BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ -----------------------------

Nguyễn Thị Thu Vân

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN NHIỄM

KÝ SINH TRÙNG SỐT RÉT Ở VÙNG DÂN DI BIẾN ĐỘNG

TẠI BÌNH PHƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ: SINH HỌC

Hà Nội - 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ -----------------------------

Nguyễn Thị Thu Vân

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN NHIỄM

KÝ SINH TRÙNG SỐT RÉT Ở VÙNG DÂN DI BIẾN ĐỘNG

TẠI BÌNH PHƯỚC

Chuyên ngành: Động vật học

Mã số: 8 42 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪ N KHOA HỌC:

Hướng dẫn 1: TS. Nguyễn Thị Hồng Phúc

Hướng dẫn 2: TS. Nguyễn Văn Hà

Hà Nội - 2019

LỜI CẢM ƠN

Với lòng kính trọng, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới: TS.

Nguyễn Thị Hồng Phúc và TS. Nguyễn Văn Hà là những người thầy đã tận tình

hướng dẫn, giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành

luận văn.

Xin chân thành cảm ơn tới toàn thể cán bộ Khoa Dịch tễ Sốt rét đã tạo điều

kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Xin cảm ơn cán bộ của Trung tâm y tế huyện Bù Gia Mập, cán bộ và

nhân viên các trạm y tế xã Bù Gia Mập và xã Đắk Ơ đã cộng tác, tạo điều kiện

thuận lợi cho tôi trong thời gian thực hiện nghiên cứu tại thực địa.

Cuối cùng, tôi muốn dành sự biết ơn và tình cảm sâu sắc nhất đến gia

đình, những người đã luôn là động lực mạnh mẽ cho tôi trong thời gian học

tập, hoàn thành luận văn của mình.

Tác giả

Nguyễn Thị Thu Vân

LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Nguyễn Thị Thu Vân, học viên cao học khóa 2017- Học viện Khoa

học và Công nghệ, chuyên ngành Động vật học, xin cam đoan:

1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng

dẫn của TS. Nguyễn Thị Hồng Phúc và TS. Nguyễn Văn Hà.

2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác

đã được công bố tại Việt Nam.

3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,

trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi

nghiên cứu

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.

Hà Nội, ngày 23 tháng 7 năm 2019

Người viết cam đoan

Nguyễn Thị Thu Vân

CHỮ VIẾT TẮT

BNSR : Bệnh nhân sốt rét

BSR : Bệnh sốt rét

BĐTĐ : Bẫy đèn trong nhà đêm

IOM : International Organization for Migration - Tổ chức Di dân Quốc

tế

KHV : Kính hiển vi

KST : Ký sinh trùng

KSTSR : Ký sinh trùng sốt rét

MNTN : Mồi người trong nhà

MNNNĐ : Mồi người ngoài nhà

MNTR : Mồi người trong rừng

PCR : Polymerase Chain Reaction

PCSR : Phòng chống sốt rét

PH : Phối hợp

SCGSĐ : Soi chuồng gia súc

SL : Số lượng

SRLH : Sốt rét lưu hành

STNN : Soi trong nhà ngày

TCYTTG : Tổ chức Y tế Thế giới

UNDP : United Nations Development Programe – Chương trình phát

triển Liên hiệp quốc

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ .....................................................................................................................1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .......................................................................3

1.1. Vài nét về bệnh sốt rét ................................................................................................. 3

1.1.1. Định nghĩa sốt rét...................................................................................................... 3

1.1.2. Đặc điểm chung về bệnh sốt rét .............................................................................. 3

1.1.3. Tác nhân gây bệnh sốt rét ........................................................................................ 3

1.1.4. Tác nhân truyền bệnh sốt rét ................................................................................... 4

1.1.5. Chu kỳ phát triển của ký sinh trùng sốt rét giai đoạn ở muỗi và giai đoạn ở

người ..................................................................................................................................... 4

1.1.6. Chiến lược phòng chống bệnh sốt rét ở Việt Nam ............................................... 5

1.2. Tình hình s ốt rét trên thế giới ..................................................................................... 5

1.3. Tình hình s ốt rét tại Việt Nam .................................................................................... 7

1.4. Tình hình s ốt rét tỉnh Bình Phước.............................................................................. 8

1.5. Các yếu tố chủ yếu liên quan đến mắc sốt rét ở nhóm dân di biến động ..................... 9

1.5.1. Sốt rét biên giới ......................................................................................................... 9

1.5.2. Di biến động dân cư do chiến tranh........................................................................ 9

1.6. Tình hình s ốt rét và di biến động dân cư tại Việt Nam ......................................... 10

1.6.1. Đặc điểm nhóm dân di biến động tại Việt Nam ................................................. 10

1.6.2. Di cư ng ắn hạn và dài h ạn ..................................................................................... 11

1.6.3. Di cư do biến đổi khí hậu....................................................................................... 11

1.6.4. Thực trạng sốt rét ở nhóm dân di biến động tại Việt Nam ................................ 13

1.7. Véc tơ truyền bệnh sốt rét ......................................................................................... 14

1.7.1. Các véc tơ chính truyền bệnh sốt rét trên thế giới .............................................. 14

1.7.2. Véc tơ truyền bệnh sốt rét ở Việt Nam ................................................................ 15

1.8. M iễn dịch trong bệnh sốt rét ..................................................................................... 17

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................... 19

2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu ............................................................. 19

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................................. 19

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu .............................................................................................. 19

2.1.3. Thời gian nghiên cứu ............................................................................................. 19

2.2. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................... 19

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu ................................................................................................ 19

2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu................................................................................................. 19

2.2.3. Một số đặc điểm xã hội và tự nhiên các xã trong nghiên cứu........................... 21

2.2.4. Nội dung nghiên cứu .............................................................................................. 22

2.2.5. Các chỉ số đánh giá ................................................................................................. 23

2.2.6. Các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu ............................................................... 26

2.2.7. Sai số và phương pháp loại trừ sai số................................................................... 27

2.3. Phương pháp thống kê và phân tích số liệu ............................................................ 27

2.4. Đạo đức trong nghiên cứu......................................................................................... 28

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.................................................................. 29

3.1. Thực trạng bệnh sốt rét tại khu vực nghiên cứu..................................................... 29

3.1.1. Một số thông tin về đối tượng nghiên cứu .......................................................... 29

3.1.2. Thực trạng mắc sốt rét tại Bình Phước ................................................................ 30

3.2. Một số yếu tố liên quan mắc sốt rét tại vùng sốt rét lưu hành nặng có dân di

biến động tại Bình Phước ................................................................................................. 35

3.2.1. Phân bố nhóm dân di biến động, trình độ học vấn, thu nhập hộ gia đình: ...... 35

3.2.2. Đặc điểm nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu .............................................. 36

3.2.3. Thực trạng về kiến thức hiểu biết về bệnh sốt rét............................................... 38

3.2.4. Thực hành của người dân về phòng chống sốt rét .............................................. 40

3.2.5. Liên quan giữa các yếu tố di biến động dân cư với mắc sốt rét........................ 41

3.2.6. Liên quan giữa các yếu tố dân di cư ..................................................................... 43

3.2.7. Liên quan giữa kiến thức, thái độ phòng bệnh với tình trạng mắc sốt rét tại

các điểm nghiên cứu.......................................................................................................... 44

3.2.8. Thực hành phòng bệnh của người dân phòng chống mắc sốt rét ..................... 45

3.2.9. Thói quen lựa chọn dịch vụ y tế khi bị sốt .......................................................... 46

3.2.10. Véc tơ truyền bệnh sốt rét tại các điểm nghiên cứu ......................................... 47

CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ............................................................................................ 49

1. Thực trạng bệnh sốt rét tại khu vực nghiên cứu ........................................................ 49

2. Một số yếu tố liên quan ở vùng sốt rét lưu hành có dân di biến động tại Bình

Phước .................................................................................................................................. 50

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................ 60

5.1. Kết luận ....................................................................................................................... 60

5.1.1. Thực trạng bệnh sốt rét .......................................................................................... 60

5.1.2. Yếu tố liên quan ở vùng sốt rét lưu hành có dân di biến động ......................... 60

5.2. Kiến nghị ..................................................................................................................... 60

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 61

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3. 1. Số người đ iều tra theo giới tại các điểm nghiên cứu .................................. 29

Bảng 3. 2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi (n =1027) ......................... 29

Bảng 3. 3. Phân bố nhóm đối tượng điều tra theo dân tộc (n =1.027) ........................ 30

Bảng 3. 4. Tỷ lệ sốt rét lâm sàng (n = 1027) .................................................................. 30

Bảng 3. 5. Phân bố bệnh nhân mắc sốt rét tại các xã tìm thấy ký sinh trùng sốt rét

trong máu (n = 1027) ........................................................................................................ 31

Bảng 3. 6. Tỷ lệ BNSR phân bố theo thôn bản điều tra ............................................... 32

Bảng 3. 7. Tỷ lệ người nhiễm KSTSR có sốt................................................................. 33

Bảng 3. 8. Tỷ lệ người nhiễm KSTSR theo nhóm dân tộc........................................... 33

Bảng 3. 9. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét theo giới (n = 1027) .............................. 34

Bảng 3. 10. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét theo tuổi (n = 1027) ............................ 34

Bảng 3. 11. Phân bố nhóm dân di biến động ................................................................. 35

Bảng 3. 12. Trình độ học vấn của chủ hộ đại diện gia đình (n = 300) ........................ 35

Bảng 3. 13. Tỷ lệ hộ gia đình có người đi rừng, đi rẫy và qua lại biên giới .............. 36

Bảng 3. 14. Tần suất đi làm rẫy trong quần thể nghiên cứu ........................................ 36

Bảng 3. 15. Tần suất đi rừng trong quần thể nghiên cứu ............................................. 38

Bảng 3. 16. Hiểu biết về nguyên nhân gây bệnh sốt rét ............................................... 38

Bảng 3. 17. Hiểu biết về triệu chứng của bệnh sốt rét .................................................. 39

Bảng 3. 18. Hiểu biết về biện pháp phòng bệnh sốt rét (n = 300) ............................... 40

Bảng 3. 19. Tỷ lệ bao phủ màn tại các điểm nghiên cứu.............................................. 40

Bảng 3. 20. Tỷ lệ thường xuyên ngủ màn ...................................................................... 41

Bảng 3. 21. Liên quan giữa qua lại biên giới với mắc sốt rét ...................................... 41

Bảng 3. 22. Liên quan giữa đi rừng, ngủ rừng với mắc sốt rét .................................... 42

Bảng 3. 23. Liên quan giữa thời gian đi rừng, ngủ rừng với mắc sốt rét ................... 42

Bảng 3. 24. Liên quan giữa làm nương rẫy, trang trại, lâm nghiệp trong rừng với

nhiễm ký sinh trùng sốt rét ............................................................................................... 43

Bảng 3. 26. Mối liên quan giữa thời gian di cư với mắc sốt rét .................................. 44

Bảng 3. 27. Liên quan giữa hiểu biết về nguyên nhân gây bệnh sốt rét với tình trạng

mắc sốt rét........................................................................................................................... 44

Bảng 3. 28. Liên quan giữa biết sốt rét có thể phòng chống được với ....................... 45

mắc sốt rét........................................................................................................................... 45

Bảng 3. 29. Biện pháp bảo vệ khi ngủ tại rẫy ................................................................ 45

Bảng 3. 30. Biện pháp phòng tránh muỗi đốt khi ngủ trong rừng ............................... 46

Bảng 3. 31. Thói quen lựa chọn dịch vụ y tế khi bị sốt ................................................ 46

Bảng 3. 39. Tổng hợp các yếu tố phân tích giữa các yếu tố nguy cơ .......................... 47

và liên quan với mắc sốt rét.............................................................................................. 47

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1. Chu kỳ của ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể người và muỗi Nguồn. Bruce

- Chwatt’s Essential Malariology...................................................................................... 4

Hình 2. 1. Bản đồ xã Đắk Ơ và xã Bù Gia Mập ............................................................ 22

Hình 3. 1 .Tỷ lệ sốt rét chung tại các điểm nghiên cứu ( n = 1027)............................ 31

Hình 3. 2. Cơ cấu thành phần loài ký sinh trùng sốt rét tại điểm nghiên cứu ............ 32

ĐẶT VẤN ĐỀ

Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhiều loại thuốc mới cũng như các

biện pháp phòng chống bệnh sốt rét được áp dụng, mang lại hiệu quả cao cho công

tác phòng chống sốt rét. Mặc dù vậy cho đến nay bệnh sốt rét (BSR) vẫn còn là

vấn đề sức khỏe lớn trên Thế giới cũng như tại Việt Nam. Theo báo cáo của Tổ

chức Y tế Thế giới năm 2017 [55].

Mối liên quan giữa quần thể dân di cư và lan truyền bệnh không phải là

vấn đề mới, từ 400 năm TCN Hypocrates đã quan tâm đến sự lưu hành của

bệnh và quần thể dân di cư. Đồng thời nhận thấy có sự liên quan chặt chẽ giữa

không khí, nước và bệnh tật. Sự giao lưu qua lại giữa các Quốc gia, tốc độ phát

triển du lịch nhanh chóng cũng làm thay đổi mô hình bệnh tật [34]. Hành trình

khám phá Thế giới, sự giao thương giữa Châu Âu và Châu Mỹ và việc buôn

bán nô lệ là nguyên nhân chính gây ra các vụ dịch lớn. Thời Cổ đại rất nhiều

dịch bệnh lớn đã xảy ra do sự lây truyền bệnh từ những người du lịch.

Xu hướng toàn cầu hóa hiện nay dẫn đến tình trạng dân di cư từ khu vực

này qua khu vực khác. Hiện nay, trên Thế giới có khoảng 214 triệu người di cư

Quốc tế và khoảng 740 triệu người di cư hàng năm tại các Quốc gia. Sự phát triển

đa dạng của nền kinh tế, phát triển mạnh mẽ của thông tin dẫn đến giao lưu và di

chuyển dân cư giữa các khu vực ngày càng gia tăng [20]. Việc giao lưu dân cư

giữa các khu vực sẽ ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng trong quá trình di dân.

Ngày nay, khi xã hội trở thành đa văn hóa, đa sắc tộc, nhóm dân di cư và di biến

động đối mặt với việc khó khăn trong quá trình tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc

sức khỏe. Sức khỏe của nhóm dân di cư bị ảnh hưởng.

Tại một số vùng, dân di cư thường có tính chất theo mùa, theo thời vụ,

di chuyển từ nơi có lưu hành sốt rét nhẹ đến khu vực có lưu hành sốt rét nặng

và thường nhạy cảm với bệnh sốt rét. Việc mang mầm bệnh từ vùng SRLH

sang các vùng khác, đặc biệt là có thể mang theo ký sinh trùng sốt rét có gen

kháng thuốc sẽ gây khó khăn cho công tác phòng chống và loại trừ sốt rét [ii],

[v].

1

Trong những năm qua tình hình sốt rét tại nhiều nơi đã giảm rõ rệt, tuy

nhiên tại một số tỉnh như Gia Lai và Bình Phước sốt rét vẫn lưu hành dai dẳng

ảnh hưởng tới sức khỏe của cộng đồng dân cư tại đây, đồng thời có nguy cơ

bùng phát dịch và lan truyền mầm bệnh tới các khu vực khác do sự di biến động

dân.

Do tình hình sốt rét tại khu vực dân di biến động nặng diễn biến phức

tạp, chúng tôi đã tiến hành đề tài nghiên cứu:

“Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến nhiễm ký sinh trùng sốt

rét ở vùng dân di biến động tại Bình Phước năm 2018” với mục tiêu:

1. Mô tả thực trạng mắc sốt rét tại huyện Bù Gia Mập - tỉnh Bình

Phước năm 2018.

2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến mắc sốt rét của tỉnh Bình

2

Phước năm 2018.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Vài nét về bệnh sốt rét

1.1.1. Định nghĩa sốt rét

Sốt rét là một bệnh lan truyền qua đường máu gây nên bởi ký sinh trùng

Plasmodium do muỗi cái của loài Anopheles đốt qua da và truyền các thoa trùng

SR vào máu.

1.1.2. Đặc điểm chung về bệnh sốt rét

Bệnh SR lưu hành chủ yếu ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. KSTSR

có thể gây nên bệnh SR cho con người ở tất cả các nhóm tuổi và được truyền

từ người này sang người khác qua trung gian truyền bệnh là muỗi Anopheles

(An).

Bệnh SR tồn tại và lan truyền được phải có hội tụ của 3 yếu tố: mầm

bệnh (ký sinh trùng); trung gian truyền bệnh (muỗi sốt rét); khối cảm thụ (con

người). Sự lan truyền bệnh SR khác nhau về cường độ và mức độ thường xuyên

phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên tại chỗ như: lượng mưa, khu vực sinh sản

của muỗi và sự có mặt của loài muỗi truyền bệnh. Ngoài ra yếu tố xã hội cũng

là một trong những yếu tố có tác động quan trọng tới quá trình lan truyền bệnh.

Có những vùng bệnh SRLH quanh năm với số lượng BNSR được phát hiện

tương đối ổn định các tháng trong năm. Trong khi đó, ở một số vùng bệnh nhân

mắc SR theo mùa và thường vào mùa mưa.

1.1.3. Tác nhân gây bệnh sốt rét

Ký sinh trùng sốt rét gây bệnh cho người có tên khoa học là Plasmodium

thuộc họ Plasmodidea, một dạng đơn bào ký sinh trong máu. Có hơn 120 loài

thuộc họ Plasmodidea được phát hiện ở động vật bò sát, chim, động vật có vú

như chuột và linh trưởng. Người không nhiễm KSTSR của chim, động vật bò

sát do có miễn dịch tự nhiên.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) hiện có 5 loại Plasmodium gây

bệnh cho người đã được ghi nhận(WHO, 2012), nghiêm trọng nhất là P.

falciparum, số còn lại là P. vivax, P. malarie, P. ovale, P. knowlesi có thể gây

3

bệnh nhẹ hơn và thường ít dẫn đến tử vong. Ở Việt Nam có 2 loài chủ yếu: P.

falciparum chiếm 70 – 80%, thường gây SR nặng, biến chứng và tử vong, tiếp

đến là P. vivax chiếm 20 – 30%, gây sốt cách nhật, SR tái phát, P. malarie, P.

ovale có tỷ lệ thấp, P. knowlesi mới phát hiện (1995) [6], [7].

1.1.4. Tác nhân truyền bệnh sốt rét

Bệnh SR lan truyền được từ người này sang người khác là nhờ trung

gian truyền bệnh, đó là muỗi Anopheles, có nhiều loại muỗi Anopheles nhưng

chỉ có 60 loài có khả năng truyền bệnh SR ở các vùng SR trên thế giới. Việt

Nam có 3 véc tơ chính: An. minimus, An. dirus và một số véc tơ phụ như: An.

subpictus, An. jeyporiensis, An. maculatus...

