BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
---------------------------------------
NGUYỄN THỊ THÙY TRANG
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ CHẤT
TRỢ NGHIỀN TỚI HIỆU SUẤT NGHIỀN VÀ MỘT SỐ
TÍNH CHẤT CƠ LÝ CỦA XI MĂNG PCB40 FICO
LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT
KỸ THUẬT HÓA HỌC
Hà Nội – Năm 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
---------------------------------------
NGUYỄN THỊ THÙY TRANG
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ CHẤT
TRỢ NGHIỀN TỚI HIỆU SUẤT NGHIỀN VÀ MỘT SỐ
TÍNH CHẤT CƠ LÝ CỦA XI MĂNG PCB40 FICO
Chuyên ngành: KỸ THUẬT HÓA HỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT
KỸ THUẬT HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. HUỲNH ĐỨC MINH
Hà Nội – Năm 2017
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................ 3
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ .................................................................. 5
LỜI CÁM ƠN ............................................................................................................ 9
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 10
1. Lý do chọn đề tài: .............................................................................................. 10
2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 11
3. Ý nghĩa thực tế của đề tài .................................................................................. 11
4. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................ 11
5. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 11
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 12
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN ................................................................................... 13
1.1 Tổng quan về xi măng Portland : ..................................................................... 13 1.1.1 Xi măng Portland: ..................................................................................... 13 1.1.2 Xi măng Portland hỗn hợp: ....................................................................... 13
1.2 Nguyên liệu chủ yếu dùng sản xuất xi măng Portland: ................................... 14 1.2.1 Clinker xi măng Portland: ......................................................................... 14 1.2.2 Thạch cao: ................................................................................................. 18 1.2.3 Puzolan: ..................................................................................................... 19 1.2.4 Đá vôi: ....................................................................................................... 19
1
1.3 Phụ gia trợ nghiền: ........................................................................................... 20 1.3.1 Tình hình nghiên cứu và sử dụng phụ gia trợ nghiền: .............................. 20 1.3.1.1 Tình hình nghiên cứu và sử dụng phụ gia trợ nghiền trên thế giới: ... 20 1.3.1.2 Tình hình nghiên cứu và sử dụng phụ gia trợ nghiền ở Việt Nam: .... 24 1.3.2 Nguyên lý tác dụng của chất trợ nghiền: ................................................... 25 1.3.2.1 Các phản ứng hóa học: ........................................................................ 25 1.3.2.2 Cơ chế phân tán chất trợ nghiền: ........................................................ 26 1.3.2.3 Năng lượng bề mặt và sức căng bề mặt: ............................................. 28 1.3.2.4 Quá trình giảm năng lượng bề mặt trên clinker: ................................. 30 1.3.2.5 Tương tác giữa chất trợ nghiền và bề mặt clinker: ............................. 31 1.3.3 Đặc điểm của quá trình nghiền xi măng không sử dụng phụ gia trợ nghiền: ............................................................................................................................ 32 1.3.4 Cơ chế hoạt động của chất trợ nghiền: ...................................................... 32
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
1.3.5 Hiệu quả tác động của chất trợ nghiền: ..................................................... 38 1.3.5.1 Bề mặt clinker có và không có phụ gia trợ nghiền: ........................... 38 1.3.5.2 Năng lượng hấp phụ của chất trợ nghiền lên bề mặt khoáng C3S: ..... 40 1.3.5.3 Năng lượng kết tụ của C3S và C3A: .................................................... 40
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG THỰC NGHIỆM ........................................................ 42
2.1 Quy trình tiến hành nghiên cứu thực nghiệm: ................................................. 42
2.2 Nguyên vật liệu sử dụng trong nghiên cứu: ..................................................... 42 2.2.1 Clinker: ...................................................................................................... 42 2.2.2 Thạch cao: ................................................................................................. 43 2.2.3 Đá vôi: ....................................................................................................... 43 2.2.4 Puzolan: ..................................................................................................... 44 2.2.5 Chất trợ nghiền sử dụng trong thí nghiệm: ............................................... 44 2.2.5.1 Chất trợ nghiền GM1189: ................................................................... 44 2.2.5.2 Chất trợ nghiền NH2307H: ................................................................. 45
2.3 Tỷ lệ cấp phối: ................................................................................................. 46
2.4 Các phương pháp xác định tính chất cơ lý: ..................................................... 46 2.4.1 Phương pháp xác định cường độ (độ bền): ............................................... 46 2.4.2 Phương pháp xác định lượng nước tiêu chuẩn: ......................................... 47 2.4.3 Phương pháp xác định thời gian đông kết : ............................................... 48 2.4.4 Phương pháp xác định độ ổn định thể tích theo Le Chatelier: .................. 48 2.4.5 Phương pháp xác định lượng sót sàng: ..................................................... 49 2.4.6 Phương pháp xác định độ mịn Blaine: ...................................................... 50 2.4.7 Phương pháp chụp ảnh vi cấu trúc bằng kính hiển vi điện tử (SEM): ...... 50 2.4.8 Phương pháp phân tích thành phần hạt bằng phương pháp tán xạ laser: .. 52
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ THÍ NGHIỆM VÀ THẢO LUẬN .............................. 54
3.1 Ảnh hưởng của chất trợ nghiền đến độ mịn của xi măng: ............................... 54
3.2 Ảnh hưởng của chất trợ nghiền đến lượng nước tiêu chuẩn: .......................... 56
3.3 Ảnh hưởng của chất trợ nghiền đến thời gian ninh kết: .................................. 58
3.4 Ảnh hưởng của chất trợ nghiền đến độ ổn định thể tích: ................................ 61
3.5 Ảnh hưởng của chất trợ nghiền đến cường độ nén: ......................................... 63
3.6 Nghiên cứu tiết giảm lượng clinker trong phối liệu ........................................ 76
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................ 84
2
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 85
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Các thành phần khoáng chính của clinker xi măng Portland ................... 14
Bảng 1.2: Thành phần hạt của clinker với các phụ gia trợ nghiền ............................ 23
Bảng 1.3: Kết quả sử dụng phụ gia trợ nghiền tại một số công ty xi măng .............. 25
Bảng 1.4: Hiệu quả nghiền với các chất trợ nghiền hữu cơ khác nhau..................... 27
Bảng 1.5: Hình dạng giọt lỏng phụ thuộc vào tương tác giữa chất lỏng và bề mặt chất rắn ..................................................................................................................... 29
Bảng 2.1: Nguyên vật liệu sử dụng trong nghiên cứu .............................................. 44
Bảng 2.2: Tính chất lý học và các thông số kỹ thuật của GM1189 .......................... 44
Bảng 2.3: Tính chất lý học và các thông số kỹ thuật của NH2307H ........................ 45
Bảng 2.4: Tỷ lệ cấp liệu cho máy nghiền thí nghiệm: .............................................. 46
Bảng 3.1: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến độ mịn của xi măng: ........... 54
Bảng 3.2: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến lượng nước tiêu chuẩn ........ 56
Bảng 3.3: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến thời gian ninh kết ............... 59
Bảng 3.4: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến độ ổn định thể tích .............. 61
Bảng 3.5: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến cường độ nén ...................... 63
Bảng 3.6: Sự tăng giảm cường độ của mẫu thí nghiệm so với mẫu đối chứng ........ 65
Bảng 3.7: Bảng thống kê kết quả đo độ phân bố thành phần hạt xi măng ................ 73
Bảng 3.8: Ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến hiệu suất nghiền:..................................................................................... 76
Bảng 3.9: Ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến lượng nước tiêu chuẩn nghiền: ............................................................... 77
Bảng 3.10: Ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến thời gian ninh kết .................................................................................... 79
3
Bảng 3.11: Ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến độ ổn định thể tích .................................................................................. 81
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Bảng 3.12: Ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến cường độ nén .......................................................................................... 82
4
Bảng 3.13: Sự tăng giảm cường độ của mẫu thí nghiệm trong nghiên cứu tiết giảm clinker ........................................................................................................................ 82
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 1.1: Khoáng Alite ............................................................................................ 15
Hình 1.2: Khoáng Belite ........................................................................................... 16
Hình 1.3: Khoáng C3A và C4AF .............................................................................. 17
Hình 1.4: BET của bột clinker cùng phụ gia trợ nghiền sau 90 phút ........................ 23
Hình 1.5: Phản ứng hóa học giữa ion O2- với nước ................................................. 26
Hình 1.6: Lực tương tác giữa các phân tử bên trong và ngoài bề mặt của chất rắn hoặc chất lỏng [14] .................................................................................................... 28
Hình 1.7: Tương tác của 2 phân tử TIPA lên bề mặt khoáng C3S khô .................... 32
Hình 1.8: Sự phá vỡ và kết tụ của hạt xi măng trong quá trình nghiền .................... 32
Hình 1.9: Sự phát triển mạng các vết nứt trong quá trình nghiền ............................ 35
Hình 1.10: Quá trình xâm nhập của phụ gia vào vết nứt và phân tách hạt xi măng . 36
Hình 1.11: Nghiền clinker khi có (a) và không có (b) phụ gia trợ nghiền ................ 36
Hình 1.12: Ảnh hưởng của thời gian nghiền (a) và năng lượng tiêu tốn riêng (b) đến độ mịn Blaine của xi măng ....................................................................................... 37
Hình 1.13: Mô hình động học phân tử ...................................................................... 37
Hình 1.14: Bề mặt clinker có điện tích ..................................................................... 39
Hình 1.15: Bề mặt clinker ......................................................................................... 39
Hình 1.16: Tương tác giữa nước với bề mặt clinker ................................................. 39
Hình 1.17: Tương tác giữa GL với bề mặt clinker .................................................... 39
Hình 1.18: Tương tác giữa DEG với bề mặt clinker ................................................. 39
Hình 1.19: Tương tac giữa DIPA với bề mặt clinker ................................................ 39
Hình 1.20: Năng lượng hấp phụ của chất trợ nghiền lên khoáng C3S khô và đã hydoxyl hóa ở nhiệt độ 250C và 1100C .................................................................... 40
5
Hình 1.21: Đơn lớp phân tử Glycerol giữa hai bề mặt khoáng C3S ......................... 41
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 1.22: Đơn lớp phân tử glycerol bao phủ một nửa giữa hai bề mặt khoáng C3S với bề mặt C3S ở trạng thái phân tách ....................................................................... 41
Hình 1.23: Năng lượng kết tụ các chất trợ nghiền trên khoáng C3S khô và đã hydoxyl hóa ở 900C ................................................................................................... 41
Hình 1.24: Năng lượng kết tụ các chất trợ nghiền trên khoáng C3A khô và đã hydoxyl hóa ở 900C ................................................................................................... 41
Hình 2.1: Clinker đã qua kẹp hàm ............................................................................ 43
Hình 2.2: Clinker sử dụng thí nghiệm (dưới sàng 5mm, trên sàng 1mm) ................ 43
Hình 2.3: Thạch cao lấy tại kho Nhà máy Xi măng Tây Ninh ................................. 43
Hình 2.4: Thạch cao sử dụng thí nghiệm .................................................................. 43
Hình 2.5: Đá vôi đã qua kẹp hàm .............................................................................. 43
Hình 2.6: Đá vôi sử dụng thí nghiệm (dưới sàng 5mm, trên sàng 1mm) ................. 43
Hình 2.7: Puzolan lấy tại kho Nhà máy Xi măng Tây Ninh ..................................... 44
Hình 2.8: Puzolan sử dụng thí nghiệm ...................................................................... 44
Hình 2.9: Máy trộn vữa. ............................................................................................ 47
Hình 2.10: Khuôn và bàn dằn mẫu............................................................................ 47
Hình 2.11: Máy nén mẫu ........................................................................................... 47
Hình 2.12: Dụng cụ Vicat ......................................................................................... 48
Hình 2.13: Khuôn Le Chatelier ................................................................................. 49
Hình 2.14: Dụng cụ xác định lượng sót sàng ............................................................ 50
Hình 2.15: Dụng cụ xác định Blaine ......................................................................... 50
Hình 2.16: Thiết bị chụp SEM .................................................................................. 52
Hình 2.17: Thiết bị phân tích thành phần hạt bằng phương pháp tán xạ laser ......... 53
Hình 3.1: Đồ thị khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền GM1189 và NH2307H đến độ mịn của xi măng ............................................................................................ 54
6
Hình 3.2: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến lượng nước tiêu chuẩn ........ 57
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 3.3: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến thời gian ninh kết ................ 59
Hình 3.4: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến khoảng thời gian ninh kết ... 60
Hình 3.5: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến độ ổn định thể tích .............. 62
Hình 3.6: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến cường độ nén 1 ngày .......... 64
Hình 3.7: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến cường độ nén 3 ngày .......... 64
Hình 3.8: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến cường độ nén 7 ngày .......... 64
Hình 3.9: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến cường độ nén 28 ngày ........ 65
Hình 3.10: Hình SEM của mẫu ĐC, GM0.4 và NH0.4 ............................................ 69
Hình 3.11: Ảnh SEM của mẫu NH0.4 (a) và NH0.6 (b)........................................... 69
Hình 3.12: Phân bố thành phần hạt mẫu ĐC ............................................................. 71
Hình 3.13: Phân bố thành phần hạt của mẫu GM0.4 ................................................ 71
Hình 3.14: Phân bố thành phần hạt của mẫu GM0.8 ................................................ 72
Hình 3.15: Phân bố thành phần hạt của mẫu NH0.4 ................................................. 72
Hình 3.16: Phân bố thành phần hạt của mẫu NH0.6 ................................................. 73
Hình 3.17: Đồ thị ảnh hưởng của chất trợ nghiền GM1189 và NH2307H đến độ phân bố cỡ hạt R< 4.472 μm ..................................................................................... 74
Hình 3.18: Đồ thị ảnh hưởng của chất trợ nghiền GM1189 và NH2307H đến độ phân bố cỡ hạt 4.472 μm < R < 10.097 μm ............................................................. 74
Hình 3.20: Đồ thị khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến hiệu suất nghiền ................................................................ 76
Hình 3.21: Đồ thị khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH 2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến lượng nước tiêu chuẩn ...................................................... 78
Hình 3.22: Đồ thị khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến thời gian bắt đầu ninh kết và kết thúc ninh kết. ............... 79
7
Hình 3.23: Đồ thị khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến khoảng thời gian ninh kết ................................................. 80
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 3.24: Đồ thị khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến độ ổn định thể tích ............................................................ 81
8
Hình 3.25: Đồ thị khảo sát ảnh hưởng chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến cường độ nén ........................................................................... 82
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
LỜI CÁM ƠN
Lời đầu tiên, con ghi nhớ mãi công ơn ba me đã sinh thành, nuôi nấng, dạy
dỗ con nên người, tạo mọi điều kiện cho con được đến trường để theo đuổi việc học
đến hôm nay và luôn dành cho con mọi điều tốt đẹp nhất. Đến nay, dù đã tốt nghiệp
đại học nhưng ba mẹ vẫn tạo điều kiện, ủng hộ tinh thần con, để con tiếp tục hành
trang trên con đường học để trao đồi thêm kiến thức trong cuộc sống.
