các vùng khác, đặc biệt là có thể mang theo ký sinh trùng sốt rét có gen
kháng thuốc sẽ gây khó khăn cho công tác phòng chống và loại trừ sốt rét [ii],
[v].
1
Trong những năm qua tình hình sốt rét tại nhiều nơi đã giảm rõ rệt, tuy
nhiên tại một số tỉnh như Gia Lai và Bình Phước sốt rét vẫn lưu hành dai dẳng
ảnh hưởng tới sức khỏe của cộng đồng dân cư tại đây, đồng thời có nguy cơ
bùng phát dịch và lan truyền mầm bệnh tới các khu vực khác do sự di biến động
dân.
Do tình hình sốt rét tại khu vực dân di biến động nặng diễn biến phức
tạp, chúng tôi đã tiến hành đề tài nghiên cứu:
“Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến nhiễm ký sinh trùng sốt
rét ở vùng dân di biến động tại Bình Phước năm 2018” với mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng mắc sốt rét tại huyện Bù Gia Mập - tỉnh Bình
Phước năm 2018.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến mắc sốt rét của tỉnh Bình
2
Phước năm 2018.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Vài nét về bệnh sốt rét
1.1.1. Định nghĩa sốt rét
Sốt rét là một bệnh lan truyền qua đường máu gây nên bởi ký sinh trùng
Plasmodium do muỗi cái của loài Anopheles đốt qua da và truyền các thoa trùng
SR vào máu.
1.1.2. Đặc điểm chung về bệnh sốt rét
Bệnh SR lưu hành chủ yếu ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. KSTSR
có thể gây nên bệnh SR cho con người ở tất cả các nhóm tuổi và được truyền
từ người này sang người khác qua trung gian truyền bệnh là muỗi Anopheles
(An).
Bệnh SR tồn tại và lan truyền được phải có hội tụ của 3 yếu tố: mầm
bệnh (ký sinh trùng); trung gian truyền bệnh (muỗi sốt rét); khối cảm thụ (con
người). Sự lan truyền bệnh SR khác nhau về cường độ và mức độ thường xuyên
phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên tại chỗ như: lượng mưa, khu vực sinh sản
của muỗi và sự có mặt của loài muỗi truyền bệnh. Ngoài ra yếu tố xã hội cũng
là một trong những yếu tố có tác động quan trọng tới quá trình lan truyền bệnh.
Có những vùng bệnh SRLH quanh năm với số lượng BNSR được phát hiện
tương đối ổn định các tháng trong năm. Trong khi đó, ở một số vùng bệnh nhân
mắc SR theo mùa và thường vào mùa mưa.
1.1.3. Tác nhân gây bệnh sốt rét
Ký sinh trùng sốt rét gây bệnh cho người có tên khoa học là Plasmodium
thuộc họ Plasmodidea, một dạng đơn bào ký sinh trong máu. Có hơn 120 loài
thuộc họ Plasmodidea được phát hiện ở động vật bò sát, chim, động vật có vú
như chuột và linh trưởng. Người không nhiễm KSTSR của chim, động vật bò
sát do có miễn dịch tự nhiên.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) hiện có 5 loại Plasmodium gây
bệnh cho người đã được ghi nhận(WHO, 2012), nghiêm trọng nhất là P.
falciparum, số còn lại là P. vivax, P. malarie, P. ovale, P. knowlesi có thể gây
3
bệnh nhẹ hơn và thường ít dẫn đến tử vong. Ở Việt Nam có 2 loài chủ yếu: P.
falciparum chiếm 70 – 80%, thường gây SR nặng, biến chứng và tử vong, tiếp
đến là P. vivax chiếm 20 – 30%, gây sốt cách nhật, SR tái phát, P. malarie, P.
ovale có tỷ lệ thấp, P. knowlesi mới phát hiện (1995) [6], [7].
1.1.4. Tác nhân truyền bệnh sốt rét
Bệnh SR lan truyền được từ người này sang người khác là nhờ trung
gian truyền bệnh, đó là muỗi Anopheles, có nhiều loại muỗi Anopheles nhưng
chỉ có 60 loài có khả năng truyền bệnh SR ở các vùng SR trên thế giới. Việt
Nam có 3 véc tơ chính: An. minimus, An. dirus và một số véc tơ phụ như: An.
subpictus, An. jeyporiensis, An. maculatus...
1.1.5. Chu kỳ phát triển của ký sinh trùng sốt rét giai đoạn ở muỗi và giai
đoạn ở người
Hình 1.1. Chu kỳ của ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể người và muỗi
Nguồn. Bruce - Chwatt’s Essential Malariology.
Chu kỳ phát triển của KSTSR qua 2 vật chủ là muỗi Anopheles và người.
Ký sinh trùng sinh sản hữu tính trong muỗi (muỗi là vật chủ chính) và sinh sản
vô tính trong tế bào gan và hồng cầu người (người là vật chủ phụ).
4
1.1.6. Chiến lược phòng chống bệnh sốt rét ở Việt Nam
Chiến lược quốc gia phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét ở Việt Nam
giai đoạn 2011-2020 và định hướng đến năm 2030 theo quyết định số 1920/QĐ-
TTg của Thủ tướng chính phủ.
Mục tiêu chung:
Khống chế tỷ lệ người dân mắc bệnh SR dưới 0,15/1.000; tỷ lệ người
dân chết do bị bệnh SR dưới 0,02/100.000; không còn tỉnh nào trong giai đoạn
phòng chống bệnh SR tích cực; 40 tỉnh trong giai đoạn đề phòng bệnh SR quay
trở lại; 15 tỉnh trong giai đoạn loại trừ bệnh SR và 8 tỉnh trong giai đoạn tiền
loại trừ bệnh SR vào năm 2020.
Mục tiêu cụ thể:
1.
Bảo đảm người bị bệnh SR và người có nguy cơ mắc bệnh SR
được tiếp cận các dịch vụ chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời;
2. Bảo đảm thực hiện các biện pháp phòng chống bệnh SR hiệu quả,
thích hợp cho người dân sống trong vùng có nguy cơ mắc bệnh SR;
3. Loại trừ bệnh SR tại các tỉnh có SRLH nhẹ, làm giảm mức mắc
bệnh SR tại các tỉnh có bệnh SRLH nặng và vừa;
4. Nâng cao năng lực của hệ thống giám sát bệnh SR, bảo đảm đủ
khả năng phòng, chống dịch bệnh SR;
5. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và ứng dụng kết quả của nghiên
cứu khoa học vào hoạt động phòng, chống và loại trừ bệnh SR;
6. Nâng cao nhận thức của người dân về phòng chống bệnh SR để
người dân chủ động phòng chống bệnh SR có hiệu quả cao nhất.
1.2. Tình hình sốt rét trên thế giới
Trước đây trên Thế giới thường xuyên xảy ra dịch sốt rét, một trong
những vụ dịch lớn nhất đã xảy ra ở Liên Xô cũ sau đại chiến Thế giới thứ nhất
(1923-1926) với hơn 10 triệu người mắc và ít nhất có 60.000 người chết. Năm
1976, hơn 7 triệu ca sốt rét được báo cáo ở Ấn Độ, 250.000 ca chết. Madagasca
năm 1988 và một số nước Châu Phi (như Botswana, Burundi, Ethiopia,
5
Namibia, Rwanda, Sudan, Zaire….) đã phải đương đầu với tính chất trầm trọng
của căn bệnh này trong nhiều thập kỷ [51].
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), năm 2015 có 97
quốc gia và vùng lãnh thổ có sốt rét lưu hành (SRLH), với dân số khoảng 3,2
tỉ người. Năm 2015 có 214 triệu người mắc, 438.000 người tử vong vì sốt rét,
phần lớn là trẻ em ở Châu Phi: 292.000 trẻ [52].
Hàng năm, các nước Châu Á, Châu Mỹ có khoảng 5 - 6 triệu BNSR được
báo cáo, nhưng thực tế còn cao gấp 4 lần. Khoảng 75% số BNSR của khu vực
này được ghi nhận ở 9 nước: Afganistan, Brazil, Campuchia, Trung Quốc, Ấn
Độ, Indonesia, Thái Lan, Srilanca và Việt Nam. Sốt rét vẫn còn lưu hành ở các
nước tiểu vùng sông Mê Kông: Trung Quốc (Vân Nam), Lào, Myanmar,
Campuchia, Thái Lan và Việt Nam. Bệnh sốt rét lưu hành trên thế giới với mức
độ nặng nhẹ khác nhau phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, sinh học, các yếu tố
về kinh tế, xã hội như nghèo đói, dân trí thấp, giao thông đi lại khó khăn, di
biến động dân cư, phát triển các dự án kinh tế như thuỷ điện, trồng rừng.
Nghiên cứu của Isabella Anne Rossi năm 2007 cho thấy 2.190 người từ
vùng sốt rét lưu hành trở về Thụy Sỹ có 154 người nhiễm P. falciparum , trong
đó 79% là những người đi du lịch về, 9% là dân di cư, 97% số bệnh nhân từng
đến vùng sốt rét lưu hành nặng tại khu vực Cận Sahara, Châu Phi [43].
Người mắc sốt rét di chuyển đến những vùng không có sốt rét lưu hành
thường không được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Zino và cộng sự năm 2003
nghiên cứu tại Italy phát hiện 17 bệnh nhân sốt rét người Trung Quốc di cư bất
hợp pháp, các bệnh nhân này trước khi di cư vào Italy đều có thời gian sống tại
một số nước Châu Phi trong khoảng thời gian 14 ngày đến 9 tháng. Hầu hết các
trường hợp trên bị nhiễm P. falciparum, trong đó 1 trường hợp tử vong do chẩn
đoán và điều trị không kịp thời.
6
1.3. Tình hình sốt rét tại Việt Nam
Trong kháng chiến chống Pháp, công tác PCSR gặp rất nhiều khó khăn, nhất là
nhân dân vùng căn cứ địa và các lực lượng vũ trang. Một số tác giả đã nghiên cứu lách
và KST của các lứa tuổi trên 160 điểm thuộc nhiều vùng sốt rét khác nhau. Nghiên cứu
cơ cấu KST, thành phần, một phần sinh lý, sinh thái muỗi Anopheles ở các vùng khác
nhau và sưu tầm các cây thuốc chữa sốt rét ở Việt Nam, di thực cây Quinquina vào
Việt Nam, nghiên cứu thuốc PCSR (quinacrin, quinin). Giai đoạn sau kháng chiến
chống Pháp: Việt Nam tạm bị chia làm hai miền. Miền Bắc công tác điều tra sốt
rét được thực hiện trên quy mô lớn do cán bộ sốt rét Việt Nam với sự cộng tác
và giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, Rumani.
Thời kỳ 1958 -1975: Do đất nước bị chia cắt nên chương trình Tiêu diệt
sốt rét được tiến hành riêng biệt ở hai miền Nam Bắc [44]:
Miền Bắc: 1958 -1961 chuẩn bị; 1961 -1964 tấn công; 1965 - 1975 -
cuối tấn công. Tỷ lệ nhiễm KSTSR 5/10.000 dân
Miền Nam: 1958 -1959 chuẩn bị; 1960 -1964 tấn công; 1965 - -
1975 cuối tấn công.
Năm 1980 bệnh sốt rét gia tăng ở nhiều tỉnh vùng rừng núi và ven biển,
có 1.138 người chết do sốt rét. Năm 1992, Hội nghị Amsterdam ra lời kêu gọi
về chiến lược PCSR trên toàn thế giới. Từ 1992 - 1995 chương trình PCSR đã
thực hiện tốt các mục tiêu giảm chết, giảm dịch, giảm mắc (tại Việt Nam từ 144
vụ dịch sốt rét năm 1992 đến 1995 có 2 vụ dịch sốt rét).
Thời gian từ 1991 đến 2000 số BNSR giảm từ 1.091.000 xuống còn
293.016 vào năm 2000, đến năm 2004 còn 128.622 bệnh nhân. Năm 2004 cũng
không có dịch sốt rét.
Việt Nam nằm trong vùng SRLH nặng của thế giới, là một trong những
nước có nguy cơ cao về BSR. Tuy nhiên, đến năm 2000 chỉ còn 1,4% dân số sống
trong vùng SRLH. Kết quả phân vùng dịch tễ sốt rét năm 2014 toàn quốc có 204
xã thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng, với 1,25% dân số sống trong vùng sốt rét lưu
hành nặng [10], tập trung chủ yếu ở Miền Trung – Tây Nguyên và Nam Bộ.
7
Theo các nghiên cứu hiện nay Việt Nam có đầy đủ 4 loại KSTSR gây bệnh
cho người [24] nhưng chủ yếu có 2 loại P. falciparum và P. vivax, trong đó P.
falciparum chiếm 75 - 80 %. Sự phân bố thành phần loài KST có khác nhau tùy
khu vực địa lý. P. falciparum chủ yếu ở khu vực miền núi phía Bắc, Miền Trung
- Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. P. vivax phân bố nhiều ở các khu vực duyên hải
Miền Bắc, Miền Trung và Nam Bộ. Tuy nhiên trong thời gian gần đây do có sự
thay đổi về dịch tễ nên phân bố KSTSR có sự thay đổi. Một số nơi thuộc khu vực
Miền Trung (Ninh Thuận, Quảng Nam) tỷ lệ P. vivax có chiều hướng trội hơn P.
falciparum. Năm 2011 tỷ lệ P. falciparum là 75% . P. knowlesi (KSTSR gây bệnh
ở khỉ) được phát hiện ở người tại Việt Nam lần đầu tiên năm 2006 [17]. Nay
đã phát hiện thêm nhiều ca mắc loài KST này. Tỷ lệ mắc sốt rét do P. knowlesi
tới 25,6% trong nghiên cứu tại Khánh Hòa giai đoạn 2009 - 2010 (32 ca P.
knowlesi/125 ca dương tính - xác định bằng PCR) [49]. Việc chẩn đoán KST
này gặp nhiều khó khăn do hình ảnh dễ nhầm với P. malariae và P. falciparum.
1.4. Tình hình sốt rét tỉnh Bình Phước
Theo kết quả phân vùng dịch tễ sốt rét năm 2014 có: 35 xã SRLH nặng,
23 xã SRLH vừa, 41 xã SRLH nhẹ và 12 xã nằm trong vùng SR quay trở lại.
Gồm nhiều dân tộc sinh sống chủ yếu là người Kinh; người Mnông,
người S’tiêng chiếm 17,9%; ngoài ra còn một số ít người Hoa, Khmer, Nùng
và người Tày. Nghề nghiệp chính là trồng cây công nghiệp, vườn đồi, đi rừng
làm rẫy. Tỉnh có đường biên giới, có đường biên giới với nước bạn Campuchia,
và giáp danh với tỉnh Đắk Nông, xã Đắk Nhau huyện Bù Đăng, xã Đắk Ơ huyện
Bù Gia Mập. Xã có 8 thôn với 1528 hộ, 6749 khẩu. Dân tộc người S’tiêng,
người M’Nông chiếm 70%, còn lại các dân tộc khác chiếm 30%. Hoạt động
kinh tế của người dân chủ yếu làm rẫy, đi rừng khai thác lâm sản. Trên địa bàn
xã có số dân di biến động lớn khó quản lý.
8
1.5. Các yếu tố chủ yếu liên quan đến mắc sốt rét ở nhóm dân di biến động
1.5.1. Sốt rét biên giới
Catherin Smith đưa ra 3 yếu tố chính liên quan giữa nhóm dân di biến
động và bệnh sốt rét: Sự phát triển kinh tế, thay đổi đất sử dụng và nhóm dân
di biến động mang KST sốt rét ngoại lai, nhất là tại khu vực biên giới [56].
Nghiên cứu của Jan E Conn năm 2002 tại khu vực Trung và Nam Mỹ cho thấy
những người mới đến mang theo các véc tơ truyền bệnh mới [33].
Báo cáo năm 2013, của Tổ chức Di dân Thế giới cho thấy 75% các ca
mắc sốt rét P. falciparum ở Vân Nam (Trung Quốc) là do mắc bệnh từ Lào
mang về [35]. Nhìn chung, tại các nước có khí hậu nhiệt đới (Myanmar, Thái
Lan, Campuchia, Lào, Indonesia) tỉ lệ mắc KSTSR do P. falciparum cao hơn
P. vivax. Sự phân bố P. falciparum khác nhau ở các quốc gia là do KSTSR
phát triển phù hợp với từng đới khí hậu và sinh địa cảnh. Phần lớn số bệnh nhân
nhiễm P. knowlesi được phát hiện tại khu vực này [41].
Các nước trong khu vực Tây Thái Bình Dương tình hình sốt rét trong
những năm đầu thế kỷ 21 đã giảm so với những năm cuối thế kỷ 20 nhưng vẫn
còn khá nặng nề ở một số quốc gia như Papua New Guinea, Campuchia, quần
đảo Solomon. Tuy nhiên, năm 2008 có số người mắc và chết do sốt rét trong
khu vực còn cao.