1.1.5. Chu kỳ phát triển của ký sinh trùng sốt rét giai đoạn ở muỗi và giai

đoạn ở người

Hình 1.1. Chu kỳ của ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể người và muỗi

Nguồn. Bruce - Chwatt’s Essential Malariology.

Chu kỳ phát triển của KSTSR qua 2 vật chủ là muỗi Anopheles và người.

Ký sinh trùng sinh sản hữu tính trong muỗi (muỗi là vật chủ chính) và sinh sản

vô tính trong tế bào gan và hồng cầu người (người là vật chủ phụ).

4

1.1.6. Chiến lược phòng chống bệnh sốt rét ở Việt Nam

Chiến lược quốc gia phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét ở Việt Nam

giai đoạn 2011-2020 và định hướng đến năm 2030 theo quyết định số 1920/QĐ-

TTg của Thủ tướng chính phủ.

 Mục tiêu chung:

Khống chế tỷ lệ người dân mắc bệnh SR dưới 0,15/1.000; tỷ lệ người

dân chết do bị bệnh SR dưới 0,02/100.000; không còn tỉnh nào trong giai đoạn

phòng chống bệnh SR tích cực; 40 tỉnh trong giai đoạn đề phòng bệnh SR quay

trở lại; 15 tỉnh trong giai đoạn loại trừ bệnh SR và 8 tỉnh trong giai đoạn tiền

loại trừ bệnh SR vào năm 2020.

 Mục tiêu cụ thể:

1.

Bảo đảm người bị bệnh SR và người có nguy cơ mắc bệnh SR

được tiếp cận các dịch vụ chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời;

2. Bảo đảm thực hiện các biện pháp phòng chống bệnh SR hiệu quả,

thích hợp cho người dân sống trong vùng có nguy cơ mắc bệnh SR;

3. Loại trừ bệnh SR tại các tỉnh có SRLH nhẹ, làm giảm mức mắc

bệnh SR tại các tỉnh có bệnh SRLH nặng và vừa;

4. Nâng cao năng lực của hệ thống giám sát bệnh SR, bảo đảm đủ

khả năng phòng, chống dịch bệnh SR;

5. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và ứng dụng kết quả của nghiên

cứu khoa học vào hoạt động phòng, chống và loại trừ bệnh SR;

6. Nâng cao nhận thức của người dân về phòng chống bệnh SR để

người dân chủ động phòng chống bệnh SR có hiệu quả cao nhất.

1.2. Tình hình sốt rét trên thế giới

Trước đây trên Thế giới thường xuyên xảy ra dịch sốt rét, một trong

những vụ dịch lớn nhất đã xảy ra ở Liên Xô cũ sau đại chiến Thế giới thứ nhất

(1923-1926) với hơn 10 triệu người mắc và ít nhất có 60.000 người chết. Năm

1976, hơn 7 triệu ca sốt rét được báo cáo ở Ấn Độ, 250.000 ca chết. Madagasca

năm 1988 và một số nước Châu Phi (như Botswana, Burundi, Ethiopia,

5

Namibia, Rwanda, Sudan, Zaire….) đã phải đương đầu với tính chất trầm trọng

của căn bệnh này trong nhiều thập kỷ [51].

Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), năm 2015 có 97

quốc gia và vùng lãnh thổ có sốt rét lưu hành (SRLH), với dân số khoảng 3,2

tỉ người. Năm 2015 có 214 triệu người mắc, 438.000 người tử vong vì sốt rét,

phần lớn là trẻ em ở Châu Phi: 292.000 trẻ [52].

Hàng năm, các nước Châu Á, Châu Mỹ có khoảng 5 - 6 triệu BNSR được

báo cáo, nhưng thực tế còn cao gấp 4 lần. Khoảng 75% số BNSR của khu vực

này được ghi nhận ở 9 nước: Afganistan, Brazil, Campuchia, Trung Quốc, Ấn

Độ, Indonesia, Thái Lan, Srilanca và Việt Nam. Sốt rét vẫn còn lưu hành ở các

nước tiểu vùng sông Mê Kông: Trung Quốc (Vân Nam), Lào, Myanmar,

Campuchia, Thái Lan và Việt Nam. Bệnh sốt rét lưu hành trên thế giới với mức

độ nặng nhẹ khác nhau phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, sinh học, các yếu tố

về kinh tế, xã hội như nghèo đói, dân trí thấp, giao thông đi lại khó khăn, di

biến động dân cư, phát triển các dự án kinh tế như thuỷ điện, trồng rừng.

Nghiên cứu của Isabella Anne Rossi năm 2007 cho thấy 2.190 người từ

vùng sốt rét lưu hành trở về Thụy Sỹ có 154 người nhiễm P. falciparum , trong

đó 79% là những người đi du lịch về, 9% là dân di cư, 97% số bệnh nhân từng

đến vùng sốt rét lưu hành nặng tại khu vực Cận Sahara, Châu Phi [43].

Người mắc sốt rét di chuyển đến những vùng không có sốt rét lưu hành

thường không được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Zino và cộng sự năm 2003

nghiên cứu tại Italy phát hiện 17 bệnh nhân sốt rét người Trung Quốc di cư bất

hợp pháp, các bệnh nhân này trước khi di cư vào Italy đều có thời gian sống tại

một số nước Châu Phi trong khoảng thời gian 14 ngày đến 9 tháng. Hầu hết các

trường hợp trên bị nhiễm P. falciparum, trong đó 1 trường hợp tử vong do chẩn

đoán và điều trị không kịp thời.

6

1.3. Tình hình sốt rét tại Việt Nam

Trong kháng chiến chống Pháp, công tác PCSR gặp rất nhiều khó khăn, nhất là

nhân dân vùng căn cứ địa và các lực lượng vũ trang. Một số tác giả đã nghiên cứu lách

và KST của các lứa tuổi trên 160 điểm thuộc nhiều vùng sốt rét khác nhau. Nghiên cứu

cơ cấu KST, thành phần, một phần sinh lý, sinh thái muỗi Anopheles ở các vùng khác

nhau và sưu tầm các cây thuốc chữa sốt rét ở Việt Nam, di thực cây Quinquina vào

Việt Nam, nghiên cứu thuốc PCSR (quinacrin, quinin). Giai đoạn sau kháng chiến

chống Pháp: Việt Nam tạm bị chia làm hai miền. Miền Bắc công tác điều tra sốt

rét được thực hiện trên quy mô lớn do cán bộ sốt rét Việt Nam với sự cộng tác

và giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, Rumani.

Thời kỳ 1958 -1975: Do đất nước bị chia cắt nên chương trình Tiêu diệt

sốt rét được tiến hành riêng biệt ở hai miền Nam Bắc [44]:

Miền Bắc: 1958 -1961 chuẩn bị; 1961 -1964 tấn công; 1965 - 1975 -

cuối tấn công. Tỷ lệ nhiễm KSTSR 5/10.000 dân

Miền Nam: 1958 -1959 chuẩn bị; 1960 -1964 tấn công; 1965 - -

1975 cuối tấn công.

Năm 1980 bệnh sốt rét gia tăng ở nhiều tỉnh vùng rừng núi và ven biển,

có 1.138 người chết do sốt rét. Năm 1992, Hội nghị Amsterdam ra lời kêu gọi

về chiến lược PCSR trên toàn thế giới. Từ 1992 - 1995 chương trình PCSR đã

thực hiện tốt các mục tiêu giảm chết, giảm dịch, giảm mắc (tại Việt Nam từ 144

vụ dịch sốt rét năm 1992 đến 1995 có 2 vụ dịch sốt rét).

Thời gian từ 1991 đến 2000 số BNSR giảm từ 1.091.000 xuống còn

293.016 vào năm 2000, đến năm 2004 còn 128.622 bệnh nhân. Năm 2004 cũng

không có dịch sốt rét.

Việt Nam nằm trong vùng SRLH nặng của thế giới, là một trong những

nước có nguy cơ cao về BSR. Tuy nhiên, đến năm 2000 chỉ còn 1,4% dân số sống

trong vùng SRLH. Kết quả phân vùng dịch tễ sốt rét năm 2014 toàn quốc có 204

xã thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng, với 1,25% dân số sống trong vùng sốt rét lưu

hành nặng [10], tập trung chủ yếu ở Miền Trung – Tây Nguyên và Nam Bộ.

7

Theo các nghiên cứu hiện nay Việt Nam có đầy đủ 4 loại KSTSR gây bệnh

cho người [24] nhưng chủ yếu có 2 loại P. falciparum và P. vivax, trong đó P.

falciparum chiếm 75 - 80 %. Sự phân bố thành phần loài KST có khác nhau tùy

khu vực địa lý. P. falciparum chủ yếu ở khu vực miền núi phía Bắc, Miền Trung

- Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. P. vivax phân bố nhiều ở các khu vực duyên hải

Miền Bắc, Miền Trung và Nam Bộ. Tuy nhiên trong thời gian gần đây do có sự

thay đổi về dịch tễ nên phân bố KSTSR có sự thay đổi. Một số nơi thuộc khu vực

Miền Trung (Ninh Thuận, Quảng Nam) tỷ lệ P. vivax có chiều hướng trội hơn P.

falciparum. Năm 2011 tỷ lệ P. falciparum là 75% . P. knowlesi (KSTSR gây bệnh

ở khỉ) được phát hiện ở người tại Việt Nam lần đầu tiên năm 2006 [17]. Nay

đã phát hiện thêm nhiều ca mắc loài KST này. Tỷ lệ mắc sốt rét do P. knowlesi

tới 25,6% trong nghiên cứu tại Khánh Hòa giai đoạn 2009 - 2010 (32 ca P.

knowlesi/125 ca dương tính - xác định bằng PCR) [49]. Việc chẩn đoán KST

này gặp nhiều khó khăn do hình ảnh dễ nhầm với P. malariae và P. falciparum.

1.4. Tình hình sốt rét tỉnh Bình Phước

Theo kết quả phân vùng dịch tễ sốt rét năm 2014 có: 35 xã SRLH nặng,

23 xã SRLH vừa, 41 xã SRLH nhẹ và 12 xã nằm trong vùng SR quay trở lại.

Gồm nhiều dân tộc sinh sống chủ yếu là người Kinh; người Mnông,

người S’tiêng chiếm 17,9%; ngoài ra còn một số ít người Hoa, Khmer, Nùng

và người Tày. Nghề nghiệp chính là trồng cây công nghiệp, vườn đồi, đi rừng

làm rẫy. Tỉnh có đường biên giới, có đường biên giới với nước bạn Campuchia,

và giáp danh với tỉnh Đắk Nông, xã Đắk Nhau huyện Bù Đăng, xã Đắk Ơ huyện

Bù Gia Mập. Xã có 8 thôn với 1528 hộ, 6749 khẩu. Dân tộc người S’tiêng,

người M’Nông chiếm 70%, còn lại các dân tộc khác chiếm 30%. Hoạt động

kinh tế của người dân chủ yếu làm rẫy, đi rừng khai thác lâm sản. Trên địa bàn

xã có số dân di biến động lớn khó quản lý.

8

1.5. Các yếu tố chủ yếu liên quan đến mắc sốt rét ở nhóm dân di biến động

1.5.1. Sốt rét biên giới

Catherin Smith đưa ra 3 yếu tố chính liên quan giữa nhóm dân di biến

động và bệnh sốt rét: Sự phát triển kinh tế, thay đổi đất sử dụng và nhóm dân

di biến động mang KST sốt rét ngoại lai, nhất là tại khu vực biên giới [56].

Nghiên cứu của Jan E Conn năm 2002 tại khu vực Trung và Nam Mỹ cho thấy

những người mới đến mang theo các véc tơ truyền bệnh mới [33].

Báo cáo năm 2013, của Tổ chức Di dân Thế giới cho thấy 75% các ca

mắc sốt rét P. falciparum ở Vân Nam (Trung Quốc) là do mắc bệnh từ Lào

mang về [35]. Nhìn chung, tại các nước có khí hậu nhiệt đới (Myanmar, Thái

Lan, Campuchia, Lào, Indonesia) tỉ lệ mắc KSTSR do P. falciparum cao hơn

P. vivax. Sự phân bố P. falciparum khác nhau ở các quốc gia là do KSTSR

phát triển phù hợp với từng đới khí hậu và sinh địa cảnh. Phần lớn số bệnh nhân

nhiễm P. knowlesi được phát hiện tại khu vực này [41].

Các nước trong khu vực Tây Thái Bình Dương tình hình sốt rét trong

những năm đầu thế kỷ 21 đã giảm so với những năm cuối thế kỷ 20 nhưng vẫn

còn khá nặng nề ở một số quốc gia như Papua New Guinea, Campuchia, quần

đảo Solomon. Tuy nhiên, năm 2008 có số người mắc và chết do sốt rét trong

khu vực còn cao.

1.5.2. Di biến động dân cư do chiến tranh

Nghiên cứu của Crown năm 1997 cho thấy trong một trại tị nạn (khoảng

22.000 người ở Tanzania) mỗi tuần số bệnh nhân tử vong do sốt rét là 18-20

trường hợp, phần lớn ở trẻ em dưới 5 tuổi .

Nghiên cứu tại Thailand và Campuchia năm 2014 cũng cho thấy khi giải

quyết vấn đề sốt rét cho nhóm dân di cư có thể áp dụng nhiều biện pháp can

thiệp khác nhau: phát hiện, chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời. Tuy nhiên, để

áp dụng các biện pháp can thiệp cho nhóm dân di biến động gặp nhiều khó khăn

do khó tiếp cận [68]. Một nghiên cứu khác cũng chỉ ra những người đi rừng

ngủ rẫy có nguy cơ cao bị mắc sốt rét, trong một nghiên cứu tại Campuchia

cũng chỉ ra rằng phần lớn những người mắc sốt rét liên quan đến việc đi rừng 9

[86]. Để phòng chống sốt rét có hiệu quả thì việc chẩn đoán sớm và điều trị kịp

thời của mạng lưới y tế cơ sở hết sức quan trọng, đặc biệt là y tế thôn, bản.

Nghiên cứu của Junko Yasuoka tại Campuchia cho thấy kiến thức về dịch tễ

sốt rét cũng như phòng chống véc tơ sốt rét của nhân viên y tế thôn bản còn rất

kém, như vậy sẽ ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động phòng chống sốt rét.

1.6. Tình hình sốt rét và di biến động dân cư tại Việt Nam

1.6.1. Đặc điểm nhóm dân di biến động tại Việt Nam

Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy trong giai đoạn

2004-2009 có 6,6 triệu người di cư giữa trong và ngoài tỉnh của Việt Nam. Con

số này thể hiện sự gia tăng đáng kể so với 4,5 triệu người di cư trong nước ghi

nhận từ cuộc tổng điều tra dân số năm 1999. Các số liệu thống kê cũng cho thấy

đa số người di cư là thanh niên, trong đó nữ di cư gia tăng đáng kể. Đồng thời

kết quả điều tra cũng cho thấy phần lớn người di cư không di chuyển cùng gia

đình, lý do có thể là họ chưa lập gia đình hoặc gia đình họ vẫn đang cư trú tại

địa bàn nơi họ ra đi. Hầu hết người di cư là vì lý do kinh tế bao gồm những

người tìm việc làm, những người muốn tăng thêm thu nhập và nâng cao điều

kiện sống và những người di cư theo gia đình có mục đích nêu trên [20]. Sau

5 năm từ 2010 đến 2014 dân di cư tăng lên khá nhiều, chỉ riêng số dân di cư

trong nước khoảng 5,9 triệu người, Đồng Bằng Sông Cửu Long vẫn là vùng

dẫn đầu trong cả nước về số lượng người đi nơi khác làm ăn (137,6 nghìn

người). Thực tế ngoài sức hút về việc làm thì khoảng cách cũng là một trong

những yếu tố ảnh hưởng lớn đến di cư. Đa số những người di cư chọn điểm đến

là những điểm đến gần nơi thường trú trước đây, phần lớn những người di cư

từ Đồng Bằng Sông Cửu Long chọn điểm đến là Đông Nam Bộ, gần một nửa

số người di cư từ Tây Nguyên cũng chọn điểm đến là Đông Nam Bộ [20].

Những người di cư trong nước vì lý do kinh tế không nằm trong chương

trình di cư của Chính phủ vì thế được gọi là “người di cư tự do”. Trong khi các

chương trình di cư của Chính phủ, các chương trình định cư đã giảm đáng kể

từ những năm 1990, gần đây đã có một số chương trình tái định cư vì các lý do

môi trường đã được tiến hành [36].

10

1.6.2. Di cư ngắn hạn và dài hạn

Di cư trong nước ở Việt Nam bao gồm di cư lâu dài, di cư ngắn hạn (di

cư tạm thời hay di cư mùa vụ). Số liệu quốc gia ở Việt Nam chưa thống kê

được đầy đủ về hai xu thế di cư ngắn hạn và di cư mùa vụ [20]. Các đối tượng

này gây khó khăn cho công tác quản lý và chăm sóc sức khỏe, ảnh hưởng trực

tiếp tới việc phòng chống dịch bệnh.

Tại Việt Nam, rất nhiều người di cư trong nước với mục đích tìm việc

làm tại nơi di cư đến đã tìm được công việc được trả công xứng đáng với môi

trường làm việc an toàn và họ cho biết rằng họ hài lòng với cuộc sống sau khi

di cư. Các bằng chứng cho thấy người dân di cư thường bắt đầu tìm việc làm

tại nơi đến ngay sau khi tới nơi hoặc họ đã xin việc trước khi di cư đến. Họ

thường làm việc chăm chỉ và giữ được công ăn việc làm ổn định hơn so với

người không di cư. Tuy nhiên, những người di cư thường thấy mình yếu thế

hơn so với người dân sở tại, đặc biệt là trong thị trường lao động. Những người

này thường tập trung ở một số ngành nghề nhất định và thường ít được đảm

bảo công việc hơn hoặc phải làm các công việc với mức lương thấp và thường

không được hưởng trợ cấp xã hội, bảo hiểm y tế hoặc bảo hiểm thất nghiệp nếu

họ không được ký hợp đồng lao động [20]. Như vậy dẫn tới nguy cơ người lao

động bị mắc bệnh nhưng không được điều trị, hoặc phải tự mua thuốc điều trị.