Em xin chân thành cám ơn PGS. TS. Huỳnh Đức Minh và TS. Nguyễn
Thành Đông đã tận tính hướng dẫn, giúp đỡ và hỗ trợ để em hoàn thành đồ án tốt
nghiệp.
Em xin chân thành cám ơn chú Trần Quốc Tế - chuyên gia công nghệ phụ
gia trợ nghiền của Công ty Cổ phần Phan Hà Gia đã tận tình giúp đỡ, hỗ trợ em
trong quá trình làm đồ án.
Em xin cám ơn Ban lãnh đạo Công ty Cổ phần Xi măng Fico Tây Ninh đã
tạo điều kiện thuận lợi để em được học tập và nghiên cứu.
Em cũng xin cám ơn các anh chị em đồng nghiệp thuộc phòng Quản lý Chất
lượng – Nhà máy Xi măng Tây Ninh đã giúp đỡ em trong thời gian nghiên cứu và
làm đề tài.
Mặc dù đã nỗ lực hết mình nhưng đồ án của em không thể tránh khỏi những
thiếu sót do sự hạn chế về thời gian và kinh nghiệm. Bởi vậy em rất mong được sự
đóng góp ý kiến của các Thầy, Cô để đồ án tốt nghiệp của em có thể hoàn thiện
hơn.
TP. Hồ Chí Minh, ngày…tháng…năm…
Sinh viên
9
Nguyễn Thị Thùy Trang
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước thì ngành công
nghiệp sản xuất xi măng là một ngành công nghiệp mũi nhọn. Trên thị trường Nam
Bộ nói riêng và thị trường cả nước nói chung hiện nay có rất nhiều thương hiệu xi
măng khác nhau, sự canh tranh giữa các thương hiệu này ngày càng khốc liệt, đòi
hỏi các Nhà máy xi măng phải không ngừng nghiên cứu cải tiến công nghệ và áp
dụng các biện pháp khác nhau để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm,
tăng hiệu quả kinh tế.
Công đoạn nghiền xi măng là một trong những công đoạn quan trọng góp
phần quyết định chất lượng, sản lượng và giá thành sản phẩm. Công đoạn này
chiếm khoảng 1/3 tổng điện năng tiêu thụ và tiêu hao một lượng đáng kể vật tư,
cũng như nhân công, vì vậy việc nghiên cứu áp dụng các giải pháp công nghệ, cải
tiến thiết bị nhằm nâng cao năng suất máy nghiền, cải thiện tính năng của xi măng
đã được nhiều nhà khoa học quan tâm, đầu tư nghiên cứu, nhờ đó nhiều giải pháp
công nghệ mới đã được ứng dụng có hiệu quả. Trong khi các giải pháp cải tiến –
chế tạo thay thế thiết bị nghiền cần một sự đầu tư lớn, làm gián đoạn sản xuất thì
giải pháp sử dụng chất trợ nghiền trên cơ sở nghiên cứu cơ chế và các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình nghiền đã mang lại hiệu quả kinh tế - kỹ thuật to lớn.
Trên thị trường hiện nay có nhiều loại phụ gia trợ nghiền khác nhau với các
đặc tính khác nhau. Hiệu quả và mức độ ảnh hưởng của mỗi loại phụ gia trợ nghiền
đến năng suất nghiền và các tính chất cơ lý của các loại xi măng khác nhau cũng có
sự biến đổi rõ rệt. Vì vậy, đề tài “Nghiên cứu ảnh hƣởng của một số chất trợ
nghiền tới hiệu suất nghiền và một số tính chất cơ lý của xi măng PCB40
FiCO” là một đề tài nghiên cứu mang tính ứng dụng có ý nghĩa thiết thực đối với
nhà máy để từ đó đánh giá, so sánh và tìm ra được loại và lượng chất trợ nghiền hợp
lý cho quá trình sản xuất. Với thời lượng và điều kiện phòng thí nghiệm có hạn, đề
tài đã lựa chọn 2 loại phụ gia trợ nghiền có tên thương phẩm là GM1189 và
10
NH2370H để pha trộn vào phối liệu xi măng với tỷ lệ khác nhau. Từ đó khảo sát
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
ảnh hưởng của chúng đến hiệu suất nghiền và một số tính chất cơ lý của xi măng
như cường độ cơ học, lượng nước tiêu chuẩn, thời gian đông kết…
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá và so sánh hiệu suất trợ nghiền của các chất trợ nghiền GM1189 và
NH2370H đối với xi măng PCB40 Tây Ninh.
Khảo sát ảnh hưởng của GM1189 và NH2370H đến các tính chất cơ lý của
xi măng PCB40 Tây Ninh để định hướng sử dụng hợp lý loại và lượng phụ gia cho
quá trình nghiền xi măng tại Nhà máy xi măng Tây Ninh
3. Ý nghĩa thực tế của đề tài
Kết quả của đề tài sẽ có ý nghĩa lớn đối với Nhà máy xi măng Tây Ninh
trong việc lựa chọn phụ gia trợ nghiền và định hướng sử dụng nguồn đá vôi ngay tại
mỏ Scroc Con Trăng có vị trí địa lý rất gần với nhà máy vì có thể căn cứ vào kết
quả nghiên cứu để tăng phần trăm đá vôi trong sản xuất xi măng.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài định hướng nghiên cứu trên cơ sở xi măng PCB40 đi từ clinker của
nhà máy xi măng Tây Ninh, các chất trợ nghiền được lựa chọn là GM1189 và
NH2307H. Đối tượng nghiên cứu cụ thể bao gồm:
+ Nghiên cứu ảnh hưởng của lượng và loại chất trợ nghiền đến hiệu suất
nghiền thông qua việc so sánh độ mịn của xi măng.
+ Nghiên cứu ảnh hưởng của lượng và loại chất trợ nghiền đến các tính chất
cơ lý của xi măng PCB 40 FICO như cường độ cơ học, lượng nước tiêu chuẩn, thời
gian đông kết…
+ Nghiên cứu tiết giảm tỷ lệ clinker trong cấp phối của xi măng PCB 40 khi
sử dụng chất trợ nghiền hợp lý.
5. Phạm vi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu mà đề tài đã đặt ra, nội dung nghiên cứu cần triển khai
theo những bước sau:
+ Tập hợp các tài liệu có liên quan đến đề tài, nghiên cứu tài liệu để định
11
hướng thực nghiệm và vận dụng vào giải thích các kết quả đạt được.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
+ Lựa chọn nguyên liệu và thiết lập bài phối liệu nghiền xi măng.
+ Tìm hiểu thành phần, đặc điểm, tính chất của một số loại phụ gia trợ
nghiền để lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu.
+ Nghiền các mẫu thí nghiệm với lượng và loại phụ gia trợ nghiền khác
nhau.
+ Phân tích tác động của lượng và loại chất trợ nghiền đến hiệu suất nghiền
và các tính chất cơ lý của xi măng trên cơ sở của xi măng PCB 40 Tây Ninh.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các nguyên liệu nghiên cứu, quy trình và thiết bị thử nghiệm là ổn định và
thống nhất trong suốt quá trình thực hiện nhằm hạn chế tối đa các sai số.
Chỉ tiêu cơ lý của mẫu được xác định theo các bộ tiêu chuẩn hiện hành, cụ
thể như sau:
+ Xác định cường độ theo TCVN 6016:2011
+ Xác định lượng nước tiêu chuẩn theo TCVN 6017:2015.
+ Xác định thời gian bắt đầu ninh kết, kết thúc ninh kết theo TCVN
6017:2015.
+ Xác định độ ổn định thể tích (xác định theo phương pháp Le Chatelier)
theo TCVN 6017:2015.
+ Xác định độ mịn (tỷ diện Blaine, sót sàng 0.09mm) theo TCVN
4030:2003.
Các phương pháp nghiên cứu khác: nghiên cứu cấu trúc qua ảnh SEM, phân
tích thành phần hạt bằng phương pháp Lasez….
Bằng phương pháp so sánh các giá trị đạt được giữa mẫu không sử dụng chất
trợ nghiền với các mẫu sử dụng lượng và loại chất trợ nghiền khác nhau, đánh giá
được hiệu quả và vai trò của chất trợ nghiền, xác định được lượng và loại chất trợ
12
nghiền hợp lý.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1 Tổng quan về xi măng Portland :
1.1.1 Xi măng Portland:
Xi măng Portland là chất kết dính thủy, được chế tạo bằng cách nghiền mịn
clinker xi măng Portland với một lượng thạch cao cần thiết. Trong quá trình nghiền
có thể sử dụng phụ gia công nghệ nhưng không quá 1% so với khối lượng clinker
[6, 11].
Thạch cao là vật liệu đá thiên nhiên hoặc nhân tạo có chứa khoáng
CaSO4.2H2O, được sử dụng làm phụ gia điều chỉnh thời gian đông kết của xi măng
[6].
Phụ gia công nghệ gồm các chất cải thiện quá trình nghiền, vận chuyển,
đóng bao và / hoặc bảo quản xi măng nhưng không làm ảnh hưởng xấu tới tính chất
của xi măng, vữa và bê tông [6].
Xi măng Portland gồm các mác PC30, PC40, PC50, trong đó PC là ký hiệu
quy ước cho xi măng Portland, còn các trị số 30, 40, 50 là cường độ nén tối thiểu
của mẫu vữa chuẩn sau 28 ngày đóng rắn, tính bằng MPa [6].
1.1.2 Xi măng Portland hỗn hợp:
Xi măng Portland hỗn hợp thông dụng là chất kết dính thủy, được chế tạo
bằng cách nghiền mịn clinker xi măng Portland với một lượng thạch cao cần thiết
và các phụ gia khoáng, có thể sử dụng phụ gia công nghệ (nếu cần) trong quá trình
nghiền hoặc bằng cách trộn đều các phụ gia khoáng đã nghiền mịn với xi măng
Portland [7].
Clinker xi măng Portland dùng để sản xuất xi măng Portland hỗn hợp có hàm
lượng magie oxit (MgO) không lớn hơn 5%.
Phụ gia khoáng để sản xuất xi măng Portland hỗn hợp phải thỏa mãn các yêu
cầu của TCVN 6882:2001 và quy chuẩn sử dụng phụ gia trong sản xuất xi măng.
Phụ gia công nghệ gồm các chất cải thiện quá trình nghiền, vận chuyển, đóng
13
bao và / hoặc bảo quản xi măng nhưng không làm ảnh hưởng xấu tới tính chất của
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
xi măng, vữa và bê tông, hàm lượng phụ gia công nghệ trong xi măng không lớn
hơn 1%.
Tổng lượng phụ gia khoáng (không kể thạch cao) trong xi măng Portland
hỗn hợp, tính theo khối lượng xi măng, không lớn hơn 40%, trong đó phụ gia đầy
không quá 20%.
Xi măng Portland hỗn hợp bao gồm ba loại cơ bản là PCB30, PCB40,
PCB50, trong đó PCB là ký hiệu quy ước cho xi măng Portland hỗn hợp, các trị số
30, 40, 50 là cường độ nén tối thiểu của mẫu vữa chuẩn sau 28 ngày đóng rắn, tính
bằng MPa.
1.2 Nguyên liệu chủ yếu dùng sản xuất xi măng Portland:
1.2.1 Clinker xi măng Portland:
Clinker xi măng Portland không phải là sản phẩm đồng nhất, mà là tập hợp
của nhiều khoáng khác nhau, bao gồm các khoáng chính sau: Alite, Belite, Celite,
Aluminat, hợp chất trung gian, ngoài ra còn một hàm lượng nhỏ các khoáng khác
Bảng 1.1: Các thành phần khoáng chính của clinker xi măng Portland
Tên khoáng Tên khoáng tinh khiết Công thức phân tử Viết tắt trong clinker
Alite Tricalcium silicat 3CaO.SiO2 C3S
Belite Dicalcium silicat 2CaO.SiO2 C2S
Aluminat Tricalcium aluminat 3CaO.Al2O3 C3A
Alumoferit Alumoferitcalci 3CaO.pAl2O3(1-p)Fe2O3 C4AF
* Alite [8]:
Alite là hỗn hợp nhiều khoáng, mà khoáng chủ yếu là 3CaO.SiO2 (C3S),
ngoài ra trong Alite còn chứa khoảng 4% 3CaO. Al2O3 (C3A) và một lượng nhỏ
MgO; chúng tạo thành dung dịch rắn. Cấu trúc mạng lưới tinh thể của Alite có thể
thay đổi khi Al2O3 được thay thế bằng Fe2O3 và MgO bằng FeO.