1.5.2. Di biến động dân cư do chiến tranh
Nghiên cứu của Crown năm 1997 cho thấy trong một trại tị nạn (khoảng
22.000 người ở Tanzania) mỗi tuần số bệnh nhân tử vong do sốt rét là 18-20
trường hợp, phần lớn ở trẻ em dưới 5 tuổi .
Nghiên cứu tại Thailand và Campuchia năm 2014 cũng cho thấy khi giải
quyết vấn đề sốt rét cho nhóm dân di cư có thể áp dụng nhiều biện pháp can
thiệp khác nhau: phát hiện, chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời. Tuy nhiên, để
áp dụng các biện pháp can thiệp cho nhóm dân di biến động gặp nhiều khó khăn
do khó tiếp cận [68]. Một nghiên cứu khác cũng chỉ ra những người đi rừng
ngủ rẫy có nguy cơ cao bị mắc sốt rét, trong một nghiên cứu tại Campuchia
cũng chỉ ra rằng phần lớn những người mắc sốt rét liên quan đến việc đi rừng 9
[86]. Để phòng chống sốt rét có hiệu quả thì việc chẩn đoán sớm và điều trị kịp
thời của mạng lưới y tế cơ sở hết sức quan trọng, đặc biệt là y tế thôn, bản.
Nghiên cứu của Junko Yasuoka tại Campuchia cho thấy kiến thức về dịch tễ
sốt rét cũng như phòng chống véc tơ sốt rét của nhân viên y tế thôn bản còn rất
kém, như vậy sẽ ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động phòng chống sốt rét.
1.6. Tình hình sốt rét và di biến động dân cư tại Việt Nam
1.6.1. Đặc điểm nhóm dân di biến động tại Việt Nam
Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy trong giai đoạn
2004-2009 có 6,6 triệu người di cư giữa trong và ngoài tỉnh của Việt Nam. Con
số này thể hiện sự gia tăng đáng kể so với 4,5 triệu người di cư trong nước ghi
nhận từ cuộc tổng điều tra dân số năm 1999. Các số liệu thống kê cũng cho thấy
đa số người di cư là thanh niên, trong đó nữ di cư gia tăng đáng kể. Đồng thời
kết quả điều tra cũng cho thấy phần lớn người di cư không di chuyển cùng gia
đình, lý do có thể là họ chưa lập gia đình hoặc gia đình họ vẫn đang cư trú tại
địa bàn nơi họ ra đi. Hầu hết người di cư là vì lý do kinh tế bao gồm những
người tìm việc làm, những người muốn tăng thêm thu nhập và nâng cao điều
kiện sống và những người di cư theo gia đình có mục đích nêu trên [20]. Sau
5 năm từ 2010 đến 2014 dân di cư tăng lên khá nhiều, chỉ riêng số dân di cư
trong nước khoảng 5,9 triệu người, Đồng Bằng Sông Cửu Long vẫn là vùng
dẫn đầu trong cả nước về số lượng người đi nơi khác làm ăn (137,6 nghìn
người). Thực tế ngoài sức hút về việc làm thì khoảng cách cũng là một trong
những yếu tố ảnh hưởng lớn đến di cư. Đa số những người di cư chọn điểm đến
là những điểm đến gần nơi thường trú trước đây, phần lớn những người di cư
từ Đồng Bằng Sông Cửu Long chọn điểm đến là Đông Nam Bộ, gần một nửa
số người di cư từ Tây Nguyên cũng chọn điểm đến là Đông Nam Bộ [20].
Những người di cư trong nước vì lý do kinh tế không nằm trong chương
trình di cư của Chính phủ vì thế được gọi là “người di cư tự do”. Trong khi các
chương trình di cư của Chính phủ, các chương trình định cư đã giảm đáng kể
từ những năm 1990, gần đây đã có một số chương trình tái định cư vì các lý do
môi trường đã được tiến hành [36].
10
1.6.2. Di cư ngắn hạn và dài hạn
Di cư trong nước ở Việt Nam bao gồm di cư lâu dài, di cư ngắn hạn (di
cư tạm thời hay di cư mùa vụ). Số liệu quốc gia ở Việt Nam chưa thống kê
được đầy đủ về hai xu thế di cư ngắn hạn và di cư mùa vụ [20]. Các đối tượng
này gây khó khăn cho công tác quản lý và chăm sóc sức khỏe, ảnh hưởng trực
tiếp tới việc phòng chống dịch bệnh.
Tại Việt Nam, rất nhiều người di cư trong nước với mục đích tìm việc
làm tại nơi di cư đến đã tìm được công việc được trả công xứng đáng với môi
trường làm việc an toàn và họ cho biết rằng họ hài lòng với cuộc sống sau khi
di cư. Các bằng chứng cho thấy người dân di cư thường bắt đầu tìm việc làm
tại nơi đến ngay sau khi tới nơi hoặc họ đã xin việc trước khi di cư đến. Họ
thường làm việc chăm chỉ và giữ được công ăn việc làm ổn định hơn so với
người không di cư. Tuy nhiên, những người di cư thường thấy mình yếu thế
hơn so với người dân sở tại, đặc biệt là trong thị trường lao động. Những người
này thường tập trung ở một số ngành nghề nhất định và thường ít được đảm
bảo công việc hơn hoặc phải làm các công việc với mức lương thấp và thường
không được hưởng trợ cấp xã hội, bảo hiểm y tế hoặc bảo hiểm thất nghiệp nếu
họ không được ký hợp đồng lao động [20]. Như vậy dẫn tới nguy cơ người lao
động bị mắc bệnh nhưng không được điều trị, hoặc phải tự mua thuốc điều trị.
1.6.3. Di cư do biến đổi khí hậu
Báo cáo của Liên Hợp Quốc tại Việt Nam năm 2014 về di cư, tái định
cư và biến đổi khí hậu tại Việt Nam cho thấy khó khăn về kinh tế và sinh kế là
động lực trực tiếp dẫn đến di cư, các yếu tố môi trường cũng đóng vai trò hàng
đầu trong các nguyên nhân cơ bản dẫn đến di cư. Nghiên cứu tại hai tỉnh Long
An và Đồng Tháp cho thấy áp lực môi trường có ảnh hưởng lớn đến sinh kế,
và hai trong số ba nguyên nhân hàng đầu dẫn đến di cư là do khó khăn về sinh
kế và thu nhập tại các vùng di cư đi. Tại Quảng Trị, nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến di cư là vì mục đích kinh tế, tuy nhiên các yếu tố môi trường bao gồm hiện
tượng thời tiết cực đoan làm mất mùa, sinh kế trở nên khó khăn hơn đã gián
tiếp tác động đến quyết định di cư. Ngư dân nghèo tại Cà Mau đang phải đối 11
mặt với tình trạng nguồn lợi thủy sản ngày càng cạn kiệt và thời tiết trở nên
khắc nghiệt hơn. Họ đã cải thiện và phục hồi sinh kế bằng cách đa dạng hóa
các hoạt động sinh kế, di dời đến các vùng khác, thâm canh, liên kết và sản xuất
các hàng hóa đặc thù theo vùng chuyên canh [36]. Theo Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mọi công dân đều có quyền bình đẳng, bao
gồm cả người nhập cư, như quyền được làm việc, học tập, tiếp cận với các dịch
vụ y tế, tự do đi lại và cư trú. Luật Lao động và Luật Cư trú đều công nhận các
quyền này thông qua các quy định cụ thể. Tuy nhiên, Hệ thống Đăng ký Hộ
khẩu quyết định khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội và dịch vụ công ích, đất
đai và nhà ở của các hộ dân. Các quy định của hệ thống này cũng đã được đơn
giản hóa từ thập niên 90, tuy nhiên nó vẫn tạo ra những rào cản đối với những
người không thường trú (bao gồm cả người nhập cư) trong việc tiếp cận các
dịch vụ thiết yếu và các quyền cơ bản. Các hộ gia đình được phân chia thành 4
loại theo tình trạng đăng ký hộ khẩu, từ thường trú đến tạm trú, tuy nhiên một
bộ phận không nhỏ người nhập cư tạm thời tại các thành phố không đăng ký
tạm trú. Người nhập cư không có hộ khẩu, nhất là một số người tạm cư ít có cơ
hội tiếp cận với một số dịch vụ. Các thành phố xử lý vấn đề nhập cư theo nhiều
cách tiếp cận khác nhau: thành phố Hồ Chí Minh tạo điều kiện để người nhập
cư có thể tiếp cận tốt hơn với vấn đề nhà ở, trong khi Hà Nội lại áp dụng nhiều
quy định. Bản chất và quy mô di cư tại Việt Nam đã bắt đầu có những thay đổi
do biến đổi khí hậu làm cho các cú sốc và quá trình suy thoái môi trường diễn
ra ngày một nghiêm trọng hơn. Nhất là khi các hiểm họa khí hậu kết hợp với
nhau và xảy ra cùng một lúc dẫn đến phát sinh nhiều rủi ro cho sinh kế và sức
khỏe của người dân, bao gồm các nguy cơ xảy ra đại dịch. Thực tế cho thấy,
khi người di cư lao động mắc các chứng bệnh trên không những làm cho sức
khỏe của người di cư lao động suy giảm nhanh mà vấn đề sức khỏe của gia
đình, sức khỏe của cộng đồng phần nào cũng bị ảnh hưởng do mầm bệnh từ
những người di cư lao động. Ngoài ra khi di cư lao động nhiễm bệnh, khả năng
mang lại nguồn thu nhập cho gia đình không những bị mất đi mà gia đình còn
phải chịu gáng nặng chi phí chữa bệnh khiến kinh tế gia đình cũng bị giảm sút 12
nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình.…So với người không di cư,
mặc dù những người di cư có thu nhập cao hơn sau khi di cư, họ vẫn dễ bị tổn
thương về mặt kinh tế và xã hội hơn và ít được bảo vệ hơn [37], [32].
Việc tiếp cận tới nhiều dịch vụ xã hội và các thủ tục hành chính khác đều
gắn chặt với hộ khẩu, không có hộ khẩu thường trú tại nơi họ sống và làm việc,
do đó đã tạo ra một môi trường sống khó khăn và bất lợi đối với người di cư
mà hộ khẩu thường trú của họ vẫn ở nơi họ đi. Hệ thống hộ khẩu do vậy đã có
ảnh hưởng tới nhóm người di cư vốn đã dễ bị tổn thương. Vì vậy họ phải sử
dụng những nhà cung cấp dịch vụ xã hội và hỗ trợ tư nhân ví dụ như chăm sóc
y tế.
1.6.4. Thực trạng sốt rét ở nhóm dân di biến động tại Việt Nam
Nghiên cứu của Ron P. Marchand và cộng sự tại Khánh Phú - Khánh
Hòa cũng cho thấy ngay tháng đầu tiên đến làm việc người di cư đã bị nhiễm
sốt rét tại nơi đến, tỷ lệ nhiễm KSTSR của nhóm này là 1,2%, theo dõi 346
người: có 1 bệnh nhân nhiễm 3 lần và 5 người nhiễm 2 lần. Kết quả nghiên cứu
cũng cho thấy diễn biến sốt rét của nhóm dân mới di cư đến cũng liên quan với
quy luật mùa truyền bệnh tại xã [88]. Như vậy, nhóm dân mới đến có nguy cơ
mắc sốt rét cao ngay trong thời gian ngắn đến lao động tại vùng sốt rét lưu
hành.
Phân vùng sốt rét năm 2014 cho thấy 17,21% dân số sống trong vùng
nguy cơ sốt rét quay lại [10]. Trong công tác phòng chống và loại trừ sốt rét,
tại những tỉnh hiện không có mầm bệnh lưu hành nhưng có véc tơ truyền bệnh
sẽ có nguy cơ cao khi bệnh nhân mang mầm bệnh từ vùng SRLH về, là nguồn
lây nhiễm quan trọng trong cộng đồng.
Số liệu báo cáo năm 2014 của Thanh Hóa cho thấy 100% KSTSR là do
người dân đi làm ăn xa về, trong đó chủ yếu là dân đi làm thuê tại các tỉnh Bình
Phước và Đắk Lắk.
Theo báo cáo tại khoa xét nghiệm năm 2014 của TTPCSR Nghệ An cho
thấy 99,32% KSTSR là KST ngoại lai, trong đó 76,88% KST do người lao động
13
đi nước ngoài về (Lào, Campuchia, Angola), 22,45% KST sốt rét do người dân
đi làm thuê tại các tỉnh Bình Phước và Gia Lai, Đắk Lắk.
Vùng Đông Nam Bộ là khu vực thu hút người dân di cư vì có nhiều khu
công nghiệp và có một số lượng lớn đầu tư nước ngoài, đã vượt qua khu vực
Tây Nguyên về số lượng người di cư đến và tỷ suất di cư [28], việc tiếp cận với
các dịch vụ y tế nói chung cũng như phòng và điều trị sốt rét cho những nhóm
dân di cư này cần được quan tâm đầy đủ để bảo vệ sức khỏe cho dân di cư,
đồng thời cắt đứt nguồn lan truyền mầm bệnh.
1.7. Véc tơ truyền bệnh sốt rét
1.7.1. Các véc tơ chính truyền bệnh sốt rét trên thế giới
Năm 1897, muỗi Anopheles lần đầu tiên được xác định là véc tơ truyền
bệnh sốt rét, khi Ronal Ross phát hiện ra hợp tử (Oocysts) của ký sinh trùng ở
thành dạ dày muỗi. Các yếu tố để xác định một loài muỗi là vectơ của bệnh sốt
rét gồm:
- Nhiễm thoa trùng ở tuyến nước bọt (sporozoites), để phát hiện thoa
trùng có thể mổ tuyến nước bọt muỗi hoặc sử dụng kỹ thuật ELIZA để phát
hiện protein thoa trùng (Circumsprozoites protein) trong cơ thể muỗi.
- Ưa đốt người: tỷ lệ ưa đốt người cao, tần số đốt ngắn.
- Mật độ cao trong mùa sốt rét.
- Trong điều kiện thực nghiệm, ký sinh trùng sốt rét có thể phát triển
đến giai đoạn thoa trùng trong cơ thể người.
Véc tơ truyền bệnh sốt rét đã được xác định là muỗi Anopheles, họ
Culicidae. Anopheles là trung gian truyền bệnh duy nhất ở người và động vật,
chỉ có muỗi cái mới có khả năng hút máu và truyền bệnh cho người. Véc tơ
bệnh sốt rét đã được xác định là muỗi Anopheles họ Culicidea có khoảng 3200
loài được chia thành 3 họ phụ. Trên thế giới có khoảng 420 loài muỗi thuộc
giống Anopheles, trong đó có khoảng 70 loài là véc tơ truyền sốt rét cho người
trong điều kiện tự nhiên. Thực tế có khoảng 10 loài là véc tơ quan trọng truyền
bệnh sốt rét trên thế giới.
1.7.1.1. Tại châu Âu:
14
Có khoảng 18 loài Anopheles là véc tơ truyền bệnh sốt rét, trong đó một
số loài truyền bệnh sốt rét thường gặp:
+ Anopheles angeriensis: phân bố chủ yếu ở các quốc gia vùng Địa
Trung hải và Balkans, phía đông mở rộng đến Iraq, Iran, phía bắc có các nước
vùng Trung Á. Ở châu Âu: Anbania (bates, 1941), Anh (Snow at al, 1998),
Bulgaria (Gecheva, 1998), Nga (Gonostaeva, 2000), Anopheles atroparvus: có
ở Bỉ, Anh, Bun-ga-ri, Đan Mạch, Pháp, Hungary, Bồ đào Nha, Tây Ban Nha,
Thụy Sỹ, Phần Lan, Hy Lạp, Na Uy, Anopheles beklemishevi: Phân bố ở vùng
rừng Tai - Ga, Thụy Sỹ, Phần Lan (Jaenson at al, 1986). Tại Anh, có 5 loài
Anopheles đóng vai trò truyền bệnh sốt rét: Anopheles atroparvus, An.
angeriensis, An. messeae, An. claviger, An. plumbeus loài muỗi truyền bệnh
chính được tìm thấy ở vùng đầm lấy là Anopheles atroparvus.
Anopheles gambiae là véc tơ chính truyền bệnh ở châu Phi [53].
1.7.1.2. Khu vực châu Á:
Các véc tơ chính ở khu vực Đông Nam Á gồm có: An. dirus lưu hành tại
các nước lưu vực sông Mê Kông, An. balabacensis có ở đông Malaysia và nam
Philippine, An. aconitus, An. sundaicus, An. maculatus có ở Indonesia, An.
minimus là véc tơ quan trọng ở Campuchia, Lào, Việt Nam. An. sinensus phổ
biến ở Trung Quốc, Hàn Quốc. An.maculatus có ở Malaysia.An. farauti, An.
koliensis, An. punctulatusở Tây Nam - Thái Bình Dương.