1.6.3. Di cư do biến đổi khí hậu

Báo cáo của Liên Hợp Quốc tại Việt Nam năm 2014 về di cư, tái định

cư và biến đổi khí hậu tại Việt Nam cho thấy khó khăn về kinh tế và sinh kế là

động lực trực tiếp dẫn đến di cư, các yếu tố môi trường cũng đóng vai trò hàng

đầu trong các nguyên nhân cơ bản dẫn đến di cư. Nghiên cứu tại hai tỉnh Long

An và Đồng Tháp cho thấy áp lực môi trường có ảnh hưởng lớn đến sinh kế,

và hai trong số ba nguyên nhân hàng đầu dẫn đến di cư là do khó khăn về sinh

kế và thu nhập tại các vùng di cư đi. Tại Quảng Trị, nguyên nhân chủ yếu dẫn

đến di cư là vì mục đích kinh tế, tuy nhiên các yếu tố môi trường bao gồm hiện

tượng thời tiết cực đoan làm mất mùa, sinh kế trở nên khó khăn hơn đã gián

tiếp tác động đến quyết định di cư. Ngư dân nghèo tại Cà Mau đang phải đối 11

mặt với tình trạng nguồn lợi thủy sản ngày càng cạn kiệt và thời tiết trở nên

khắc nghiệt hơn. Họ đã cải thiện và phục hồi sinh kế bằng cách đa dạng hóa

các hoạt động sinh kế, di dời đến các vùng khác, thâm canh, liên kết và sản xuất

các hàng hóa đặc thù theo vùng chuyên canh [36]. Theo Hiến pháp nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mọi công dân đều có quyền bình đẳng, bao

gồm cả người nhập cư, như quyền được làm việc, học tập, tiếp cận với các dịch

vụ y tế, tự do đi lại và cư trú. Luật Lao động và Luật Cư trú đều công nhận các

quyền này thông qua các quy định cụ thể. Tuy nhiên, Hệ thống Đăng ký Hộ

khẩu quyết định khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội và dịch vụ công ích, đất

đai và nhà ở của các hộ dân. Các quy định của hệ thống này cũng đã được đơn

giản hóa từ thập niên 90, tuy nhiên nó vẫn tạo ra những rào cản đối với những

người không thường trú (bao gồm cả người nhập cư) trong việc tiếp cận các

dịch vụ thiết yếu và các quyền cơ bản. Các hộ gia đình được phân chia thành 4

loại theo tình trạng đăng ký hộ khẩu, từ thường trú đến tạm trú, tuy nhiên một

bộ phận không nhỏ người nhập cư tạm thời tại các thành phố không đăng ký

tạm trú. Người nhập cư không có hộ khẩu, nhất là một số người tạm cư ít có cơ

hội tiếp cận với một số dịch vụ. Các thành phố xử lý vấn đề nhập cư theo nhiều

cách tiếp cận khác nhau: thành phố Hồ Chí Minh tạo điều kiện để người nhập

cư có thể tiếp cận tốt hơn với vấn đề nhà ở, trong khi Hà Nội lại áp dụng nhiều

quy định. Bản chất và quy mô di cư tại Việt Nam đã bắt đầu có những thay đổi

do biến đổi khí hậu làm cho các cú sốc và quá trình suy thoái môi trường diễn

ra ngày một nghiêm trọng hơn. Nhất là khi các hiểm họa khí hậu kết hợp với

nhau và xảy ra cùng một lúc dẫn đến phát sinh nhiều rủi ro cho sinh kế và sức

khỏe của người dân, bao gồm các nguy cơ xảy ra đại dịch. Thực tế cho thấy,

khi người di cư lao động mắc các chứng bệnh trên không những làm cho sức

khỏe của người di cư lao động suy giảm nhanh mà vấn đề sức khỏe của gia

đình, sức khỏe của cộng đồng phần nào cũng bị ảnh hưởng do mầm bệnh từ

những người di cư lao động. Ngoài ra khi di cư lao động nhiễm bệnh, khả năng

mang lại nguồn thu nhập cho gia đình không những bị mất đi mà gia đình còn

phải chịu gáng nặng chi phí chữa bệnh khiến kinh tế gia đình cũng bị giảm sút 12

nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình.…So với người không di cư,

mặc dù những người di cư có thu nhập cao hơn sau khi di cư, họ vẫn dễ bị tổn

thương về mặt kinh tế và xã hội hơn và ít được bảo vệ hơn [37], [32].

Việc tiếp cận tới nhiều dịch vụ xã hội và các thủ tục hành chính khác đều

gắn chặt với hộ khẩu, không có hộ khẩu thường trú tại nơi họ sống và làm việc,

do đó đã tạo ra một môi trường sống khó khăn và bất lợi đối với người di cư

mà hộ khẩu thường trú của họ vẫn ở nơi họ đi. Hệ thống hộ khẩu do vậy đã có

ảnh hưởng tới nhóm người di cư vốn đã dễ bị tổn thương. Vì vậy họ phải sử

dụng những nhà cung cấp dịch vụ xã hội và hỗ trợ tư nhân ví dụ như chăm sóc

y tế.

1.6.4. Thực trạng sốt rét ở nhóm dân di biến động tại Việt Nam

Nghiên cứu của Ron P. Marchand và cộng sự tại Khánh Phú - Khánh

Hòa cũng cho thấy ngay tháng đầu tiên đến làm việc người di cư đã bị nhiễm

sốt rét tại nơi đến, tỷ lệ nhiễm KSTSR của nhóm này là 1,2%, theo dõi 346

người: có 1 bệnh nhân nhiễm 3 lần và 5 người nhiễm 2 lần. Kết quả nghiên cứu

cũng cho thấy diễn biến sốt rét của nhóm dân mới di cư đến cũng liên quan với

quy luật mùa truyền bệnh tại xã [88]. Như vậy, nhóm dân mới đến có nguy cơ

mắc sốt rét cao ngay trong thời gian ngắn đến lao động tại vùng sốt rét lưu

hành.

Phân vùng sốt rét năm 2014 cho thấy 17,21% dân số sống trong vùng

nguy cơ sốt rét quay lại [10]. Trong công tác phòng chống và loại trừ sốt rét,

tại những tỉnh hiện không có mầm bệnh lưu hành nhưng có véc tơ truyền bệnh

sẽ có nguy cơ cao khi bệnh nhân mang mầm bệnh từ vùng SRLH về, là nguồn

lây nhiễm quan trọng trong cộng đồng.

Số liệu báo cáo năm 2014 của Thanh Hóa cho thấy 100% KSTSR là do

người dân đi làm ăn xa về, trong đó chủ yếu là dân đi làm thuê tại các tỉnh Bình

Phước và Đắk Lắk.

Theo báo cáo tại khoa xét nghiệm năm 2014 của TTPCSR Nghệ An cho

thấy 99,32% KSTSR là KST ngoại lai, trong đó 76,88% KST do người lao động

13

đi nước ngoài về (Lào, Campuchia, Angola), 22,45% KST sốt rét do người dân

đi làm thuê tại các tỉnh Bình Phước và Gia Lai, Đắk Lắk.

Vùng Đông Nam Bộ là khu vực thu hút người dân di cư vì có nhiều khu

công nghiệp và có một số lượng lớn đầu tư nước ngoài, đã vượt qua khu vực

Tây Nguyên về số lượng người di cư đến và tỷ suất di cư [28], việc tiếp cận với

các dịch vụ y tế nói chung cũng như phòng và điều trị sốt rét cho những nhóm

dân di cư này cần được quan tâm đầy đủ để bảo vệ sức khỏe cho dân di cư,

đồng thời cắt đứt nguồn lan truyền mầm bệnh.

1.7. Véc tơ truyền bệnh sốt rét

1.7.1. Các véc tơ chính truyền bệnh sốt rét trên thế giới

Năm 1897, muỗi Anopheles lần đầu tiên được xác định là véc tơ truyền

bệnh sốt rét, khi Ronal Ross phát hiện ra hợp tử (Oocysts) của ký sinh trùng ở

thành dạ dày muỗi. Các yếu tố để xác định một loài muỗi là vectơ của bệnh sốt

rét gồm:

- Nhiễm thoa trùng ở tuyến nước bọt (sporozoites), để phát hiện thoa

trùng có thể mổ tuyến nước bọt muỗi hoặc sử dụng kỹ thuật ELIZA để phát

hiện protein thoa trùng (Circumsprozoites protein) trong cơ thể muỗi.

- Ưa đốt người: tỷ lệ ưa đốt người cao, tần số đốt ngắn.

- Mật độ cao trong mùa sốt rét.

- Trong điều kiện thực nghiệm, ký sinh trùng sốt rét có thể phát triển

đến giai đoạn thoa trùng trong cơ thể người.

Véc tơ truyền bệnh sốt rét đã được xác định là muỗi Anopheles, họ

Culicidae. Anopheles là trung gian truyền bệnh duy nhất ở người và động vật,

chỉ có muỗi cái mới có khả năng hút máu và truyền bệnh cho người. Véc tơ

bệnh sốt rét đã được xác định là muỗi Anopheles họ Culicidea có khoảng 3200

loài được chia thành 3 họ phụ. Trên thế giới có khoảng 420 loài muỗi thuộc

giống Anopheles, trong đó có khoảng 70 loài là véc tơ truyền sốt rét cho người

trong điều kiện tự nhiên. Thực tế có khoảng 10 loài là véc tơ quan trọng truyền

bệnh sốt rét trên thế giới.

1.7.1.1. Tại châu Âu:

14

Có khoảng 18 loài Anopheles là véc tơ truyền bệnh sốt rét, trong đó một

số loài truyền bệnh sốt rét thường gặp:

+ Anopheles angeriensis: phân bố chủ yếu ở các quốc gia vùng Địa

Trung hải và Balkans, phía đông mở rộng đến Iraq, Iran, phía bắc có các nước

vùng Trung Á. Ở châu Âu: Anbania (bates, 1941), Anh (Snow at al, 1998),

Bulgaria (Gecheva, 1998), Nga (Gonostaeva, 2000), Anopheles atroparvus: có

ở Bỉ, Anh, Bun-ga-ri, Đan Mạch, Pháp, Hungary, Bồ đào Nha, Tây Ban Nha,

Thụy Sỹ, Phần Lan, Hy Lạp, Na Uy, Anopheles beklemishevi: Phân bố ở vùng

rừng Tai - Ga, Thụy Sỹ, Phần Lan (Jaenson at al, 1986). Tại Anh, có 5 loài

Anopheles đóng vai trò truyền bệnh sốt rét: Anopheles atroparvus, An.

angeriensis, An. messeae, An. claviger, An. plumbeus loài muỗi truyền bệnh

chính được tìm thấy ở vùng đầm lấy là Anopheles atroparvus.

Anopheles gambiae là véc tơ chính truyền bệnh ở châu Phi [53].

1.7.1.2. Khu vực châu Á:

Các véc tơ chính ở khu vực Đông Nam Á gồm có: An. dirus lưu hành tại

các nước lưu vực sông Mê Kông, An. balabacensis có ở đông Malaysia và nam

Philippine, An. aconitus, An. sundaicus, An. maculatus có ở Indonesia, An.

minimus là véc tơ quan trọng ở Campuchia, Lào, Việt Nam. An. sinensus phổ

biến ở Trung Quốc, Hàn Quốc. An.maculatus có ở Malaysia.An. farauti, An.

koliensis, An. punctulatusở Tây Nam - Thái Bình Dương.

1.7.1.3. Khu vực Châu Phi:

- Véc tơ truyền bệnh sốt rét ở châu Phi là An. gambiae, các loài khác

cũng là véc tơ truyền bệnh sốt rét như: An. arabiensis, An. melas, An. merus,

An. quadriannulatus, An.bwambae.

- Véc tơ truyền bệnh sốt rét chính ở châu Phi là An. gambiae và An.

arabiensis, chiếm khoảng 70 % tổng số véc tơ truyền bệnh sốt rét.

1.7.2. Véc tơ truyền bệnh sốt rét ở Việt Nam

Trong số trên 60 loài Anopheles có mặt ở Việt Nam đã phát hiện được

15 loài Anopheles là véc tơ sốt rét chính, véc tơ phụ và véc tơ nghi ngờ. Véc tơ

truyền bệnh sốt rét phát triển phụ thuộc vào nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa hàng 15

năm, đặc biệt là theo mùa vì vậy vào mùa mưa số lượng muỗi thường tăng lên

do tăng nơi sinh sống và phát triển của bọ gậy [7]. Các loài vectơ truyền bệnh

sốt rét ở Việt Nam gồm [15], [19]:

1.7.2.1. Véc tơ chính

+ An. minimus, An. dirus, An. sundaicus là ba véc tơ chính truyền bệnh

sốt rét tại Việt Nam.

+ An. minimus sống trong rừng, bìa rừng, sa van, bọ gậy sống ở ven suối

quang, nước chảy chậm, muỗi phân bố ở khu vực rừng núi trên toàn quốc. An.

minimus ưa đốt người trong nhà, sau một thời gian dài sử dụng hóa chất làm tỷ

lệ muỗi đốt người ngoài nhà tăng lên. Hoạt động đốt người của An. minimus

suốt đêm, đỉnh hoạt động từ 22 giờ đến 3 giờ sáng. Muỗi có tập tính trú đậu

trong nhà, tuy vậy vẫn có một tỷ lệ nhất định trú đậu ngoài nhà ban ngày (trong

hốc cây, hốc đất ven suối). Bằng kỹ thuật PCR đã phát hiện được 2 loài đồng

hình của An. minimus là An. minimus A và An. minimus C. An. minimus A ưa

đốt người và trú đậu trong nhà. An. minimus C ưa trú đậu ngoài nhà, ưa đốt trâu

bò và người.

+ An. dirus: vùng rừng núi từ 20 vĩ độ Bắc trở vào Nam, tại Khánh Phú

đã tìm thấy sporozoite của Plasmodium knowlesi trong tuyến nước bọt muỗi

An. dirus [29], bọ gậy sống ở vũng nước đọng, dưới bóng râm trong rừng. An.

dirus chủ yếu đốt các loại thú rừng, tuy nhiên muỗi cũng ưa đốt người cả trong

và ngoài nhà, thời gian đốt sớm hơn so với các loài khác. 7 loài thuộc phức hợp

An. dirus đã được ghi nhận: An. dirus A, B, C, D, E, An. nemophelous và An.

takasagoensis, An. dirus A và D là các véc tơ sốt rét quan trọng vì ưa đốt máu

người. Ở Việt Nam ghi nhận sự có mặt của 2 loài An. dirus A và An.

takasagoensis. Véc tơ truyền sốt rét Plasmodium knowlesi tại Việt Nam được

tìm thấy là Anopheles dirus [8].

+ An. sundaicus (An. epiroticus): vùng ven biển nước lợ và Nam Bộ.

Trong những năm gần đây có sự thay đổi về môi trường, phương thức canh tác

tại vùng ven biển Tây Nam Bộ nên đã mở rộng vùng phân bố, tăng mật độ muỗi

An. epiroticus [26]. Có 3 dạng, An.enpiroticus khác nhau: A, B và C.

16

1.7.2.2. Véc tơ phụ:

An. aconitus, An. maculatus, An. jeyporiensis: Loài muỗi này phân bố

rộng, bao gồm Ấn Độ, Myanmar, Nam Trung Quốc, ở Việt Nam muỗi phân bố

vùng đồi núi trong cả nước. An. sinensis, An. subpitus, An. vagus, An.

indefinitus sống ở ven biển miền Bắc và miền Nam. An. sinensis, An. subpitus,

An. campestris: vùng ven biển miền Nam.

1.8. Miễn dịch trong bệnh sốt rét

Miễn dịch trong bệnh sốt rét được hình thành do nhiễm ký sinh trùng tái

đi, tái lại. Theo Werndorfer (1990) miễn dịch dịch thể thu được ở người có khả

năng ức chế sự xâm nhập và nhân lên của ký sinh trùng sốt rét trong hồng cầu.

Muỗi đốt người đã có miễn dịch thì giao bào cũng bị ức chế trong quá trình

sinh sản hữu tính ở dạ dày muỗi. Trẻ sinh ra từ những bà mẹ bị sốt rét tái nhiễm

nhiều lần cũng có miễn dịch thụ động do IgG từ mẹ truyền cho trong quá trình

mang thai, nhưng miễn dịch này chỉ tồn tại từ 3 đến 6 tháng, nếu sau đó trẻ bị

mắc sốt rét thì sẽ bị sốt rét ác tính .

Bằng kỹ thuật IFA, phát hiện kháng thể đặc hiệu với ký sinh trùng sốt rét

ở vùng sốt rét lưu hành. Người ta đã chứng minh được mối tương quan tỷ lệ

thuận giữa tình trạng đáp ứng miễn dịch với tuổi. Tuổi càng cao tỷ lệ kháng thể

càng cao tỷ lệ mắc bệnh sốt rét càng thấp và ngược lại. Người có miễn dịch

thường có biểu hiện lâm sàng không điển hình, cơn sốt rét không đặc hiệu.

Người ở vùng sốt rét lưu hành có tỷ lệ kháng thể sốt rét cao và ít khi xảy ra

dịch, tỷ lệ sốt rét ác tính thấp (trừ trẻ em).

- Miễn dịch tự nhiên: người có miễn dịch tự nhiên đối với các loài ký

sinh trùng sốt rét của chim, bò sát và loài gặm nhấm. Một số nhóm người, chủng

người cũng có miễn dịch tự nhiên đối với ký sinh trùng sốt rét của người.

- Miễn dịch thu được: miễn dịch tạo thành trong bệnh sốt rét do 2 cơ

chế, cơ chế tế bào và cơ chế dịch thể. Tuy nhiên, miễn dịch trong sốt rét (cả

miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào) không bảo vệ được cơ thể tránh mắc

bệnh sốt rét mà chỉ ức chế quá trình phát triển của ký sinh trùng. Hiệu giá kháng

thể đặc hiệu giảm dần sau khi tác nhân gây bệnh bị loại khỏi cơ thể.

17

- Việc sử dụng vaccine cũng là một định hướng tốt cho phòng chống sốt

rét, chứng minh sự tồn tại lâu dài của miễn dịch. Dân từ thành thị và từ đồng

bằng khi vào vùng sốt rét lưu hành dễ mắc bệnh sốt rét và khi mắc sốt rét thì

bệnh nặng vì không có miễn dịch sốt rét, đây chính là một trong những lý do

khiến cho dân từ nơi khác đến làm thuê tại các vùng sốt rét lưu hành dễ mắc

sốt rét do không có miễn dịch. Do đó, việc tăng cường quản lý dân di biến động,

áp dụng các biện pháp phòng chống nhằm hạn chế tỷ lệ mắc và tử vong là đặc

18

biệt quan trọng.

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu

- Người dân sống trong vùng SRLH nặng có sự di biến động tại tỉnh

Bình Phước:

+ Dân từ nơi khác đến;

+ Dân tại địa phương đi rừng, rẫy;

- Muỗi truyền bệnh sốt rét thu thập được tại các điểm nghiên cứu.

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu

- Xã Bù Gia Mập và xã Đắk Ơ thuộc huyện Bù Gia Mập tỉnh Bình Phước.

-

Điều tra cắt ngang tháng 9 - 10/ 2018.