Alite là khoáng quan trọng nhất trong clinker xi măng Portland, thường
chiếm từ 45 † 60%. Xi măng Portland chứa hàm lượng Alite cao, nên rắn nhanh và
14
cho cường độ cao, đồng thời khi đóng rắn tỏa nhiệt lớn và ít co thể tích.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Dưới kính hiển vi C3S tinh khiết có dạng tinh thể hình lục giác đều (hình 1.1
A) và cấu trúc dung dịch rắn của Alite được thể hiện ở hình1.1B.
Hình 1.1: Khoáng Alite [17]
* Belite [8]:
Thành phần khoáng chủ yếu là silicat dicanxit: 2CaO.SiO2 (C2S). Hàm lượng
belit trong clinker xi măng Portland chiềm từ 20÷30%. Belit tồn tại dưới 5 dạng thù
hình: α – C2S, α‟L – C2S, α „H – C2S, β – C2S, γ – C2S. Các dạng thù hình khác nhau
ở cấu trúc mạng tinh thể do đó khác nhau về tính chất. Trong đó β – C2S là dạng giả
ổn định trong clinker xi măng Portland.
Belit chủ yếu là β – C2S là khoáng quan trọng thứ hai trong clinker xi măng
Portland. Belit đóng rắn tương đối chậm, cho cường độ ban đầu không cao nhưng
về sau phát triển cường độ tốt. Sản phẩm đóng rắn của β – C2S bền vững trong môi
trường nước và nước khoáng.
Khoáng Belite có hình dạng tròn và cấu trúc dung dịch rắn của belite được
15
thể hiện ở hình 1.2.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 1.2: Khoáng Belite [17]
* Celite: 2CaO.pAl2O3.(1-p)Fe2O3 (alumoferitcalci) [8]:
Theo nghiên cứu của Browmillerit, celit có thành phần gần giống C4AF
(4CaO.Al2O3.Fe2O3). Thực tế nó là dung dịch rắn của hỗn hơp tinh thể của các
khoáng alumoferitcalci C6A2F–C4AF–C6AF2 và có dạng công thực chung C2AxF1-x
(trong đó x < 0,7). Ngoài ra trong dung dịch rắn của nó còn chứa một phần C3A và
những thành phần khoáng khác như C2F, MgO.
Trong clinker xi măng Portland xem celite tồn tại dưới dạng C4AF và chiếm
từ 10 ÷ 18%. Celite là khoáng đóng rắn cho cường độ tương đối thấp, nhưng sản
phẩm đóng rắn trong môi trường nước và môi trường ăn mòn sulfat. Celite là khoáng nặng nhất γ = 3,77 g/cm3.
* Khoáng aluminat - tricalci 3CaO.Al2O3 (C3A) [8]:
Trong clinker xi măng Portland aluminat - tricalci tồn tại chủ yếu dưới dạng
C3A (3CaO. Al2O3), ngoài ra dưới những điều kiện nhất định (nghèo CaO) nó cũng
có thể dưới dạng C12A7 (12CaO.7Al2O3). Trong dung dịch rắn của C3A cũng có thể
chứa 2,5%MgO.
Aluminat - tricalci chiếm 7 – 15% trong clinker xi măng Portland, là khoáng
có tính chất kết dính, dạng tinh thể lập phương, đóng rắn nhanh, tỏa nhiều nhiệt và
16
là khoáng không bền trong môi trường nước khoáng (biển).
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 1.3: Khoáng C3A và C4AF [15]
Hình 1.3 mô tả mẫu clinker được mài nhẵn và chụp bằng kính hiển vi quan
sát thấy được các pha xen kẽ, tỷ lệ cao nhôm sẽ sản xuất ra khoáng C3A (được đánh
bóng sang màu xám) nhiều hơn C4AF, khoáng C4AF phản quang tốt hơn nên nhìn
thấy màu trắng.
* Chất trung gian (chất đệm) [8]:
Chất trung gian nằm xen kẽ giữa các tinh thể Alite và Belite, thành phần chủ
yếu là các khoáng aluminatcalci, alumoferitcalci và pha thủy tinh. Các khoáng này
khi nung ở nhiệt độ cao tạo thành pha lỏng của clinker. Pha lỏng chiếm 15 ÷ 25%,
thành phần pha lỏng phụ thuộc tốc độ làm lạnh, độ nhớt pha lỏng và tỷ lệ các cấu
tử. Trong pha lỏng có sự hòa tan kiềm, Al2O3, Fe2O3 và MgO.
* Các khoáng chứa kiềm [8]:
Trong clinker xi măng Portland các khoáng chứa kiềm tồn tại dưới dạng
KC23S12 (K2O.23CaO.12SiO2) và NaC8A3 (Na2O.8CaO.3Al2O3). Khoáng KC23S12
chính là sản phẩm thay thế của C2S; trong đó cứ 12 phân tử C2S thì 1 phân tử CaO
thay thế bằng 1 phân tử K2O. Còn khoáng NaC8A3, trong đó cứ 3 phân tử C3A, thì 1
phân tử CaO thay thế bằng 1 phân tử Na2O.
Trong clinker xi măng Portland các khoáng chứa kiềm chứa một hàm lượng
rất nhỏ, tuy nhiên là những khoáng không có lợi vì làm cho quá trình đóng rắn cùa
17
xi măng Portland không ổn định, có thể gây nên trương nở thể tích của sản phẩm.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
* Các oxit tự do (CaOtự do, MgOtự do):
CaOtự do trong clinker xi măng Portland thường tồn tại một lượng nhỏ hơn
1%. CaOtự do được tạo thành hoặc là do trong quá trình nung nó không liên kết hoàn
toàn với các oxit khác, hoặc là do trong quá trình làm lạnh có sự phân hủy một phần
của khoáng Alite hoặc khoáng C3A (kích thước tinh thể là 1÷5 µm). Nếu hàm lượng
CaOtự do cao, trong quá trình đóng rắn do khả năng hydrat hóa chậm (khi hydrat hóa
tạo thành Ca(OH)2 – tăng thể tích lớn) không đồng thời với các khoáng khác, gây
giản nở thể tích, dẫn đến phá hủy cấu trúc đá xi măng Portland [8].
MgOtự do luôn tồn tại dạng Periklaz, ngoài ra MgOtự do còn nằm trong dung
dịch rắn với các khoáng clinker hoặc tồn tại trong pha thủy tinh. MgO ở dạng peri-
klaz tồn tại trong clinker xi măng Portland với hàm lượng lớn (>3%) hydrat hóa rất
chậm (chậm hơn cả CaOtự do); trong quá trình đóng rắn của xi măng Portland sẽ gây
giãn nở thể tích lớn dẫn đến phá hủy cấu trúc đá xi măng Portland. Tuy nhiên, nếu
ổn định được MgO trong clinker xi măng Portland có thể nâng hàm lượng MgO >
20%. Loại xi măng này gọi là xi măng giàu MgO. Trong clinker xi măng Portland
giàu MgO có thể tạo thành periklaz ở dạng tinh thể. Tốc độ làm lạnh của clinker có
ảnh hưởng rất lớn đến sự tạo thành vào kích thước của tinh thể periklaz [8]
* Các pha khác [8]:
Nếu như trong hỗn hợp phối liệu đất sét có chứa các muối sunfat hay sunfit,
hoặc trong nhiên liệu có các hợp chất chứa lưu huỳnh S, trong quá trình nung luyện
clinker sẽ có sự tạo thành SO2, SO2 sẽ phản ứng với kiềm Alkali và O2 của khí lò
tạo thành K2SO4 trong clinker xi măng Portland
1.2.2 Thạch cao:
Thạch cao có công thức hóa CaSO4.2H2O dạng tự nhiên có màu trắng, khi lẫn tạp chất có màu xám hơi đen, khối lượng thể tích 2.3 tấn/m3. Đá thạch cao mềm, dễ nghiền. Ở nhiệt độ từ 450C trở lên có phản ứng tách nước, lên tới 120 ÷ 1400C
thạch cao tách hoàn toàn nước để trở thành dạng khan theo phản ứng [2]:
18
CaSO4.2H2O CaSO4 + 2H2O
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Thạch cao chiếm khoảng (3÷5%) khối lượng xi măng Portland, là phụ gia
làm giảm tốc độ đóng rắn không thể thiếu trong công nghệ sản xuất xi măng Port-
land. Thạch cao hòa tan trong nước, kết hợp với các aluminat trong dung dịch từ
khoáng C3A tạo hợp chất hydro–sunfo–aluminat 3CaO.Al2O3.3CaSO4.31H2O khó
hòa tan làm chậm quá trình đóng rắn của xi măng Portland, nên lượng thạch cao
dùng làm phụ gia (3÷5%) chủ yếu phụ thuộc hàm lượng khoáng C3A. Ngoài ra,
etringhit kết tinh dạng sợi, có thể tích lớn chèn lắp lỗ trống của đá xi măng nên
thạch cao còn có tác dụng tăng độ bền cơ, chống thấm và dãn nở cho xi măng.
1.2.3 Puzolan:
Thường xuất hiện trong các tầng trầm tích dưới dạng đá bọt, sét, đá phiến sét,
tro, túp núi lửa. Puzolan được xem là một loại vật liệu có chứa SiO2 không kết tinh
hoặc hỗn hợp SiO2 và Al2O3. Puzolan hầu như không có khả năng tự rắn chắc,
nhưng trong điều kiện ẩm với sự có mặt của Ca(OH)2 ở nhiệt độ thường thì Puzolan
có khả năng phản ứng để tạo hợp chất mới [2].
Khi pha Puzolan vào xi măng Portland, thành phần Ca(OH)2 giải phóng từ
quá trình thủy hóa xi măng sẽ phản ứng với phần hoạt tính trong Puzolan góp phần
nâng cao cường độ bê tông.
Các Puzolan tự nhiên thường phải được nghiền mịn trước khi sử dụng, một
số loại phải được kích hoạt trước khi sử dụng để tạo thành trạng thái không kết tinh bằng cách nung ở nhiệt độ 6500C – 9800C [9]
1.2.4 Đá vôi:
Đá vôi có công thức hóa học là CaCO3. Ba dạng thù hình chính của đá vôi là
canxit, aragonhit và vaterit. Các dạng thù hình này có độ cứng khác nhau, trong đó
aragonhit là dạng cứng nhất. Đá vôi nguyên chất có màu trắng (đá phấn), khi lẫn tạp
chất thì nó bị biến màu. Tạp chất gây màu chủ yếu là oxit sắt, làm đá có màu xám,
hồng [2].
Một thời gian dài phụ gia đá vôi mịn chỉ được xem như là một loại phụ gia
đầy. Tuy nhiên với những nghiên cứu gần đây đã cho thấy rằng canxit cũng có phản
19
ứng với các cấu tử của xi măng và đóng vai trò của một phụ gia hoạt tính [9].
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
1.3 Phụ gia trợ nghiền:
1.3.1 Tình hình nghiên cứu và sử dụng phụ gia trợ nghiền:
1.3.1.1 Tình hình nghiên cứu và sử dụng phụ gia trợ nghiền trên thế giới:
Trên thế giới phụ gia trợ nghiền xi măng đã được nghiên cứu và đưa vào sử
dụng từ những năm 1930. Năm 1935 hãng Grace (Mỹ) đã nghiên cứu và đưa vào
sử dụng phụ gia trợ nghiền TDA trên cơ sở natri naphtalen sunphonat và đến năm
1938 đã có 8 hãng sản xuất xi măng ở Mỹ sử dụng có hiệu quả. Năm 1963 cũng
hãng Grace cho ra sản phẩm phụ gia trợ nghiền HEA – 2 trên cơ sở dẫn xuất của
Amine – acetate, việc sử dụng phụ gia này cho phép tiết kiệm điện năng, tăng sản
lượng, tăng độ linh động của xi măng, giảm giá thành sản phẩm. HEA – 2 đã được
phổ biến sử dụng có hiệu quả ở nhiều nước trên thế giới. Ngày nay hãng Grace đã
nghiên cứu, sản xuất và phổ biến sử dụng nhiều phụ gia trợ nghiền mới với tính
năng, hiệu quả ngày càng cao, không chỉ có tác dụng trợ nghiền mà còn tăng tính kỵ
ẩm, kéo dài thời gian bảo quản, tăng độ linh động, độ lôi khí, cải thiện, nâng cao
cường độ và tính năng cơ lý của xi măng như: phụ gia TDA – 7, WGA – 2, CBC,
RGA, CBA (từ trietanolamine biến tính), MTDA (các dẫn xuất poliol), Hydrophobe
(là hỗn hợp phân tán các muối của axit cacboxylic thơm và béo, các Polyalcol cao
phân tử, các hỗn hợp cacbonhydrat) [10].
Ở Liên Xô trước đây, phụ gia trợ nghiền xi măng đã được nghiên cứu và đưa
vào sử dụng từ những năm 1950, ban đầu là các sản phẩm trên cơ sở Lignin của
công nghiệp giấy, với lượng sử dụng 0.2% cho phép tăng năng suất máy nghiền
10%. Những năm sau này ở SNG đã nghiên cứu ứng dụng nhiều phụ gia trợ nghiền
hiệu quả cao trên cơ sở các chế phẩm từ dầu mỏ, than đá, các hợp chất hoạt động bề
mặt tổng hợp như các dẫn xuất aminaxetat, các chế phẩm từ dầu mỡ động thực vật,
đặc biệt là trietanolamine và các dẫn xuất của nó, với việc chỉ sử dụng 0.01 –
0.025% các phụ gia này đã cho phép tăng năng suất máy nghiền 8 – 25%, hạn chế
tình trạng bết bi, đầy máy, tắc vòi đóng bao, kéo dài thời gian bảo quản xi măng.