1.7.1.3. Khu vực Châu Phi:
- Véc tơ truyền bệnh sốt rét ở châu Phi là An. gambiae, các loài khác
cũng là véc tơ truyền bệnh sốt rét như: An. arabiensis, An. melas, An. merus,
An. quadriannulatus, An.bwambae.
- Véc tơ truyền bệnh sốt rét chính ở châu Phi là An. gambiae và An.
arabiensis, chiếm khoảng 70 % tổng số véc tơ truyền bệnh sốt rét.
1.7.2. Véc tơ truyền bệnh sốt rét ở Việt Nam
Trong số trên 60 loài Anopheles có mặt ở Việt Nam đã phát hiện được
15 loài Anopheles là véc tơ sốt rét chính, véc tơ phụ và véc tơ nghi ngờ. Véc tơ
truyền bệnh sốt rét phát triển phụ thuộc vào nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa hàng 15
năm, đặc biệt là theo mùa vì vậy vào mùa mưa số lượng muỗi thường tăng lên
do tăng nơi sinh sống và phát triển của bọ gậy [7]. Các loài vectơ truyền bệnh
sốt rét ở Việt Nam gồm [15], [19]:
1.7.2.1. Véc tơ chính
+ An. minimus, An. dirus, An. sundaicus là ba véc tơ chính truyền bệnh
sốt rét tại Việt Nam.
+ An. minimus sống trong rừng, bìa rừng, sa van, bọ gậy sống ở ven suối
quang, nước chảy chậm, muỗi phân bố ở khu vực rừng núi trên toàn quốc. An.
minimus ưa đốt người trong nhà, sau một thời gian dài sử dụng hóa chất làm tỷ
lệ muỗi đốt người ngoài nhà tăng lên. Hoạt động đốt người của An. minimus
suốt đêm, đỉnh hoạt động từ 22 giờ đến 3 giờ sáng. Muỗi có tập tính trú đậu
trong nhà, tuy vậy vẫn có một tỷ lệ nhất định trú đậu ngoài nhà ban ngày (trong
hốc cây, hốc đất ven suối). Bằng kỹ thuật PCR đã phát hiện được 2 loài đồng
hình của An. minimus là An. minimus A và An. minimus C. An. minimus A ưa
đốt người và trú đậu trong nhà. An. minimus C ưa trú đậu ngoài nhà, ưa đốt trâu
bò và người.
+ An. dirus: vùng rừng núi từ 20 vĩ độ Bắc trở vào Nam, tại Khánh Phú
đã tìm thấy sporozoite của Plasmodium knowlesi trong tuyến nước bọt muỗi
An. dirus [29], bọ gậy sống ở vũng nước đọng, dưới bóng râm trong rừng. An.
dirus chủ yếu đốt các loại thú rừng, tuy nhiên muỗi cũng ưa đốt người cả trong
và ngoài nhà, thời gian đốt sớm hơn so với các loài khác. 7 loài thuộc phức hợp
An. dirus đã được ghi nhận: An. dirus A, B, C, D, E, An. nemophelous và An.
takasagoensis, An. dirus A và D là các véc tơ sốt rét quan trọng vì ưa đốt máu
người. Ở Việt Nam ghi nhận sự có mặt của 2 loài An. dirus A và An.
takasagoensis. Véc tơ truyền sốt rét Plasmodium knowlesi tại Việt Nam được
tìm thấy là Anopheles dirus [8].
+ An. sundaicus (An. epiroticus): vùng ven biển nước lợ và Nam Bộ.
Trong những năm gần đây có sự thay đổi về môi trường, phương thức canh tác
tại vùng ven biển Tây Nam Bộ nên đã mở rộng vùng phân bố, tăng mật độ muỗi
An. epiroticus [26]. Có 3 dạng, An.enpiroticus khác nhau: A, B và C.
16
1.7.2.2. Véc tơ phụ:
An. aconitus, An. maculatus, An. jeyporiensis: Loài muỗi này phân bố
rộng, bao gồm Ấn Độ, Myanmar, Nam Trung Quốc, ở Việt Nam muỗi phân bố
vùng đồi núi trong cả nước. An. sinensis, An. subpitus, An. vagus, An.
indefinitus sống ở ven biển miền Bắc và miền Nam. An. sinensis, An. subpitus,
An. campestris: vùng ven biển miền Nam.
1.8. Miễn dịch trong bệnh sốt rét
Miễn dịch trong bệnh sốt rét được hình thành do nhiễm ký sinh trùng tái
đi, tái lại. Theo Werndorfer (1990) miễn dịch dịch thể thu được ở người có khả
năng ức chế sự xâm nhập và nhân lên của ký sinh trùng sốt rét trong hồng cầu.
Muỗi đốt người đã có miễn dịch thì giao bào cũng bị ức chế trong quá trình
sinh sản hữu tính ở dạ dày muỗi. Trẻ sinh ra từ những bà mẹ bị sốt rét tái nhiễm
nhiều lần cũng có miễn dịch thụ động do IgG từ mẹ truyền cho trong quá trình
mang thai, nhưng miễn dịch này chỉ tồn tại từ 3 đến 6 tháng, nếu sau đó trẻ bị
mắc sốt rét thì sẽ bị sốt rét ác tính .
Bằng kỹ thuật IFA, phát hiện kháng thể đặc hiệu với ký sinh trùng sốt rét
ở vùng sốt rét lưu hành. Người ta đã chứng minh được mối tương quan tỷ lệ
thuận giữa tình trạng đáp ứng miễn dịch với tuổi. Tuổi càng cao tỷ lệ kháng thể
càng cao tỷ lệ mắc bệnh sốt rét càng thấp và ngược lại. Người có miễn dịch
thường có biểu hiện lâm sàng không điển hình, cơn sốt rét không đặc hiệu.
Người ở vùng sốt rét lưu hành có tỷ lệ kháng thể sốt rét cao và ít khi xảy ra
dịch, tỷ lệ sốt rét ác tính thấp (trừ trẻ em).
- Miễn dịch tự nhiên: người có miễn dịch tự nhiên đối với các loài ký
sinh trùng sốt rét của chim, bò sát và loài gặm nhấm. Một số nhóm người, chủng
người cũng có miễn dịch tự nhiên đối với ký sinh trùng sốt rét của người.
- Miễn dịch thu được: miễn dịch tạo thành trong bệnh sốt rét do 2 cơ
chế, cơ chế tế bào và cơ chế dịch thể. Tuy nhiên, miễn dịch trong sốt rét (cả
miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào) không bảo vệ được cơ thể tránh mắc
bệnh sốt rét mà chỉ ức chế quá trình phát triển của ký sinh trùng. Hiệu giá kháng
thể đặc hiệu giảm dần sau khi tác nhân gây bệnh bị loại khỏi cơ thể.
17
- Việc sử dụng vaccine cũng là một định hướng tốt cho phòng chống sốt
rét, chứng minh sự tồn tại lâu dài của miễn dịch. Dân từ thành thị và từ đồng
bằng khi vào vùng sốt rét lưu hành dễ mắc bệnh sốt rét và khi mắc sốt rét thì
bệnh nặng vì không có miễn dịch sốt rét, đây chính là một trong những lý do
khiến cho dân từ nơi khác đến làm thuê tại các vùng sốt rét lưu hành dễ mắc
sốt rét do không có miễn dịch. Do đó, việc tăng cường quản lý dân di biến động,
áp dụng các biện pháp phòng chống nhằm hạn chế tỷ lệ mắc và tử vong là đặc
18
biệt quan trọng.
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Người dân sống trong vùng SRLH nặng có sự di biến động tại tỉnh
Bình Phước:
+ Dân từ nơi khác đến;
+ Dân tại địa phương đi rừng, rẫy;
- Muỗi truyền bệnh sốt rét thu thập được tại các điểm nghiên cứu.
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
- Xã Bù Gia Mập và xã Đắk Ơ thuộc huyện Bù Gia Mập tỉnh Bình Phước.
-
Điều tra cắt ngang tháng 9 - 10/ 2018.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Đề tài được thiết kế bằng phương pháp nghiên cứu mô tả có phân tích.
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
2.2.2.1. Cỡ mẫu điều tra cá nhân
2 𝑛 = Z(1−∝/2)
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho một tỷ lệ hiện mắc sốt rét:
p(1 − p) d2
Trong đó:
n: Cỡ mẫu
Z 1-α/2: Hệ số tin cậy, với hệ số tin cậy 95% ta có Z 1-α/2= 1,96.
p: Tỷ lệ hiện mắc ước tính của quần thể: 0,075
d: Sai số mong muốn: 0,017.
Như vậy, cỡ mẫu được xác định 922 tuy nhiên tránh các trường hợp
không đồng ý cho mẫu xét nghiệm trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cộng
thêm 5% vào cỡ mẫu số mẫu nghiên cứu sẽ là 1000 người.
2.2.2.2. Mẫu điều tra hộ gia đình
19
- Phỏng vấn chủ hộ có người được lấy mẫu máu, tổng số dự kiến có 1000
cá nhân được lấy mẫu máu. Trung bình mỗi hộ gia đình có 4 nhân khẩu, như
vây sẽ tiến hành điều tra khoảng 250 hộ, do đó mỗi xã sẽ chọn 125 hộ, trong
nghiên cứu này chúng tôi chọn 150 hộ gia đình để phòng trường hợp những
người trong hộ gia đình đi vắng, như vậy tổng số có 300 hộ gia đình được phỏng
vấn…
2.2.2.3. Tiêu chuẩn chọn mẫu
- Tiêu chuẩn chọn mẫu cá nhân:
+ Mọi người dân sống trong 6 thôn của 2 xã Bù Gia Mập, Đăk Ơ tỉnh
Bình Phước.
+ Người dân tự nguyện đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Hộ gia đình/người không đồng ý tham gia nghiên cứu: (không cho mẫu
máu, không trả lời phỏng vấn …).
+ Người mắc bệnh tâm thần, mất trí nhớ.
2.2.2.4. Phương pháp chọn mẫu
- Chọn các xã của tỉnh: Chọn chủ đích với các điều kiện các xã phải đáp
ứng được là:
+ Trong những năm qua tình hình sốt rét phức tạp, số lượng bệnh nhân
sốt rét cao, có nhiều di biến động dân (vùng sốt rét lưu hành nặng theo phân
vùng sốt rét quốc gia năm 2017).
+ Mỗi xã chọn 3 thôn có số bệnh nhân sốt rét cao và thường xuyên đi
rừng ngủ rẫy, qua lại biên giới.
- Chọn hộ gia đình để phỏng vấn
Chọn hộ gia đình theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống.
+ Lập danh sách hộ gia đình của từng thôn tại 2 xã nghiên cứu, đánh số
thứ tự để lập khung mẫu và tính toán khoảng cách mẫu.
20
+ Khoảng cách mẫu: số hộ gia đình của 3 thôn chia 150.
+ Chọn hộ đầu tiên bằng bốc thăm ngẫu nhiên (số thứ tự nhỏ hơn khoảng
cách mẫu).
+ Chọn hộ gia đình tiếp theo để điều tra hộ đầu tiên + khoảng cách mẫu.
+ Tại mỗi hộ gia đình được chọn, tất cả các thành viên trong gia đình sẽ
được khám lâm sàng và lấy máu xét nghiệm chẩn đoán sốt rét.
2.2.3. Một số đặc điểm xã hội và tự nhiên các xã trong nghiên cứu
2.2.3.1. Xã Đắc Ơ và Bù Gia Mập
Huyện Bù Gia Mập thuộc tỉnh Bình Phước, mang đặc trưng khí hậu nhiệt
đới gió mùa với 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Nhiệt độ bình quân trong
năm cao đều từ 25,8 - 26,2 0C. Phía Bắc huyện có đường biên giới với nước
bạn Campuchia. Huyện Bù Gia Mập nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền núi
cao nguyên và vùng đồng bằng, có diện tích rừng tự nhiên và rừng cao su chiếm
>80% diện tích. Trong giai đoạn 2010 - 2015 mặc dù đã có sự đầu tư đáng kể
cho công tác phòng chống sốt rét tuy nhiên tại Bù Gia Mập sốt rét vẫn là điểm
nóng. Đặc biệt tại 2 xã Đắk Ơ và Bù Gia Mập sốt rét vẫn dai dẳng với số lượng
bệnh nhân nhiều nhất so với cả nước.
Xã Đắc Ơ có diện tích 246,9337 km², dân số năm 2015 là 3275 hộ với
số dân là 15.764 người. Đắk Ơ là một xã biên giới với số hộ đồng bào dân tộc
chiếm trên 35% với 1217 hộ và số dân là 5656 người, chủ yếu là người Stiêng.
Xã Bù Gia Mập có diện tích 23,3 km², dân số năm 2009 là 3704 người,
mật độ dân số đạt 159 người/km². Xã Bù Gia Mập có Vườn quốc gia Bù Gia
Mập với tổng diện tích 26.032 ha rừng.
Hai xã nghiên cứu là Bù Gia Mập và Đắk Ơ có đường biên giới với
Campuchia
21
Hình 2. 1. Bản đồ xã Đắk Ơ và xã Bù Gia Mập
2.2.4. Nội dung nghiên cứu
2.2.4.1. Đánh giá tình trạng mắc sốt rét và các yếu tố liên quan qua điều tra
cắt ngang
Sử dụng bộ câu hỏi thiết kế sẵn về kiến thức, thái độ và thực hành phòng
chống sốt rét, thói quen đi rừng, ngủ rẫy, qua lại biên giới và điều kiện kinh tế
xã hội sẽ được phỏng vấn chủ hộ gia đình, kết hợp với thực hiện các chuyên
môn:
- Phỏng vấn KAP chủ hộ gia đình.
- Điều tra cá nhân.
- Khám lâm sàng tất cả các thành viên hiện có mặt có mặt tại nhà và đồng
22
ý tham gia nghiên cứu.
- Lấy lam máu làm kỹ thuật nhuộm Giemsa phát hiện ký sinh trùng sốt
rét, thử test chẩn đoán nhanh, lấy máu bằng giấy thấm xét nghiệm PCR cho
các thành viên trong gia đình có chủ hộ được phỏng vấn.
- Bắt muỗi tại khu vực điều tra để xác định các loài véc tơ truyền bệnh.
2.2.4.2. Theo dõi dọc
Theo dõi dọc tình hình sốt rét tại điểm nghiên cứu. Bệnh nhân sốt rét
được lấy lam máu nhuộm Giemsa phát hiện ký sinh trùng sốt rét, thử test chẩn
đoán nhanh, lấy máu bằng giấy thấm xét nghiệm PCR và kết hợp với điều tra
cá nhân thông qua cán bộ y tế xã, thôn. Xác định các trường hợp bệnh nhân
mắc sốt rét mới và gửi số liệu báo cáo và mẫu hàng tuần về cho nhóm nghiên
cứu tại Viện.
2.2.5. Các chỉ số đánh giá
Điều tra cắt ngang nhằm mục đích: Xác định thực trạng mắc sốt rét
(SRLS, KSTSR) tại thời điểm điều tra; tìm hiểu một số đặc điểm dân số, kinh
tế xã hội và các yếu tố liên quan đến mắc sốt rét; tìm hiểu kiến thức, thái độ và
thực hành (KAP) về phòng chống sốt rét của đối tượng nghiên cứu; xác định
thành phần và véc tơ truyền bệnh sốt rét tại điểm nghiên cứu.
Các biến số cần thu thập qua điều tra cắt ngang bao gồm:
2.2.5.1. Thực trạng nhiễm ký sinh trùng sốt rét
- Tỷ lệ lam máu nhuộm giọt dày dương tính (+).
Tỷ lệ mắc sốt rét qua Số lam máu phát hiện có ký ký
kỹ thuật soi lam máu sinh trùng sốt rét
nhuộm Giemsa phát
=
x 100
Tổng số lam máu nhuộm giọt dày
hiện KSTSR (%)
- Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét phát hiện bằng kỹ thuật test nhanh
Tỷ lệ mắc sốt rét bằng
Số người có kêt quả thử test nhanh
kỹ thuật test chuẩn
(+) với ký sinh trùng sốt rét
x 100
=
đoán nhanh (%) Tổng số mẫu thử test nhanh
- Ngoài ra trong nghiên cứu còn đánh giá, phân tích tỷ lệ mắc sốt rét
theo giới, nhóm tuổi
23
Số mắc sốt rét theo nhóm tuổi, giới
Tỷ lệ mắc sốt rét theo x 100 = nhóm tuổi, giới (%) Tổng số người có ký sinh trùng
sốt rét (+)
2.2.5.2. Thực trạng mắc sốt rét lâm sàng
- Tỷ lệ người có sốt qua điều tra cắt ngang
Số người có sôt qua điều tra cắt ngang Tỷ lệ người có sôt qua x 100 = điều tra cắt ngang (%) Tổng số người điều tra
2.2.5.3. Các yếu tố liên quan
Trình độ văn hóa, kiến thức về bệnh sốt rét và các biện pháp phòng
chống, chống; Thói quen tập quán lao động sinh hoạt của người dân như đi
rừng làm nương rẫy và ở lại nơi làm việc. Mức độ giao lưu, qua lại biên giới,
đi rừng ngủ rẫy, người đi đến làm ăn tại địa điểm nghiên cứu.