2.1.3. Thời gian nghiên cứu

2.2. Phương pháp nghiên cứu

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu

Đề tài được thiết kế bằng phương pháp nghiên cứu mô tả có phân tích.

2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu

2.2.2.1. Cỡ mẫu điều tra cá nhân

2 𝑛 = Z(1−∝/2)

Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho một tỷ lệ hiện mắc sốt rét:

p(1 − p) d2

Trong đó:

n: Cỡ mẫu

Z 1-α/2: Hệ số tin cậy, với hệ số tin cậy 95% ta có Z 1-α/2= 1,96.

p: Tỷ lệ hiện mắc ước tính của quần thể: 0,075

d: Sai số mong muốn: 0,017.

Như vậy, cỡ mẫu được xác định 922 tuy nhiên tránh các trường hợp

không đồng ý cho mẫu xét nghiệm trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cộng

thêm 5% vào cỡ mẫu số mẫu nghiên cứu sẽ là 1000 người.

2.2.2.2. Mẫu điều tra hộ gia đình

19

- Phỏng vấn chủ hộ có người được lấy mẫu máu, tổng số dự kiến có 1000

cá nhân được lấy mẫu máu. Trung bình mỗi hộ gia đình có 4 nhân khẩu, như

vây sẽ tiến hành điều tra khoảng 250 hộ, do đó mỗi xã sẽ chọn 125 hộ, trong

nghiên cứu này chúng tôi chọn 150 hộ gia đình để phòng trường hợp những

người trong hộ gia đình đi vắng, như vậy tổng số có 300 hộ gia đình được phỏng

vấn…

2.2.2.3. Tiêu chuẩn chọn mẫu

- Tiêu chuẩn chọn mẫu cá nhân:

+ Mọi người dân sống trong 6 thôn của 2 xã Bù Gia Mập, Đăk Ơ tỉnh

Bình Phước.

+ Người dân tự nguyện đồng ý tham gia nghiên cứu.

- Tiêu chuẩn loại trừ:

+ Hộ gia đình/người không đồng ý tham gia nghiên cứu: (không cho mẫu

máu, không trả lời phỏng vấn …).

+ Người mắc bệnh tâm thần, mất trí nhớ.

2.2.2.4. Phương pháp chọn mẫu

- Chọn các xã của tỉnh: Chọn chủ đích với các điều kiện các xã phải đáp

ứng được là:

+ Trong những năm qua tình hình sốt rét phức tạp, số lượng bệnh nhân

sốt rét cao, có nhiều di biến động dân (vùng sốt rét lưu hành nặng theo phân

vùng sốt rét quốc gia năm 2017).

+ Mỗi xã chọn 3 thôn có số bệnh nhân sốt rét cao và thường xuyên đi

rừng ngủ rẫy, qua lại biên giới.

- Chọn hộ gia đình để phỏng vấn

Chọn hộ gia đình theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống.

+ Lập danh sách hộ gia đình của từng thôn tại 2 xã nghiên cứu, đánh số

thứ tự để lập khung mẫu và tính toán khoảng cách mẫu.

20

+ Khoảng cách mẫu: số hộ gia đình của 3 thôn chia 150.

+ Chọn hộ đầu tiên bằng bốc thăm ngẫu nhiên (số thứ tự nhỏ hơn khoảng

cách mẫu).

+ Chọn hộ gia đình tiếp theo để điều tra hộ đầu tiên + khoảng cách mẫu.

+ Tại mỗi hộ gia đình được chọn, tất cả các thành viên trong gia đình sẽ

được khám lâm sàng và lấy máu xét nghiệm chẩn đoán sốt rét.

2.2.3. Một số đặc điểm xã hội và tự nhiên các xã trong nghiên cứu

2.2.3.1. Xã Đắc Ơ và Bù Gia Mập

Huyện Bù Gia Mập thuộc tỉnh Bình Phước, mang đặc trưng khí hậu nhiệt

đới gió mùa với 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Nhiệt độ bình quân trong

năm cao đều từ 25,8 - 26,2 0C. Phía Bắc huyện có đường biên giới với nước

bạn Campuchia. Huyện Bù Gia Mập nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền núi

cao nguyên và vùng đồng bằng, có diện tích rừng tự nhiên và rừng cao su chiếm

>80% diện tích. Trong giai đoạn 2010 - 2015 mặc dù đã có sự đầu tư đáng kể

cho công tác phòng chống sốt rét tuy nhiên tại Bù Gia Mập sốt rét vẫn là điểm

nóng. Đặc biệt tại 2 xã Đắk Ơ và Bù Gia Mập sốt rét vẫn dai dẳng với số lượng

bệnh nhân nhiều nhất so với cả nước.

Xã Đắc Ơ có diện tích 246,9337 km², dân số năm 2015 là 3275 hộ với

số dân là 15.764 người. Đắk Ơ là một xã biên giới với số hộ đồng bào dân tộc

chiếm trên 35% với 1217 hộ và số dân là 5656 người, chủ yếu là người Stiêng.

Xã Bù Gia Mập có diện tích 23,3 km², dân số năm 2009 là 3704 người,

mật độ dân số đạt 159 người/km². Xã Bù Gia Mập có Vườn quốc gia Bù Gia

Mập với tổng diện tích 26.032 ha rừng.

Hai xã nghiên cứu là Bù Gia Mập và Đắk Ơ có đường biên giới với

Campuchia

21

Hình 2. 1. Bản đồ xã Đắk Ơ và xã Bù Gia Mập

2.2.4. Nội dung nghiên cứu

2.2.4.1. Đánh giá tình trạng mắc sốt rét và các yếu tố liên quan qua điều tra

cắt ngang

Sử dụng bộ câu hỏi thiết kế sẵn về kiến thức, thái độ và thực hành phòng

chống sốt rét, thói quen đi rừng, ngủ rẫy, qua lại biên giới và điều kiện kinh tế

xã hội sẽ được phỏng vấn chủ hộ gia đình, kết hợp với thực hiện các chuyên

môn:

- Phỏng vấn KAP chủ hộ gia đình.

- Điều tra cá nhân.

- Khám lâm sàng tất cả các thành viên hiện có mặt có mặt tại nhà và đồng

22

ý tham gia nghiên cứu.

- Lấy lam máu làm kỹ thuật nhuộm Giemsa phát hiện ký sinh trùng sốt

rét, thử test chẩn đoán nhanh, lấy máu bằng giấy thấm xét nghiệm PCR cho

các thành viên trong gia đình có chủ hộ được phỏng vấn.

- Bắt muỗi tại khu vực điều tra để xác định các loài véc tơ truyền bệnh.

2.2.4.2. Theo dõi dọc

Theo dõi dọc tình hình sốt rét tại điểm nghiên cứu. Bệnh nhân sốt rét

được lấy lam máu nhuộm Giemsa phát hiện ký sinh trùng sốt rét, thử test chẩn

đoán nhanh, lấy máu bằng giấy thấm xét nghiệm PCR và kết hợp với điều tra

cá nhân thông qua cán bộ y tế xã, thôn. Xác định các trường hợp bệnh nhân

mắc sốt rét mới và gửi số liệu báo cáo và mẫu hàng tuần về cho nhóm nghiên

cứu tại Viện.

2.2.5. Các chỉ số đánh giá

Điều tra cắt ngang nhằm mục đích: Xác định thực trạng mắc sốt rét

(SRLS, KSTSR) tại thời điểm điều tra; tìm hiểu một số đặc điểm dân số, kinh

tế xã hội và các yếu tố liên quan đến mắc sốt rét; tìm hiểu kiến thức, thái độ và

thực hành (KAP) về phòng chống sốt rét của đối tượng nghiên cứu; xác định

thành phần và véc tơ truyền bệnh sốt rét tại điểm nghiên cứu.

Các biến số cần thu thập qua điều tra cắt ngang bao gồm:

2.2.5.1. Thực trạng nhiễm ký sinh trùng sốt rét

- Tỷ lệ lam máu nhuộm giọt dày dương tính (+).

Tỷ lệ mắc sốt rét qua Số lam máu phát hiện có ký ký

kỹ thuật soi lam máu sinh trùng sốt rét

nhuộm Giemsa phát

=

x 100

Tổng số lam máu nhuộm giọt dày

hiện KSTSR (%)

- Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét phát hiện bằng kỹ thuật test nhanh

Tỷ lệ mắc sốt rét bằng

Số người có kêt quả thử test nhanh

kỹ thuật test chuẩn

(+) với ký sinh trùng sốt rét

x 100

=

đoán nhanh (%) Tổng số mẫu thử test nhanh

- Ngoài ra trong nghiên cứu còn đánh giá, phân tích tỷ lệ mắc sốt rét

theo giới, nhóm tuổi

23

Số mắc sốt rét theo nhóm tuổi, giới

Tỷ lệ mắc sốt rét theo x 100 = nhóm tuổi, giới (%) Tổng số người có ký sinh trùng

sốt rét (+)

2.2.5.2. Thực trạng mắc sốt rét lâm sàng

- Tỷ lệ người có sốt qua điều tra cắt ngang

Số người có sôt qua điều tra cắt ngang Tỷ lệ người có sôt qua x 100 = điều tra cắt ngang (%) Tổng số người điều tra

2.2.5.3. Các yếu tố liên quan

Trình độ văn hóa, kiến thức về bệnh sốt rét và các biện pháp phòng

chống, chống; Thói quen tập quán lao động sinh hoạt của người dân như đi

rừng làm nương rẫy và ở lại nơi làm việc. Mức độ giao lưu, qua lại biên giới,

đi rừng ngủ rẫy, người đi đến làm ăn tại địa điểm nghiên cứu.

- Tình trạng đi rừng làm nương rẫy và ở lại nơi làm việc.

Số người dân đi rừng làm nương Tỷ lệ người dân đi rừng rẫy và ngủ lại trong nương rẫy làm nương rẫy và ngủ = x 100 Tổng số người dân điều tra tại điểm lại trong nương rẫy (%) nghiên cứu

- Tần suất đi rừng làm nương rẫy và ở lại nơi làm việc

Tỷ lệ người dân đi rừng Số người dân đi rừng làm nương

rẫy và ngủ lại trong nương rẫy 1 tuần/1 làm nương rẫy và ngủ

lại trong nương rẫy 1

lần, 2 tuần/1 lần, 3 tuần/1lần (%)

x 100

=

tuần/1 lần, 2 tuần/1 lần,

Tổng số người dân điều tra tại điểm

3 tuần/1lần (%)

nghiên cứu

24

- Số ngày ngủ lại trong nương rẫy, rừng

Tỷ lệ người dân đi rừng Số người dân đi rừng làm nương

làm nương rẫy và ngủ rẫy và ngủ lại trong nương rẫy > 14

ngày/đợt và < 14 ngày/đợt (%) lại trong nương rẫy > = x 100 14 ngày/đợt và < 14 Tổng số người dân điều tra tại điểm

ngày/đợt (%) nghiên cứu

- Tỷ lệ giao lưu, qua lại biên giới

Số người dân có qua lại biên giới làm Tỷ lệ người dân có qua ăn, buôn bán, thăm thân lại biên giới làm ăn, buôn = x 100 Tổng số người dân điều tra tại điểm bán, thăm thân (%) nghiên cứu

- Tần suất giao lưu qua biên giới

Tỷ lệ người dân qua lại Số người dân có qua lại biên giới làm

biên giới làm ăn, buôn ăn, buôn bán, thăm thân 1tuần/1 lần, 2

bán, thăm thân 1 tuần/1 tuần/1 lần, 3 tuần/1lần = x 100 lần, 2 tuần/1 lần, 3 Tổng số người dân điều tra tại điểm

tuần/1lần (%) nghiên cứu

- Thói quen tìm kiếm dịch vụ y tế của cộng đồng khi bị sốt

Tỷ lệ người dân đến Số người dân đến trạm y tế xã, tự mua

trạm y tế xã, tự mua thuốc uống, đến y tế tư nhân khi có sốt = x 100 thuốc điều trị, đến y tế Tổng số người dân trong điều tra tại

tư nhân khi có sốt (%)

điểm nghiên cứu

- Tình hình sử dụng các biện pháp cá nhân phòng chống sốt rét

Tỷ lệ người dân sử

Số người dân sử dụng các biện pháp bảo vệ

dụng các biện pháp

cá nhân nằm màn, kem, hương xua muỗi

bảo vệ cá nhân nằm

=

x 100

Tổng số người dân trong điều tra tại điểm

màn, kem, hương xua nghiên cứu

muỗi.. (%)

25

- Tỷ lệ, thành phần, mật độ của các véc tơ truyền bệnh sốt rét tại điểm

nghiên cứu

Bằng các kỹ thuật Mồi người trong nhà, ngoài nhà; Bẫy đèn, soi chuồng

gia súc; Mồi người trong rừng....để tính toán tỷ lệ, thành phần và mật độ véc

tơ.

2.2.6. Các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu

2.2.6.1. Kỹ thuật thăm khám lâm sàng

- Đo nhiệt độ hố nách bằng nhiệt kế điện tử, mục đích để phát hiện những

trường hợp có sốt.

- Khám lách cho tất cả các đối tượng được điều tra để phát hiện những

trường hợp có lách to. Khám phát hiện lách to được thực hiện bởi bác sỹ trong

quá trình điều tra. Lách to được phân loại theo phân loại của Hackette (từ độ 0

đến độ 5).

2.2.6.2. Kỹ thuật xét nghiệm lam máu giọt đặc (giọt dày) tìm ký sinh trùng sốt

rét trong máu

- Xét nghiệm lam máu tìm KSTSR bằng lấy máu ở đầu ngón tay, làm kỹ

thuật nhuộm giọt dày nhuộm Giemsa và soi bằng kính hiển vi quang học.

- Lam máu giọt dày được lấy từ tất cả các đối tượng nghiên cứu trong

các cuộc điều tra cắt ngang và đối với những trường hợp có sốt nghi ngờ mắc

sốt rét trong quá trình thực hiện nghiên cứu.

- Lam máu sau khi để khô được nhuộm với dung dịch Giemsa 4% trong

45 phút và soi dưới kính hiển vi quang học để xác định sự có mặt của KSTSR,

xác định loài và đếm mật độ KST.

- Mật độ KSTSR được đếm và tính trên 1 mm³ máu.

- Trong điều tra cắt ngang lam máu được lấy, nhuộm và xét nghiệm bởi

các xét nghiệm viên của Viện SR-KST-CT TƯ.

- Trong quá trình thực hiện nghiên cứu theo dõi dọc, lam máu được lấy,

nhuộm và xét nghiệm bởi xét nghiệm viên làm việc tại điểm kính hiển vi xã.

Kết quả xét nghiệm lam máu của điểm kính hiển vi xã được gửi đi kiểm tra lại

ở tuyến trên theo qui định.

26

2.2.6.3. Điều tra xác định thành phần, mật độ loài muỗi truyền bệnh sốt rét

- Bắt muỗi bằng phương pháp theo thường quy của Viện Sốt rét - KST -

CTTƯ:

+ Mồi người ngoài nhà ban đêm; Mồi người trong nhà ban đêm; Mồi

người

+ Bẫy đèn trong nhà ban đêm; Bẫy đèn ngoài nhà

+ Soi trong nhà ban ngày; Soi chuồng gia súc

- Định loại muỗi, đánh giá hiệu lực diệt của hóa chất tồn lưu, thử nhạy

kháng với hóa chất theo SOPs của Viện sốt rét.

2.2.6.4. Sử dụng Smartphone báo cáo trường hợp bệnh

- Dùng điện thoại báo cáo nhanh ca bệnh có ký sinh trùng sốt rét.

- Sử dụng phần mềm Ona.oi cho điện thoại.

2.2.6.5. Kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp

Bộ câu hỏi được soạn sẵn và thử nghiệm tại thực địa trước khi tiến hành

nghiên cứu. Cán bộ điều tra thực hiện phỏng vấn được tập huấn trước khi tiến

hành nghiên cứu tại thực địa. Bộ câu hỏi được sử dụng để phỏng vấn các chủ hộ

gia đình hoặc những người đại diện cho hộ gia đình nắm rõ nhất về tình hình gia

đình và có khả năng hiểu và trả lời được các câu hỏi phỏng vấn.

2.2.7. Sai số và phương pháp loại trừ sai số

- Tuân thủ các quy định trong nghiên cứu như:

+ Tuân thủ các nguyên tắc sàng tuyển đối tượng nghiên cứu.

+ Tập huấn đầy đủ cho cán bộ điều tra, triển khai nghiên cứu thử trước

khi nghiên cứu trên toàn bộ các điểm nghiên cứu.

+ Các xét nghiệm phải được kiểm tra chéo với các kỹ thuật viên đảm bảo

trình độ lever 2 trở lên.

+ Phối hợp với cán bộ địa phương thông thạo tiếng dân tộc tham gia

phỏng vấn và phiên dịch.

2.3. Phương pháp thống kê và phân tích số liệu

- Nhập số liệu bằng EpiData và phân tích bằng Stata 12.0.

- Sử dụng các test thống kê y sinh học để phân tích số liệu như: Test t, x²..

27

2.4. Đạo đức trong nghiên cứu

- Đề cương nghiên cứu của đề tài được thông qua hội đồng đạo đức trong

nghiên cứu y sinh học của Viện Sốt rét - KST - CT TƯ.

- Có sự chấp thuận trước của đối tượng nghiên cứu. Các đối tượng tham

gia nghiên cứu ký vào bản cam kết đồng ý tham gia nghiên cứu.

- Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định y đức trong nghiên cứu y sinh

học, như: Mô tả kỹ quyền lợi, nghĩa vụ của người tham gia nghiên cứu, trách

nhiệm của người nghiên cứu.

- Không sử dụng các số liệu nghiên cứu cho mục đích khác, chỉ phục vụ

cho y học nâng cao sức khỏe nhân dân trong địa bàn nghiên cứu.

- Thông qua nghiên cứu này đưa ra những biện pháp thích hợp trong việc

PCSR và bảo vệ sức khỏe cho nhóm dân di biến động.

28

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Thực trạng bệnh sốt rét tại khu vực nghiên cứu

3.1.1. Một số thông tin về đối tượng nghiên cứu

Bảng 3. 1. Số người điều tra theo giới tại các điểm nghiên cứu

Tổng số Nam Nữ Địa điểm nghiên Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ cứu lượng (%) lượng (%) lượng (%)

Bù Gia Mập 516 50,24 232 44,85 284 55,15

Đắk Ơ 511 49,76 249 48,73 262 51,27

Cộng 1027 100 480 46,74 547 53,26

Nhận xét:

Tổng số người trong nghiên cứu là 1027, trong đó:

- Tỷ lệ nam trong nghiên cứu thấp hơn nữ (46,74% nam và

53,26% nữ).