Tùy thuộc vào điều kiện nguyên liệu, thiết bị công nghệ mà hiệu quả tác dụng có
20
khác nhau [10].
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Ở Italia, hãng Chryso đã nghiên cứu ứng dụng phụ gia trợ nghiền AMC – 1F
có hiệu quả cao trên cơ sở các dẫn xuất hydroxyl hóa cho phép tăng năng suất máy
nghiền 6 – 15%, tăng độ linh động, kéo dài thời gian bảo quản xi măng [10].
Ở Mỹ năm 1993 đã nghiên cứu sử dụng phụ gia từ hỗn hợp các dẫn xuất của
Lignhin, phenol, Monopropylenglicol cho phép tăng năng suất máy nghiền, tính kỵ
ẩm và tính chất cơ lý của xi măng [10].
Ở Trung Quốc, liên hợp xi măng GCQL, coi việc nghiên cứu sử dụng phụ
gia trợ nghiền như là một chương trình quan trọng nhằm cải thiện chất lượng xi
măng, nâng cao hiệu quả kinh tế kỹ thuật mà không phải đầu tư cải tạo công nghệ
làm gián đoạn sản xuất. Với việc sử dụng phụ gia CBA – 1104, TDA – 770, TDA –
370 (các dẫn xuất của trietanolamine biến tính) cho phép tăng năng suất máy nghiền
9 – 12%, tăng độ linh động, hạn chế hiện tượng vón cục, suy giảm chất lượng khi
bảo quản, tăng cường độ xi măng 4 – 15%, nhờ đó hãng tiết kiệm hang năm 1.7
triệu USD [10]
Xu hướng hiện nay trên thế giới là nghiên cứu sản xuất phụ gia đa chức năng
vừa có hiệu quả trợ nghiền cao, đồng thời nâng cao độ linh động, độ kỵ ẩm và các
tính năng cơ lý của xi măng, hiệu quả của phụ gia trợ nghiền khi đó không chỉ được
đánh giá qua tăng năng suất máy nghiền, tiết kiệm điện năng mà còn qua việc tăng
năng suất bơm chuyển, đóng bao, hạn chế suy giảm chất lượng trong lưu kho, vận
chuyển và nâng cao chất lượng xi măng. Nhãn hiệu xi măng của Hồng Kông có thể
lưu kho, vận chuyển trong 12 tháng mà chất lượng và độ linh động không bị suy
giảm là nhờ khi nghiền người ta đã sử dụng phụ gia nghiền kỵ ẩm. Điều này càng
có ý nghĩa khi xi măng dùng để xuất khẩu. Khi vận chuyển bằng stec dưới tác động
của quá trình rung, lắc xi măng không bị lèn chặt nhờ đó khi trút dễ dàng, tiết kiệm
thời gian, phương tiện và do đó tiết kiệm được phí lưu thông.
Một số công trình nghiên cứu cụ thể về phụ gia trợ nghiền được tổng hợp
21
như trong nội dung dưới đây:
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
(1) Theo Zhao Jihui, Wang Dongmin, Wang Xuegiang, Liao Shucong trong
công trình nghiên cứu “ Ảnh hưởng và cơ chế của triethanolamine biến tính với vai
trò chất trợ nghiền xi măng” có kết luận [21]:
a) M-TEA có tác dụng phân bố kích thước hạt của xi măng là tốt hơn so với
TEA, và hiệu quả là tốt nhất khi sử dụng với lượng 0.015%. Dải hạt từ 3-32 μm với
0,015% M-TEA là cao hơn so với mẫu trắng 12,42% (cao hơn 9,28% so với TEA ở
cùng liều). M-TEA có thể cải thiện cường độ xi măng, và nâng cao cường độ tốt
nhất khi sử dụng M-TEA ở hàm lượng 0,03%. Cường độ nén của xi măng tăng 5,53
MPa và 8,23 MPa tương ứng ở 3 ngày và 28 ngày khi sử dụng 0.03% M-TEA.
b) M-TEA có tác tác dụng tốt trong việc hấp phụ bề mặt hạt xi măng, do đó
M-TEA có tác dụng phân bố cỡ hạt tốt hơn TEA.
c) M-TEA có thể thúc đẩy mức độ phản ứng hydrat hóa của các khoáng
clinker và thúc đẩy hình thành các sản phẩm hydrat hóa, giúp cải thiện cấu trúc.
(2) Theo M.Katsioti, P.E. Tsakiridis, P. Giannatos, Z. Tsibouki, J.Marinos
trong bài báo: “Đặc tính của các chất trợ nghiền xi măng khác nhau và tác động
của chúng trên khả năng nghiền và hiệu suất nghiền xi măng” đã kết luận [16]:
a) Các chất trợ nghiền khảo sát TEA (triethanolamine) và TIPA
(triisopropanolamine) là rất hiệu quả trong việc nghiền clinker xi măng Portland,
tăng bề mặt riêng và hiệu suất nghiền. Sự hiện diện của TEA làm tăng hiệu suất
nghiền lên đến 14% .Các giá trị tương ứng cho trợ nghiền TIPA đạt 26%.
b) Thời gian bắt đầu ninh kết và kết thúc đã giảm nhẹ trong trường hợp sử
dụng chất trợ nghiền TEA do sự tăng tốc phản ứng của khoáng C3A. Tuy nhiên, sự
có mặt của TIPA làm tăng thời gian bắt đầu ninh kết và kết thúc khoảng 15%.
c) Việc bổ sung TEA có tác dụng tăng cường độ nén của xi măng ở tất cả các
ngày tuổi, TIPA cải thiện đáng kể cường độ nén hơn so với TEA
(3) Theo Z.Heren và H.Olmez trong bài nghiên cứu: “Ảnh hưởng của
ethanolamines lên tính hydrat và tính chất cơ học của xi măng Portland” [20] kết
luận rằng: TEA là chất trợ nghiền làm giảm cường độ nén ở tuổi sớm, MEA cho
22
thấy giá trị cường độ cao nhất sau 90 ngày.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
(4) Tổng hợp nghiên cứu của Bravo Anna và các đồng nghiệp [12] trong
nghiên cứu về khả năng trợ nghiền của các chất trợ nghiền khác nhau (bao gồm
các chất glycol và chất amin) và thay đổi thành phần cỡ hạt của xi măng trình bảy
ở hình 1.4 và bảng 1.2 sau:
Hình 1.4: BET của bột clinker cùng phụ gia trợ nghiền sau 90 phút
Bảng 1.2: Thành phần hạt của clinker với các phụ gia trợ nghiền
Chất trợ nghiền Thành phần hạt qua sàng %
32μm 40 μm 63 μm
94,8 77,0 83,9 Clinker gốc
97,2 80,0 86,8 1‰ H2O
99,5 95,2 97,7 0,5‰ H2O + 0,5‰ TEA
99,5 96,4 98,1 0,5‰ H2O + 0,5‰ TIPA
98,3 92,1 95,9 0,5‰ H2O + 0,5‰ DEG (diEthylenGlycol)
97,6 84,8 90,6 0,5‰ H2O + 0,5‰ PEG400 (polyEth-
ylenGlycol)
74,8 83,6 92,0 0,5‰ H2O + 0,5‰ PCEA
(5) Tổng hợp nghiên cứu của S.Sohoni, R.Sridhar and G.Mandal [13] trên
cơ sở một số loại chất trợ nghiền bao gồm các thành phần: mono-, di-, tri-
23
ethanolamines; TDA; mono-, di-,ethylene glycol; axit oleic; silicon (CH3-Si-O-CH3)
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
có nguồn gốc hữu cơ; axetat hữu cơ; cacbon blacks và caxi sunphate cho thấy: tri-
ethanolamine (TEA), ethylene glycol, axetat hữu cơ, propylene glycol và TDA được
sử dụng phổ biến nhất.
1.3.1.2 Tình hình nghiên cứu và sử dụng phụ gia trợ nghiền ở Việt Nam: Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của ngành xi măng, nhu cầu về phụ gia
trợ nghiền đã hình thành và trở nên cấp thiết hơn do đặc điểm về công nghệ, thiết bị,
khí hậu và tình trạng tiêu thụ xi măng có nhiều biến động trong những năm gần đây.
Để đáp ứng nhu cầu của sản xuất, từ những năm 1980 đã có một số viện khoa học,
trường đại học quan tâm, đầu tư nghiên cứu sản xuất và ứng dụng phụ gia trợ
nghiền xi măng. Năm 1986, Viện KHKT Xây dựng (Bộ xây dựng) đã nghiên cứu
biến tinh dầu cao su làm phụ gia trợ nghiền kỵ ẩm xi măng, sản phẩm đã được thử
nghiệm tại Công ty Xi măng Bỉm Sơn, tuy nhiên sau đó việc sử dụng thường xuyên
gặp khó khăn do tính chưa ổn định của sản phẩm [10].
Năm 1993 Viện KHCN Vật liệu Xây dựng (Bộ xây dựng) đã nghiên cứu sử
dụng Trietanolamine làm phụ gia trợ nghiền xi măng. Sản phẩm đã thử nghiệm
thành công tại Công ty Xi măng Bỉm Sơn và từ đó đã được sử dụng thường xuyên
tại Công ty Xi măng Bỉm Sơn, Thái Bình, Sài Sơn,…mang lại hiệu quả kinh tế kỹ
thuật cho sản xuất.
Năm 1994 trường Đại học Bách Khoa Hà Nội đã nghiên cứu và đưa vào sử
dụng tại Công ty Xi măng Bỉm Sơn phụ gia trợ nghiền BK – 2 mà thành phần chủ
yếu vẫn là Trietanolamine.
Năm 1994 Công ty Xi măng Hà Tiên 2 đã sử dụng chất phụ gia trợ nghiền
B.A.C là dung dịch hỗn hợp của DHSA, silicon và chế phẩm từ dầu thực vật, nhờ
đó năng suất máy nghiền tăng 15%, tăng độ linh động, độ dẻo của xi măng.
Ngoài ra một số doanh nghiệp, công ty thương mại trong và ngoài nước cũng
đã chào hàng, tiến hành thử nghiệm các phụ gia trợ nghiền xi măng như: phụ gia
LTD 01 của Công ty hóa chất và vật liệu điện (Bộ thương mại), phụ gia trợ nghiền
của trung tâm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phụ gia HEA -2,
24
DATARGRIND – 135 của Grace, CHRYSO – AMC 1F của Công ty xuất nhập
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
khẩu KICHIESU (Nhật). Tuy nhiên các sản phẩm này chỉ mới dừng lại ở việc chào
hàng thử nghiệm mà chưa đi vào ứng dụng thường xuyên, phần vì tính hiệu quả,
phần vì giá thành cao.
Một số loại phụ gia trợ nghiền có nguồn gốc hữu cơ dùng cho máy nghiền xi
măng của một số công ty xi măng thuộc Tổng Công ty Xi măng Việt Nam cho trong
bảng sau:
Bảng 1.3: Kết quả sử dụng phụ gia trợ nghiền tại một số công ty xi măng [5]
Ký hiệu chất Tính năng, tác dụng Nơi sử dụng Mức tăng
trợ nghiền năng suất (%)
Trợ nghiền, tăng độ linh CTXM Hà 15 BAC
động của xi măng Tiên
Trợ nghiền, tăng độ linh CTXM Bỉm 14 TEA
động của xi măng Sơn
Trợ nghiền, tăng độ linh CTXM Bỉm 15 BK1,BK2
động của xi măng Sơn
Trợ nghiền, tăng độ linh CTXM Hải 13 TEA
động của xi măng Phòng
Trợ nghiền, tăng độ linh CTXM Hoàng 15 HEA - 2
động của xi măng Thạch
1.3.2 Nguyên lý tác dụng của chất trợ nghiền:
Các quá trình vật lý và hóa học xảy ra trong quá trình nghiền tuân theo
nguyên tắc nhiệt động học, vật liệu luôn có xu hướng tồn tại ổn định ở trạng thái có
năng lượng thấp hơn.
1.3.2.1 Các phản ứng hóa học:
Theo nguyên tắc nhiệt động học, các phản ứng hóa học chỉ tự xảy ra khi có
thể giải phóng năng lượng (thường là nhiệt lượng), các phản ứng không thể đảo
chiều nếu không có năng lượng cấp từ bên ngoài. Phản ứng giữa nước với xi măng
25
cũng tương tự như vậy. Nước có từ nguyên liệu ẩm hoặc được phun vào làm mát
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
trong quá trình nghiền xi măng công nghiệp, kể cả khi không có phụ gia trợ nghiền.
Vì vậy, một phần hoặc hoàn toàn bề mặt clinker sẽ được hydroxyl hóa. Điều nay rất quan trọng chứng tỏ nước là chất trợ nghiền yếu. Phản ứng hóa học giữa ion O2- với nước H2O tạo thành ion hydroxyl OH- là phản ứng không thuận nghịch [14].
Phản ứng phân hủy các hợp chất hữu cơ cũng là phản ứng không thuận nghịch. Các chất trợ nghiền có nhiệt độ sôi khoảng 50 – 400oC, nghĩa là có thể thấp hơn hoặc cao hơn nhiệt độ nghiền (80-120oC). Rất ít các chất hữu cơ ổn định ở trên 200oC. Khi phân hủy, thường tạo thành hợp chất dễ bay hơi. Tuy nhiên trong không
khí, trong các lớp phân tử mỏng (nồng độ thấp) và trên bề mặt vật liệu vô cơ, chúng có thể bị phân hủy ở nhiệt độ thấp hơn (ví dụ < 100oC) trong vài giờ. Rất nhiều các
nghiên cứu khác nhau đã chỉ ra rằng các phụ gia trợ nghiền thường sử dụng như có
thể tồn tại tốt trong điều kiện nghiền thông thường [14].