- Tình trạng đi rừng làm nương rẫy và ở lại nơi làm việc.
Số người dân đi rừng làm nương Tỷ lệ người dân đi rừng rẫy và ngủ lại trong nương rẫy làm nương rẫy và ngủ = x 100 Tổng số người dân điều tra tại điểm lại trong nương rẫy (%) nghiên cứu
- Tần suất đi rừng làm nương rẫy và ở lại nơi làm việc
Tỷ lệ người dân đi rừng Số người dân đi rừng làm nương
rẫy và ngủ lại trong nương rẫy 1 tuần/1 làm nương rẫy và ngủ
lại trong nương rẫy 1
lần, 2 tuần/1 lần, 3 tuần/1lần (%)
x 100
=
tuần/1 lần, 2 tuần/1 lần,
Tổng số người dân điều tra tại điểm
3 tuần/1lần (%)
nghiên cứu
24
- Số ngày ngủ lại trong nương rẫy, rừng
Tỷ lệ người dân đi rừng Số người dân đi rừng làm nương
làm nương rẫy và ngủ rẫy và ngủ lại trong nương rẫy > 14
ngày/đợt và < 14 ngày/đợt (%) lại trong nương rẫy > = x 100 14 ngày/đợt và < 14 Tổng số người dân điều tra tại điểm
ngày/đợt (%) nghiên cứu
- Tỷ lệ giao lưu, qua lại biên giới
Số người dân có qua lại biên giới làm Tỷ lệ người dân có qua ăn, buôn bán, thăm thân lại biên giới làm ăn, buôn = x 100 Tổng số người dân điều tra tại điểm bán, thăm thân (%) nghiên cứu
- Tần suất giao lưu qua biên giới
Tỷ lệ người dân qua lại Số người dân có qua lại biên giới làm
biên giới làm ăn, buôn ăn, buôn bán, thăm thân 1tuần/1 lần, 2
bán, thăm thân 1 tuần/1 tuần/1 lần, 3 tuần/1lần = x 100 lần, 2 tuần/1 lần, 3 Tổng số người dân điều tra tại điểm
tuần/1lần (%) nghiên cứu
- Thói quen tìm kiếm dịch vụ y tế của cộng đồng khi bị sốt
Tỷ lệ người dân đến Số người dân đến trạm y tế xã, tự mua
trạm y tế xã, tự mua thuốc uống, đến y tế tư nhân khi có sốt = x 100 thuốc điều trị, đến y tế Tổng số người dân trong điều tra tại
tư nhân khi có sốt (%)
điểm nghiên cứu
- Tình hình sử dụng các biện pháp cá nhân phòng chống sốt rét
Tỷ lệ người dân sử
Số người dân sử dụng các biện pháp bảo vệ
dụng các biện pháp
cá nhân nằm màn, kem, hương xua muỗi
bảo vệ cá nhân nằm
=
x 100
Tổng số người dân trong điều tra tại điểm
màn, kem, hương xua nghiên cứu
muỗi.. (%)
25
- Tỷ lệ, thành phần, mật độ của các véc tơ truyền bệnh sốt rét tại điểm
nghiên cứu
Bằng các kỹ thuật Mồi người trong nhà, ngoài nhà; Bẫy đèn, soi chuồng
gia súc; Mồi người trong rừng....để tính toán tỷ lệ, thành phần và mật độ véc
tơ.
2.2.6. Các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu
2.2.6.1. Kỹ thuật thăm khám lâm sàng
- Đo nhiệt độ hố nách bằng nhiệt kế điện tử, mục đích để phát hiện những
trường hợp có sốt.
- Khám lách cho tất cả các đối tượng được điều tra để phát hiện những
trường hợp có lách to. Khám phát hiện lách to được thực hiện bởi bác sỹ trong
quá trình điều tra. Lách to được phân loại theo phân loại của Hackette (từ độ 0
đến độ 5).
2.2.6.2. Kỹ thuật xét nghiệm lam máu giọt đặc (giọt dày) tìm ký sinh trùng sốt
rét trong máu
- Xét nghiệm lam máu tìm KSTSR bằng lấy máu ở đầu ngón tay, làm kỹ
thuật nhuộm giọt dày nhuộm Giemsa và soi bằng kính hiển vi quang học.
- Lam máu giọt dày được lấy từ tất cả các đối tượng nghiên cứu trong
các cuộc điều tra cắt ngang và đối với những trường hợp có sốt nghi ngờ mắc
sốt rét trong quá trình thực hiện nghiên cứu.
- Lam máu sau khi để khô được nhuộm với dung dịch Giemsa 4% trong
45 phút và soi dưới kính hiển vi quang học để xác định sự có mặt của KSTSR,
xác định loài và đếm mật độ KST.
- Mật độ KSTSR được đếm và tính trên 1 mm³ máu.
- Trong điều tra cắt ngang lam máu được lấy, nhuộm và xét nghiệm bởi
các xét nghiệm viên của Viện SR-KST-CT TƯ.
- Trong quá trình thực hiện nghiên cứu theo dõi dọc, lam máu được lấy,
nhuộm và xét nghiệm bởi xét nghiệm viên làm việc tại điểm kính hiển vi xã.
Kết quả xét nghiệm lam máu của điểm kính hiển vi xã được gửi đi kiểm tra lại
ở tuyến trên theo qui định.
26
2.2.6.3. Điều tra xác định thành phần, mật độ loài muỗi truyền bệnh sốt rét
- Bắt muỗi bằng phương pháp theo thường quy của Viện Sốt rét - KST -
CTTƯ:
+ Mồi người ngoài nhà ban đêm; Mồi người trong nhà ban đêm; Mồi
người
+ Bẫy đèn trong nhà ban đêm; Bẫy đèn ngoài nhà
+ Soi trong nhà ban ngày; Soi chuồng gia súc
- Định loại muỗi, đánh giá hiệu lực diệt của hóa chất tồn lưu, thử nhạy
kháng với hóa chất theo SOPs của Viện sốt rét.
2.2.6.4. Sử dụng Smartphone báo cáo trường hợp bệnh
- Dùng điện thoại báo cáo nhanh ca bệnh có ký sinh trùng sốt rét.
- Sử dụng phần mềm Ona.oi cho điện thoại.
2.2.6.5. Kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp
Bộ câu hỏi được soạn sẵn và thử nghiệm tại thực địa trước khi tiến hành
nghiên cứu. Cán bộ điều tra thực hiện phỏng vấn được tập huấn trước khi tiến
hành nghiên cứu tại thực địa. Bộ câu hỏi được sử dụng để phỏng vấn các chủ hộ
gia đình hoặc những người đại diện cho hộ gia đình nắm rõ nhất về tình hình gia
đình và có khả năng hiểu và trả lời được các câu hỏi phỏng vấn.
2.2.7. Sai số và phương pháp loại trừ sai số
- Tuân thủ các quy định trong nghiên cứu như:
+ Tuân thủ các nguyên tắc sàng tuyển đối tượng nghiên cứu.
+ Tập huấn đầy đủ cho cán bộ điều tra, triển khai nghiên cứu thử trước
khi nghiên cứu trên toàn bộ các điểm nghiên cứu.
+ Các xét nghiệm phải được kiểm tra chéo với các kỹ thuật viên đảm bảo
trình độ lever 2 trở lên.
+ Phối hợp với cán bộ địa phương thông thạo tiếng dân tộc tham gia
phỏng vấn và phiên dịch.
2.3. Phương pháp thống kê và phân tích số liệu
- Nhập số liệu bằng EpiData và phân tích bằng Stata 12.0.
- Sử dụng các test thống kê y sinh học để phân tích số liệu như: Test t, x²..
27
2.4. Đạo đức trong nghiên cứu
- Đề cương nghiên cứu của đề tài được thông qua hội đồng đạo đức trong
nghiên cứu y sinh học của Viện Sốt rét - KST - CT TƯ.
- Có sự chấp thuận trước của đối tượng nghiên cứu. Các đối tượng tham
gia nghiên cứu ký vào bản cam kết đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định y đức trong nghiên cứu y sinh
học, như: Mô tả kỹ quyền lợi, nghĩa vụ của người tham gia nghiên cứu, trách
nhiệm của người nghiên cứu.
- Không sử dụng các số liệu nghiên cứu cho mục đích khác, chỉ phục vụ
cho y học nâng cao sức khỏe nhân dân trong địa bàn nghiên cứu.
- Thông qua nghiên cứu này đưa ra những biện pháp thích hợp trong việc
PCSR và bảo vệ sức khỏe cho nhóm dân di biến động.
28
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng bệnh sốt rét tại khu vực nghiên cứu
3.1.1. Một số thông tin về đối tượng nghiên cứu
Bảng 3. 1. Số người điều tra theo giới tại các điểm nghiên cứu
Tổng số Nam Nữ Địa điểm nghiên Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ cứu lượng (%) lượng (%) lượng (%)
Bù Gia Mập 516 50,24 232 44,85 284 55,15
Đắk Ơ 511 49,76 249 48,73 262 51,27
Cộng 1027 100 480 46,74 547 53,26
Nhận xét:
Tổng số người trong nghiên cứu là 1027, trong đó:
- Tỷ lệ nam trong nghiên cứu thấp hơn nữ (46,74% nam và
53,26% nữ).
Bảng 3. 2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi (n =1027)
< 5 tuổi 5 - 15 tuổi ≥ 15 tuổi Địa điểm nghiên Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ cứu lượng (%) lượng (%) lượng (%)
Bù Gia mập 22 4,26 100 19,38 394 76,36
Đắk Ơ 34 6,65 114 22,31 363 71,04
Cộng (n = 1.027)
56
5,45
214
20,84
757
73,71
Nhận xét:
Có sự khác biệt về tỷ lệ các nhóm người ≥ 15 tuổi, 5 -15 tuổi và < 5
tuổi, với các tỷ lệ: nhóm trên 15 tuổi: 73,71% so với 20,84% và 5,45%.
29
Bảng 3. 3. Phân bố nhóm đối tượng điều tra theo dân tộc (n =1.027)
Dân tộc Địa điểm nghiên Kinh (1) S’ tiêng (2) Khác (4) cứu % SL % SL % SL
Bù Gia mập 3,50 355 68,74 143 27,77 18
Đắk Ơ 8,20 435 85,16 34 6,64 42
Cộng (n = 1027) 60 5,85 790 76,95 177 17,20
Nhận xét:
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 11 dân tộc được điều tra tại 2 xã của tỉnh
Bình Phước, tỷ lệ dân tộc Stiêng 790 người, chiếm 76,95% và dân tộc Kinh 60
người, chiếm 5,85%. Dân tộc khác như Cao Lan, Dạ, Ê đê, Hoa, M’nông,
Mường, Nùng, Tày, Thái chiếm 17,20%. Tại xã Đắk Ơ và xã Bù Gia Mập chủ
yếu là người S’tiêng.
3.1.2. Thực trạng mắc sốt rét tại Bình Phước
3.1.2.1. Tỷ lệ bệnh nhân sốt rét lâm sàng
Bảng 3. 4. Tỷ lệ sốt rét lâm sàng (n = 1027)
Có sốt rét lâm sàng Số điều Tên xã tra Số lượng Tỷ lệ (%)
516 59 11,43 Bù Gia Mập
511 11 2,15 Đắc Ơ
1.027 70 6,82 Chung
< 0,05
Giá trị p
Nhận xét:
Tỷ lệ sốt rét lâm sàng chung của hai xã trong 2 tuần qua là 6,82%
(70/1.027).
Có sự khác biệt về tỷ lệ sốt rét lâm sàng tại hai xã huyện Bù Gia Mập
tỉnh Bình Phước với các tỷ lệ: xã Đắc Ơ có tỷ lệ sốt rét lâm sàng thấp hơn xã
Bù Gia Mập: 2,15% so với 11,43% với p < 0,05.
3.1.2.2. Tỷ lệ, phân bố bệnh nhân sốt rét lâm sàng
30
3,12
Không mắc sốt rét
Có mắc sốt rét
96,88
Hình 3. 1 .Tỷ lệ sốt rét chung tại các điểm nghiên cứu ( n = 1027)
Nhận xét:
Tỷ lệ mắc sốt rét lâm sàng chung ở đối tượng nghiên cứu là 3,12%.
Bảng 3. 5. Phân bố bệnh nhân mắc sốt rét tại các xã tìm thấy ký sinh
trùng sốt rét trong máu (n = 1027)
Tình trạng nhiễm ký sinh trùng sốt rét Điểm nghiên cứu Số xét nghiệm Số (+) Tỷ lệ (%)
516 6 1,16 Xã Bù Gia Mập (1)
511 26 5,09 Xã Đắc Ơ (2)
1027 32 3,12 Chung
< 0,05 Giá trị p
Nhận xét:
Có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở xã Đắc Ơ
31
so với các xã Bù Gia Mập với các tỷ lệ 5,09% so với 1,16%, p < 0,05.
3.1.2.3. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét theo giới, theo lứa tuổi ở từng thôn bản
Bảng 3. 6. Tỷ lệ BNSR phân bố theo thôn bản điều tra
KST
Xã N TT Tên thôn SL SL Tỷ lệ %
Bù Gia Mập
Đắk Ơ
1 2 3 4 5 6 Bù Lư Bù Rên Bù Nga Thôn 10 Bù Bưng Bù Khơn Tổng 200 159 157 161 165 185 1027 Sốt lâm sàng Tỷ lệ % 10,50 21,38 2,55 1,24 4,24 1,08 6,82 p<0,05 21 34 4 2 7 2 70 2 3 1 5 13 8 32 1,0 1,9 0,6 3,1 7,9 4,3 3,12 p<0,05
Nhận xét:
Tỷ lệ có sốt trong 2 tuần qua là 70 người (6,82%) trong tổng số 1.027
người được điều tra. Phân bố sốt rét lâm sàng không đồng đều giữa các thôn,
thôn Bù Rên có tỷ lệ nhiễm sốt rét lâm sàng cao nhất (21,38%), thấp nhất tại
thôn Bù Khơn (1,08%). Tỷ lệ nhiễm KSTSR ở thôn Bù Bưng cao nhất 7,9%
(13 trường hợp) và thấp nhất là thôn Bù Nga phát hiện 1 trường hợp nhiễm
18,75
KSTSR.
81,25
P.falciparum P.vivax
Hình 3. 2. Cơ cấu thành phần loài ký sinh trùng sốt rét tại điểm
nghiên cứu
32
Nhận xét:
Tại khu vực nghiên cứu phát hiện 2 loài ký sinh trùng sốt rét là
P. falciparum và P. vivax, trong đó nhiễm P. falciparum đơn thuần chiếm
tỷ lệ 81,25% (26 P. falciparum, 6 P. vivax)
Bảng 3. 7. Tỷ lệ người nhiễm KSTSR có sốt
Sốt rét Có (n=32) Không (n=995)
p SL % SL % Tình trạng sốt
Có 12 17,14 58 82,86
p=0,000 Không 20 2,09 937 97,91
Chung
32
3,12
995
96,88
Nhận xét:
Tỷ lệ người nhiễm KSTSR có sốt là 17,14% (12/70) cao hơn tỷ lệ người
nhiễm KSTSR không có sốt 2,09% (20/937), có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Trong nhóm có KSTSR, tỷ lệ người có sốt trong nhóm có mang KSTSR
là 37,5% (12/32) và tỷ lệ người không có sốt trong nhóm mang KSTSR là
67,5% (20/32); như vậy tỷ lệ người nhiễm KSTSR không có sốt cao hơn người
nhiễm KSTSR có sốt và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 3. 8. Tỷ lệ người nhiễm KSTSR theo nhóm dân tộc
Kinh S’tiêng Dân tộc khác
p
Kết quả xét nghiệm KSTSR
SL
%
SL
%
SL
%
Dương tính
2
3,85
29
3,63
1
0,57
p=0,102
Âm tính
50
96,15 770
96,37
175
99,43
Chung
52
100,0 799
100,0
176
100,0
33
Nhận xét:
Tỷ lệ người kinh mắc SR là 3,85%, người S’tiêng là 3,63%, nhóm dân
tộc khác là 0,57%. Như vậy, nhóm dân tộc S’tiêng có tỷ lệ mắc SR không khác
biệt nhiều so với các nhóm dân tộc khác.
- Tỷ lệ tìm thấy ký sinh trùng sốt rét theo giới:
Bảng 3. 9. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét theo giới (n = 1027)
Tình trạng sốt rét
Giới tính Số xét nghiệm Số có KST sốt Tỷ lệ (%)
rét
21 Nam 481 4,37
11 Nữ 546 2,02
32 Chung 1.027 3,12
Giá trị p P<0,05
Nhận xét:
Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở nam cao hơn ở nữ, tuy nhiên sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê, với tỷ lệ 4,37% so với 2,02%, p < 0,05.