Bảng 3. 2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi (n =1027)

< 5 tuổi 5 - 15 tuổi ≥ 15 tuổi Địa điểm nghiên Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ cứu lượng (%) lượng (%) lượng (%)

Bù Gia mập 22 4,26 100 19,38 394 76,36

Đắk Ơ 34 6,65 114 22,31 363 71,04

Cộng (n = 1.027)

56

5,45

214

20,84

757

73,71

Nhận xét:

Có sự khác biệt về tỷ lệ các nhóm người ≥ 15 tuổi, 5 -15 tuổi và < 5

tuổi, với các tỷ lệ: nhóm trên 15 tuổi: 73,71% so với 20,84% và 5,45%.

29

Bảng 3. 3. Phân bố nhóm đối tượng điều tra theo dân tộc (n =1.027)

Dân tộc Địa điểm nghiên Kinh (1) S’ tiêng (2) Khác (4) cứu % SL % SL % SL

Bù Gia mập 3,50 355 68,74 143 27,77 18

Đắk Ơ 8,20 435 85,16 34 6,64 42

Cộng (n = 1027) 60 5,85 790 76,95 177 17,20

Nhận xét:

Kết quả nghiên cứu cho thấy có 11 dân tộc được điều tra tại 2 xã của tỉnh

Bình Phước, tỷ lệ dân tộc Stiêng 790 người, chiếm 76,95% và dân tộc Kinh 60

người, chiếm 5,85%. Dân tộc khác như Cao Lan, Dạ, Ê đê, Hoa, M’nông,

Mường, Nùng, Tày, Thái chiếm 17,20%. Tại xã Đắk Ơ và xã Bù Gia Mập chủ

yếu là người S’tiêng.

3.1.2. Thực trạng mắc sốt rét tại Bình Phước

3.1.2.1. Tỷ lệ bệnh nhân sốt rét lâm sàng

Bảng 3. 4. Tỷ lệ sốt rét lâm sàng (n = 1027)

Có sốt rét lâm sàng Số điều Tên xã tra Số lượng Tỷ lệ (%)

516 59 11,43 Bù Gia Mập

511 11 2,15 Đắc Ơ

1.027 70 6,82 Chung

< 0,05

Giá trị p

Nhận xét:

Tỷ lệ sốt rét lâm sàng chung của hai xã trong 2 tuần qua là 6,82%

(70/1.027).

Có sự khác biệt về tỷ lệ sốt rét lâm sàng tại hai xã huyện Bù Gia Mập

tỉnh Bình Phước với các tỷ lệ: xã Đắc Ơ có tỷ lệ sốt rét lâm sàng thấp hơn xã

Bù Gia Mập: 2,15% so với 11,43% với p < 0,05.

3.1.2.2. Tỷ lệ, phân bố bệnh nhân sốt rét lâm sàng

30

3,12

Không mắc sốt rét

Có mắc sốt rét

96,88

Hình 3. 1 .Tỷ lệ sốt rét chung tại các điểm nghiên cứu ( n = 1027)

Nhận xét:

Tỷ lệ mắc sốt rét lâm sàng chung ở đối tượng nghiên cứu là 3,12%.

Bảng 3. 5. Phân bố bệnh nhân mắc sốt rét tại các xã tìm thấy ký sinh

trùng sốt rét trong máu (n = 1027)

Tình trạng nhiễm ký sinh trùng sốt rét Điểm nghiên cứu Số xét nghiệm Số (+) Tỷ lệ (%)

516 6 1,16 Xã Bù Gia Mập (1)

511 26 5,09 Xã Đắc Ơ (2)

1027 32 3,12 Chung

< 0,05 Giá trị p

Nhận xét:

Có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở xã Đắc Ơ

31

so với các xã Bù Gia Mập với các tỷ lệ 5,09% so với 1,16%, p < 0,05.

3.1.2.3. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét theo giới, theo lứa tuổi ở từng thôn bản

Bảng 3. 6. Tỷ lệ BNSR phân bố theo thôn bản điều tra

KST

Xã N TT Tên thôn SL SL Tỷ lệ %

Bù Gia Mập

Đắk Ơ

1 2 3 4 5 6 Bù Lư Bù Rên Bù Nga Thôn 10 Bù Bưng Bù Khơn Tổng 200 159 157 161 165 185 1027 Sốt lâm sàng Tỷ lệ % 10,50 21,38 2,55 1,24 4,24 1,08 6,82 p<0,05 21 34 4 2 7 2 70 2 3 1 5 13 8 32 1,0 1,9 0,6 3,1 7,9 4,3 3,12 p<0,05

Nhận xét:

Tỷ lệ có sốt trong 2 tuần qua là 70 người (6,82%) trong tổng số 1.027

người được điều tra. Phân bố sốt rét lâm sàng không đồng đều giữa các thôn,

thôn Bù Rên có tỷ lệ nhiễm sốt rét lâm sàng cao nhất (21,38%), thấp nhất tại

thôn Bù Khơn (1,08%). Tỷ lệ nhiễm KSTSR ở thôn Bù Bưng cao nhất 7,9%

(13 trường hợp) và thấp nhất là thôn Bù Nga phát hiện 1 trường hợp nhiễm

18,75

KSTSR.

81,25

P.falciparum P.vivax

Hình 3. 2. Cơ cấu thành phần loài ký sinh trùng sốt rét tại điểm

nghiên cứu

32

Nhận xét:

Tại khu vực nghiên cứu phát hiện 2 loài ký sinh trùng sốt rét là

P. falciparum và P. vivax, trong đó nhiễm P. falciparum đơn thuần chiếm

tỷ lệ 81,25% (26 P. falciparum, 6 P. vivax)

Bảng 3. 7. Tỷ lệ người nhiễm KSTSR có sốt

Sốt rét Có (n=32) Không (n=995)

p SL % SL % Tình trạng sốt

Có 12 17,14 58 82,86

p=0,000 Không 20 2,09 937 97,91

Chung

32

3,12

995

96,88

Nhận xét:

Tỷ lệ người nhiễm KSTSR có sốt là 17,14% (12/70) cao hơn tỷ lệ người

nhiễm KSTSR không có sốt 2,09% (20/937), có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Trong nhóm có KSTSR, tỷ lệ người có sốt trong nhóm có mang KSTSR

là 37,5% (12/32) và tỷ lệ người không có sốt trong nhóm mang KSTSR là

67,5% (20/32); như vậy tỷ lệ người nhiễm KSTSR không có sốt cao hơn người

nhiễm KSTSR có sốt và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Bảng 3. 8. Tỷ lệ người nhiễm KSTSR theo nhóm dân tộc

Kinh S’tiêng Dân tộc khác

p

Kết quả xét nghiệm KSTSR

SL

%

SL

%

SL

%

Dương tính

2

3,85

29

3,63

1

0,57

p=0,102

Âm tính

50

96,15 770

96,37

175

99,43

Chung

52

100,0 799

100,0

176

100,0

33

Nhận xét:

Tỷ lệ người kinh mắc SR là 3,85%, người S’tiêng là 3,63%, nhóm dân

tộc khác là 0,57%. Như vậy, nhóm dân tộc S’tiêng có tỷ lệ mắc SR không khác

biệt nhiều so với các nhóm dân tộc khác.

- Tỷ lệ tìm thấy ký sinh trùng sốt rét theo giới:

Bảng 3. 9. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét theo giới (n = 1027)

Tình trạng sốt rét

Giới tính Số xét nghiệm Số có KST sốt Tỷ lệ (%)

rét

21 Nam 481 4,37

11 Nữ 546 2,02

32 Chung 1.027 3,12

Giá trị p P<0,05

Nhận xét:

Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở nam cao hơn ở nữ, tuy nhiên sự

khác biệt này có ý nghĩa thống kê, với tỷ lệ 4,37% so với 2,02%, p < 0,05.

- Tỷ lệ tìm thấy ký sinh trùng sốt rét theo lứa tuổi:

Bảng 3. 10. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét theo tuổi (n = 1027)

Tình trạng sốt rét

Nhóm tuổi

Số xét nghiệm

Số có KST sốt

Tỷ lệ (%)

rét

270

5

Từ 0 - 14 tuổi

1,85

757

27

≥ 15

3,57

1027

32

Chung

3,12

> 0,05 Giá trị p

Nhận xét:

34

Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở nhóm người ≥ 15 tuổi cao hơn nhóm

người 0 -14 tuổi, tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê, với các giá

trị 3,57% so với 1,85%, p > 0,05.

3.2. Một số yếu tố liên quan mắc sốt rét tại vùng sốt rét lưu hành nặng có

dân di biến động tại Bình Phước

3.2.1. Phân bố nhóm dân di biến động, trình độ học vấn, thu nhập hộ gia

đình:

Bảng 3. 11. Phân bố nhóm dân di biến động

Điểm Tổng số Dân bản địa Dân từ nơi khác đến

nghiên cứu người Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)

Bù Gia Mập 516 359 69,57 157 30,43

Đắk Ơ

511

349

68,30

162

31,70

Cộng 1.027 708 68,93 319 31,06

Nhận xét:

Trong 2 điểm nghiên cứu với 1027 người, có 319 người di cư từ các xã

khác trong tỉnh và từ tỉnh khác đến chiếm tỷ lệ 31,06%.

Bảng 3. 12. Trình độ học vấn của chủ hộ đại diện gia đình (n = 300)

Trình độ học vấn

Địa điểm Mù chữ Tiểu học TH cơ sở THPT trở lên

nghiên cứu Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

lượng (%) lượng (%) lượng (%) lượng (%)

37,3 Bù Gia mập

56

52

34,66

33

22

9

6

3

23,3

Đắk Ơ

35

63

42

38

25,33

14

9,3

3

Cộng (n =

91

30,33

115

38,33

71

23,66

23

7,65

300)

35

Nhận xét:

Trong tổng số 300 chủ hộ được phỏng vấn thì số người không biết chữ

khá cao chiếm 30,3%; chủ hộ có trình độ học vấn bậc tiểu học: 38,33%; số

người có trình độ học vấn từ trung học phổ thổng trở lên ít: 7,65%.

3.2.2. Đặc điểm nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu

Với 300 hộ gia đình trong nghiên cứu hầu hết là đồng bào thiểu số với

nghề làm nương rẫy, đi rừng khai thác lâm sản và buôn bán qua biên giới. Kết

quả nghiên cứu như sau:

- Tỷ lệ đi rừng, đi rẫy, qua lại biên giới

Bảng 3. 13. Tỷ lệ hộ gia đình có người đi rừng, đi rẫy và qua lại biên giới

Gia đình có Gia đình có Gia đình có người qua lại Điểm nghiên người đi rừng người đi làm rẫy

biên giới

cứu

Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

lượng (%) lượng (%) lượng (%)

Bù Gia Mập 165 31,98 494 95,74 41 7,95

Đắk Ơ 218 42,66 405 79,26 31 6,07

Cộng 383 37,29 899 87,54 72 7,01

Giá trị p < 0,01 < 0,01 > 0,05

Nhận xét:

Tỷ lệ gia đình có người làm nương rẫy cao nhất 87,54%, tiếp đến là tỷ lệ

hộ gia đình có người đi rừng 37,29%, chỉ có 7,01% số hộ gia đình có người qua

lại biên giới làm ăn buôn bán.

Có sự khác biệt về tỷ lệ người đi rừng, gia đình có người đi làm rẫy giữa

2 xã với p <0,01.

Bảng 3. 14. Tần suất đi làm rẫy trong quần thể nghiên cứu

tháng/lần

2 (2)

3 tháng/lần(3)

Địa điểm nghiên cứu

Bù Gia Mập Đắk Ơ

1 tháng/lần (1) Tỷ lệ (%) 75,91 90,62

Số lượng 375 367

Số lượng 2 29

Tỷ lệ (%) 0,40 7,16

Số lượng 7 2

Tỷ lệ (%) 1,42 0,49

>3 tháng/lần(4) Tỷ lệ (%) 22,27 1,73

Số lượng 110 7

36

742 82,54 31 3,45 9 1,00 117 13,01

37

Cộng Giá trị p < 0,01

Nhận xét:

Khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ đi làm nương rẫy 1 tháng/1 lần

so với 2 tháng/1 lần, 3 tháng/1 lần và > 3 tháng/1 lần, với các giá trị 82,54% so

với 3,45%, 1,00% và 13,01%, với p < 0,01.

Bảng 3. 15. Tần suất đi rừng trong quần thể nghiên cứu

1 tháng/lần (1) 2 tháng/lần(2) 3 tháng/lần(3) >3 tháng/lần(4) Địa điểm Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ nghiên cứu lượng (%) lượng (%) lượng (%) lượng (%)

Bù Gia mập 93 56,36 15 9,09 34 20,61 23 13,94

149 68,35 29 13,30 9 4,13 31 14,22 Đắk Ơ

Cộng 242 63,19 44 11,49 43 11,23 54 14,10

Giá trị p

< 0,01

Nhận xét:

Khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ đi rừng 1 tháng/1 lần so với 2

tháng/1 lần, 3 tháng/1 lần và > 3 tháng/1 lần, với các giá trị 63,19% so với

11,49%, 11,23% và 14,10%, với p < 0,01.

3.2.3. Thực trạng về kiến thức hiểu biết về bệnh sốt rét

- Hiểu biết về nguyên nhân gây bệnh sốt rét:

Bảng 3. 16. Hiểu biết về nguyên nhân gây bệnh sốt rét

Nguyên nhân gây bệnh sốt rét Địa điểm Không biết (1) Do ruồi (2) Do ở bẩn (3) Do muỗi (4) nghiên cứu Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

lượng

(%)

lượng

(%)

lượng

(%)

lượng

(%)

Bù Gia mập

112

21,71

18

3,49

3

1,99

383

74,22

3

0,59

16

3,13

0

0

448

87,67

Đắk Ơ

115

34

3

1

Cộng

11,20

3,31

831

80,92

Giá trị p

< 0,01

> 0,05

< 0,01

< 0,01

38

Nhận xét:

Tỷ lệ người dân biết nguyên nhân sốt rét do muỗi đốt khá cao 80,92%.

Khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hiểu biết về bệnh sốt rét do muỗi đốt

so với không biết, do ruồi, do ở bẩn, với các giá trị 80,92% so với 11,20%,

3,31% và 1,00%, với p < 0,01.

- Hiểu biết về triệu chứng của bệnh sốt rét

Triệu chứng bệnh sốt rét có rất nhiều, trong nghiên cứu này chỉ tập

trung vào các triệu chứng điển hình là: Sốt cao, rét run, khát nước vã mồ hôi,

đau đầu và buồn nôn.

Bảng 3. 17. Hiểu biết về triệu chứng của bệnh sốt rét

Triệu chứng Điểm

nghiên Sốt cao (1) Rét run (2) Khát nước(3) Đau đầu (4) Buồn nôn

cứu SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%

10 Bù Gia Mập 67,55 75 49,67 44 29,14 5 3,31 33 21,85 2

13 Đắk Ơ 89,33 93 62,00 122 81,33 16 10,67 25 16,67 4

Cộng 236 78,44 168 55,83 166 55,23 21 6,99 58 19,26

Giá trị p < 0,01

Nhận xét:

Khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ chủ hộ biết các biểu hiện của bệnh

sốt rét với các giá trị sốt cao, rét run, khát nước, đau đầu và buồn nôn, với các

giá trị tương ứng: 78,44% so với 55,83%, 55,23%, 6,99% và 19,26%, với p <

0,01.

- Hiểu biết về phòng chống bệnh sốt rét

39

Bảng 3. 18. Hiểu biết về biện pháp phòng bệnh sốt rét (n = 300)

Nằm

Màn

Phun

Kem

Hun

Hương

Cúng

Cách phòng bệnh sốt rét Địa điểm

màn (1)

tẩm (2)

thuốc (3)

xua (4)

khói (5)

xua (6)

ma(7)

nghiên cứu

103

37

25

2

4

2

0

Bù Gia mập

133

56

97

3

3

1

0

236

93

122

5

7

3

0

Đắk Ơ

78,66

31

40,66

1,66

2,33

1

0

Cộng

Tỷ lệ

< 0,01

Giá trị p

Nhận xét:

Số người biết phòng bệnh sốt rét bằng nằm màn là 78,66%, bằng phun

thuốc là 40,66%, sử dụng màn tẩm là 31%, rất ít người dùng hương xua và kem

xua để phòng bệnh sốt rét.

Khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa sử dụng biện pháp nằm màn so với

màn tẩm, phun thuốc, kem xua, hun khói, hương xua và cúng ma, với các tỷ lệ:

78,66% so với 31%, 40,66%, 1,66%, 2,33%, 1%, với p < 0,01.

3.2.4. Thực hành của người dân về phòng chống sốt rét

Bảng 3. 19. Tỷ lệ bao phủ màn tại các điểm nghiên cứu

Tình trạng bao phủ màn Điểm nghiên Đủ màn (< 2 người/màn) Thiếu màn (>2 người/màn) cứu Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)

Bù Gia mập (1) 98 64,90 53 35,10

Đắk Ơ (2)

109

72,67

42

28,00

Cộng

207

68,78

95

31,55

Giá trị p

< 0,05

Nhận xét:

Kết quả nghiên cứu cho thấy 68,78% hộ gia đình có đủ màn để sử

dụng, tỷ lệ thiếu màn chung vẫn khá cao 31,55%.

- Thực hành nằm màn

40

Trong nghiên cứu đánh giá theo các mức độ: Thường xuyên ngủ màn,

không thường xuyên và không ngủ màn. Kết quả như sau:

Bảng 3. 20. Tỷ lệ thường xuyên ngủ màn

Thường xuyên Không thường Không ngủ Điểm ngủ màn (1) xuyên (2) màn (3) Tổng số nghiên cứu hộ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

lượng % lượng % lượng %

Bù Gia mập 97 64,66 50 33,33 3 2 150

150 Đắk Ơ 41 27,33 98 65,33 11 7,33

Cộng 195 65 61 30,33 44 14,66 300

Giá trị p < 0,01

Nhận xét:

Tỷ lệ hộ gia đình thường xuyên ngủ màn là 65%. Khác biệt có ý nghĩa

thống kê giữa tỷ lệ ngủ màn thường xuyên so với không thường xuyên ngủ màn

và không ngủ màn, với các tỷ lệ 65 % so với 30,33% và 14,66%, với p < 0,01.

3.2.5. Liên quan giữa các yếu tố di biến động dân cư với mắc sốt rét

- Qua lại biên giới:

Bảng 3. 21. Liên quan giữa qua lại biên giới với mắc sốt rét

Tình trạng mắc sốt rét Có, không qua lại Tổng

biên giới Có mắc sốt rét Không mắc sốt rét

Có 5 27 32

Không

27

928

995

1027

OR =6,36, CI95% (2,27-17,79), p < 0,05

Nhận xét:

Nguy cơ mắc sốt rét của người qua lại biên giới có tỷ lệ mắc sốt rét cao

hơn 6,36 lần những người không qua lại biên giới sự khác biệt này có ý nghĩa

thống kê.