Khả năng hấp phụ hoàn toàn của phụ gia trợ nghiền lên clinker là quá trình thuận nghịch. Do lực liên kết nhỏ ở nhiệt độ nghiền 80-120oC, các phân tử đã hấp
phụ có thể giải hấp phụ trên bề mặt clinker. Nếu các chất lỏng có thành phần hóa
tương tự nhau, cường độ hấp phụ lên bề mặt clinker có liên quan đến nhiệt độ sôi
[14].
Hình 1.5: Phản ứng hóa học giữa ion O2- với nước [14]
1.3.2.2 Cơ chế phân tán chất trợ nghiền:
Phân tán các phân tử chất trợ nghiền thông qua hai cơ chế cơ bản: chuyển
pha khí và tương tác bề mặt. Điều nay dễ dàng chứng minh trong quá trình nghiền
26
kín [14].
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Ví dụ: Các hợp chất rượu OH- có nhiệt độ sôi thấp hơn nhiệt độ nghiền có
thể tăng hiệu quả nghiền, chúng hấp phụ rất yếu do bay hơi rất nhiều và vẫn có thể
ngửi thấy mùi trong xi măng khi đã nguội, vì vậy có thể giả định rằng sự phân tán
một phần hoặc hoàn toàn qua pha khí [14].
Mặt khác, các polyme như polycarboxy (PCEs) có thể cải thiện đáng kể hiệu
quả nghiền. PCEs chỉ có thể bay hơi khi phản ứng phân hủy không thuận nghịch,
tuy nhiên trong quá trình nghiền các phân tử chủ yếu vẫn còn nguyên, như vậy
PCEs vẫn giữ hoạt tính giống phụ gia hóa dẻo bê tông và cơ chế bay hơi có thể bỏ
qua, cơ chế phân tán lúc này là phân tán qua tương tác bề mặt [14].
Hầu hết các chất trợ nghiền thương mại có nhiệt độ sôi và phân hủy cao hơn
nhiệt độ nghiền (ví dụ PG, DEG, TEA…). Áp suất hóa hơi của chúng thấp nhưng
vẫn đủ cao để phân tán theo cả hai cơ chế trên [14].
Chất lỏng đã hấp phụ trên bề mặt clinker sẽ cân bằng với pha khí của chúng.
Áp suất hóa hơi phụ thuộc vào nhiệt độ sôi, nhiệt độ và cả phẩn chất rắn đã bị bao
phủ bới chất trợ nghiền. Tỷ lệ ảnh hưởng của phân tán qua pha khí và tương tác bề
mặt rất khó đo và xác định rõ, nó phụ thuộc không chỉ vào chất trợ nghiền mà còn
phụ thuộc vào máy nghiền và các thông số nghiền. Thông thường phân tán qua
tương tác bề mặt quan trọng hơn rất nhiều phân tán qua pha khí [14]
Bảng 1.4: Hiệu quả nghiền với các chất trợ nghiền hữu cơ khác nhau [14]
Kích thƣớc trên 32μm Nƣớc + … Nhiệt độ sôi [oC] Blaine [cm2/g] [%]
Clinker
Nƣớc
69 31.8 2645 Hexane
170 30,7 2740 Paraffin oil
180 29,9 2740 Hỗn hợp mạch
vòng thơm
27
360* 29,5 2785 Dầu ép từ các hạt
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
101 29,8 2810 Dioxan
56 29,5 2790 Aceton
77 28,3 2870 Ethyl acetate
82 27,0 2983 isopropanol
245 27,3 2943 Dethylene glycol
* Nhiệt độ phân hủy trên 200oC
1.3.2.3 Năng lƣợng bề mặt và sức căng bề mặt: Các phân tử trong chất lỏng và chất rắn đồng nhất luôn chịu ảnh hưởng của
các lực phân tử từ các phân tử xung quanh. Với các phân tử nằm ở giữa chất lỏng
hoặc chất rắn, chúng được bao quanh một cách đối xứng bởi các phân tử cùng loại
khác, nên lực tổng cộng được cân bằng thành 0. Ở bề mặt, một bên các phân tử bị
các phân tử cùng loại tương tác với lực khác bên kia do các phân tử khác loại, lực
tổng cộng có thể kéo phân tử bề mặt vào bên trong hay đẩy nó ra phía ngược lại
được mô tả ở hình 1.6, năng lượng của các phân tử bề mặt ngoài cùng lớn hơn 0
[14].
Năng lượng bề mặt quy về một đơn vị diện tích bề mặt gọi là sức căng bề
mặt, thông thường với vật liệu rắn tương ứng với năng lượng bề mặt và với chất
lỏng là sức căng bề mặt. Sức căng bề mặt là kết quả của lực tương tác phân tử, nên
nó phụ thuộc vào bản chất của chất và nhiệt độ, ở cùng một nhiệt độ thì:
Ϭhợp chất ion > Ϭhợp chất phân cực > Ϭhợp chất không phân cực
Ϭchất rắn > Ϭchất lỏng
Hình 1.6: Lực tương tác giữa các phân tử bên trong và ngoài bề mặt của chất rắn
28
hoặc chất lỏng [14]
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Khi diện tích bề mặt tăng thì năng lượng bề mặt tăng, vì vậy với cùng một
khối lượng thì tổng các giọt lỏng nhỏ hơn có năng lượng lớn hơn các giọt lỏng lớn
và các tổng hạt mịn cũng có năng lượng lớn hơn các hạt thô. Phần lớn năng lượng
tiêu tốn trong quá trình nghiền xi măng được chuyển thành nhiệt năng, một phần
nhỏ ≤ 0,05% còn lại ở dạng năng lượng bề mặt [14].
Sự bám dính chất lỏng trên bề mặt chất rắn hay độ thấm ướt có thể rất khác
nhau được đặc trưng bởi góc thấm ướt. Hình dạng giọt lỏng ở bảng 1.5 tương ứng
với mức năng lượng thấp nhất mà hệ đạt được. Nó phụ thuộc vào 3 yêu tố: năng
lượng bề mặt của chất lỏng, năng lượng bề mặt của chất rắn và năng lượng giữa 2
bề mặt của 2 hợp chất [14].
Bảng 1.5: Hình dạng giọt lỏng phụ thuộc vào tương tác giữa chất lỏng và bề mặt chất rắn [14]
Hình dạng giọt Góc thấm Năng lƣợng Thấm ƣớt Ví dụ lỏng ƣớt giữa 2 bề mặt
Không Thủy ngân trên ~ 180o >>>> 0 thấm ướt vật liệu phi kim
Không Nước trên thấm ướt < 180o >>> 0 Teflon một phần
>> 0 90o
Thấm ướt Chất trợ nghiền > 0 > 0o một phần trên nhựa
Thấm ướt Chất trợ nghiền = 0 ~ 0o hoàn toàn trên clinker
Chất trợ nghiền < 0 0o Chảy loang trên Clinker
Chất lỏng có sức căng bề mặt lớn sẽ không thấm ướt trên chất rắn có năng
29
lượng bề mặt thấp, ví dụ thủy ngân tạo thành giọt tròn trên vật liệu phi kim hay
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
không thấm ướt và trên vật liệu có năng lượng bề mặt thấp như nhựa, chất lỏng sẽ
tạo giọt thấm ướt một phần. Mặt khác, chất lỏng có sức căng bề mặt thấp sẽ chảy
loang trên chất rắn có năng lượng bề mặt cao, ví dụ chất trợ nghiền sẽ thâm nhập
vào các vết vi nứt và bao phủ toàn bộ bề mặt clinker [14].
1.3.2.4 Quá trình giảm năng lƣợng bề mặt trên clinker:
Quá trình nghiền clinker làm tăng diện tích bề mặt hay năng lượng tự do bề
mặt của hệ tăng dẫn đến hệ mất cân bằng nhiệt động và không bền. Các hạt được
tạo ra có xu hướng kết tụ lại và bám dính vào bi đạn, tấm lót trong máy nghiền
nhằm mục đích giảm năng lượng tự do bề mặt. Do vậy dẫn tới cản trở việc nghiền
nhỏ các hạt tiếp theo và giảm năng suất máy nghiền [14].
Năng lượng bề mặt cao của clinker khô sẽ giảm xuống một mức nhất định do
quá trình hydroxy hóa với nước. Muốn giảm năng lượng xuống mức tối thiểu và ổn
định cần có phụ gia trợ nghiền. Phụ gia trợ nghiền có sử dụng ở dạng nguyên chất,
nhưng do sử dụng trong công nghiệp cần tối ưu hóa về kỹ thuật và kinh tế nên chất
trợ nghiền thường trộn chung với nước, cả hai cách trên đều làm giảm năng lượng
bề mặt [14].
Quá trình giảm năng lượng bề mặt theo ba giai đoạn (theo công thức 1) [14].
+ Sự có mặt của nước và phụ gia trợ nghiền sẽ làm giảm năng lượng
bề mặt clinker (ESC : năng lượng bề mặt clinker). Bề mặt của chất trợ nghiền phải
tăng dựa trên năng lượng thu được từ năng lượng giảm trên bề mặt clinker, nghĩa là
năng lượng bề mặt của chất trợ nghiền (ESG) tăng lên. Và năng lượng giữa 2 bề mặt
clinker/phụ gia trợ nghiền (EIC/G) phải âm hoặc hầu hết có giá trị dương rất nhỏ.
ESC + ESG + EIC/G = E SCG (1)
Nếu năng lượng bề mặt clinker đã được bao phủ bởi chất trợ nghiền (E SCG)
là âm, nghĩa là năng lượng đã giải phóng trong quá trình bao phủ, sau đó chất lỏng
sẽ chảy loang ra mà không cần có bất ký sự hỗ trợ cơ học nào. Góc thấm ướt của chất trợ nghiền trên bề mặt clinker bằng 0o.
Như vậy chứng tỏ chất trợ nghiền không chỉ làm giảm năng lượng bề mặt
30
clinker (ESC) mà còn hấp phụ rất mạnh lên bề mặt clinker (giá trị EIC/G nhỏ). Tuy
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
nhiên không phải chất trợ nghiền có năng lượng bề mặt ESG thấp nhất là có khả
năng trợ nghiền tốt nhất. Thưc nghiệm đã chứng minh giá trị năng lượng/sức căng bề mặt của chất trợ nghiền từ 30 – 50 mJ/m2 [14].
1.3.2.5 Tƣơng tác giữa chất trợ nghiền và bề mặt clinker:
Với dung dịch không phân cực như nhiên liệu và dầu có năng lượng và sức
căng bề mặt thấp, chúng không chứa hoặc chỉ có các nhóm phân cực yếu trong phân
tử, vì vậy sẽ tương tác rất yếu với các phân tử phân cực. Chúng không thể hòa tan
vào nước phân cực nhưng lại thấm ướt rất mạnh trên bề mặt phân cực clinker. Do
tương tác yếu với clinker nên chúng hấp phụ rất yếu tạo thành lớp phân cách ổn
định giữa các hạt, các tương tác phân cực mạnh nên các hạt clinker sẽ kết tụ lại. Vì
vậy các chất lỏng không phân cực hay có sức căng bề mặt thấp không phù hợp làm
phụ gia trợ nghiền [14].
Các phụ gia trợ nghiền thương mại bao gồm bộ khung hydrocacbon không
phân cực và các nhóm phân cực, chúng sẽ tương tác dễ dàng với clinker. Phần lớn
các hợp chất hoạt tính có chứa các nhóm OH phân cực (R-OH). TEA là rượu 3 chức
và DEG là rượu 2 chức. Các hợp chất rượu đơn chức như isopropanol có khả năng
trợ nghiền rất tốt, tuy nhiên chúng không được sử dụng trong xi măng thương mại do nhiệt độ sôi rất thấp (<1000C) [14].
Theo “Mô hình động học phân tử”, hình 1.7 mô phỏng tương tác của 2 phân
tử TIPA lên bề mặt khoáng C3S khô.Mô hình đã chứng minh các phân tử luôn quay
nhóm chức phân cực (R – OH) về phía bề mặt phân cực của clinker, các đầu không - và -CH3) sẽ che chắn các đầu phân cực nhóm hydrocabon (R bao gồm -CH-, -CH2
phân cực.Vì vậy độ phân cực trên bề mặt clinker sẽ giảm và lực hút giữa các hạt xi
măng giảm. Chiều dài trung bình của các liên kết cũng được tính toán. Cách sắp xếp
và tương tác tương tự với khoáng C2S và C3A và với các chất trợ nghiền hữu cơ
khác, các nghiên cứu trên khoáng C4AF đang được tiếp tục thực hiện.
Các chất hữu cơ không những có tác dụng trợ nghiền mà còn ảnh hưởng đến
các tính chất của xi măng như thời gian đông kết, cường độ ở các tuổi ngày khác
31
nhau…
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 1.7: Tương tác của 2 phân tử TIPA lên bề mặt khoáng C3S khô [14] 1.3.3 Đặc điểm của quá trình nghiền xi măng không sử dụng phụ gia trợ
nghiền:
Nguyên liệu để nghiền phối liệu sản xuất xi măng Portland thường được sấy tới độ ẩm khoảng 8% trước khi đưa vào máy nghiền. Trong quá trình nghiền do va đập, chà sát, hệ phân tán xuất hiện lực hút tĩnh điện, đồng thời quá trình đó cũng sinh nhiệt nên hơi nước nằm sâu trong cấu trúc hạt tiếp tục được bay ra và duy trì với lượng không đổi trong máy nghiền [9] .