- Tỷ lệ tìm thấy ký sinh trùng sốt rét theo lứa tuổi:
Bảng 3. 10. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét theo tuổi (n = 1027)
Tình trạng sốt rét
Nhóm tuổi
Số xét nghiệm
Số có KST sốt
Tỷ lệ (%)
rét
270
5
Từ 0 - 14 tuổi
1,85
757
27
≥ 15
3,57
1027
32
Chung
3,12
> 0,05 Giá trị p
Nhận xét:
34
Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở nhóm người ≥ 15 tuổi cao hơn nhóm
người 0 -14 tuổi, tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê, với các giá
trị 3,57% so với 1,85%, p > 0,05.
3.2. Một số yếu tố liên quan mắc sốt rét tại vùng sốt rét lưu hành nặng có
dân di biến động tại Bình Phước
3.2.1. Phân bố nhóm dân di biến động, trình độ học vấn, thu nhập hộ gia
đình:
Bảng 3. 11. Phân bố nhóm dân di biến động
Điểm Tổng số Dân bản địa Dân từ nơi khác đến
nghiên cứu người Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
Bù Gia Mập 516 359 69,57 157 30,43
Đắk Ơ
511
349
68,30
162
31,70
Cộng 1.027 708 68,93 319 31,06
Nhận xét:
Trong 2 điểm nghiên cứu với 1027 người, có 319 người di cư từ các xã
khác trong tỉnh và từ tỉnh khác đến chiếm tỷ lệ 31,06%.
Bảng 3. 12. Trình độ học vấn của chủ hộ đại diện gia đình (n = 300)
Trình độ học vấn
Địa điểm Mù chữ Tiểu học TH cơ sở THPT trở lên
nghiên cứu Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
lượng (%) lượng (%) lượng (%) lượng (%)
37,3 Bù Gia mập
56
52
34,66
33
22
9
6
3
23,3
Đắk Ơ
35
63
42
38
25,33
14
9,3
3
Cộng (n =
91
30,33
115
38,33
71
23,66
23
7,65
300)
35
Nhận xét:
Trong tổng số 300 chủ hộ được phỏng vấn thì số người không biết chữ
khá cao chiếm 30,3%; chủ hộ có trình độ học vấn bậc tiểu học: 38,33%; số
người có trình độ học vấn từ trung học phổ thổng trở lên ít: 7,65%.
3.2.2. Đặc điểm nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu
Với 300 hộ gia đình trong nghiên cứu hầu hết là đồng bào thiểu số với
nghề làm nương rẫy, đi rừng khai thác lâm sản và buôn bán qua biên giới. Kết
quả nghiên cứu như sau:
- Tỷ lệ đi rừng, đi rẫy, qua lại biên giới
Bảng 3. 13. Tỷ lệ hộ gia đình có người đi rừng, đi rẫy và qua lại biên giới
Gia đình có Gia đình có Gia đình có người qua lại Điểm nghiên người đi rừng người đi làm rẫy
biên giới
cứu
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
lượng (%) lượng (%) lượng (%)
Bù Gia Mập 165 31,98 494 95,74 41 7,95
Đắk Ơ 218 42,66 405 79,26 31 6,07
Cộng 383 37,29 899 87,54 72 7,01
Giá trị p < 0,01 < 0,01 > 0,05
Nhận xét:
Tỷ lệ gia đình có người làm nương rẫy cao nhất 87,54%, tiếp đến là tỷ lệ
hộ gia đình có người đi rừng 37,29%, chỉ có 7,01% số hộ gia đình có người qua
lại biên giới làm ăn buôn bán.
Có sự khác biệt về tỷ lệ người đi rừng, gia đình có người đi làm rẫy giữa
2 xã với p <0,01.
Bảng 3. 14. Tần suất đi làm rẫy trong quần thể nghiên cứu
tháng/lần
2 (2)
3 tháng/lần(3)
Địa điểm nghiên cứu
Bù Gia Mập Đắk Ơ
1 tháng/lần (1) Tỷ lệ (%) 75,91 90,62
Số lượng 375 367
Số lượng 2 29
Tỷ lệ (%) 0,40 7,16
Số lượng 7 2
Tỷ lệ (%) 1,42 0,49
>3 tháng/lần(4) Tỷ lệ (%) 22,27 1,73
Số lượng 110 7
36
742 82,54 31 3,45 9 1,00 117 13,01
37
Cộng Giá trị p < 0,01
Nhận xét:
Khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ đi làm nương rẫy 1 tháng/1 lần
so với 2 tháng/1 lần, 3 tháng/1 lần và > 3 tháng/1 lần, với các giá trị 82,54% so
với 3,45%, 1,00% và 13,01%, với p < 0,01.
Bảng 3. 15. Tần suất đi rừng trong quần thể nghiên cứu
1 tháng/lần (1) 2 tháng/lần(2) 3 tháng/lần(3) >3 tháng/lần(4) Địa điểm Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ nghiên cứu lượng (%) lượng (%) lượng (%) lượng (%)
Bù Gia mập 93 56,36 15 9,09 34 20,61 23 13,94
149 68,35 29 13,30 9 4,13 31 14,22 Đắk Ơ
Cộng 242 63,19 44 11,49 43 11,23 54 14,10
Giá trị p
< 0,01
Nhận xét:
Khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ đi rừng 1 tháng/1 lần so với 2
tháng/1 lần, 3 tháng/1 lần và > 3 tháng/1 lần, với các giá trị 63,19% so với
11,49%, 11,23% và 14,10%, với p < 0,01.
3.2.3. Thực trạng về kiến thức hiểu biết về bệnh sốt rét
- Hiểu biết về nguyên nhân gây bệnh sốt rét:
Bảng 3. 16. Hiểu biết về nguyên nhân gây bệnh sốt rét
Nguyên nhân gây bệnh sốt rét Địa điểm Không biết (1) Do ruồi (2) Do ở bẩn (3) Do muỗi (4) nghiên cứu Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
Bù Gia mập
112
21,71
18
3,49
3
1,99
383
74,22
3
0,59
16
3,13
0
0
448
87,67
Đắk Ơ
115
34
3
1
Cộng
11,20
3,31
831
80,92
Giá trị p
< 0,01
> 0,05
< 0,01
< 0,01
38
Nhận xét:
Tỷ lệ người dân biết nguyên nhân sốt rét do muỗi đốt khá cao 80,92%.
Khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hiểu biết về bệnh sốt rét do muỗi đốt
so với không biết, do ruồi, do ở bẩn, với các giá trị 80,92% so với 11,20%,
3,31% và 1,00%, với p < 0,01.
- Hiểu biết về triệu chứng của bệnh sốt rét
Triệu chứng bệnh sốt rét có rất nhiều, trong nghiên cứu này chỉ tập
trung vào các triệu chứng điển hình là: Sốt cao, rét run, khát nước vã mồ hôi,
đau đầu và buồn nôn.
Bảng 3. 17. Hiểu biết về triệu chứng của bệnh sốt rét
Triệu chứng Điểm
nghiên Sốt cao (1) Rét run (2) Khát nước(3) Đau đầu (4) Buồn nôn
cứu SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
10 Bù Gia Mập 67,55 75 49,67 44 29,14 5 3,31 33 21,85 2
13 Đắk Ơ 89,33 93 62,00 122 81,33 16 10,67 25 16,67 4
Cộng 236 78,44 168 55,83 166 55,23 21 6,99 58 19,26
Giá trị p < 0,01
Nhận xét:
Khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ chủ hộ biết các biểu hiện của bệnh
sốt rét với các giá trị sốt cao, rét run, khát nước, đau đầu và buồn nôn, với các
giá trị tương ứng: 78,44% so với 55,83%, 55,23%, 6,99% và 19,26%, với p <
0,01.
- Hiểu biết về phòng chống bệnh sốt rét
39
Bảng 3. 18. Hiểu biết về biện pháp phòng bệnh sốt rét (n = 300)
Nằm
Màn
Phun
Kem
Hun
Hương
Cúng
Cách phòng bệnh sốt rét Địa điểm
màn (1)
tẩm (2)
thuốc (3)
xua (4)
khói (5)
xua (6)
ma(7)
nghiên cứu
103
37
25
2
4
2
0
Bù Gia mập
133
56
97
3
3
1
0
236
93
122
5
7
3
0
Đắk Ơ
78,66
31
40,66
1,66
2,33
1
0
Cộng
Tỷ lệ
< 0,01
Giá trị p
Nhận xét:
Số người biết phòng bệnh sốt rét bằng nằm màn là 78,66%, bằng phun
thuốc là 40,66%, sử dụng màn tẩm là 31%, rất ít người dùng hương xua và kem
xua để phòng bệnh sốt rét.
Khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa sử dụng biện pháp nằm màn so với
màn tẩm, phun thuốc, kem xua, hun khói, hương xua và cúng ma, với các tỷ lệ:
78,66% so với 31%, 40,66%, 1,66%, 2,33%, 1%, với p < 0,01.
3.2.4. Thực hành của người dân về phòng chống sốt rét
Bảng 3. 19. Tỷ lệ bao phủ màn tại các điểm nghiên cứu
Tình trạng bao phủ màn Điểm nghiên Đủ màn (< 2 người/màn) Thiếu màn (>2 người/màn) cứu Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
Bù Gia mập (1) 98 64,90 53 35,10
Đắk Ơ (2)
109
72,67
42
28,00
Cộng
207
68,78
95
31,55
Giá trị p
< 0,05
Nhận xét:
Kết quả nghiên cứu cho thấy 68,78% hộ gia đình có đủ màn để sử
dụng, tỷ lệ thiếu màn chung vẫn khá cao 31,55%.
- Thực hành nằm màn
40
Trong nghiên cứu đánh giá theo các mức độ: Thường xuyên ngủ màn,
không thường xuyên và không ngủ màn. Kết quả như sau:
Bảng 3. 20. Tỷ lệ thường xuyên ngủ màn
Thường xuyên Không thường Không ngủ Điểm ngủ màn (1) xuyên (2) màn (3) Tổng số nghiên cứu hộ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
lượng % lượng % lượng %
Bù Gia mập 97 64,66 50 33,33 3 2 150
150 Đắk Ơ 41 27,33 98 65,33 11 7,33
Cộng 195 65 61 30,33 44 14,66 300
Giá trị p < 0,01
Nhận xét:
Tỷ lệ hộ gia đình thường xuyên ngủ màn là 65%. Khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa tỷ lệ ngủ màn thường xuyên so với không thường xuyên ngủ màn
và không ngủ màn, với các tỷ lệ 65 % so với 30,33% và 14,66%, với p < 0,01.
3.2.5. Liên quan giữa các yếu tố di biến động dân cư với mắc sốt rét
- Qua lại biên giới:
Bảng 3. 21. Liên quan giữa qua lại biên giới với mắc sốt rét
Tình trạng mắc sốt rét Có, không qua lại Tổng
biên giới Có mắc sốt rét Không mắc sốt rét
Có 5 27 32
Không
27
928
995
1027
OR =6,36, CI95% (2,27-17,79), p < 0,05
Nhận xét:
Nguy cơ mắc sốt rét của người qua lại biên giới có tỷ lệ mắc sốt rét cao
hơn 6,36 lần những người không qua lại biên giới sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê.
- Đi rừng, ngủ rừng với mắc sốt rét
41
Bảng 3. 22. Liên quan giữa đi rừng, ngủ rừng với mắc sốt rét
Tình trạng mắc sốt rét Có đi rừng ngủ Tổng
rừng Có mắc sốt rét Không mắc sốt rét
362 383 21 Có
633 644 11 Không
995 1.027 32 Tổng
OR = 3,33, CI95% (1,59-7,00), p < 0,05
Nhận xét:
Có liên quan giữa yếu tố đi rừng ngủ rừng với tình trạng mắc sốt
rét, với OR = 3,33, CI95% (1,59-7,00), p < 0,05
Bảng 3. 23. Liên quan giữa thời gian đi rừng, ngủ rừng với mắc sốt rét
Tình trạng mắc sốt rét Số ngày đi rừng Tổng
ngủ rừng Có mắc sốt rét Không mắc sốt rét
116 121 5 ≥ 14 ngày
699 714 15 < 14 ngày
815 835 20 Tổng
OR = 2,00, CI95%(0,71 – 5,63), p < 0,05
Nhận xét:
Nguy cơ mắc sốt rét ở người đi rừng, ngủ rừng ≥ 14 ngày cao gấp 2 lần
người ngủ rừng < 14 ngày, với giá trị OR = 2,00, CI95%(0,71 – 5,63), p < 0,05
- Liên quan giữa làm việc trong rừng với mắc sốt rét
42
Bảng 3. 24. Liên quan giữa làm nương rẫy, trang trại, lâm nghiệp trong
rừng với nhiễm ký sinh trùng sốt rét
Tình trạng nhiễm sốt rét
Tình trạng làm nương rẫy, Có nhiễm Không nhiễm Tổng trang trại, trong rừng KST sốt rét KST sốt rét
Có làm rừng 26 578 604
Không làm 6 417 595
Tổng 32 995 1027
OR = 3,12, CI95%(1,27 – 7,66), p < 0,01
Nhận xét:
Nguy cơ mắc sốt rét ở người có làm nương rẫy, trang trại, lâm nghiệp
trong rừng cao gấp 3,12 lần người không làm, với OR = 3,12, CI95%(1,27 –
7,66), p < 0,01.
3.2.6. Liên quan giữa các yếu tố dân di cư
+ Tình trạng di cư
Bảng 3. 25. Mối liên quan giữa tình trạng dân di cư với mắc sốt rét
Dân di cư Tổng
Tình trạng nhiễm sốt rét Có nhiễm KST sốt rét Không nhiễm KST sốt rét
Dân từ nơi khác đến Dân bản địa Tổng 8 24 32 311 684 995 319 708 1027
43
OR = 0,73, CI95%(0,32-1,65) p > 0,05
Nhận xét:
Chưa tìm thấy liên quan giữa dân di cư từ nơi khác đến với nhiễm ký
sinh trùng sốt rét, với giá trị OR = 0,73, CI95%(0,32-1,65) p > 0,05
+ Thời gian di cư
Bảng 3. 26. Mối liên quan giữa thời gian di cư với mắc sốt rét
Tình trạng nhiễm sốt rét
Thời gian di cư Có nhiễm mắc sốt Không mắc sốt Tổng
rét rét
≥ 15 ngày 281 286 5
< 15 ngày 30 33 3
Tổng 311 319 8
OR = 0,71, CI95%(0,16-3,03), p > 0,05
Nhận xét:
Chưa tìm thấy liên quan giữa dân di cư > 15 ngày với mắc sốt rét, với
các giá trị OR = 0,71, CI95%(0,16-3,03), p > 0,05.
3.2.7. Liên quan giữa kiến thức, thái độ phòng bệnh với tình trạng mắc sốt
rét tại các điểm nghiên cứu
- Kiến thức về phòng chống sốt rét
Bảng 3. 27. Liên quan giữa hiểu biết về nguyên nhân gây bệnh sốt rét với
tình trạng mắc sốt rét
Tình trạng nhiễm sốt rét Hiểu biết nguyên Không mắc sốt Tổng
nhân mắc sốt rét
Có mắc sốt rét
rét
668
696
28
Không biết
327
331
4
Có biết
995
1027
32
Tổng
OR = 3,42, CI95%(1,19-9,85), p < 0,05
44
Nhận xét:
Có mối liên quan giữa hiểu biết về nguyên nhân gây bệnh sốt rét với tình
trạng mắc sốt với giá trị OR = 3,42, CI95%(1,19-9,85), p < 0,05.
- Liên quan giữa biết sốt rét có thể phòng chống được với mắc sốt rét
Bảng 3. 28. Liên quan giữa biết sốt rét có thể phòng chống được với
mắc sốt rét
Tình trạng nhiễm sốt rét Hiểu biết sốt rét có Không mắc sốt Tổng thể phòng chống được Có mắc sốt rét rét
6 345 351 Không biết
26 750 776 Có biết
32
995
1027
Tổng
OR = 0,50, CI95%(0,20-1,23), p > 0,05
Nhận xét:
Chưa tìm thấy liên quan giữa hiểu biết sốt rét có thể phòng tránh được
với tình trạng mắc sốt rét với OR = 0,5, CI95%(0,20-1,23), p > 0,05.
3.2.8. Thực hành phòng bệnh của người dân phòng chống mắc sốt rét
- Biện pháp phòng tránh muỗi khi ngủ trong rẫy
Bảng 3. 29. Biện pháp bảo vệ khi ngủ tại rẫy
Số Nằm võng (1) Nằm màn (2) Không dùng (3) Địa điểm người có Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ nghiên cứu ngủ rẫy lượng (%) lượng (%) lượng (%)
Bù Gia Mập
145
18
12,41
55
37,93
72
49,66
Đắk Ơ
82
2
2,44
15
18,29
65
79,27
Cộng
227
20
7,2
70
28,11
137
64,46
Giá trị p
< 0,01
45
Nhận xét:
Tỷ lệ không sử dụng màn, võng khi ngủ trong rẫy còn rất cao (64,46%).