- Đi rừng, ngủ rừng với mắc sốt rét

41

Bảng 3. 22. Liên quan giữa đi rừng, ngủ rừng với mắc sốt rét

Tình trạng mắc sốt rét Có đi rừng ngủ Tổng

rừng Có mắc sốt rét Không mắc sốt rét

362 383 21 Có

633 644 11 Không

995 1.027 32 Tổng

OR = 3,33, CI95% (1,59-7,00), p < 0,05

Nhận xét:

Có liên quan giữa yếu tố đi rừng ngủ rừng với tình trạng mắc sốt

rét, với OR = 3,33, CI95% (1,59-7,00), p < 0,05

Bảng 3. 23. Liên quan giữa thời gian đi rừng, ngủ rừng với mắc sốt rét

Tình trạng mắc sốt rét Số ngày đi rừng Tổng

ngủ rừng Có mắc sốt rét Không mắc sốt rét

116 121 5 ≥ 14 ngày

699 714 15 < 14 ngày

815 835 20 Tổng

OR = 2,00, CI95%(0,71 – 5,63), p < 0,05

Nhận xét:

Nguy cơ mắc sốt rét ở người đi rừng, ngủ rừng ≥ 14 ngày cao gấp 2 lần

người ngủ rừng < 14 ngày, với giá trị OR = 2,00, CI95%(0,71 – 5,63), p < 0,05

- Liên quan giữa làm việc trong rừng với mắc sốt rét

42

Bảng 3. 24. Liên quan giữa làm nương rẫy, trang trại, lâm nghiệp trong

rừng với nhiễm ký sinh trùng sốt rét

Tình trạng nhiễm sốt rét

Tình trạng làm nương rẫy, Có nhiễm Không nhiễm Tổng trang trại, trong rừng KST sốt rét KST sốt rét

Có làm rừng 26 578 604

Không làm 6 417 595

Tổng 32 995 1027

OR = 3,12, CI95%(1,27 – 7,66), p < 0,01

Nhận xét:

Nguy cơ mắc sốt rét ở người có làm nương rẫy, trang trại, lâm nghiệp

trong rừng cao gấp 3,12 lần người không làm, với OR = 3,12, CI95%(1,27 –

7,66), p < 0,01.

3.2.6. Liên quan giữa các yếu tố dân di cư

+ Tình trạng di cư

Bảng 3. 25. Mối liên quan giữa tình trạng dân di cư với mắc sốt rét

Dân di cư Tổng

Tình trạng nhiễm sốt rét Có nhiễm KST sốt rét Không nhiễm KST sốt rét

Dân từ nơi khác đến Dân bản địa Tổng 8 24 32 311 684 995 319 708 1027

43

OR = 0,73, CI95%(0,32-1,65) p > 0,05

Nhận xét:

Chưa tìm thấy liên quan giữa dân di cư từ nơi khác đến với nhiễm ký

sinh trùng sốt rét, với giá trị OR = 0,73, CI95%(0,32-1,65) p > 0,05

+ Thời gian di cư

Bảng 3. 26. Mối liên quan giữa thời gian di cư với mắc sốt rét

Tình trạng nhiễm sốt rét

Thời gian di cư Có nhiễm mắc sốt Không mắc sốt Tổng

rét rét

≥ 15 ngày 281 286 5

< 15 ngày 30 33 3

Tổng 311 319 8

OR = 0,71, CI95%(0,16-3,03), p > 0,05

Nhận xét:

Chưa tìm thấy liên quan giữa dân di cư > 15 ngày với mắc sốt rét, với

các giá trị OR = 0,71, CI95%(0,16-3,03), p > 0,05.

3.2.7. Liên quan giữa kiến thức, thái độ phòng bệnh với tình trạng mắc sốt

rét tại các điểm nghiên cứu

- Kiến thức về phòng chống sốt rét

Bảng 3. 27. Liên quan giữa hiểu biết về nguyên nhân gây bệnh sốt rét với

tình trạng mắc sốt rét

Tình trạng nhiễm sốt rét Hiểu biết nguyên Không mắc sốt Tổng

nhân mắc sốt rét

Có mắc sốt rét

rét

668

696

28

Không biết

327

331

4

Có biết

995

1027

32

Tổng

OR = 3,42, CI95%(1,19-9,85), p < 0,05

44

Nhận xét:

Có mối liên quan giữa hiểu biết về nguyên nhân gây bệnh sốt rét với tình

trạng mắc sốt với giá trị OR = 3,42, CI95%(1,19-9,85), p < 0,05.

- Liên quan giữa biết sốt rét có thể phòng chống được với mắc sốt rét

Bảng 3. 28. Liên quan giữa biết sốt rét có thể phòng chống được với

mắc sốt rét

Tình trạng nhiễm sốt rét Hiểu biết sốt rét có Không mắc sốt Tổng thể phòng chống được Có mắc sốt rét rét

6 345 351 Không biết

26 750 776 Có biết

32

995

1027

Tổng

OR = 0,50, CI95%(0,20-1,23), p > 0,05

Nhận xét:

Chưa tìm thấy liên quan giữa hiểu biết sốt rét có thể phòng tránh được

với tình trạng mắc sốt rét với OR = 0,5, CI95%(0,20-1,23), p > 0,05.

3.2.8. Thực hành phòng bệnh của người dân phòng chống mắc sốt rét

- Biện pháp phòng tránh muỗi khi ngủ trong rẫy

Bảng 3. 29. Biện pháp bảo vệ khi ngủ tại rẫy

Số Nằm võng (1) Nằm màn (2) Không dùng (3) Địa điểm người có Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ nghiên cứu ngủ rẫy lượng (%) lượng (%) lượng (%)

Bù Gia Mập

145

18

12,41

55

37,93

72

49,66

Đắk Ơ

82

2

2,44

15

18,29

65

79,27

Cộng

227

20

7,2

70

28,11

137

64,46

Giá trị p

< 0,01

45

Nhận xét:

Tỷ lệ không sử dụng màn, võng khi ngủ trong rẫy còn rất cao (64,46%).

Có sự khác biệt về tỷ lệ nằm màn so với nằm võng và không sử dụng khi

ngủ trong rẫy, với các tỷ lệ 28,11% so với 7,2% và 64,46%, với p < 0,01.

- Biện pháp phòng tránh muỗi đốt khi ngủ trong rừng

Bảng 3. 30. Biện pháp phòng tránh muỗi đốt khi ngủ trong rừng

Số người Nằm võng (1) Nằm màn (2) Không sử dụng (3) Địa điểm ngủ rừng Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ nghiên cứu lượng (%) lượng (%) lượng (%)

42 29 69,05 9 21,43 4 9,52 Bù Gia mập

34 14 40,00 13 37,14 7 20,00 Đắk Ơ

76

43

54,52

22

29,28

11

14,76

Cộng

<0,05 Giá trị p

Nhận xét:

Tỷ lệ nằm màn cao nhất 63,37%, vẫn còn 9,31% không sử dụng biện

pháp gì để phòng muỗi đốt.

Khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ nằm màn so với nằm võng và

không sử dụng biện pháp gì, với các tỷ lệ 28,28% so với 54,52% và 14,76%,

với p < 0,05

3.2.9. Thói quen lựa chọn dịch vụ y tế khi bị sốt

Bảng 3. 31. Thói quen lựa chọn dịch vụ y tế khi bị sốt

Địa điểm nghiên cứu

Bù Gia Mập Đắk Ơ

Đến cơ sở y tế công (1) Tỷ lệ Số (%) lượng 72,19 109 83,44 126 77,81 235 Đến cơ sở y tế tư nhân (2) Tỷ lệ (%) 1,32 27,81 14,56

Số lượng 2 42 44

Mua thuốc tự điều trị (3) Số lượng 1 75 76

Tỷ lệ (%) 0,66 49,67 25,16

Cúng ma/ không biết (4) Tỷ lệ (%) 25,83 0,00 12,91

Số lượng 39 0 39

< 0,01

Cộng Giá trị

46

Nhận xét:

Có khác biệt giữa tỷ lệ người dân khi bị sốt đến với y tế nhà nước so với

tự mua thuốc uống, đến Y tế tư nhân và cúng ma với các giá trị 77,81% so với

25,16%, 14,56% và 12,91%, với p < 0,01.

Bảng 3. 39. Tổng hợp các yếu tố phân tích giữa các yếu tố nguy cơ

và liên quan với mắc sốt rét

OR (95%CI), p Biến số phân tích Có liên

liên quan với mắc quan

sốt rét

Đi rừng, ngủ rừng OR = 3,33, CI95% (1,59-7,00), p < 0,05 Có

Thời gian đi rừng, OR = 2,00, CI95%(0,71 – 5,63), p < 0,05 Có

ngủ rừng

Qua lại biên giới OR =6,36, CI95% (2,27-17,79), p < 0,05 Có

Làm việc trong rừng OR = 3,12, CI95%(1,27 – 7,66), p < 0,01 Có

Hiểu biết nguyên OR = 3,42, CI95%(1,19-9,85), p < 0,05 Có

nhân bệnh sốt rét

Hiểu biết bệnh thể OR = 0,50, CI95%(0,20-1,23), p > 0,05 Không

phòng chống được

Tình trạng dân di OR = 0,73, CI95%(0,32-1,65) p > 0,05 Không

Thời gian di cư OR = 0,71, CI95%(0,16-3,03), p > 0,05 Không

Nhận xét:

Đã xác định có 4 yếu tố liên quan với tình trạng mắc sốt rét là:

- Qua lại biên giới; Làm việc trong rừng; Hiểu biết nguyên nhân bệnh

sốt rét; Thời gian đi rừng, ngủ rừng.

3.2.10. Véc tơ truyền bệnh sốt rét tại các điểm nghiên cứu

Tại xã Đắk Ơ, bằng các phương pháp điều tra đã thu thập được 07 loài

Anopheles. Các loài muỗi thu thập được chủ yếu bằng phương pháp soi chuồng

gia súc ban đêm. Thu thập được véc tơ truyền bệnh sốt rét chính An.dirus bằng

phương pháp mồi người trong rừng có mật độ đốt mồi 0,17 con/ người/ đêm.

47

Ngoài ra, thu thập được véc tơ phụ An. maculatus ở phương pháp soi chuồng

gia súc ban đêm với mật độ 0,06 con/ giờ/ người.

Tại xã Bù Gia Mập thu thập được 05 loài Anopheles. Đã thu thập được

véc tơ truyền bệnh sốt rét chính An. dirus bằng phương pháp mồi người trong

48

rừng có mật độ đốt mồi 0,08 con/ người/ đêm.

CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN

1. Thực trạng bệnh sốt rét tại khu vực nghiên cứu

Huyện Bù Gia Mập thuộc tỉnh Bình Phước, mang đặc trưng khí hậu nhiệt

đới cận xích đạo gió mùa với 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Nhiệt độ

bình quân trong năm cao đều và ổn định từ 25,8 - 26,2 0C. Đất đai ở huyện Bù

Gia Mập rất màu mỡ, có khả năng thích nghi đối với nhiều loại cây trồng đặc

biệt là các loại cây công nghiệp như: cao su, cà phê, điều và tiêu. Tại đây là vựa

cao su, cây điều lớn nhất của tỉnh Bình Phước.

Tại các xã Đắk Ơ và Bù Gia Mập có đường biên giới tiếp giáp với Cam

Pu Chia, người dân tại đây thường xuyên giao lưu qua lại biên giới tuy nhiên

còn nhiều khó khăn trong việc quản lý dân di cư qua lại biên giới. Nhìn chung

điều kiện khí hậu tự nhiên tại khu vực nghiên cứu thuận lợi cho côn trùng đặc

biêt là muỗi phát triển mạnh [36].

Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn 300 hộ gia đình, điều tra 1027 cá nhân

và lấy mẫu xét nghiệm sốt rét. Trong đó, xã Bù Gia Mập 516 người chiếm

50,24%, xã Đắc Ơ 511 người chiếm 49,76%. Trong đó 73,71% nhóm đối tượng

nghiên cứu trên 15 tuổi, 61 người tuổi trên 60. Số lượng nữ được phỏng vấn và

lấy máu xét nghiệm chiếm 53,26 %, tỷ lệ nam và nữ được điều tra tương đương

nhau và không có sự khác biệt (p > 0,05). Đảm bảo cho nghiên cứu đáp ứng

tính khoa học, mẫu được lấy ngẫu nhiên tại quần thể bằng cách đánh số nhà và

chọn ngẫu nhiên hộ gia đình có tên trong danh sách.

Khu vực nghiên cứu có 11 dân tộc cùng sinh sống, hầu hết là người dân

tộc thiểu số, đối tượng được điều tra phỏng vấn chủ yếu là người dân tộc S’tiêng

76,95%, còn lại là một số dân tộc khác như Kinh, Tày, Nùng, Hoa…..

Kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ bị nhiễm sốt rét chung tại các điểm nghiên

cứu là 3,12%, ở xã Bù Gia Mập tỷ lệ mắc sốt rét là 11,43% cao hơn so với xã

Đắc Ơ, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Tại các điểm nghiên cứu có 11

dân tộc sinh sống, trong đó chủ yếu là người Stiêng. Kết quả nghiên cứu tỷ lệ

49

mắc sốt rét ở nhóm dân tộc Stiêng không khác biệt nhiều so với các nhóm dân

tộc khác.

Tại khu vực nghiên cứu chỉ phát hiện được 2 loài ký sinh trùng sốt rét

gây bệnh ở người là P. falciparum và P. vivax, tỷ lệ bệnh nhân nhiễm P.

falciparum chiếm 81% số bệnh nhân nhiễm P. vivax là 19%.

2. Một số yếu tố liên quan ở vùng sốt rét lưu hành có dân di biến động tại

Bình Phước

Theo phân vùng dịch tễ sốt rét năm 2014 huyện Bù Gia Mập thuộc

vùng sốt rét lưu hành nặng [10], đặc biệt tại các tỉnh nghiên cứu số bệnh

nhân sốt rét có ký sinh trùng thường xuyên cao hơn nhiều so với các tỉnh

khác [4], [5].

Theo phân loại của Chính phủ về chuẩn nghèo năm 2015 [6], nhìn chung

dân sống tại các điểm nghiên cứu chủ yếu là hộ nghèo và cận nghèo, xã Đắk Ơ,

xã Bù Gia Mập tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo chiếm 92,8% và 94% số hộ gia

đình được điều tra của xã. Chỉ có 6,0% - 7,2% hộ gia đình có mức sống từ trung

bình trở lên. So với kết quả đánh giá hộ nghèo và cận nghèo của cả nước năm

2017 là 13,64%; Tỷ lệ hộ nghèo tại Bình Phước 5,37%, thì tỷ lệ hộ nghèo tại

các điểm nghiên cứu cao hơn, mặc dù 2 huyện được nghiên cứu không thuộc

trong danh sách 64 huyện nghèo của cả nước [3]. Kết quả điều tra cho thấy khu

vực nghiên cứu thuộc vùng khó khăn, thu nhập của người dân thấp, tỷ lệ hộ

nghèo và cận nghèo cao.

Trong nhóm nghiên cứu số người từ nơi khác đến làm ăn chiếm tỷ lệ khá

cao 31,06%, trong đó cao nhất là xã Đắk Ơ chiếm 31,7%, xã Bù Gia Mập là

30,43%. Đây là 2 xã có tình hình sốt rét phức tạp, luôn là điểm nóng về sốt rét

trong nhiều năm qua.

Công tác phòng chống sốt rét tại đây mặc dù đã được các chương trình

dự án quan tâm đầu tư nhưng số bệnh nhân sốt rét vẫn giảm rất ít. Hàng năm

công tác truyền thông giáo dục sức khỏe và phòng chống sốt rét được tăng

cường trên các phương tiện truyền thông như loa đài, tranh ảnh, tờ rơi. Qua

50

phỏng vấn kiến thức của chủ hộ gia đình tỷ lệ người biết nguyên nhân gây bệnh

sốt rét là do muỗi truyền chiếm 80,92%. Tỷ lệ này cao hơn so với với nghiên

cứu của tác giả Nguyễn Xuân Xã tại Nam Trà My có tỷ lệ người biết nguyên

nhân gây bệnh sốt rét là 68,3% [31]. Nghiên cứu của Trần Thanh Dương và

cộng sự tại Đắk Nông cho thấy kết quả: tỷ lệ người dân biết nguyên nhân gây

bệnh sốt rét là do muỗi chiếm 66,7%, tỷ lệ biết đúng nguyên nhân truyền bệnh

là 48% [12]. Quỹ toàn cầu phòng chống sốt rét Việt Nam năm 2016 cho kết

quả cao hơn với 92,3% người trả lời muỗi là nguyên nhân gây bệnh trong tổng

số 5.412 người [21].

Bình Phước là tỉnh thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng, tuy nhiên số người

biết các triệu chứng của bệnh sốt rét không cao, tỷ lệ chủ hộ biết các biểu hiện

của bệnh sốt rét có sốt cao là 78,44%, cao nhất là xã Đắk Ơ 89,33%; Chỉ 55,83%

chủ hộ biết khi bị sốt rét thì có biểu hiện rét run. 6,99% chủ hộ biết sốt rét có

bị đau đầu. Tỷ lệ số người biết các triệu chứng của bệnh sốt rét trong nghiên

cứu của chúng tôi còn khá khiêm tốn so với các nghiên cứu khác. Nghiên cứu

của Nguyễn Quý Anh (2005 và 2006) tại cộng đồng người Raglai ở Khánh Hòa

và Ninh Thuận cho thấy: Tỷ lệ hiểu biết bệnh SR là do muỗi truyền chiếm từ

82,5% - 85,93% và biết các dấu hiệu sốt, rét run với tỷ lệ dao động từ 64% -

87,9% [32]. Trong khi đó, nghiên cứu của Khumbulani tại Swaziland cho thấy:

có 99,7% số người biết bệnh SR có liên quan đến muỗi đốt và > 70% số người

biết sốt cao, rét run và đau dầu là triệu chứng biểu hiện của bệnh [31].

Số người biết phòng bệnh sốt rét bằng nằm màn là 78,66%, bằng phun

thuốc là 40,66%, sử dụng màn tẩm là 31%, rất ít người dùng hương xua và kem

xua để phòng bệnh sốt rét.

Kết quả nghiên cứu cho 68,78% hộ gia đình có đủ màn để sử dụng, tỷ lệ

hộ gia đình có đủ màn cao nhất là xã Đắk Ơ 72,67%, xã Bù Gia Mập 64,9%.