Trong môi trường như vậy, các hạt có điều kiện hút ẩm trở lại, hình thành lực mao quản bám dính vào nhau (kết khối, vón cục vào nhau), vào bi, đạn, tấm lót, thành vách máy nghiền làm cản trở quá trình nghiền các hạt tiếp theo. Kết quả làm cho năng suất máy nghiền không tăng lên được, có khi xảy ra dính bết tắc máy nghiền [9].
Hình 1.8: Sự phá vỡ và kết tụ của hạt xi măng trong quá trình nghiền [19]
1.3.4 Cơ chế hoạt động của chất trợ nghiền:
Quá trình nghiền các vật liệu rắn nói chung có thể được tăng cường đáng kể
nhờ sử dụng hiệu ứng hấp phụ bề mặt làm giảm độ bền liên kết trong cấu trúc vật
liệu theo lý thuyết cấu trúc vi tinh của vật liệu rắn do viện sỹ N.A. Rebinder đề xuất
32
đầu tiên - còn goị là hiệu ứng hình nêm Rebinder [1].
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Tất cả các vật thể rắn nhất là vật liệu phi kim loại đều có cấu trúc khuyết tật,
cả trên bề mặt lẫn trong thể tích vật thể. Khi chịu tác dụng của tải trọng phá huỷ
(đập, nghiền) chúng bị biến dạng đàn hồi và biến dạng dẻo làm cho mạng các
khuyết tật phát triển và lan rộng đáng kể, tạo ra các khuyết tật mới ngày càng nhiều
trong thể tích vật thể. Các khuyết tật cấu trúc này như đã thấy trong lý thuyết vi cấu
trúc làm giảm đáng kể độ bền liên kết của vật liệu so với trạng thái lý thuyết. Nếu
như khi nghiền vật liệu rắn, người ta tạo ra được sự phát triển lớn số lượng các
khuyết tật trong nó thì sự phá huỷ chúng trở nên dễ dàng hơn, tiêu hao ít năng lượng
nghiền đập hơn mà vẫn nâng cao được năng suất và hiệu quả đập nghiền. Hiệu ứng
hấp phụ bề mặt làm lan truyền và phát triển khuyết tật ở dạng vết nứt vi tinh, làm
giảm độ bền liên kết ngay cả khi vật liệu chịu tải trọng ứng suất nhỏ.
Tác dụng hấp phụ được duy trì trước tiên từ các khuyết tật bề mặt. Sơ đồ các
khuyết tật bề mặt này có thể được khảo sát như các vết nứt vi tinh hay các khe nứt
hình nêm do cấu trúc khuyết tật của bề mặt vật liệu. Tại miệng các khe nứt có bề
mặt phát triển hoàn toàn với lực hút tương ứng với năng lượng bề mặt tự do riêng
phần lớn nhất . Theo mức sâu dần từ miệng vào sâu đáy khe nứt hình nêm, năng
lượng bề mặt tự do nhanh chóng giảm từ giá trị đến 0 (ở đáy khe nứt).
Các mạch vi nứt như vậy cho phép môi trường xung quanh xâm nhập vào
sâu bên trong vật liệu. Sự xâm nhập trong các khe vi nứt của các chất lỏng sẽ hình
thành trong chúng màng mỏng hấp thụ có năng lượng tự do dư khá lớn và có xu
hướng tăng mạnh khi giảm chiều dày của màng chất lỏng hấp phụ, có nghĩa là khi
xâm nhập chất lỏng vào sâu tân đáy khe nứt. Để giảm năng lượng bề mặt tự do của
mình, màng mỏng chất lỏng trong khe nứt có xu thế muốn tăng chiều dày lên. Kết
quả đó của màng chất lỏng trong khe nứt sẽ tạo ra áp lực xé tác động lên thành của
khe nứt. áp lực này trở nên cực đại ở chính ngay đáy khe nứt, có xu thế muốn cho
chất lỏng có thể xâm nhập vào sâu hơn trong thể tích vật liệu. Chiều dày màng chất
lỏng trong khe nứt vi tinh có thể chỉ đạt cỡ từ vài trăm đến hàng nghìn phân tử và có
kích thước cỡ 0,1m. áp lực xé hình thành ở đáy khe nứt có thể có giá trị lớn. Thí
33
dụ: nước khi thấm sâu vào đáy các mao quản bề mặt có thể phát triển áp lực xé đạt
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
cỡ 245MN/m2 ~ 2500 kG/cm2 ~ Bar (atm). áp lực xé của chất lỏng xâm nhập được
xác định bởi trị số năng lượng thấm ướt của vật liệu rắn cần phá huỷ.
Có thể dễ dàng phá huỷ vật thể rắn dưới ảnh hưởng của các chất lỏng cho
trước khi làm tăng khả năng thấm ướt của chúng nhờ phụ thêm vào chất lỏng một
lượng nhỏ phụ gia hoạt tính bề mặt, có khả năng hấp phụ trên bề mặt của vật liệu
nghiền (hấp phụ cơ học), nâng cao năng lượng thấm ướt của chất lỏng trên bề mặt
vật liệu này. Các phân tử của chất hoạt tính bề mặt xâm nhập vào bên trong các vết
nứt vi tinh dạng hình nêm qua miệng của chúng trên bề mặt vật liệu do lực hút và
chúng dịch chuyển theo bề mặt lớp hấp phụ. Nhờ khả năng tạo ra bề mặt phân chia
tương tự hai cấp mà các phân tử phụ gia hoạt tính bề mặt được phủ một lớp hấp phụ
đồng đều (thường gồm các đơn phân tử) trên toàn bộ bề mặt bên trong các khuyết
tật biến dạng của vật liệu, xâm nhập và làm yếu lực liên kết phân tử của các phần tử
hạt trong vi cấu trúc, giúp cho quá trình chia cắt, phá huỷ chúng dễ dàng hơn.
Sự xâm nhập trong các khe nứt vi tinh của các phân tử chất hoạt tính bề mặt
làm hình thành lớp hấp phụ, khi đó xác lập khả năng làm hạ thấp năng lượng bề mặt
các vật thể rắn từ giá trị ban đầu o đến m, tương ứng với năng lượng bề mặt tự do riêng của lớp bề mặt phủ bởi lớp hấp phụ với mức dày đặc m mol/cm2. Như vậy lực
chuyển động hút vào của lớp hấp phụ trong khe nứt sẽ là:
P = o - m
Áp lực hai cấp này chính là lực tác dụng lên một đơn vị chiều dài của đường
ranh giới phân chia của lớp hấp phụ. áp lực này hướng theo chiều xé rộng vết nứt
vào sâu thể tích vật thể và làm hạ thấp đáng kể năng lượng bề mặt tự do tạo khả
năng phá huỷ dễ dàng vật thể rắn.
Như vậy có thể hiểu một cách đơn giản là: nhờ sự xâm nhập của chất lỏng và
các chất phụ gia hoạt tính bề mặt mà mạng các vết nứt phát triển lớn và rộng khắp,
làm "mềm" đi lớp bề mặt của vật thể rắn, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phá huỷ
34
chúng khi đập và nghiền.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 1.9: Sự phát triển mạng các vết nứt trong quá trình nghiền [18]
Theo N.A. Rebinder và trường phái của ông thì: Cơ sở hoá lý ảnh hưởng của
môi trường đập nghiền đến quá trình biến dạng và phá huỷ vật thể rắn chính là hiệu
ứng giảm độ bền cơ học của chúng do kết quả hấp phụ các chất hoạt tính bề mặt
trên bề mặt vật thể rắn. Hiệu quả vật lý của hiện tượng này làm hạ thấp năng lượng
bề mặt khi tiếp xúc với môi trường hoạt tính và dẫn tới làm dễ dàng quá trình tạo
mầm và phát triển các vết nứt phá huỷ. Ngoài ra, môi trường hấp phụ hoạt tính còn
có ảnh hưởng đặc biệt về mặt hoá học đến khả năng tách riêng các hạt vật liệu gia
công, không cho chúng dính kết với nhau, tức là kim hãm khả năng tập hợp hạt (ag-
glomeration), làm tăng tính linh động của vật liệu bột nghiền siêu mịn, tách rời
chúng với kích thước gần với kích thước thật của hạt. Môi trường hấp phụ hiệu quả
đa số với các vật liệu rắn phi kim loại là các chất lỏng hoặc dung dịch nước của phụ
gia hoạt tính bề mặt [1].
Tính chất của môi trường trong đó xảy ra quá trình nghiền (như độ ẩm, nhiệt
độ, áp suất, độ hoạt tính hấp phụ...), thứ tự áp dụng cơ học đều gây ảnh hưởng rõ rệt
đến quá trình [1].
Các chất trợ nghiền ứng dụng trong công nghiệp xi măng hoặc các quá trình
gia công khác đều phải thoả mãn cơ chế và các yêu cầu kỹ thuật nêu trên. Các chất
này phải nâng cao đáng kể hiệu quả quá trình nghiền clinke, nâng cao năng suất
máy nghiền, tăng độ phân tán và linh động của bột xi măng, (pack set – flowability),
không làm ảnh hưởng xấu đến các tính chất của xi măng trong sử dụng... Tức là
thoả mãn các hiệu quả kỹ thuật lẫn kinh tế xã hội của công nghệ sản xuất và sử
35
dụng của xi măng nói chung.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 1.10: Quá trình xâm nhập của phụ gia vào vết nứt và phân tách hạt xi măng Sử dụng phụ gia trợ nghiền giảm năng lượng bề mặt tự do và giảm diện tích
bề mặt, do đó ngăn cản quá trình kết tụ các hạt xi măng. Chất trợ nghiền thay đổi
lực tĩnh điện giữa các hạt xi măng và giảm lực hút (Van der Waal) và tăng lực đẩy
như hình 1.11.
Hình 1.11: Nghiền clinker khi có (a) và không có (b) phụ gia trợ nghiền [3]
Theo nghiên cứu của Teoreanu và Guslivov năm 1999 [3], năng lượng
nghiền tiêu tốn (kWh/tấn) hay thời gian nghiền có tỷ lệ tăng tuyến tính với diện tích bề mặt bắt đầu từ độ mịn Blaine 3000 cm2/g và kết thúc khi bắt đầu hiện tượng kết
tụ. Với quá trình nghiền có phụ gia trợ nghiền thì mối quan hệ tuyến tính này được
kéo dài hơn. Theo hình 1.12 a thì hiện tượng kết tụ khi nghiền với các loại phụ gia trợ nghiền khác nhau ở cùng tỷ lệ bắt đầu khi độ mịn Blaine đạt 6000 cm2/g, như
vậy khi tăng thời gian nghiền đến một giới hạn nhất định thì hoạt tính của chất hoạt
động bề mặt sẽ giảm do diện tích bề mặt hạt xi măng tăng quá cao. Cũng theo
nghiên cứu của Teoreanu và Guslivov năm 1999 [3], hàm lượng phụ gia trợ nghiền
đưa vào quá nhiều cũng dẫn đến hiện tượng kết tụ do các hạt xi măng quá dễ dàng
36
trơn trượt lên nhau nên khả năng phá vỡ các hạt xi măng giảm. Vì vậy cần xác định
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
hàm lượng phụ gia trợ nghiền tối ưu, thời gian tối ưu để đạt được độ mịn và năng
suất theo yêu cầu.
Hình 1.12: Ảnh hưởng của thời gian nghiền (a) và năng lượng tiêu tốn riêng (b) đến
độ mịn Blaine của xi măng [3]
Khả năng nghiền của clinker còn phụ thuộc vào chính thành phần khoáng
clinker. Theo nghiên cứu của Hewleet (1998), chỉ số độ giòn của các khoáng trong
clinker theo thứ tự : 4.7 (C3S), 2.9 (C3A), 2.0 (C2S, C4AF) [3].
Theo các nghiên cứu của hãng Sika tại đại học Akron của Mỹ hợp tác với
Viện Liên Bang Thụy Sỹ tại Zurich đã công bố từ năm 2013 đưa ra: “ Mô hình động
học phân tử “ mô tả cơ chế trợ nghiền, đưa ra cái nhìn sâu hơn cần có các thông số
và xu hướng cụ thể như năng lượng hấp phụ, năng lượng kết tụ, cơ chế tương tác
của các phân tử chất trợ nghiền trên bề mặt clinker. Trong mô hình các giá trị về số
lượng thành phần hạt clinker, khối lượng và nhiệt độ không thay đổi trong suốt quá
trình mô phỏng.
37
Hình 1.13: Mô hình động học phân tử [18]
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
1.3.5 Hiệu quả tác động của chất trợ nghiền:
1.3.5.1 Bề mặt clinker có và không có phụ gia trợ nghiền:
Hình 1.14 – 1.19 chỉ ra các cách có thể khác nhau mô tả cách các bề mặt mới
được tạo thành và các quá trình hóa lý và vật lý tiếp theo trong quá trình nghiền với
các chất trợ nghiền hữu cơ Ethylen Glycol (EG), Glycerol (GL), diethylenglycol
(DEG), Diethyl amine (DA), Triethyl amine (TA), Canxi oxit (CaO) được sử dụng
trong giản đồ để đơn giản hóa các khoáng clinker. Các ion trên bề mặt tiếp xúc với tinh thể có khuyết tật được ký hiệu điện tích (Ca2+, O2-). Tinh thể hoàn chỉnh mang
điện tích trung tính nên không có ký hiệu điện tích. Trong giản độ, hình vuông có
màu nhẹ hơn có độ phân cực thấp hơn, mũi tên màu xanh nhỏ hơn có lực tương tác
giữa các bề mặt vết nứt yếu hơn. Bề mặt tinh thể ở hình 1.15 rất khó xảy ra hoặc chỉ
có thể xảy ra khi clinker khô (không có nước). Bề mặt vết nứt sau khi tạo thành sẽ
phục hồi ngay lập tức, nghĩa là các phân tử bề mặt sẽ tự thay đổi để đạt năng lượng nhỏ nhất và cân bằng điện tích tối ưu. Mặt khác khi có mặt nước (hoặc ion OH-),
các nguyên tử hydro sẽ nhanh chóng dịch chuyển vào bên trong bề mặt clinker như
hình 1.15, quá trình hóa học xảy ra rất nhanh (một phần triệu triệu giây) [14].