Có sự khác biệt về tỷ lệ nằm màn so với nằm võng và không sử dụng khi
ngủ trong rẫy, với các tỷ lệ 28,11% so với 7,2% và 64,46%, với p < 0,01.
- Biện pháp phòng tránh muỗi đốt khi ngủ trong rừng
Bảng 3. 30. Biện pháp phòng tránh muỗi đốt khi ngủ trong rừng
Số người Nằm võng (1) Nằm màn (2) Không sử dụng (3) Địa điểm ngủ rừng Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ nghiên cứu lượng (%) lượng (%) lượng (%)
42 29 69,05 9 21,43 4 9,52 Bù Gia mập
34 14 40,00 13 37,14 7 20,00 Đắk Ơ
76
43
54,52
22
29,28
11
14,76
Cộng
<0,05 Giá trị p
Nhận xét:
Tỷ lệ nằm màn cao nhất 63,37%, vẫn còn 9,31% không sử dụng biện
pháp gì để phòng muỗi đốt.
Khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ nằm màn so với nằm võng và
không sử dụng biện pháp gì, với các tỷ lệ 28,28% so với 54,52% và 14,76%,
với p < 0,05
3.2.9. Thói quen lựa chọn dịch vụ y tế khi bị sốt
Bảng 3. 31. Thói quen lựa chọn dịch vụ y tế khi bị sốt
Địa điểm nghiên cứu
Bù Gia Mập Đắk Ơ
Đến cơ sở y tế công (1) Tỷ lệ Số (%) lượng 72,19 109 83,44 126 77,81 235 Đến cơ sở y tế tư nhân (2) Tỷ lệ (%) 1,32 27,81 14,56
Số lượng 2 42 44
Mua thuốc tự điều trị (3) Số lượng 1 75 76
Tỷ lệ (%) 0,66 49,67 25,16
Cúng ma/ không biết (4) Tỷ lệ (%) 25,83 0,00 12,91
Số lượng 39 0 39
< 0,01
Cộng Giá trị
46
Nhận xét:
Có khác biệt giữa tỷ lệ người dân khi bị sốt đến với y tế nhà nước so với
tự mua thuốc uống, đến Y tế tư nhân và cúng ma với các giá trị 77,81% so với
25,16%, 14,56% và 12,91%, với p < 0,01.
Bảng 3. 39. Tổng hợp các yếu tố phân tích giữa các yếu tố nguy cơ
và liên quan với mắc sốt rét
OR (95%CI), p Biến số phân tích Có liên
liên quan với mắc quan
sốt rét
Đi rừng, ngủ rừng OR = 3,33, CI95% (1,59-7,00), p < 0,05 Có
Thời gian đi rừng, OR = 2,00, CI95%(0,71 – 5,63), p < 0,05 Có
ngủ rừng
Qua lại biên giới OR =6,36, CI95% (2,27-17,79), p < 0,05 Có
Làm việc trong rừng OR = 3,12, CI95%(1,27 – 7,66), p < 0,01 Có
Hiểu biết nguyên OR = 3,42, CI95%(1,19-9,85), p < 0,05 Có
nhân bệnh sốt rét
Hiểu biết bệnh thể OR = 0,50, CI95%(0,20-1,23), p > 0,05 Không
phòng chống được
Tình trạng dân di OR = 0,73, CI95%(0,32-1,65) p > 0,05 Không
Thời gian di cư OR = 0,71, CI95%(0,16-3,03), p > 0,05 Không
Nhận xét:
Đã xác định có 4 yếu tố liên quan với tình trạng mắc sốt rét là:
- Qua lại biên giới; Làm việc trong rừng; Hiểu biết nguyên nhân bệnh
sốt rét; Thời gian đi rừng, ngủ rừng.
3.2.10. Véc tơ truyền bệnh sốt rét tại các điểm nghiên cứu
Tại xã Đắk Ơ, bằng các phương pháp điều tra đã thu thập được 07 loài
Anopheles. Các loài muỗi thu thập được chủ yếu bằng phương pháp soi chuồng
gia súc ban đêm. Thu thập được véc tơ truyền bệnh sốt rét chính An.dirus bằng
phương pháp mồi người trong rừng có mật độ đốt mồi 0,17 con/ người/ đêm.
47
Ngoài ra, thu thập được véc tơ phụ An. maculatus ở phương pháp soi chuồng
gia súc ban đêm với mật độ 0,06 con/ giờ/ người.
Tại xã Bù Gia Mập thu thập được 05 loài Anopheles. Đã thu thập được
véc tơ truyền bệnh sốt rét chính An. dirus bằng phương pháp mồi người trong
48
rừng có mật độ đốt mồi 0,08 con/ người/ đêm.
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN
1. Thực trạng bệnh sốt rét tại khu vực nghiên cứu
Huyện Bù Gia Mập thuộc tỉnh Bình Phước, mang đặc trưng khí hậu nhiệt
đới cận xích đạo gió mùa với 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Nhiệt độ
bình quân trong năm cao đều và ổn định từ 25,8 - 26,2 0C. Đất đai ở huyện Bù
Gia Mập rất màu mỡ, có khả năng thích nghi đối với nhiều loại cây trồng đặc
biệt là các loại cây công nghiệp như: cao su, cà phê, điều và tiêu. Tại đây là vựa
cao su, cây điều lớn nhất của tỉnh Bình Phước.
Tại các xã Đắk Ơ và Bù Gia Mập có đường biên giới tiếp giáp với Cam
Pu Chia, người dân tại đây thường xuyên giao lưu qua lại biên giới tuy nhiên
còn nhiều khó khăn trong việc quản lý dân di cư qua lại biên giới. Nhìn chung
điều kiện khí hậu tự nhiên tại khu vực nghiên cứu thuận lợi cho côn trùng đặc
biêt là muỗi phát triển mạnh [36].
Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn 300 hộ gia đình, điều tra 1027 cá nhân
và lấy mẫu xét nghiệm sốt rét. Trong đó, xã Bù Gia Mập 516 người chiếm
50,24%, xã Đắc Ơ 511 người chiếm 49,76%. Trong đó 73,71% nhóm đối tượng
nghiên cứu trên 15 tuổi, 61 người tuổi trên 60. Số lượng nữ được phỏng vấn và
lấy máu xét nghiệm chiếm 53,26 %, tỷ lệ nam và nữ được điều tra tương đương
nhau và không có sự khác biệt (p > 0,05). Đảm bảo cho nghiên cứu đáp ứng
tính khoa học, mẫu được lấy ngẫu nhiên tại quần thể bằng cách đánh số nhà và
chọn ngẫu nhiên hộ gia đình có tên trong danh sách.
Khu vực nghiên cứu có 11 dân tộc cùng sinh sống, hầu hết là người dân
tộc thiểu số, đối tượng được điều tra phỏng vấn chủ yếu là người dân tộc S’tiêng
76,95%, còn lại là một số dân tộc khác như Kinh, Tày, Nùng, Hoa…..
Kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ bị nhiễm sốt rét chung tại các điểm nghiên
cứu là 3,12%, ở xã Bù Gia Mập tỷ lệ mắc sốt rét là 11,43% cao hơn so với xã
Đắc Ơ, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Tại các điểm nghiên cứu có 11
dân tộc sinh sống, trong đó chủ yếu là người Stiêng. Kết quả nghiên cứu tỷ lệ
49
mắc sốt rét ở nhóm dân tộc Stiêng không khác biệt nhiều so với các nhóm dân
tộc khác.
Tại khu vực nghiên cứu chỉ phát hiện được 2 loài ký sinh trùng sốt rét
gây bệnh ở người là P. falciparum và P. vivax, tỷ lệ bệnh nhân nhiễm P.
falciparum chiếm 81% số bệnh nhân nhiễm P. vivax là 19%.
2. Một số yếu tố liên quan ở vùng sốt rét lưu hành có dân di biến động tại
Bình Phước
Theo phân vùng dịch tễ sốt rét năm 2014 huyện Bù Gia Mập thuộc
vùng sốt rét lưu hành nặng [10], đặc biệt tại các tỉnh nghiên cứu số bệnh
nhân sốt rét có ký sinh trùng thường xuyên cao hơn nhiều so với các tỉnh
khác [4], [5].
Theo phân loại của Chính phủ về chuẩn nghèo năm 2015 [6], nhìn chung
dân sống tại các điểm nghiên cứu chủ yếu là hộ nghèo và cận nghèo, xã Đắk Ơ,
xã Bù Gia Mập tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo chiếm 92,8% và 94% số hộ gia
đình được điều tra của xã. Chỉ có 6,0% - 7,2% hộ gia đình có mức sống từ trung
bình trở lên. So với kết quả đánh giá hộ nghèo và cận nghèo của cả nước năm
2017 là 13,64%; Tỷ lệ hộ nghèo tại Bình Phước 5,37%, thì tỷ lệ hộ nghèo tại
các điểm nghiên cứu cao hơn, mặc dù 2 huyện được nghiên cứu không thuộc
trong danh sách 64 huyện nghèo của cả nước [3]. Kết quả điều tra cho thấy khu
vực nghiên cứu thuộc vùng khó khăn, thu nhập của người dân thấp, tỷ lệ hộ
nghèo và cận nghèo cao.
Trong nhóm nghiên cứu số người từ nơi khác đến làm ăn chiếm tỷ lệ khá
cao 31,06%, trong đó cao nhất là xã Đắk Ơ chiếm 31,7%, xã Bù Gia Mập là
30,43%. Đây là 2 xã có tình hình sốt rét phức tạp, luôn là điểm nóng về sốt rét
trong nhiều năm qua.
Công tác phòng chống sốt rét tại đây mặc dù đã được các chương trình
dự án quan tâm đầu tư nhưng số bệnh nhân sốt rét vẫn giảm rất ít. Hàng năm
công tác truyền thông giáo dục sức khỏe và phòng chống sốt rét được tăng
cường trên các phương tiện truyền thông như loa đài, tranh ảnh, tờ rơi. Qua
50
phỏng vấn kiến thức của chủ hộ gia đình tỷ lệ người biết nguyên nhân gây bệnh
sốt rét là do muỗi truyền chiếm 80,92%. Tỷ lệ này cao hơn so với với nghiên
cứu của tác giả Nguyễn Xuân Xã tại Nam Trà My có tỷ lệ người biết nguyên
nhân gây bệnh sốt rét là 68,3% [31]. Nghiên cứu của Trần Thanh Dương và
cộng sự tại Đắk Nông cho thấy kết quả: tỷ lệ người dân biết nguyên nhân gây
bệnh sốt rét là do muỗi chiếm 66,7%, tỷ lệ biết đúng nguyên nhân truyền bệnh
là 48% [12]. Quỹ toàn cầu phòng chống sốt rét Việt Nam năm 2016 cho kết
quả cao hơn với 92,3% người trả lời muỗi là nguyên nhân gây bệnh trong tổng
số 5.412 người [21].
Bình Phước là tỉnh thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng, tuy nhiên số người
biết các triệu chứng của bệnh sốt rét không cao, tỷ lệ chủ hộ biết các biểu hiện
của bệnh sốt rét có sốt cao là 78,44%, cao nhất là xã Đắk Ơ 89,33%; Chỉ 55,83%
chủ hộ biết khi bị sốt rét thì có biểu hiện rét run. 6,99% chủ hộ biết sốt rét có
bị đau đầu. Tỷ lệ số người biết các triệu chứng của bệnh sốt rét trong nghiên
cứu của chúng tôi còn khá khiêm tốn so với các nghiên cứu khác. Nghiên cứu
của Nguyễn Quý Anh (2005 và 2006) tại cộng đồng người Raglai ở Khánh Hòa
và Ninh Thuận cho thấy: Tỷ lệ hiểu biết bệnh SR là do muỗi truyền chiếm từ
82,5% - 85,93% và biết các dấu hiệu sốt, rét run với tỷ lệ dao động từ 64% -
87,9% [32]. Trong khi đó, nghiên cứu của Khumbulani tại Swaziland cho thấy:
có 99,7% số người biết bệnh SR có liên quan đến muỗi đốt và > 70% số người
biết sốt cao, rét run và đau dầu là triệu chứng biểu hiện của bệnh [31].
Số người biết phòng bệnh sốt rét bằng nằm màn là 78,66%, bằng phun
thuốc là 40,66%, sử dụng màn tẩm là 31%, rất ít người dùng hương xua và kem
xua để phòng bệnh sốt rét.
Kết quả nghiên cứu cho 68,78% hộ gia đình có đủ màn để sử dụng, tỷ lệ
hộ gia đình có đủ màn cao nhất là xã Đắk Ơ 72,67%, xã Bù Gia Mập 64,9%.
Như vậy mặc dù sống trong vùng sốt rét lưu hành nặng nhưng còn nhiều hộ gia
đình không có đủ màn để sử dụng. Như vậy so với nghiên cứu trước đó của Vũ
Đức Chính và cộng sự tại xã Đắk Ơ năm 2016 [8] thì tỷ lệ hộ gia đình có đủ
màn trong nghiên cứu này thấp hơn rõ rệt, nguyên nhân có thể do số màn cũ đã 51
hỏng, dân số tăng nhưng năm 2018 người dân không được cấp thêm màn. Tỷ
lệ hộ gia đình có đủ màn và thường xuyên ngủ màn đạt 65%, tỷ lệ hộ gia đình
không ngủ màn hoặc thỉnh thoảng chiếm tỷ lệ cao: 30,33%; cao nhất là xã Đắk
Ơ: 27,33%. Tỷ lệ không ngủ màn trong nghiên cứu này cao hơn so với nghiên
cứu ở Đắk Nông của Nguyễn Quý Anh năm 2015 tỷ lệ không ngủ màn là 0,92%
[1]. Tỷ lệ người sử dụng màn theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới là 55%,
thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi [52]. Như vậy mặc dù một số hộ gia
đình có đủ màn nhưng tỷ lệ thường xuyên ngủ màn không cao. Mặc dù có đủ
màn nhưng một số hộ gia đình vẫn không có thói quen ngủ màn thường xuyên.
So sánh với nghiên cứu của Lê Thành Đồng và cộng sự cho thấy hầu hết người
được hỏi đều có màn được cấp bởi chương trình Quốc gia PCSR số hộ gia đình
có đủ màn và thường xuyên ngủ màn, tuy nhiên trong nghiên cứu tỷ lệ màn khá
thấp. Có một người được hỏi đã sử dụng màn để làm lưới đánh cá [14]. Mặc
dù có đủ màn nhưng một số hộ gia đình không có thói quen ngủ màn thường
xuyên, nghiên cứu cho thấy số hộ gia đình có đủ màn và thường xuyên ngủ
màn cao hơn hẳn so với số hộ không có đủ màn.
Hộ gia đình có làm rẫy tại khu vực nghiên cứu chiếm tỷ lệ khá cao
87,54%; tại xã Bù Gia Mập 95,74% hộ gia đình sống bằng nghề làm rẫy. Nhiều
hộ gia đình làm nhà trong rẫy, ngủ lại qua đêm tại rẫy. Do có cả nhà ở rẫy và
nhà trong thôn nên số màn không thể đủ cho cả 2 nơi, vì vậy một số hộ gia đình
được hỏi không mang màn khi ngủ lại rẫy. Qua nghiên cứu cho thấy tỷ lệ hộ
gia đình có người qua lại biên giới thấp chiếm tỷ lệ 7,01%. Tỷ lệ hộ gia đình
có người đi rừng là 37,29%. Theo UNDP môi trường luôn là động lực dẫn đến
di cư, con người phải di dời để sinh tồn trước thảm họa tự nhiên hoặc đối mặt
với điều kiện môi trường khắc nghiệt và ngày càng xuống cấp nghiêm trọng, di
dời để tìm kiếm cơ hội ở những miền đất khác [28]. Như vây, số dân di biến
động tại khu vực này tăng cao do điều kiện kinh tế chủ yếu thu nhập từ nương
rẫy và vào rừng lấy gỗ, săn bắn, bên cạnh đó còn có lượng lớn số người từ nơi
khác đến làm thuê.