Như vậy mặc dù sống trong vùng sốt rét lưu hành nặng nhưng còn nhiều hộ gia

đình không có đủ màn để sử dụng. Như vậy so với nghiên cứu trước đó của Vũ

Đức Chính và cộng sự tại xã Đắk Ơ năm 2016 [8] thì tỷ lệ hộ gia đình có đủ

màn trong nghiên cứu này thấp hơn rõ rệt, nguyên nhân có thể do số màn cũ đã 51

hỏng, dân số tăng nhưng năm 2018 người dân không được cấp thêm màn. Tỷ

lệ hộ gia đình có đủ màn và thường xuyên ngủ màn đạt 65%, tỷ lệ hộ gia đình

không ngủ màn hoặc thỉnh thoảng chiếm tỷ lệ cao: 30,33%; cao nhất là xã Đắk

Ơ: 27,33%. Tỷ lệ không ngủ màn trong nghiên cứu này cao hơn so với nghiên

cứu ở Đắk Nông của Nguyễn Quý Anh năm 2015 tỷ lệ không ngủ màn là 0,92%

[1]. Tỷ lệ người sử dụng màn theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới là 55%,

thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi [52]. Như vậy mặc dù một số hộ gia

đình có đủ màn nhưng tỷ lệ thường xuyên ngủ màn không cao. Mặc dù có đủ

màn nhưng một số hộ gia đình vẫn không có thói quen ngủ màn thường xuyên.

So sánh với nghiên cứu của Lê Thành Đồng và cộng sự cho thấy hầu hết người

được hỏi đều có màn được cấp bởi chương trình Quốc gia PCSR số hộ gia đình

có đủ màn và thường xuyên ngủ màn, tuy nhiên trong nghiên cứu tỷ lệ màn khá

thấp. Có một người được hỏi đã sử dụng màn để làm lưới đánh cá [14]. Mặc

dù có đủ màn nhưng một số hộ gia đình không có thói quen ngủ màn thường

xuyên, nghiên cứu cho thấy số hộ gia đình có đủ màn và thường xuyên ngủ

màn cao hơn hẳn so với số hộ không có đủ màn.

Hộ gia đình có làm rẫy tại khu vực nghiên cứu chiếm tỷ lệ khá cao

87,54%; tại xã Bù Gia Mập 95,74% hộ gia đình sống bằng nghề làm rẫy. Nhiều

hộ gia đình làm nhà trong rẫy, ngủ lại qua đêm tại rẫy. Do có cả nhà ở rẫy và

nhà trong thôn nên số màn không thể đủ cho cả 2 nơi, vì vậy một số hộ gia đình

được hỏi không mang màn khi ngủ lại rẫy. Qua nghiên cứu cho thấy tỷ lệ hộ

gia đình có người qua lại biên giới thấp chiếm tỷ lệ 7,01%. Tỷ lệ hộ gia đình

có người đi rừng là 37,29%. Theo UNDP môi trường luôn là động lực dẫn đến

di cư, con người phải di dời để sinh tồn trước thảm họa tự nhiên hoặc đối mặt

với điều kiện môi trường khắc nghiệt và ngày càng xuống cấp nghiêm trọng, di

dời để tìm kiếm cơ hội ở những miền đất khác [28]. Như vây, số dân di biến

động tại khu vực này tăng cao do điều kiện kinh tế chủ yếu thu nhập từ nương

rẫy và vào rừng lấy gỗ, săn bắn, bên cạnh đó còn có lượng lớn số người từ nơi

khác đến làm thuê.

52

Mặc dù việc tuyên truyền về phòng chống sốt rét được quan tâm, tại các

trạm y tế đều có pano ghi rõ thuốc sốt rét được cấp miến phí tại các cơ sở y tế,

nhưng việc lựa chọn dịch vụ y tế khi mắc sốt rét của người dân chưa cao. Kết

quả nghiên cứu còn ghi nhận tỷ lệ những người lựa chọn các dịch vụ y tế khi bị

sốt và sốt rét như sau có 77,81% người dân khi bị sốt đến với y tế nhà nước; Thói

quen tự mua thuốc uống là 25,16%; có 14,56% người dân chọn đến Y tế tư nhân

và vẫn còn những hộ gia đình có lựa chọn cúng ma và không biết biện pháp khi

trong nhà có người bị sốt/sốt rét. Khi so sánh tỷ lệ này với điều tra chỉ số năm

2016 của Dự án Quỹ toàn cầu phòng chống sốt rét cho thấy tỷ lệ người trả lời

đến cơ sở y tế công trong nghiên cứu này thấp hơn 77,81% so với 95,8% lựa

chọn tìm kiếm dịch vụ y tế khi đến các cơ sở y tế nhà nước [21]. Một số nơi do

địa bàn quá xa nên người dân không muốn đến cơ sở y tế công mà tự mua thuốc

để diều trị khi bị sốt, có 1 trường hợp bệnh nhân sốt rét đang được điều trị DOT

tại trạm y tế đã bỏ thuốc vì lý do đường đi lại quá xa, từ nhà bệnh nhân tới trạm

y tế đi bằng xe máy mất khoảng 45 phút.

Tỷ lệ người đi làm rẫy hàng tháng là 82,54%; cao nhất là xã Đắk Ơ

90,62% số hộ thường xuyên đi làm rẫy, xã Bù Gia Mập 75,91%.

Có 28,11% số người khi đi rừng ngủ rẫy có mang theo màn. Số người

không mang theo màn khi đi rừng ngủ rẫy là 64,46%, cao nhất là xã Đắk Ơ

79,27%, xã Bù Gia Mập 49,66%. Tỷ lệ người dân mang theo màn khi đi rừng

ngủ rẫy thấp hơn nhiều so với nghiên cứu tại Nam Trà My của tác giả Nguyễn

Xuân Xã là 85,19% và ngủ màn ở rẫy 65,22% [31].

Nghiên cứu cho thấy trong tổng số 300 chủ hộ được phỏng vấn có

37,39% người thường xuyên đi rừng. Trong đó, có 63,19% người thường

xuyên đi rừng 1 lần/tháng, cao nhất là xã Đắk Ơ 68,35%. Kết quả nghiên cứu

cho thấy trong tổng số 300 người được phỏng vấn có 87,54% người thường

xuyên đi rẫy. Trong đó, có 82,54% người thường xuyên đi rẫy 1 lần/tháng.

Trong tổng số người đi rẫy có tới 87,54% người ngủ tại rẫy và biện pháp bảo

vệ bằng võng, màn lần lượt là 7,2% và 28,11%. Tỷ lệ người dân ngủ màn

53

thường xuyên khi ở rẫy trong nghiên cứu này thấp hơn so với nghiên cứu của

Nguyễn Xuân Xã tại huyện Đức Cơ tỉnh Gia Lai là 90,7% [30].

Trong tổng số người ngủ tại rừng thì biện pháp bảo vệ bằng võng, màn

lần lượt là 54,52% và 29,28%. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu còn cho biết

14,76% người không mang gì để bảo vệ khỏi muỗi đốt khi ngủ trong rừng,

nguyên nhân do số lượng võng màn trong nhà không đủ. Tại xã Đắk Ơ và xã

Bù Gia Mập một số người tham gia tuần tra bảo vệ rừng, mỗi tháng đi tuần

khoảng 15 ngày do tính chất nghề nghiệp không thể mang màn để ngủ chính vì

vậy nguy cơ cao bị muỗi đốt.

Toàn quốc có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh là dân tộc đa số chiếm

85% dân số cả nước, còn lại là dân tộc thiểu số. Mặc dù mỗi dân tộc có đặc

điểm và bản sắc riêng nhưng đồng bào các dân tộc thiểu số có điểm chung là

thường sinh sống ở các vùng núi rừng xa xôi cũng là những vùng khó khăn về

kinh tế và trọng điểm dịch bệnh. Đặc điểm cư trú của các dân tộc thiểu số phân

tán nhưng tập trung theo dòng tộc trong những buôn làng định cư, xen kẽ với

các dân tộc khác trên cùng địa bàn miền núi, vùng cao, vùng biên giới, vùng

sâu, vùng xa; ngoài ra hiện tượng “di cư tự do” là đồng bào các dân tộc thiểu

số (Tày, Nùng, mông, Dao…) từ một số tỉnh miền núi phía Bắc (Cao Bằng,

Lạng Sơn, Hà Giang…) vào Tây Nguyên cư trú và sinh sống ở các vùng rừng

núi là đầu nguồn của các dòng sông suối, có điều kiện khai phá đất hoang, làm

nương rẫy, phát triển nghề rừng và khai thác lâm thổ sản… nên hạn chế tiếp

cận với thông tin văn hóa xã hội. Một số dịch bệnh truyền nhiễm còn cao ở

vùng miền núi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống như sốt rét, theo thống

kê mới nhất hiện nay với sự đầu tư của chương trình phòng chống sốt rét, bệnh

sốt rét ở nước ta đã bị đẩy lùi; tuy nhiên hơn 80% số mắc sốt rét và tử vong sốt

rét vẫn tập trung ở các vùng trọng điểm, nơi đồng bào dân tộc thiểu số sinh

sống (Tây Nguyên, miền Trung, miền Đông Nam bộ và khu 4 cũ) biến động

54

dân khó kiểm soát (dân đi rừng, ngủ rẫy, di cư tự do, giao lưu biên giới…) [10].

Nghiên cứu xác định tỷ lệ hiện mắc sốt rét, các nhóm tuổi trong kết quả

phân tích được chia thành các nhóm liên quan tới di biến động và độ tuổi lao

động, nhóm tuổi từ 16 tuổi trở lên có tỷ lệ mắc sốt rét cao hơn các nhóm tuổi

khác trong tổng số 1027 người được điều tra (3,57% so với 1,85%).

Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi thì những người qua lại biên giới

có nguy cơ mắc sốt rét cao gấp 6,36 lần so với những người không qua lại biên

giới, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Như vậy, nghiên cứu của chúng

tôi cũng cho kết quả tương tự như một số nghiên cứu trước. Nguyên nhân có

thể do nhóm qua lại biên giới chủ yếu là vào rừng Campuchia khai thác gỗ và

lâm sản nên có nguy cơ cao bị muỗi đốt.

Một số tác giả cho rằng, tại các khu vực biên giới giữa hai nước nếu

không được áp dụng các biện pháp phòng chống bệnh SR giống nhau có thể

tạo ra các ổ KSTSR tiềm tàng và lây nhiễm cho cộng đồng dân cư hai bên biên

giới và có thể lây truyền cho các khu vực khác [32]. Do vậy, để giảm mắc SR

và giảm nguy cơ lây truyền bệnh SR ở khu vực biên giới của hai nước cần xây

dựng chung các biện pháp can thiệp và tăng cường truyền thông giáo dục sức

khỏe phòng chống bệnh SR cho cộng đồng tại khu vực này.

Do tính chất công việc nên trong nghiên cứu này tỷ lệ nam giới mắc sốt

rét cao hơn hẳn nữ, tỷ lệ nam mắc sốt rét là 4,37% trong khi đó chỉ có 2,02%

nữ mắc sốt rét, nguy cơ mắc sốt rét ở nam cao hơn 2,16 lần so với nhóm nữ

giới. nghiên cứu này thấp hơn của Lê Thành Đồng tỷ lệ nam mắc sốt rét cao

gấp 4 lần so với nữ [10]. Nghiên cứu của Trần Mạnh Hạ năm 2012 tại Lâm

Đồng cho kết quả nam giới mắc sốt rét nhiều hơn nữ giới (nam 90,16%, nữ

9,84%) [15]. Điều này hoàn toàn phù hợp do những người vào rừng săn bắn

và lấy gỗ, qua lại biên giới chủ yếu là nam nên nguy cơ mắc sốt rét ở nam sẽ

cao hơn.

Tại các điểm nghiên cứu chủ yếu là người S’tiêng sinh sống. Kết quả

nghiên cứu tỷ lệ mắc SR ở nhóm dân tộc Stiêng là 3,63%, nguy cơ bị mắc SR

ở nhóm dân tộc S’tiêng cao hơn 2,1 lần so với nhóm dân tộc khác, tuy nhiên sự

55

khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p =0,102). Đa số người bản địa là

người S’tiêng, họ thường vào rừng, rẫy để trồng trọt và làm rừng nên nguy cơ

mắc SR cao. Tuy nhiên, người Kinh và một số người dân tộc khác họ có thể là

người bản địa hoặc đến làm ăn thuê, cũng vào rừng, rẫy thu hoạch điều, cà phê,

sắn, cao su...theo mùa vụ hoặc đi làm rừng nên nguy cơ mắc SR cũng cao.

Chính vì vậy mà trong nghiên cứu của chúng tôi, không thấy có sư khác biệt về

nguy cơ mắc SR ở các nhóm dân tộc khác nhau.

Tỷ lệ có sốt trong 2 tuần qua là 6,82% trong tổng số 1027 người được

điều tra. Phân bố sốt rét lâm sàng không đồng đều giữa các thôn, thôn Bù Rên

có tỷ lệ bệnh nhân sốt rét lâm sàng cao nhất 21,38%, tỉ lệ KST cao nhất ở thôn

Bù Bưng 7,9%. Qua điều tra cắt ngang kết quả xét nghiệm cho thấy sự phân bố

sốt rét ở xã Đắk Ơ nhiều hơn xã Bù Gia Mập, đặc biệt sốt rét tập trung tại 2

thôn của xã Đắk Ơ: Thôn Bù Bưng và Thôn Bù Khơn.

Tuổi mắc SR cũng bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau, vì thế tùy

thuộc vào từng khu vực địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội mà nhóm tuổi mắc SR

có thể thay đổi, nhiều tài liệu cho thấy: Trẻ em ≤ 1 tuổi được thừa hưởng miễn

dịch từ sữa mẹ và được bảo vệ tốt tơn nên nguy cơ mắc SR thấp hơn [20], trẻ

lớn hơn khi miễn dịch từ sữa mẹ không còn, mức độ miễn dịch mắc phải chưa

cao và tủ lệ mắc SR sẽ tăng dần và cao ở nhóm <15 tuổi [55]. Kết quả của

chúng tôi thì cho thấy người từ 15 tuổi trở lên có nguy cơ mắc sốt rét cao gấp

2,0 lần so với nhóm dưới 15 tuổi, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa

thống kê (p=0,171). Một nghiên cứu của Phạm Vĩnh Thanh (2015) tại Quảng

Nam cho thấy nguy cơ mắc sốt rét ở nhóm < 20 tuổi cao hơn nhóm > 20 tuổi

[56]. Từ kết quả nghiên cứu tại các khu vực khác nhau có thể thấy nhóm tuổi

mắc SR có thể dịch chuyển và phụ thuộc vào một số yếu tố: điều kiện kinh tế -

xã hội, nhà ở, tình trạng miễn dịch, nghề nghiệp, điều kiện làm việc cũng như

có liên quan đến mức độ lưu hành bệnh SR tại địa phương [1].

Tỷ lệ bệnh nhân có ký sinh trùng sốt rét được phát hiện bằng soi lam

chiếm 1,3%. Số bệnh nhân sốt rét có ký sinh trùng được phát hiện bằng kỹ thuật

PCR là 2,0%. Tại Việt Nam thời gian qua đã phát hiện có 5 loài ký sinh trùng 56

sốt rét gây bệnh ở người [17]. Tuy nhiên, tại khu vực nghiên cứu chúng tôi vẫn

chỉ có 2 loài chính gây bệnh sốt rét ở người là P. falciparum và P. vivax.

Có sự đồng thuận giữa các kỹ thuật xét nghệm chẩn đoán KSTSR. Không

có sự khác nhau giữa chẩn đoán xét nghiệm bằng lam máu và xét nghiệm bằng

kỹ thuật sinh học phân tử và kết quả xét nghiệm bằng tét chẩn đoán nhanh

(p<0,05).

Theo báo cáo của Tổ chức Di dân Thế giới năm 2013, sốt rét vẫn là bệnh

có gánh nặng bệnh tật hàng đầu ảnh hưởng lớn tới sức khỏe cộng đồng và là

nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 5 trên Thế giới. Tại Châu Phi sốt rét

là nguyên nhân gây tử vong xếp hàng thứ 2 cho cộng đồng dân di biến động

[40], [42].

Những người thường xuyên đi rừng, ngủ rẫy có nguy cơ mắc SR cao gấp

3,33 lần so với những người không đi rừng, ngủ rẫy, đồng thời những người

làm việc tại rừng, rẫy có nguy cơ mắc SR cao gấp 3,12 lần so với người không

làm việc tại rừng, rẫy, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Theo kết quả

nghiên cứu của Ngô Đức Thắng (2008) tại Ninh Thuận, của Sandra Incadona

(2007) tại Campuchia cũng cho thấy những người có công việc liên quan đến

khai thác rừng như khai thác gỗ, trồng trọt thì có nguy cơ mắc sốt rét cao gấp

3 - 6 lần so với công việc ở các khu vực khác [20], [21]. Nghiên cứu của Hồ

Văn Hoàng và cs (2010) tại Đăk Lăk cũng cho thấy: Những người có ngủ lại

trong rừng có nguy cơ mắc SR gấp 1,94 lần so với người không ngủ trong rừng

(p<0,01) [27]. Nghiên cứu của Nguyễn Quý Anh năm 2015 cho thấy tỷ lệ mắc

sốt rét ở nhóm đi rừng cao gấp 3,8 lần so với nhóm không đi rừng [1]. Nghiên

cứu của tác giả Vũ Đức Chính tại xã Đắk Nhau nguy cơ mắc sốt rét của người

đi rừng ngủ rẫy cao hơn 128,64 lần; tại Đắk Ơ nguy cơ của người đi rừng ngủ

rẫy mắc sốt rét là 71,72 lần, như vậy nguy cơ mắc sốt rét của người đi rừng ngủ

rẫy cao hơn rất nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi [8].

Nghiên cứu của tác giả Lê Thành Đồng và cộng sự tại xã Đắk Ơ cho

thấy nhóm dân di biến động tại xã Đắk Ơ có thời gian sống ở nhà rẫy trung bình

57

98 ngày trong một năm [14]. Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy

tỷ lệ người nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở nhóm đi rừng, ngủ rẫy trên 14 ngày

cao gấp 2 lần so với nhóm đi dưới 14 ngày. Vậy bất kỳ người dân nào đi vào

rừng dù dài ngày hay ngắn ngày đều có nguy cơ mắc sốt rét.