Vận tốc lan truyền các vết nứt trong clinker rất cao, theo mô hình mô phỏng
đạt 11500 km/h dọc bề mặt vết nứt khoáng C3S, gấp 10 lần tốc độ của âm thanh
trong không khí. Do vận tốc thấm ướt chất lỏng chậm hơn rất nhiều so với vận tốc
lan truyền vết nứt nên sự phục hồi và cân bằng điện tích bề mặt xảy ra rất nhanh, vì
vậy có thể giả định rằng chất trợ nghiền luôn luôn hoặc hoàn toàn hập phụ lên bề
mặt trung tính. Trạng thái này chưa được chứng minh trực tiếp với clinker nhưng đã
góp phần rất nhiều các hợp chất vô cơ đã nghiên cứu khác. Điều này mâu thuẫn với
các giả thuyết chất trợ nghiền giúp cân bằng điện tích trên bề mặt clinker [14].
Nước, EG, Glycerlol, DEG có khả năng trợ nghiền theo thứ tự tăng dần ở hình 1.16 – 1.19. Nước phân ly thành H+ và OH- (quá trình hydroxyl hóa) và vị trí
của chúng làm giảm độ phân cự của clinker. Các nhóm rượu (R – OH sẽ làm giảm
độ phân cực nhiều hơn nữa. Các nhóm hydrocacbon (R bao gồm CH, CH2, CH3)
38
che chắn các đầu phân cực. Các phần hydrocacbon của EG nhỏ, của Glycerol trung
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
bình (hình 1.17), của DEG lớn (hình 1.18) và của DIPA lớn (hình 1.19). Như vậy
các phần hydrocacbon càng lớn thì năng lượng bề mặt của clinker đã bị bao phủ bởi
chất trợ nghiền càng nhỏ và hiệu quả nghiền càng tốt, đây gọi là hiệu ứng không
gian.
Lực hút giữa các hạt xi măng nghiền và giữa các hạt xi măng với bi nghiền
khi có hoặc không có chất trợ nghiền đã chứng tỏ khả năng kết tụ và bám dính phụ
thuộc vào năng lượng bề mặt.
Hình 1.14: Bề mặt Hình 1.15: Bề mặt Hình 1.16: Tương tác giữa
clinker có điện tích clinker nước với bề mặt clinker
Hình 1.17: Tương tác giữa Hình 1.18: Tương tác giữa Hình 1.19: Tương tac giữa
39
GL với bề mặt clinker DEG với bề mặt clinker DIPA với bề mặt clinker
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
1.3.5.2 Năng lƣợng hấp phụ của chất trợ nghiền lên bề mặt khoáng C3S:
Năng lượng hấp phụ của chất trợ nghiền khác nhau lên bề mặt clinker được
tính toán để so sánh với hiệu quả trợ nghiền. Năng lượng hấp phụ là năng lượng bề
mặt được giải phóng thông qua hấp phụ chất lỏng lên bề mặt khoáng clinker [14].
Hình 1.20: Năng lượng hấp phụ của chất trợ nghiền lên khoáng C3S khô và đã hydoxyl hóa ở nhiệt độ 250C và 1100C [14]
Với mô hình phân tử trên khoáng C3S, kết quả đạt được như sau: (Hình 1.18)
- Năng lượng hấp phụ: TEA < TIPA < MDIPA < Glycerol.
- Hiệu quả trợ nghiền: Glycerol < TEA < TIPA < MDIPA
Như vậy không có mối tương quan giữa năng lượng hấp phụ và hiệu quả trợ
nghiền, hiệu quả trợ nghiền phụ thuộc vào tính chất khác.
1.3.5.3 Năng lƣợng kết tụ của C3S và C3A:
Năng lượng kết tụ là năng lượng dự trữ được giải phóng khi hai bề mặt vết
nứt song song kết hợp với nhau hoặc bằng với năng lượng yêu cầu để phân tách
chúng. Hình 1.21 – 1.22 mô tả đơn lớp phân tử Glycerol ở trạng thái phân tách và
kết tụ trên bề mặt vết nứt khoáng C3S, sự chênh lệch giữa hai mức năng lượng được
tính toán này chính là năng lượng kết tụ [14].
Tỷ lệ chất trợ nghiền sử dụng đều 500g/tấn xi măng [9]:
+ Ở hình hình 1.23 với khoáng C3S, năng lượng kết tụ: C3S > HC >
40
HC - Glycerol > HC – TEA > HC – TIPA > HC – MDIPA.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
+ Ở hình 1.24 với khoáng C3A, năng lượng kết tụ: C3A > HC > HC –
TIPA > HC – Glycerol > HC – TEA > HC – MDIPA.
+ Hiệu ứng trợ nghiền: C3S < HC < HC – Glycerol < HC – TEA < HC
– TIPA < HC – MDIPA.
Hiệu quả trợ nghiền phụ thuộc vào thành phần khoáng hay phụ thuộc vào
loại xi măng. “ Mô hình động học phân tử “ đã chứng minh các giả thuyết từ các
thập kỷ trước về hiệu quả nghiền với độ mịn có liên quan đến năng lượng kết tụ hay
lực hút giữa các hạt clinker / xi măng. Chất trợ nghiền làm giảm năng lượng kết tụ.
Hình 1.21: Đơn lớp phân tử Glycerol Hình 1.22: Đơn lớp phân tử glycerol bao
giữa hai bề mặt khoáng C3S phủ một nửa giữa hai bề mặt khoáng C3S
với bề mặt C3S ở trạng thái phân tách
Hình 1.23: Năng lượng kết tụ các chất trợ Hình 1.24: Năng lượng kết tụ các chất
41
nghiền trên khoáng C3S khô và đã hydoxyl hóa ở 900C trợ nghiền trên khoáng C3A khô và đã hydoxyl hóa ở 900C
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG THỰC NGHIỆM
2.1 Quy trình tiến hành nghiên cứu thực nghiệm:
2.2 Nguyên vật liệu sử dụng trong nghiên cứu:
2.2.1 Clinker:
Clinker sử dụng cho thí nghiệm được lấy từ Nhà máy Xi măng Tây Ninh,
tính toán để lấy lượng đủ dùng cho cả đợt thí nghiệm. Clinker được đập nghiền sơ
bộ như trong hình 2.1 và 2.2 rồi đồng nhất và bảo quản cẩn thận. Thành phần hóa
42
học của clinker như trong bảng 2.1.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 2.1: Clinker đã qua kẹp hàm Hình 2.2: Clinker sử dụng thí nghiệm
(dưới sàng 5mm, trên sàng 1mm)
2.2.2 Thạch cao:
Thạch cao sử dụng cho thí nghiệm là thạch cao thiên nhiên dạng bột nhập từ
Thái Lan (hình 2.3, 2.4) có thành phần hóa như trong bảng 2.1.
Hình 2.3: Thạch cao lấy tại kho Nhà Hình 2.4: Thạch cao sử dụng thí nghiệm
máy Xi măng Tây Ninh
2.2.3 Đá vôi:
Đá vôi sử dụng thí nghiệm được lấy từ mỏ Scroc Con Trăng, được đập
nghiền đến kích thước hạt 1-5mm (hình 2.5, 2.6) rồi đồng nhất và bảo quản cẩn
thận. Thành phần hóa học của đá vôi như trong bảng 2.1.
Hình 2.5: Đá vôi đã qua kẹp hàm Hình 2.6: Đá vôi sử dụng thí nghiệm
43
(dưới sàng 5mm, trên sàng 1mm)
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
2.2.4 Puzolan:
Puzolan sử dụng thí nghiệm được lấy từ Bình Phước được đập nghiền đến
kích thước hạt 1-5mm (hình 2.7, 2.8) rồi đồng nhất và bảo quản cẩn thận. Thành
phần hóa học của Puzolan như trong bảng 2.1.
Hình 2.7: Puzolan lấy tại kho Nhà máy Hình 2.8: Puzolan sử dụng thí nghiệm
Xi măng Tây Ninh
Bảng 2.1: Nguyên vật liệu sử dụng trong nghiên cứu
SiO2 Al2O3 Fe2O3 CaO MgO CKT MKN SO3
Nguyên liệu
20.80 5.55 3.43 64.11 3.53 0.21 1.07 0.44 Clinker
0.14 0.49 31.85 0.00 1.48 20.95 44.63 Thạch cao 1.57
4.16 1.02 0.53 50.21 2.39 3.46 41.52 0.11 Đá vôi
46.96 13.52 11.51 9.12 9.15 56.66 5.22 0.09 Puzolan
2.2.5 Chất trợ nghiền sử dụng trong thí nghiệm:
2.2.5.1 Chất trợ nghiền GM1189: GM1189 là phụ gia công nghệ cho xi măng thế hệ mới được chế tạo trên cơ sở
Alkanolamine bậc 3 có các tính chất cơ bản sau:
Bảng 2.2: Tính chất lý học và các thông số kỹ thuật của GM1189
Tên sản phẩm
Tỷ trọng
PH
Độ nhớt
44
GM1189 >= 1,02 g/ cm3 >= 7 >= 7 CPs (ở 210C) 0,1% (max) Cặn không tan
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Tính năng và tác dụng của sản phẩm GM1189
+ Tăng năng suất nghiền từ 15 – 25 % tuỳ thuộc loại Clinker, Phụ gia khoáng
và cấu trúc máy nghiền.
+ Chống vón trong quá trình bảo quản Xi măng, nâng cao độ chảy cho xi
măng khi đóng bao hoặc bơm xi măng bồn.
+ Tương hợp với hầu hết phụ gia hoá học cho bê tông, tăng thêm độ chảy và
duy trì độ sụt rất tốt cho bê tông thương phẩm, đặc biệt trong thời tiết nóng.
+ Nâng cao cường độ xi măng ở các tuổi 3, 7 và 28 ngày trong đó R7 và R28
là cao nhất.
+ Rất thích hợp cho xi măng hỗn hợp có sử dụng đá vôi. Trong trường hợp
này, cường độ của xi măng hỗn hợp đều tăng cao ở mọi tuối. Hàm lượng đá vôi tối
thiểu là 6% và tối đa là 22% tuỳ thuộc chất lượng đá vôi và cường độ của Clinker.
2.2.5.2 Chất trợ nghiền NH2307H: NH2307H là phụ gia công nghệ cho xi măng thế hệ mới được chế tạo trên
cơ sở Alkanolamine bậc 3 có các tính chất cơ bản sau:
Bảng 2.3: Tính chất lý học và các thông số kỹ thuật của NH2307H
Tên sản phẩm NH2307H
>= 1,02 g/ cm3 Tỷ trọng
>= 7 PH
>= 7 CPs (ở 210C) Độ nhớt
0,1% (max) Cặn không tan
Tính năng và tác dụng của sản phẩm NH2307H:
+ Tăng năng suất nghiền từ 15 – 25 % tuỳ thuộc loại Clinker, Phụ gia khoáng
và cấu trúc máy nghiền.
+ Chống vón trong quá trình bảo quản Xi măng, nâng cao độ chảy cho xi
măng khi đóng bao hoặc bơm xi măng bồn.
+ Tương hợp với hầu hết phụ gia hoá học cho bê tông, tăng thêm độ chảy và
45
duy trì độ sụt rất tốt cho bê tông thương phẩm, đặc biệt trong thời tiết nóng.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
+ Nâng cao cường độ xi măng ở các tuổi 3, 7 và 28 ngày trong đó R7 và R28
là cao nhất.
+ Rất thích hợp cho xi măng hỗn hợp có sử dụng đá vôi. Trong trường hợp này,
cường độ của xi măng hỗn hợp đều tăng cao ở mọi tuối. Hàm lượng đá vôi tối thiểu
là 6% và tối đa là 22% tuỳ thuộc chất lượng đá vôi và cường độ của Clinker.
2.3 Tỷ lệ cấp phối:
Bảng 2.4: Tỷ lệ cấp liệu cho máy nghiền thí nghiệm:
Tỷ lệ nguyên liệu sử dụng (%)
Puzolan Đá vôi Thạch cao Clinker silo
8 20 4 68
Tên mẫu Hàm lƣợng chất trợ nghiền sử dụng
(g/tấn)
0 ĐC
GM0.4 400
GM0.5 500 GM1189 GM0.6 600
GM0.8 800
NH0.4 400
NH0.5 500 NH2370H NH0.6 600
NH0.8 800
2.4 Các phƣơng pháp xác định tính chất cơ lý:
2.4.1 Phƣơng pháp xác định cƣờng độ (độ bền):
Đặc tính quan trọng nhất của xi măng Portland là đặc tính cường độ. Đặc
tính này phụ thuộc vào một số yếu tố bao gồm tỷ lệ trộn, nhiệt độ, độ ẩm, kích cỡ và
46
hình dạng của mẫu kiểm tra.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Cường độ nén của mẫu xi măng được xác định theo TCVN 6016:2011. Các
thiết bị dùng cho quá trình xác định cường độ như trong các hình 2.9, 2.10 và 2.11
dưới đây.