52
Mặc dù việc tuyên truyền về phòng chống sốt rét được quan tâm, tại các
trạm y tế đều có pano ghi rõ thuốc sốt rét được cấp miến phí tại các cơ sở y tế,
nhưng việc lựa chọn dịch vụ y tế khi mắc sốt rét của người dân chưa cao. Kết
quả nghiên cứu còn ghi nhận tỷ lệ những người lựa chọn các dịch vụ y tế khi bị
sốt và sốt rét như sau có 77,81% người dân khi bị sốt đến với y tế nhà nước; Thói
quen tự mua thuốc uống là 25,16%; có 14,56% người dân chọn đến Y tế tư nhân
và vẫn còn những hộ gia đình có lựa chọn cúng ma và không biết biện pháp khi
trong nhà có người bị sốt/sốt rét. Khi so sánh tỷ lệ này với điều tra chỉ số năm
2016 của Dự án Quỹ toàn cầu phòng chống sốt rét cho thấy tỷ lệ người trả lời
đến cơ sở y tế công trong nghiên cứu này thấp hơn 77,81% so với 95,8% lựa
chọn tìm kiếm dịch vụ y tế khi đến các cơ sở y tế nhà nước [21]. Một số nơi do
địa bàn quá xa nên người dân không muốn đến cơ sở y tế công mà tự mua thuốc
để diều trị khi bị sốt, có 1 trường hợp bệnh nhân sốt rét đang được điều trị DOT
tại trạm y tế đã bỏ thuốc vì lý do đường đi lại quá xa, từ nhà bệnh nhân tới trạm
y tế đi bằng xe máy mất khoảng 45 phút.
Tỷ lệ người đi làm rẫy hàng tháng là 82,54%; cao nhất là xã Đắk Ơ
90,62% số hộ thường xuyên đi làm rẫy, xã Bù Gia Mập 75,91%.
Có 28,11% số người khi đi rừng ngủ rẫy có mang theo màn. Số người
không mang theo màn khi đi rừng ngủ rẫy là 64,46%, cao nhất là xã Đắk Ơ
79,27%, xã Bù Gia Mập 49,66%. Tỷ lệ người dân mang theo màn khi đi rừng
ngủ rẫy thấp hơn nhiều so với nghiên cứu tại Nam Trà My của tác giả Nguyễn
Xuân Xã là 85,19% và ngủ màn ở rẫy 65,22% [31].
Nghiên cứu cho thấy trong tổng số 300 chủ hộ được phỏng vấn có
37,39% người thường xuyên đi rừng. Trong đó, có 63,19% người thường
xuyên đi rừng 1 lần/tháng, cao nhất là xã Đắk Ơ 68,35%. Kết quả nghiên cứu
cho thấy trong tổng số 300 người được phỏng vấn có 87,54% người thường
xuyên đi rẫy. Trong đó, có 82,54% người thường xuyên đi rẫy 1 lần/tháng.
Trong tổng số người đi rẫy có tới 87,54% người ngủ tại rẫy và biện pháp bảo
vệ bằng võng, màn lần lượt là 7,2% và 28,11%. Tỷ lệ người dân ngủ màn
53
thường xuyên khi ở rẫy trong nghiên cứu này thấp hơn so với nghiên cứu của
Nguyễn Xuân Xã tại huyện Đức Cơ tỉnh Gia Lai là 90,7% [30].
Trong tổng số người ngủ tại rừng thì biện pháp bảo vệ bằng võng, màn
lần lượt là 54,52% và 29,28%. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu còn cho biết
14,76% người không mang gì để bảo vệ khỏi muỗi đốt khi ngủ trong rừng,
nguyên nhân do số lượng võng màn trong nhà không đủ. Tại xã Đắk Ơ và xã
Bù Gia Mập một số người tham gia tuần tra bảo vệ rừng, mỗi tháng đi tuần
khoảng 15 ngày do tính chất nghề nghiệp không thể mang màn để ngủ chính vì
vậy nguy cơ cao bị muỗi đốt.
Toàn quốc có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh là dân tộc đa số chiếm
85% dân số cả nước, còn lại là dân tộc thiểu số. Mặc dù mỗi dân tộc có đặc
điểm và bản sắc riêng nhưng đồng bào các dân tộc thiểu số có điểm chung là
thường sinh sống ở các vùng núi rừng xa xôi cũng là những vùng khó khăn về
kinh tế và trọng điểm dịch bệnh. Đặc điểm cư trú của các dân tộc thiểu số phân
tán nhưng tập trung theo dòng tộc trong những buôn làng định cư, xen kẽ với
các dân tộc khác trên cùng địa bàn miền núi, vùng cao, vùng biên giới, vùng
sâu, vùng xa; ngoài ra hiện tượng “di cư tự do” là đồng bào các dân tộc thiểu
số (Tày, Nùng, mông, Dao…) từ một số tỉnh miền núi phía Bắc (Cao Bằng,
Lạng Sơn, Hà Giang…) vào Tây Nguyên cư trú và sinh sống ở các vùng rừng
núi là đầu nguồn của các dòng sông suối, có điều kiện khai phá đất hoang, làm
nương rẫy, phát triển nghề rừng và khai thác lâm thổ sản… nên hạn chế tiếp
cận với thông tin văn hóa xã hội. Một số dịch bệnh truyền nhiễm còn cao ở
vùng miền núi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống như sốt rét, theo thống
kê mới nhất hiện nay với sự đầu tư của chương trình phòng chống sốt rét, bệnh
sốt rét ở nước ta đã bị đẩy lùi; tuy nhiên hơn 80% số mắc sốt rét và tử vong sốt
rét vẫn tập trung ở các vùng trọng điểm, nơi đồng bào dân tộc thiểu số sinh
sống (Tây Nguyên, miền Trung, miền Đông Nam bộ và khu 4 cũ) biến động
54
dân khó kiểm soát (dân đi rừng, ngủ rẫy, di cư tự do, giao lưu biên giới…) [10].
Nghiên cứu xác định tỷ lệ hiện mắc sốt rét, các nhóm tuổi trong kết quả
phân tích được chia thành các nhóm liên quan tới di biến động và độ tuổi lao
động, nhóm tuổi từ 16 tuổi trở lên có tỷ lệ mắc sốt rét cao hơn các nhóm tuổi
khác trong tổng số 1027 người được điều tra (3,57% so với 1,85%).
Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi thì những người qua lại biên giới
có nguy cơ mắc sốt rét cao gấp 6,36 lần so với những người không qua lại biên
giới, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Như vậy, nghiên cứu của chúng
tôi cũng cho kết quả tương tự như một số nghiên cứu trước. Nguyên nhân có
thể do nhóm qua lại biên giới chủ yếu là vào rừng Campuchia khai thác gỗ và
lâm sản nên có nguy cơ cao bị muỗi đốt.
Một số tác giả cho rằng, tại các khu vực biên giới giữa hai nước nếu
không được áp dụng các biện pháp phòng chống bệnh SR giống nhau có thể
tạo ra các ổ KSTSR tiềm tàng và lây nhiễm cho cộng đồng dân cư hai bên biên
giới và có thể lây truyền cho các khu vực khác [32]. Do vậy, để giảm mắc SR
và giảm nguy cơ lây truyền bệnh SR ở khu vực biên giới của hai nước cần xây
dựng chung các biện pháp can thiệp và tăng cường truyền thông giáo dục sức
khỏe phòng chống bệnh SR cho cộng đồng tại khu vực này.
Do tính chất công việc nên trong nghiên cứu này tỷ lệ nam giới mắc sốt
rét cao hơn hẳn nữ, tỷ lệ nam mắc sốt rét là 4,37% trong khi đó chỉ có 2,02%
nữ mắc sốt rét, nguy cơ mắc sốt rét ở nam cao hơn 2,16 lần so với nhóm nữ
giới. nghiên cứu này thấp hơn của Lê Thành Đồng tỷ lệ nam mắc sốt rét cao
gấp 4 lần so với nữ [10]. Nghiên cứu của Trần Mạnh Hạ năm 2012 tại Lâm
Đồng cho kết quả nam giới mắc sốt rét nhiều hơn nữ giới (nam 90,16%, nữ
9,84%) [15]. Điều này hoàn toàn phù hợp do những người vào rừng săn bắn
và lấy gỗ, qua lại biên giới chủ yếu là nam nên nguy cơ mắc sốt rét ở nam sẽ
cao hơn.
Tại các điểm nghiên cứu chủ yếu là người S’tiêng sinh sống. Kết quả
nghiên cứu tỷ lệ mắc SR ở nhóm dân tộc Stiêng là 3,63%, nguy cơ bị mắc SR
ở nhóm dân tộc S’tiêng cao hơn 2,1 lần so với nhóm dân tộc khác, tuy nhiên sự
55
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p =0,102). Đa số người bản địa là
người S’tiêng, họ thường vào rừng, rẫy để trồng trọt và làm rừng nên nguy cơ
mắc SR cao. Tuy nhiên, người Kinh và một số người dân tộc khác họ có thể là
người bản địa hoặc đến làm ăn thuê, cũng vào rừng, rẫy thu hoạch điều, cà phê,
sắn, cao su...theo mùa vụ hoặc đi làm rừng nên nguy cơ mắc SR cũng cao.
Chính vì vậy mà trong nghiên cứu của chúng tôi, không thấy có sư khác biệt về
nguy cơ mắc SR ở các nhóm dân tộc khác nhau.
Tỷ lệ có sốt trong 2 tuần qua là 6,82% trong tổng số 1027 người được
điều tra. Phân bố sốt rét lâm sàng không đồng đều giữa các thôn, thôn Bù Rên
có tỷ lệ bệnh nhân sốt rét lâm sàng cao nhất 21,38%, tỉ lệ KST cao nhất ở thôn
Bù Bưng 7,9%. Qua điều tra cắt ngang kết quả xét nghiệm cho thấy sự phân bố
sốt rét ở xã Đắk Ơ nhiều hơn xã Bù Gia Mập, đặc biệt sốt rét tập trung tại 2
thôn của xã Đắk Ơ: Thôn Bù Bưng và Thôn Bù Khơn.
Tuổi mắc SR cũng bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau, vì thế tùy
thuộc vào từng khu vực địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội mà nhóm tuổi mắc SR
có thể thay đổi, nhiều tài liệu cho thấy: Trẻ em ≤ 1 tuổi được thừa hưởng miễn
dịch từ sữa mẹ và được bảo vệ tốt tơn nên nguy cơ mắc SR thấp hơn [20], trẻ
lớn hơn khi miễn dịch từ sữa mẹ không còn, mức độ miễn dịch mắc phải chưa
cao và tủ lệ mắc SR sẽ tăng dần và cao ở nhóm <15 tuổi [55]. Kết quả của
chúng tôi thì cho thấy người từ 15 tuổi trở lên có nguy cơ mắc sốt rét cao gấp
2,0 lần so với nhóm dưới 15 tuổi, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê (p=0,171). Một nghiên cứu của Phạm Vĩnh Thanh (2015) tại Quảng
Nam cho thấy nguy cơ mắc sốt rét ở nhóm < 20 tuổi cao hơn nhóm > 20 tuổi
[56]. Từ kết quả nghiên cứu tại các khu vực khác nhau có thể thấy nhóm tuổi
mắc SR có thể dịch chuyển và phụ thuộc vào một số yếu tố: điều kiện kinh tế -
xã hội, nhà ở, tình trạng miễn dịch, nghề nghiệp, điều kiện làm việc cũng như
có liên quan đến mức độ lưu hành bệnh SR tại địa phương [1].
Tỷ lệ bệnh nhân có ký sinh trùng sốt rét được phát hiện bằng soi lam
chiếm 1,3%. Số bệnh nhân sốt rét có ký sinh trùng được phát hiện bằng kỹ thuật
PCR là 2,0%. Tại Việt Nam thời gian qua đã phát hiện có 5 loài ký sinh trùng 56
sốt rét gây bệnh ở người [17]. Tuy nhiên, tại khu vực nghiên cứu chúng tôi vẫn
chỉ có 2 loài chính gây bệnh sốt rét ở người là P. falciparum và P. vivax.
Có sự đồng thuận giữa các kỹ thuật xét nghệm chẩn đoán KSTSR. Không
có sự khác nhau giữa chẩn đoán xét nghiệm bằng lam máu và xét nghiệm bằng
kỹ thuật sinh học phân tử và kết quả xét nghiệm bằng tét chẩn đoán nhanh
(p<0,05).
Theo báo cáo của Tổ chức Di dân Thế giới năm 2013, sốt rét vẫn là bệnh
có gánh nặng bệnh tật hàng đầu ảnh hưởng lớn tới sức khỏe cộng đồng và là
nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 5 trên Thế giới. Tại Châu Phi sốt rét
là nguyên nhân gây tử vong xếp hàng thứ 2 cho cộng đồng dân di biến động
[40], [42].
Những người thường xuyên đi rừng, ngủ rẫy có nguy cơ mắc SR cao gấp
3,33 lần so với những người không đi rừng, ngủ rẫy, đồng thời những người
làm việc tại rừng, rẫy có nguy cơ mắc SR cao gấp 3,12 lần so với người không
làm việc tại rừng, rẫy, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Theo kết quả
nghiên cứu của Ngô Đức Thắng (2008) tại Ninh Thuận, của Sandra Incadona
(2007) tại Campuchia cũng cho thấy những người có công việc liên quan đến
khai thác rừng như khai thác gỗ, trồng trọt thì có nguy cơ mắc sốt rét cao gấp
3 - 6 lần so với công việc ở các khu vực khác [20], [21]. Nghiên cứu của Hồ
Văn Hoàng và cs (2010) tại Đăk Lăk cũng cho thấy: Những người có ngủ lại
trong rừng có nguy cơ mắc SR gấp 1,94 lần so với người không ngủ trong rừng
(p<0,01) [27]. Nghiên cứu của Nguyễn Quý Anh năm 2015 cho thấy tỷ lệ mắc
sốt rét ở nhóm đi rừng cao gấp 3,8 lần so với nhóm không đi rừng [1]. Nghiên
cứu của tác giả Vũ Đức Chính tại xã Đắk Nhau nguy cơ mắc sốt rét của người
đi rừng ngủ rẫy cao hơn 128,64 lần; tại Đắk Ơ nguy cơ của người đi rừng ngủ
rẫy mắc sốt rét là 71,72 lần, như vậy nguy cơ mắc sốt rét của người đi rừng ngủ
rẫy cao hơn rất nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi [8].
Nghiên cứu của tác giả Lê Thành Đồng và cộng sự tại xã Đắk Ơ cho
thấy nhóm dân di biến động tại xã Đắk Ơ có thời gian sống ở nhà rẫy trung bình
57
98 ngày trong một năm [14]. Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
tỷ lệ người nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở nhóm đi rừng, ngủ rẫy trên 14 ngày
cao gấp 2 lần so với nhóm đi dưới 14 ngày. Vậy bất kỳ người dân nào đi vào
rừng dù dài ngày hay ngắn ngày đều có nguy cơ mắc sốt rét.
Tiến hành điều tra đánh giá véc tơ truyền bệnh tại các điểm nghiên cứu
cho thấy: tại xã Đắk Ơ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước thu thập được 07
loài Anopheles, các loài muỗi thu thập được chủ yếu bằng phương pháp soi
chuồng gia súc ban đêm. Thu thập được véc tơ truyền bệnh sốt rét chính An.
dirus bằng phương pháp mồi người trong rừng có mật độ đốt mồi 0,17 con/
người/ đêm. Ngoài ra, thu thập được véc tơ phụ An. maculatus ở phương pháp
soi chuồng gia súc ban đêm với mật độ 0,06 con/ giờ/ người. Tại xã Bù Gia
Mập, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước thu thập được 05 loài Anopheles,
các loài muỗi thu thập được chủ yếu bằng phương pháp soi chuồng gia súc ban
đêm. Thu thập được véc tơ truyền bệnh sốt rét chính An. dirus bằng phương
pháp mồi người trong rừng có mật độ đốt mồi 0,08 con/ người/ đêm. Nghiên
cứu của Nguyễn Văn Tuấn và cộng sự tại khu vực này năm 2015 cũng cho thấy
tại đây có mặt 5 véc tơ, 2 véc tơ chính và 3 véc tơ phụ. Véc tơ chính là An. dirus
và An. minimus phân bố thôn bản, bìa rừng và trong rừng, mật độ tăng cao vào
đầu mùa khô [26]. Nghiên cứu của Vũ Việt Hưng và cộng sự tại xã Nam Trà
My tỉnh Quảng Nam [18] cũng cho cho kết quả tương đương tại địa điểm
nghiên cứu: 12 loài muỗi Anopheles, trong đó 2 véc tơ chính và 3 véc tơ phụ.
Véc tơ chính là An. minimus.
Sự có mặt của véc tơ truyền bệnh và phân bố véc tơ theo mùa liên quan đến
mùa truyền bệnh, thực tế một số nghiên cứu cho thấy bệnh nhân sốt rét tăng cao
nhất vào tháng 1 hàng năm, giảm từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm [8].
Ký sinh trùng sốt rét phát hiện tại khu vực nghiên cứu gồm 2 loài P. vivax
và P. falciparum không thấy có sự xuất hiện của các loài khác, so với nghiên
cứu tại Khánh Phú phân tích 120 mẫu muỗi An. dirus phát hiện trong tuyến
nước bọt muỗi sự có mặt của 6 loài ký sinh trùng sốt rét. P. falciparum, P.