Tiến hành điều tra đánh giá véc tơ truyền bệnh tại các điểm nghiên cứu

cho thấy: tại xã Đắk Ơ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước thu thập được 07

loài Anopheles, các loài muỗi thu thập được chủ yếu bằng phương pháp soi

chuồng gia súc ban đêm. Thu thập được véc tơ truyền bệnh sốt rét chính An.

dirus bằng phương pháp mồi người trong rừng có mật độ đốt mồi 0,17 con/

người/ đêm. Ngoài ra, thu thập được véc tơ phụ An. maculatus ở phương pháp

soi chuồng gia súc ban đêm với mật độ 0,06 con/ giờ/ người. Tại xã Bù Gia

Mập, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước thu thập được 05 loài Anopheles,

các loài muỗi thu thập được chủ yếu bằng phương pháp soi chuồng gia súc ban

đêm. Thu thập được véc tơ truyền bệnh sốt rét chính An. dirus bằng phương

pháp mồi người trong rừng có mật độ đốt mồi 0,08 con/ người/ đêm. Nghiên

cứu của Nguyễn Văn Tuấn và cộng sự tại khu vực này năm 2015 cũng cho thấy

tại đây có mặt 5 véc tơ, 2 véc tơ chính và 3 véc tơ phụ. Véc tơ chính là An. dirus

và An. minimus phân bố thôn bản, bìa rừng và trong rừng, mật độ tăng cao vào

đầu mùa khô [26]. Nghiên cứu của Vũ Việt Hưng và cộng sự tại xã Nam Trà

My tỉnh Quảng Nam [18] cũng cho cho kết quả tương đương tại địa điểm

nghiên cứu: 12 loài muỗi Anopheles, trong đó 2 véc tơ chính và 3 véc tơ phụ.

Véc tơ chính là An. minimus.

Sự có mặt của véc tơ truyền bệnh và phân bố véc tơ theo mùa liên quan đến

mùa truyền bệnh, thực tế một số nghiên cứu cho thấy bệnh nhân sốt rét tăng cao

nhất vào tháng 1 hàng năm, giảm từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm [8].

Ký sinh trùng sốt rét phát hiện tại khu vực nghiên cứu gồm 2 loài P. vivax

và P. falciparum không thấy có sự xuất hiện của các loài khác, so với nghiên

cứu tại Khánh Phú phân tích 120 mẫu muỗi An. dirus phát hiện trong tuyến

nước bọt muỗi sự có mặt của 6 loài ký sinh trùng sốt rét. P. falciparum, P.

58

vivax, P. knowlesi, P. coatneyi, P. cynomolgi, P. inui, nhiều mẫu có sự nhiễm

phối hợp giữa 2 hoặc 3 thậm chí là 4 loài KST. Có sự tái nhiễm, 38% muỗi

chứa 2 hoặc 3 loài ký sinh trùng sốt rét (Pv, Pct, Pcy, Pin, P.k; P.f) [51]. nghiên

cứu cho thấy cả người và khỉ đều bị muỗi An. dirus đốt ở trong rừng đây có thể

chính là nguyên nhân làm cho việc phòng chống sốt rét trở nên khó khăn và

phức tạp, đặc biệt là với địa bàn người dân sống gần khu vực vườn Quốc gia

Bù Gia Mập.

Hạn chế của đề tài

Phương pháp nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu cắt ngang, do vậy

nghiên cứu chỉ xác định được tỷ lệ hiện mắc trong quần thể, do các yếu tố nguy

cơ và bệnh được đo lường cùng một thời điểm nên không thể thiết lập được

trình tự thời gian liệu yếu tố nguy cơ có trước hay bệnh có trước. Nghiên cứu

chỉ cho chúng tôi sự phỏng đoán các yếu tố nguy cơ với bệnh chứ chưa thực sự

khẳng định được yếu tố nguy cơ có liên quan đến bệnh. Để có thể khẳng định

được yếu tố nào thực sự liên quan đến bệnh thì cần phải có những nghiên cứu

sâu hơn.

Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù được tập huấn đầy đủ trước khi đi

thu thập số liệu, nhưng trong quá trình lấy mẫu máu xét nghiệm và phỏng vấn

bộ câu hỏi có thể xảy ra những sai sót nhỏ, tuy nhiên nó không làm ảnh hưởng

59

đến kết quả của nghiên cứu.

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

5.1. Kết luận

-

5.1.1. Thực trạng bệnh sốt rét

Trong tổng số 1027 người được điều tra, có 70 người có sốt (chiếm

-

6,82%).

Tỷ lệ nhiễm KSTSR tại khu vực nghiên cứu khá cao so với các

vùng khác, chiếm 3,12% trong tổng số 1027 người được điều tra.

5.1.2. Yếu tố liên quan ở vùng sốt rét lưu hành có dân di biến động

- Tỷ lệ người dân biết cách phòng chống bệnh sốt rét chiếm 80,92%

người dân biết bệnh sốt rét là do muỗi truyền.

- Mặc dù được cấp màn miễn phí nhưng số người dân đi rừng, rẫy

vẫn không có màn mang theo, hộ gia đình đủ màn chỉ đạt 68,78%.

- Sau nghiên cứu cho thấy có các yếu tố nguy cơ đối với bệnh SR là:

đối tượng qua lại biên giới, đi rừng ngủ rừng, đối tượng có thời gian đi rừng, ngủ

rừng trên 14 ngày, nhóm làm nương rẫy, trang trại, lâm nghiệp trong rừng.

- Tại các điểm nghiên cứu có mặt của 07 loài Anopheles, véc tơ

chính truyền bệnh sốt rét tại đây là Anopheles dirus.

5.2. Kiến nghị

- Cần có phương pháp truyền thông hiệu quả cho vùng sốt rét lưu

hành chủ yếu là người dân tộc sinh sống.

- Cấp màn cho người dân tại khu vực có sốt rét lưu hành nặng, cấp

đúng đối tượng.

-

Cấp kem xua cho những người thường xuyên đi rừng rẫy và ngủ

đêm tại rừng rẫy.

-

Tăng cường các biện pháp phòng chống véc tơ đặc hiệu cho loài

Anopheles đặc biệt là Anopheles dirus.

60

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Quý Anh, Trần Thanh Dương và CS (2016), “Thực trạng mắc sốt

rét ở

nhóm dân di biến động tại một số xã vùng sốt rét lưu hành nặng tỉnh

Đắk Nông năm 2015”, Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh

ký sinh trùng, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương,

Số.2 (91), Tr.42-50.

2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ thời điểm

1/4/2014: các kết quả chủ yếu, Hà Nội, tr. 51,84,88,85,103,172,174.

3. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2017), Quyết địnhPhê duyệt kết quả

rà soát hộ nghèo hộ cận nghèo năm 2016 theo chuẩn nghèođa chiềuáp dụng

cho giai đoạn 2016 – 2020.Quyết định 945, QĐ-LĐTBH ngày22 tháng 6 năm

2017

4. Bộ Y tế (2015), Báo cáo tổng kết công tác phòng chống bệnh sốt rét, ký

sinhtrùng, côn trùng năm 2014 và triển khai kế hoạch năm 2015, Viện Sốt

rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, tr.43.

5. Chính phủ (2011), Chiến lược Quốc gia phòng chống và loại trừ bệnh sốt

rét

Giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng đến năm 2030, Hà Nội 2011, tr.

24-25

6. Chính phủ (2015), Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính

phủ ngày 19 tháng 11 năm 2015.Quyết định về việc ban hành chuẩn nghèo

tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020”.

7. Vũ Đức Chính, Trần Thanh Dương và CS (2014), “Phân bố của véc tơ sốt

rét và độ nhạy cảm của véc tơ sốt rét với các hóa chất diệt côn trùng tại Việt

Nam, giai đoạn 2003-2012), Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh

61

ký sinh trùng, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, Số.4,

Tr.56-65.

8. Vũ Đức Chính, Trần Quang phục và CS (2016), “Tình hình sốt rét tại 2 xã

Đắk Nhau vàĐắk Ơ giai đoạn 2012-2015 và sự liên quan giữa sốt rét với đi

rừng, ngủ rẫy”,Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng,

Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, Số.1 (90), Tr.20-26.

9. Vũ Đức Chính, Trần Quang phục và CS (2016), “Đánh giá độ bền, hiệu

lực tồn lưu và sự chấp nhận của cộng đồng với màn tẩm hóa chất có tác dụng

tồn lưu dài Yorkool, tại vùng sr1 lưu hành nặng tỉnh Bình Phước năm 2015”,

Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét -

Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, Số.1 (90), Tr.32-38.

10. Trần Thanh Dương, Ngô Đức Thắng và CS (2015), “Phân vùng dịch tễ

sốt rét tại Việt Nam năm 2014”, Công trình nghiên cứu khoa học, báo cáo tại

hội nghị khoa học toàn quốc chuyên ngành sốt rét - ký sinh trùng - Côn trùng,

tr. 11-21

11. Trần Thanh Dương, Lê Trung Kiên (2015), “Nghiên cứu sản xuất kem

xua muỗi cho người dân tại vùng sốt rét lưu hành”, Tạp chí phòng chống

bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, số 2, 2015, tr. 10-17.

12. Trần Thanh Dương, Đặng Việt Dũng và CS (2015), “Đánh giá thực trạng

sốt rét, kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống sốt rét của người dân tại

tỉnh Đắk Nông, Năm 2013-2014” Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các

bệnh ký sinh trùng, số 3, 2015, tr. 18-23.

13. Bùi Lê Duy và CS (2015), “Diễn biến thành phần loài, đặc điểm sinh thái

của một số loài muỗi Anopheles và An.minimus trong quá trình thay đổi môi

trường ở ku vực thủy điện Tuyên Quang, giai đoạn 2010-2012”, Tạp chí

phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, số 1, 2015, tr. 9-17.

62

14. Lê Thành Đồng và CS (2015), Di cư, dịch chuyển và sốt rét, nghiên cứu

về tính dễtổn thương của người di cư với sốt rét và đặc điểm dịch tễ kháng

artemisinin tại tỉnh Bình Phước, Việt Nam. Tr 46-50.

15. Trần Mạnh Hạ (2013), Ứng dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS) trong

giám sát dịch tễ sốt rét tỉnh Lâm Đồng, Luận án tiến sỹ y học, Viện Sốt rét -

Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.

16. Trương Văn Hạnh, Trần Thanh Dương và CS (2015), “Xác định cơ cấu

loài ký sinh trùng sốt rét và tỷ lệ bệnh nhân sốt rét có giao bào tại vùng sốt

rét lưu hành nặng tỉnh Bình Phước bằng kỹ thuật PCR”, Tạp chí phòng chống

bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn

trùng Trung ương, Số.4, Tr.55-61.

17. Nguyễn Vân Hồng, Peter Van de Eede và CS (2008), “Trường hợp đầu

tiên nhiễm Plasmodium knowlesi tại Việt Nam”, Công trình khoa học, báo

cáo tại hội nghị ký sinh trùng lần thứ 33, tr. 194-197.

18. Vũ Việt Hưng, Vũ Đức Chính và CS (2015), “Thành phần loài muỗi

Anopheles và thực trạng ngủ màn của người dân để phòng chống véc tơ sốt

rét tại xã Trà Dơn huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam, Tạp chí phòng chống

bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn

trùng Trung ương, Số.2, Tr. 75-82.

19. Phùng Thị Kim Huệ (2015), Nghiên cứu thành phần loài Anopheles,

mộtsốđặc điểm sinh học, sinh thái, vai trò truyền bệnh của vector sốt rét, tỷ

lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét và đề xuất biện pháp can thiệp phù hợp ở khu

vực thủy lợi, thủy điện tỉnh Gia Lai, Luận án tiến sỹ Y học, Viện Sốt rét - Ký

sinh trùng - Côn trùng Trung ương.

20. Liên Hợp Quốc (2014), Di cư, tái định cư và biến đổi khí hậu tại Việt

63

Nam,Hà Nội, tr. 12-14.

21. Quỹ toàn cầu phòng chống sốt rét (2016), Báo cáo điều tra chỉ số Dự án

Quỹ toàncầu năm 2016, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương

22. Hoàng Cao Sạ, Nguyễn Văn Chuyên, Cao Bá Lợi (2015), “Nghiên cứu

cơ cấu thành phần loài ký sinh trùng sốt rét và tính kháng thuốc của

Plasmodium falciparum tại một số tỉnh đồng bằng ven biển Nam Bộ”, Tạp

chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét - Ký

sinh trùng - Côn trùng Trung ương, Số.3, Tr. 73-78.

23. Tổng cục Thống kê (2016), Niên giám thống kê 2015, Nhà xuất bản

Thống kê, Hà Nội, 2016. Tr 127-128.

24. Nguyễn Quang Thiều và CS (2015), Ứng dụng kỹ thuật phản ứng chuỗi

Polymerase xác định tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét tại một vùng sốt rét lưu

hành nặng tỉnh Quảng Trị”, Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký

sinh trùng, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, Số.2, Tr.

24-32.

25. Hồ Đắc Thoàn và CS (2015), “Một số đặc điểm dân ngủ rẫy ở vùng sốt

rét lưu hành tại tỉnh Phú Yên và Gia Lai năm 2013”, Công trình nghiên cứu

khoa học, báo cáo tại hội nghị khoa học toàn quốc chuyên ngành sốt rét - ký

sinh trùng- Côn trùng năm 2015, Nhà xuất bản Y học, tr. 58-67.

26. Nguyễn Văn Tuấn và CS (2015), “Phong phú véc tơ sốt rét và đa dạng

đột biếngen kháng artemisinin K13 của plasmodium falciparun ở tỉnh Bình

Phước và Đăk Nông năm 2010-2014”, Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và

các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương,

Số.5, Tr. 25-35.

27. Tổ chức Y tế Thế giới (2012), Loại trừ bệnh sốt rét, tài liệu hướng dẫn

cho các nước có bệnh sốt rét lưu hành nhẹ và vừa, NXB Y học, tr. 7-47

28. UNDP (2014), Di cư, tái định cư và bến đổi khí hậu tại ViệtNam, Tr.8.

64

29. Ron P. Marchand và CS (1997), “Một số nhận xét tình hình sốt rét nhóm

dân mới đến Khánh Phú”, Tài liệu dịch,Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn

trùng Trung ương, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học 1996 -2000, NXB

Y học 2001. Tr. 125-129.

30. Nguyễn Xuân Xã (2015), “Đánh giá hiệu quả của truyền thông giáo dục

sứcphòng chống sốt rét cho cộng đồng người Gia Rai ở huyện Đức Cơ tỉnh

Gia Lai”, Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, số 5,

2015, tr. 11-19.

31. Nguyễn Xuân Xã (2015), “Đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành phòng

Chống sốt rét của người dân tộc Xê-Đăng của xã Trà Cang, huyện Nam Trà

My, tỉnh Quảng Nam”, Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh

trùng, số 1, 2015, tr. 58-63.

Tiếng Anh

32. Nguyen Quy Anh, Le Xuan Hung at al (2014), “Migrant situation and

factor related to malaria infection among residents and non-residents in 2

comunes of Bu Dang and Bu Gia Map district, Binh Phuoc province in

2011”, Journal of malaria and parasite diseases control, National institute of

Malarilogy, parasitology and entomology, Vol. 6, pp. 47-60.

33. Catherin Smith, Maxine Whittaker (2014), Beyond Mobile population:

critical the literature on malaria and population mobility and suggestion for

future direction, The Malaria Journal.

34. Caroline Lynch at al (2011), “The transit phase of Migration: Circulation

of malaria

and

it’s multidrug-resistant

forms

in Africa”,

www.plosmedicine.org

35. Christinah Mukandavire at al (2010), “Malaria model with immigration

of Infectives and seasonal forcing in transmission”, www.ijamc.psit.in

65

36. Nguyen Thi Thanh Chung at al (2014), Research correlation between

malaria Infections with some climate factors in Dong Xoai town, Binh Phuoc

province”, Journal of malaria and parasite diseases control, National institute

of Malarilogy, parasitology and entomology, Vol 6, pp. 28-36.

37. Douglas W MacPherson and at al (2007), Health and foreign

policy:Influence of migration and population mobility, Buletin of the World

Health Oganization, pp.200-206.(14)

38. European Academies Science Advisory Council (2007), Impact

ofmigration on Infectous Diseases in Euro, pp.34-37.

39. Frederic Bourdier at al (2010), Malaria and population dynamics in

Cambodia Ethnographic investigations in three remote areas, Marseile, pp.

97-103.

40. IOM (2013), A global Report on population mobility and malaria: Movin

gtowards elimination with migration in mind, pp.5-8.

41. IOM (2014), “Malaria and Mobility: Addressing malaria control and

elimination In migration and human movement”, www.iom.int

42. IOM South Sudan (2016), “Humanitarian update #60”, pp. 2-4.

43. Isabelle Anne Ross et al (2012), Safety of falciparum malaria diagnostic

strategy based on rapid diagnostic tests in returning travelers and migrants: a

retrospective study”, Malaria Journal.

44. Jan E. Conn at al (2002), “Emergence of a new Neotropical malaria vector

facilitated by human migration and changes in land use”, J Trop Med, pp. 18-

22.

45. Jitthai N (2013), Migration and Malaria. Southeast Asian, J Trop Med

Public Health, pp.166-200.

66

46. Junko Yasuoka at al (2010), “Assessing the quality of service of village

malaria Worker to strengthen community-based malaria control in

Cambodia”, Malaria Journal, 9:109, pp.

47. Philipe Guyant at al (2015), “Malaria and the mobile and migrant

population in Cambodia: a population movement framework to inform

strategies for malaria control and elimination”, Malaria Journal.

48. Quang Huynh Hong at al (2016), Malarial health care supplies seeking

behaviour of Migrant, mobile populations in targeted province in central

highland, Vietnam in2016, Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký

sinh trùng, số 6 (95), pp 28-37.

49. Ron. P, Marchand, RechardCulleton,Yoshimasamaeno at al (2011), Co-

infection of Plasmodium knowlesi, P.falciparum and P.vivax among human

and Anopheles dirus Mosquitoes, Souther Vietnam, Emerging Infectious

Diseases *www.cdc.gov/eid* vol.7. No.(7), pp.1232-1239.

50. Troy D. Moon at al (2016), “Factors associated with the use of mosquito bed

nets:Resultsfrom two cross-sectional household surveys in Zambézia

Province, Mozambique”, Malaria Journal, vol 15; 196.

51. Yoshimasa Maeno (2015), Molecular epidemiology of mosquitoes for the

transmission of forest malaria in southcentral Vietnam, Tropical Medicine

and Health (2017) 45:27 DOI 10.1186/s41182-017-0065-6.

52. World Health Organization (2015), World Malaria Report 2014, Geneva,

pp.

53. World Health Organization (2015), Migration, Mobility and malaria, pp.

3.8.9

54. World Health Organization (2016), Approaches for mobile and migrant

populations

67

55. Ngo Duc Thang, Annette Erhart et al (2008), “Malaria in Central Viet

Nam:analysis of rick factor by multivariate analysis and classification tree

models”, Malaria Jounal, pp.1-9.

56. Megan Littrell et al (2011), “Case managenment of malaria fever in

Cambodia: result from national anti-malaria outlet and household surveys”.

Malaria journal 2011, pp.1-14.

57. World Health Organization (2018), World Malaria Report 2017, Geneva,

68

pp