58
vivax, P. knowlesi, P. coatneyi, P. cynomolgi, P. inui, nhiều mẫu có sự nhiễm
phối hợp giữa 2 hoặc 3 thậm chí là 4 loài KST. Có sự tái nhiễm, 38% muỗi
chứa 2 hoặc 3 loài ký sinh trùng sốt rét (Pv, Pct, Pcy, Pin, P.k; P.f) [51]. nghiên
cứu cho thấy cả người và khỉ đều bị muỗi An. dirus đốt ở trong rừng đây có thể
chính là nguyên nhân làm cho việc phòng chống sốt rét trở nên khó khăn và
phức tạp, đặc biệt là với địa bàn người dân sống gần khu vực vườn Quốc gia
Bù Gia Mập.
Hạn chế của đề tài
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu cắt ngang, do vậy
nghiên cứu chỉ xác định được tỷ lệ hiện mắc trong quần thể, do các yếu tố nguy
cơ và bệnh được đo lường cùng một thời điểm nên không thể thiết lập được
trình tự thời gian liệu yếu tố nguy cơ có trước hay bệnh có trước. Nghiên cứu
chỉ cho chúng tôi sự phỏng đoán các yếu tố nguy cơ với bệnh chứ chưa thực sự
khẳng định được yếu tố nguy cơ có liên quan đến bệnh. Để có thể khẳng định
được yếu tố nào thực sự liên quan đến bệnh thì cần phải có những nghiên cứu
sâu hơn.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù được tập huấn đầy đủ trước khi đi
thu thập số liệu, nhưng trong quá trình lấy mẫu máu xét nghiệm và phỏng vấn
bộ câu hỏi có thể xảy ra những sai sót nhỏ, tuy nhiên nó không làm ảnh hưởng
59
đến kết quả của nghiên cứu.
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
-
5.1.1. Thực trạng bệnh sốt rét
Trong tổng số 1027 người được điều tra, có 70 người có sốt (chiếm
-
6,82%).
Tỷ lệ nhiễm KSTSR tại khu vực nghiên cứu khá cao so với các
vùng khác, chiếm 3,12% trong tổng số 1027 người được điều tra.
5.1.2. Yếu tố liên quan ở vùng sốt rét lưu hành có dân di biến động
- Tỷ lệ người dân biết cách phòng chống bệnh sốt rét chiếm 80,92%
người dân biết bệnh sốt rét là do muỗi truyền.
- Mặc dù được cấp màn miễn phí nhưng số người dân đi rừng, rẫy
vẫn không có màn mang theo, hộ gia đình đủ màn chỉ đạt 68,78%.
- Sau nghiên cứu cho thấy có các yếu tố nguy cơ đối với bệnh SR là:
đối tượng qua lại biên giới, đi rừng ngủ rừng, đối tượng có thời gian đi rừng, ngủ
rừng trên 14 ngày, nhóm làm nương rẫy, trang trại, lâm nghiệp trong rừng.
- Tại các điểm nghiên cứu có mặt của 07 loài Anopheles, véc tơ
chính truyền bệnh sốt rét tại đây là Anopheles dirus.
5.2. Kiến nghị
- Cần có phương pháp truyền thông hiệu quả cho vùng sốt rét lưu
hành chủ yếu là người dân tộc sinh sống.
- Cấp màn cho người dân tại khu vực có sốt rét lưu hành nặng, cấp
đúng đối tượng.
-
Cấp kem xua cho những người thường xuyên đi rừng rẫy và ngủ
đêm tại rừng rẫy.
-
Tăng cường các biện pháp phòng chống véc tơ đặc hiệu cho loài
Anopheles đặc biệt là Anopheles dirus.
60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Quý Anh, Trần Thanh Dương và CS (2016), “Thực trạng mắc sốt
rét ở
nhóm dân di biến động tại một số xã vùng sốt rét lưu hành nặng tỉnh
Đắk Nông năm 2015”, Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh
ký sinh trùng, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương,
Số.2 (91), Tr.42-50.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ thời điểm
1/4/2014: các kết quả chủ yếu, Hà Nội, tr. 51,84,88,85,103,172,174.
3. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2017), Quyết địnhPhê duyệt kết quả
rà soát hộ nghèo hộ cận nghèo năm 2016 theo chuẩn nghèođa chiềuáp dụng
cho giai đoạn 2016 – 2020.Quyết định 945, QĐ-LĐTBH ngày22 tháng 6 năm
2017
4. Bộ Y tế (2015), Báo cáo tổng kết công tác phòng chống bệnh sốt rét, ký
sinhtrùng, côn trùng năm 2014 và triển khai kế hoạch năm 2015, Viện Sốt
rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, tr.43.
5. Chính phủ (2011), Chiến lược Quốc gia phòng chống và loại trừ bệnh sốt
rét
Giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng đến năm 2030, Hà Nội 2011, tr.
24-25
6. Chính phủ (2015), Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính
phủ ngày 19 tháng 11 năm 2015.Quyết định về việc ban hành chuẩn nghèo
tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020”.
7. Vũ Đức Chính, Trần Thanh Dương và CS (2014), “Phân bố của véc tơ sốt
rét và độ nhạy cảm của véc tơ sốt rét với các hóa chất diệt côn trùng tại Việt
Nam, giai đoạn 2003-2012), Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh
61
ký sinh trùng, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, Số.4,
Tr.56-65.
8. Vũ Đức Chính, Trần Quang phục và CS (2016), “Tình hình sốt rét tại 2 xã
Đắk Nhau vàĐắk Ơ giai đoạn 2012-2015 và sự liên quan giữa sốt rét với đi
rừng, ngủ rẫy”,Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng,
Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, Số.1 (90), Tr.20-26.
9. Vũ Đức Chính, Trần Quang phục và CS (2016), “Đánh giá độ bền, hiệu
lực tồn lưu và sự chấp nhận của cộng đồng với màn tẩm hóa chất có tác dụng
tồn lưu dài Yorkool, tại vùng sr1 lưu hành nặng tỉnh Bình Phước năm 2015”,
Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét -
Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, Số.1 (90), Tr.32-38.
10. Trần Thanh Dương, Ngô Đức Thắng và CS (2015), “Phân vùng dịch tễ
sốt rét tại Việt Nam năm 2014”, Công trình nghiên cứu khoa học, báo cáo tại
hội nghị khoa học toàn quốc chuyên ngành sốt rét - ký sinh trùng - Côn trùng,
tr. 11-21
11. Trần Thanh Dương, Lê Trung Kiên (2015), “Nghiên cứu sản xuất kem
xua muỗi cho người dân tại vùng sốt rét lưu hành”, Tạp chí phòng chống
bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, số 2, 2015, tr. 10-17.
12. Trần Thanh Dương, Đặng Việt Dũng và CS (2015), “Đánh giá thực trạng
sốt rét, kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống sốt rét của người dân tại
tỉnh Đắk Nông, Năm 2013-2014” Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các
bệnh ký sinh trùng, số 3, 2015, tr. 18-23.
13. Bùi Lê Duy và CS (2015), “Diễn biến thành phần loài, đặc điểm sinh thái
của một số loài muỗi Anopheles và An.minimus trong quá trình thay đổi môi
trường ở ku vực thủy điện Tuyên Quang, giai đoạn 2010-2012”, Tạp chí
phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, số 1, 2015, tr. 9-17.
62
14. Lê Thành Đồng và CS (2015), Di cư, dịch chuyển và sốt rét, nghiên cứu
về tính dễtổn thương của người di cư với sốt rét và đặc điểm dịch tễ kháng
artemisinin tại tỉnh Bình Phước, Việt Nam. Tr 46-50.
15. Trần Mạnh Hạ (2013), Ứng dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS) trong
giám sát dịch tễ sốt rét tỉnh Lâm Đồng, Luận án tiến sỹ y học, Viện Sốt rét -
Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.
16. Trương Văn Hạnh, Trần Thanh Dương và CS (2015), “Xác định cơ cấu
loài ký sinh trùng sốt rét và tỷ lệ bệnh nhân sốt rét có giao bào tại vùng sốt
rét lưu hành nặng tỉnh Bình Phước bằng kỹ thuật PCR”, Tạp chí phòng chống
bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn
trùng Trung ương, Số.4, Tr.55-61.
17. Nguyễn Vân Hồng, Peter Van de Eede và CS (2008), “Trường hợp đầu
tiên nhiễm Plasmodium knowlesi tại Việt Nam”, Công trình khoa học, báo
cáo tại hội nghị ký sinh trùng lần thứ 33, tr. 194-197.
18. Vũ Việt Hưng, Vũ Đức Chính và CS (2015), “Thành phần loài muỗi
Anopheles và thực trạng ngủ màn của người dân để phòng chống véc tơ sốt
rét tại xã Trà Dơn huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam, Tạp chí phòng chống
bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn
trùng Trung ương, Số.2, Tr. 75-82.
19. Phùng Thị Kim Huệ (2015), Nghiên cứu thành phần loài Anopheles,
mộtsốđặc điểm sinh học, sinh thái, vai trò truyền bệnh của vector sốt rét, tỷ
lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét và đề xuất biện pháp can thiệp phù hợp ở khu
vực thủy lợi, thủy điện tỉnh Gia Lai, Luận án tiến sỹ Y học, Viện Sốt rét - Ký
sinh trùng - Côn trùng Trung ương.
20. Liên Hợp Quốc (2014), Di cư, tái định cư và biến đổi khí hậu tại Việt
63
Nam,Hà Nội, tr. 12-14.
21. Quỹ toàn cầu phòng chống sốt rét (2016), Báo cáo điều tra chỉ số Dự án
Quỹ toàncầu năm 2016, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương
22. Hoàng Cao Sạ, Nguyễn Văn Chuyên, Cao Bá Lợi (2015), “Nghiên cứu
cơ cấu thành phần loài ký sinh trùng sốt rét và tính kháng thuốc của
Plasmodium falciparum tại một số tỉnh đồng bằng ven biển Nam Bộ”, Tạp
chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét - Ký
sinh trùng - Côn trùng Trung ương, Số.3, Tr. 73-78.
23. Tổng cục Thống kê (2016), Niên giám thống kê 2015, Nhà xuất bản
Thống kê, Hà Nội, 2016. Tr 127-128.
24. Nguyễn Quang Thiều và CS (2015), Ứng dụng kỹ thuật phản ứng chuỗi
Polymerase xác định tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét tại một vùng sốt rét lưu
hành nặng tỉnh Quảng Trị”, Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký
sinh trùng, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, Số.2, Tr.
24-32.
25. Hồ Đắc Thoàn và CS (2015), “Một số đặc điểm dân ngủ rẫy ở vùng sốt
rét lưu hành tại tỉnh Phú Yên và Gia Lai năm 2013”, Công trình nghiên cứu
khoa học, báo cáo tại hội nghị khoa học toàn quốc chuyên ngành sốt rét - ký
sinh trùng- Côn trùng năm 2015, Nhà xuất bản Y học, tr. 58-67.
26. Nguyễn Văn Tuấn và CS (2015), “Phong phú véc tơ sốt rét và đa dạng
đột biếngen kháng artemisinin K13 của plasmodium falciparun ở tỉnh Bình
Phước và Đăk Nông năm 2010-2014”, Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và
các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương,
Số.5, Tr. 25-35.
27. Tổ chức Y tế Thế giới (2012), Loại trừ bệnh sốt rét, tài liệu hướng dẫn
cho các nước có bệnh sốt rét lưu hành nhẹ và vừa, NXB Y học, tr. 7-47
28. UNDP (2014), Di cư, tái định cư và bến đổi khí hậu tại ViệtNam, Tr.8.
64
29. Ron P. Marchand và CS (1997), “Một số nhận xét tình hình sốt rét nhóm
dân mới đến Khánh Phú”, Tài liệu dịch,Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn
trùng Trung ương, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học 1996 -2000, NXB
Y học 2001. Tr. 125-129.
30. Nguyễn Xuân Xã (2015), “Đánh giá hiệu quả của truyền thông giáo dục
sứcphòng chống sốt rét cho cộng đồng người Gia Rai ở huyện Đức Cơ tỉnh
Gia Lai”, Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, số 5,
2015, tr. 11-19.
31. Nguyễn Xuân Xã (2015), “Đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành phòng
Chống sốt rét của người dân tộc Xê-Đăng của xã Trà Cang, huyện Nam Trà
My, tỉnh Quảng Nam”, Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh
trùng, số 1, 2015, tr. 58-63.
Tiếng Anh
32. Nguyen Quy Anh, Le Xuan Hung at al (2014), “Migrant situation and
factor related to malaria infection among residents and non-residents in 2
comunes of Bu Dang and Bu Gia Map district, Binh Phuoc province in
2011”, Journal of malaria and parasite diseases control, National institute of
Malarilogy, parasitology and entomology, Vol. 6, pp. 47-60.
33. Catherin Smith, Maxine Whittaker (2014), Beyond Mobile population:
critical the literature on malaria and population mobility and suggestion for
future direction, The Malaria Journal.
34. Caroline Lynch at al (2011), “The transit phase of Migration: Circulation
of malaria
and
it’s multidrug-resistant
forms
in Africa”,
www.plosmedicine.org
35. Christinah Mukandavire at al (2010), “Malaria model with immigration
of Infectives and seasonal forcing in transmission”, www.ijamc.psit.in
65
36. Nguyen Thi Thanh Chung at al (2014), Research correlation between
malaria Infections with some climate factors in Dong Xoai town, Binh Phuoc
province”, Journal of malaria and parasite diseases control, National institute
of Malarilogy, parasitology and entomology, Vol 6, pp. 28-36.
37. Douglas W MacPherson and at al (2007), Health and foreign
policy:Influence of migration and population mobility, Buletin of the World
Health Oganization, pp.200-206.(14)
38. European Academies Science Advisory Council (2007), Impact
ofmigration on Infectous Diseases in Euro, pp.34-37.
39. Frederic Bourdier at al (2010), Malaria and population dynamics in
Cambodia Ethnographic investigations in three remote areas, Marseile, pp.
97-103.
40. IOM (2013), A global Report on population mobility and malaria: Movin
gtowards elimination with migration in mind, pp.5-8.
41. IOM (2014), “Malaria and Mobility: Addressing malaria control and
elimination In migration and human movement”, www.iom.int
42. IOM South Sudan (2016), “Humanitarian update #60”, pp. 2-4.
43. Isabelle Anne Ross et al (2012), Safety of falciparum malaria diagnostic
strategy based on rapid diagnostic tests in returning travelers and migrants: a
retrospective study”, Malaria Journal.
44. Jan E. Conn at al (2002), “Emergence of a new Neotropical malaria vector
facilitated by human migration and changes in land use”, J Trop Med, pp. 18-
22.
45. Jitthai N (2013), Migration and Malaria. Southeast Asian, J Trop Med
Public Health, pp.166-200.
66
46. Junko Yasuoka at al (2010), “Assessing the quality of service of village
malaria Worker to strengthen community-based malaria control in
Cambodia”, Malaria Journal, 9:109, pp.
47. Philipe Guyant at al (2015), “Malaria and the mobile and migrant
population in Cambodia: a population movement framework to inform
strategies for malaria control and elimination”, Malaria Journal.
48. Quang Huynh Hong at al (2016), Malarial health care supplies seeking
behaviour of Migrant, mobile populations in targeted province in central
highland, Vietnam in2016, Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký
sinh trùng, số 6 (95), pp 28-37.
49. Ron. P, Marchand, RechardCulleton,Yoshimasamaeno at al (2011), Co-
infection of Plasmodium knowlesi, P.falciparum and P.vivax among human
and Anopheles dirus Mosquitoes, Souther Vietnam, Emerging Infectious
Diseases *www.cdc.gov/eid* vol.7. No.(7), pp.1232-1239.
50. Troy D. Moon at al (2016), “Factors associated with the use of mosquito bed
nets:Resultsfrom two cross-sectional household surveys in Zambézia
Province, Mozambique”, Malaria Journal, vol 15; 196.
51. Yoshimasa Maeno (2015), Molecular epidemiology of mosquitoes for the
transmission of forest malaria in southcentral Vietnam, Tropical Medicine
and Health (2017) 45:27 DOI 10.1186/s41182-017-0065-6.
52. World Health Organization (2015), World Malaria Report 2014, Geneva,
pp.
53. World Health Organization (2015), Migration, Mobility and malaria, pp.
3.8.9
54. World Health Organization (2016), Approaches for mobile and migrant
populations
67
55. Ngo Duc Thang, Annette Erhart et al (2008), “Malaria in Central Viet
Nam:analysis of rick factor by multivariate analysis and classification tree
models”, Malaria Jounal, pp.1-9.
56. Megan Littrell et al (2011), “Case managenment of malaria fever in
Cambodia: result from national anti-malaria outlet and household surveys”.
Malaria journal 2011, pp.1-14.
57. World Health Organization (2018), World Malaria Report 2017, Geneva,
68
pp