Hình 2.9: Máy trộn Hình 2.10: Khuôn và bàn Hình 2.11: Máy nén mẫu
vữa. dằn mẫu
2.4.2 Phƣơng pháp xác định lƣợng nƣớc tiêu chuẩn:
Lượng nước tiêu chuẩn là lượng nước cần để vữa xi măng có độ dẻo tiêu
chuẩn. Nếu lượng nước trộn quá lớn, không phản ứng hết, khi bay hơi sẽ tạo nhiều
lỗ xốp, giảm độ bền cơ của đá xi măng. Lượng nước quá ít, vữa không đủ độ linh
động thi công, cường độ xi măng cũng giảm. Xi măng nhiều khoáng C3A, C3S có
lượng nước tiêu chuẩn cao hơn xi măng nhiều khoáng C2S và C4AF. Độ mịn xi
măng cao cũng làm tăng lượng nước tiêu chuẩn.
Lượng nước tiêu chuẩn của mẫu xi măng được xác định theo TCVN
6017:2015. Thiết bị để xác định lượng nước tiêu chuẩn là dụng cụ Vicat (hình
47
2.12).
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 2.12: Dụng cụ Vicat
2.4.3 Phƣơng pháp xác định thời gian đông kết :
Thời gian đông kết của hồ xi măng là thời gian hồ xi măng mất dần tính linh
động, chuyển từ trạng thái bán lỏng sang trạng thái đông đặc. Thời gian đông kết
được xác định bằng cách quan sát độ lún sâu của một kim vào hồ xi măng có độ dẻo
chuẩn, cho đến khi nó đạt được giá trị quy định.
Thời gian đông kết của hồ xi măng có ý nghĩa rất thiết thực khi sử dụng xi
măng trong quá trình xây dựng. Về mặt hóa lý thì sự đông kết của hồ xi măng là
nguyên nhân của quá trình tạo thành cấu trúc, quá trình này xảy ra khi các khoáng
tác dụng với nước, đầu tiên ở dạng keo, keo này kém bền dễ bi phá hủy, cũng dễ
được tạo thành trở lại, lúc này hồ xi măng vẫn còn linh động. Tuy nhiên đã có sự
liên kết rất yếu, sau đó các khoáng xi măng lại tiếp tục hydrat hóa, lượng chất mới
tạo thành tăng lên không ngừng, khung cấu trúc trở lên bền vững và hồ xi măng lại
được đông kết hoàn toàn.
Thời gian đông kết của mẫu xi măng được xác định theo TCVN 6017 :2015,
bao gồm thời gian bắt đầu đông kết và thời gian kết thúc đông kết, thực hiện trên
dụng cụ Vicat như trong hình 2.12
2.4.4 Phƣơng pháp xác định độ ổn định thể tích theo Le Chatelier:
Độ ổn định thể tích: xi măng sau khi đóng rắn cần có độ ổn định thể tích, tức
48
là không bị co giãn quá mức cho phép trong suốt quá trình sử dụng. Sự biến đổi thể
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
tích quá lớn (>0.2% kích thước đầu) hoặc không đều dẫn tới nứt vỡ cấu kiện. Sự
biến đổi thể tích do cấu trúc gel của đá xi măng, do quá trình kết tinh các khoáng
trong đá xi măng, hoặc do những phản ứng hóa học xảy ra sau khi xi măng đóng rắn
tỏa nhiệt và tạo sản phẩm có thể tích riêng lớn hơn những chất ban đầu gây dãn nở
thể tích. Hai phản ứng đáng chú ý nhất ảnh hưởng tới độ ổn định thể tích xi măng
Portland là:
CaOtự do + H2O = Ca(OH)2
MgOtự do + H2O = Mg(OH)2
Độ ổn định thể tích là yêu cầu chất lượng không thể thiếu với xi măng dùng
cho các công trình xây dựng lớn như nhà cao tầng, nền móng công trình.
Độ ổn định thể tích theo Le Chatelier của mẫu xi măng được xác định theo
TCVN 6017:1995. Khuôn Le Chatelier được mô tả như trong hình 2.13
Hình 2.13: Khuôn Le Chatelier
2.4.5 Phƣơng pháp xác định lƣợng sót sàng:
Độ mịn của xi măng được xác định theo phương pháp sàng bằng sàng tiêu
chuẩn và tuân theo TCVN 4030:2003.
Bộ dụng cụ xác định lượng sót sàng gồm lưới sàng, máy sàng rung và cân kỹ
49
thuật được mô tả như trong các hình 2.14 a,b,c.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
a máy sàng rung b Cân kỹ thuật c Lưới sàng 0.045mm, 0.09mm
Hình 2.14: Dụng cụ xác định lượng sót sàng
2.4.6 Phƣơng pháp xác định độ mịn Blaine:
Độ mịn Blaine của mẫu xi măng được xác định theo TCVN 4030:2003. Độ
mịn của mẫu xi măng được tính theo bề mặt riêng bằng cách xác định thời gian cần
thiết để một lượng không khí nhất định thấm qua một mẫu xi măng lèn, có kích
thước và độ xốp nhất định. Dụng cụ xác định độ mịn Blaine được mô tả như trong
hình 2.15.
.
Hình 2.15: Dụng cụ xác định Blaine
2.4.7 Phƣơng pháp chụp ảnh vi cấu trúc bằng kính hiển vi điện tử (SEM):
Mục đích xác định vi cấu trúc của hồ xi măng. Phương pháp kính hiển vi
điện tử quét SEM là một phương pháp nghiên cứu đặc điểm hình dáng bề mặt vật
liệu, hình thái cấu trúc (cung cấp thông tin về sự kết tinh, kích thước hạt, cho phép
quan sát vi cấu trúc), thành phần cấu tạo. Ngoài ra ảnh SEM còn cung cấp thông tin
50
về thành phần pha, sự tương tác và phân bố giữa các pha.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Kính hiển vi điện tử quét (SEM – Scanning Electron Microscope) là một kỹ
thuật phân tích cho phép sự tạo ảnh bề mặt mẫu với độ phân giải cao. Ở đây, một
chum điện tử hẹp được quét đi quét lại bề mặt mẫu, bức xạ phát ra sau khi tương
tác với mẫu sẽ được thu lại và phân tích, từ đó tạo ảnh biểu trưng hình thái cấu trúc
của vật liệu. Kỹ thuật này được phát minh từ những năm 1940 của thế kỷ trước,
thiết bị SEM thương mại đầu tiên được sản xuất tại Cambridge (Anh) năm 1965.
Sau đó chúng được thay đổi cải tiến nhiều và trở thành một thiết bị thông dụng để
nghiên cứu vật liệu.
Việc phát điện tử trong thiết bị SEM sử dụng sung phóng điện tử phát xạ
nhiệt hoặc phát xạ trường, sau đó tăng tốc cho chum điện tử. Thế tăng tốc của SEM
thường đạt từ 10kV đến 50kV. Điện tử sau khi được tăng tốc sẽ hội tụ thành một chum hẹp (cỡ vài trăm A0 đến vài nm) nhờ hệ thống thấu kính từ, sau đó quét trên
bề mặt mẫu nhờ lực quét tĩnh điện. Độ phân giải của SEM được xác định từ kích
thước chùm điện tử hội tụ.
Khi tương tác với bề mặt mẫu chất rắn sẽ sinh ra một đám mây điện tử bật
ngược trở lại, các tín hiệu này cho phép tạo ảnh bề mặt mẫu và thực hiện một số các
phép phân tích như EDS, WDS, phổ Auger, phổ huỳnh quang catot.
Lấy mẫu: sau khi bẻ gãy hoặc nén mẫu thì lấy 03 mảnh vỡ kích thước dài
nhất <5mm. Nếu không có mãnh vỡ như vậy thì phải cắt từ viên lớn, chú ý không
tác động đến mặt gãy của mẫu. Bước này là nhằm lấy được viên mẫu có mặt gãy và
kích thước đủ nhỏ.
Ức chế sự hydrat hóa của mẫu: sau khi lấy được viên mẫu có kích thước phù
hợp thì ngâm trong acetone 2 giờ, lấy mẫu ra để trong không khí 1 giờ, ngâm trong
acetone mới trong 24 giờ, đổ acetone đi, ngâm trong acetone mới đến khi gửi chụp
mẫu. Bước này là nhằm ứng chế phản ứng hydrat hóa của mẫu từ tuổi nén mẫu.
Chụp ảnh SEM: chụp ảnh SEM ở các độ phóng đại khác nhau: 200X, 500X,
51
1000X, 2000X và 5000X.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 2.16: Thiết bị chụp SEM 2.4.8 Phƣơng pháp phân tích thành phần hạt bằng phƣơng pháp tán xạ laser:
Xác định thành phần hạt bằng phương pháp tán xạn lazer Là phương pháp
đang được sử dụng rộng rãi để phân tích thành phần cỡ hạt, bằng cách xác định sự
phân bố góc của cường độ ánh sáng bị tán xạ bởi bột mịn (được phân tán trong pha
lỏng) khi chiếu xạ bằng chùm tia laser [11].
Nguyên tắc của phương pháp là khi hạt được chiếu rọi bằng chùm tia chuẩn
trực có bước sóng đã biết, sẽ cho các vết tán xạ mà các vết này là hàm số của kích
cỡ, hình dạng và chỉ số khúc xạ tương đối của hạt. Khi hạt phân tán trong chất lỏng
được chiếu xạ bằng chùm tia laser, vết tán xạ được giả định là tổng từ các vết của
từng hạt. Ánh sáng được tán xạ từ các hạt của chùm tia laser được thu thập bởi thấu
kính Fourier qua bộ phận cảm biến đặt trên mặt phẳng tiêu cự của thấu kính, để xác
định sự phân bố góc của cường độ tán xạ. Sự phân bố cỡ hạt bị giảm từ phân bố góc
được đo của cường độ tán xạ, sao cho nó có thể phù hợp nhất với cái đã được dự
đoán, dựa trên lý thuyết về tán xạ Mie, lý thuyết về nhiễu xạ Fraunhofer hoặc lý
thuyết tương tự.
Thiết bị phân tích thành phần hạt bằng phương pháp tán xạ ánh sáng laser
được sử dụng để xác định thành phần cấp hạt theo các kích thước khác nhau. Thông
52
qua phương pháp này, độ mịn của mẫu được phân tách cụ thể thành các cấp hạt
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
khác nhau ứng với các tỷ lệ khác nhau, thông tin này sẽ giúp cho việc đánh giá và
giải thích được ảnh hưởng của độ mịn và thành phần cấp hạt lên các chỉ tiêu cơ lý
của mẫu xi măng.
Thành phần hạt của mẫu xi măng được đo bằng máy Horiba LA-950V2 của
Nhật Bản tại Viện nghiên cứu sành sứ thủy tinh công nghiệp.
53
Hình 2.17: Thiết bị phân tích thành phần hạt bằng phương pháp tán xạ laser
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ THÍ NGHIỆM VÀ THẢO LUẬN
3.1 Ảnh hƣởng của chất trợ nghiền đến độ mịn của xi măng:
Để khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền đến hiệu suất nghiền, đề tài đã
tiến hành nghiền các mẫu có sử dụng lượng và loại chất trợ nghiền khác nhau. Sau
thời gian nghiền 21,5 phút, độ mịn của các mẫu được tổng hợp như trong bảng 3.1
và hình 3.1.
Bảng 3.1: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến độ mịn của xi măng:
Mẫu Thời gian nghiền (phút) Tỷ diện Blaine (cm2/g)
21,5 3940 ĐC
21,5 4040 GM0.4
21,5 4070 GM0.8
21,5 4070 NH 0.4
21,5 4090 NH 0.6
Hình 3.1: Đồ thị khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền GM1189 và NH2307H đến độ mịn của xi măng
Nhận xét :
Từ bảng số liệu 3.1 và hình vẽ 3.1 cho thấy, với cùng một thời gian nghiền
như nhau (21,5 phút) thì có sự chênh lệch về tỷ diện bề mặt giữa mẫu không sử
54
dụng chất trợ nghiền với các mẫu sử dụng chất trợ nghiền với lượng và loại khác
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
nhau. Tỷ diện của mẫu đối chứng là 3940 cm2/g, khi sử dụng chất trợ nghiền với lượng 400g/tấn thì tỷ diện tăng lên 4040 cm2/g và 4070 cm2/g tương ứng với các
chất trợ nghiền GM1189 và NH2370H. Vấn đề này có thể được giải thích như sau:
Khi có mặt của chất trợ nghiền, do đây là các chất hoạt động bề mặt mạnh
nên chúng có khả năng hấp phụ rất tốt lên bề mặt các hạt vật liệu, ngăn cản sự hút
ẩm của vật liệu và làm cho năng lượng tự do bề mặt của các hạt giảm xuống trong
khi tổng diện tích bề mặt riêng không đổi do đó các hạt sẽ tơi, rời hơn, trượt lên
nhau dễ dàng hơn làm cho hệ trở thành linh động hơn, việc nghiền các hạt tiếp theo
dễ dàng hơn, từ đó nâng cao hiệu suất cho quá trình nghiền.
Trong quá trình nghiền, các hạt rắn luôn tồn tại các vết vi nứt không liên tục
và hạt chỉ bị nứt vỡ khi có một lực tác động đủ lớn. Các khoáng trong clinker xi
măng thường là các khoáng có mang điện tích dương, trong khi các chất trợ nghiền
lại mang điện tích âm. Vì vậy khi chất trợ nghiền hấp phụ vào bề mặt các hạt clink-
er thì chúng không chỉ bao bọc thành màng mỏng xung quanh hạt mà nó còn có khả
năng xâm nhập sâu vào trong các vết vi nứt của hạt vật liệu và hấp phụ lên thành
vách của các vết vi nứt đó. Khi đó, hai bề mặt của thành vách vết nứt cùng tích điện
âm sẽ đẩy nhau, hình thành ứng suất tại các khe nứt nên độ cứng của hạt vật liệu bị
giảm xuống do đó hạt dễ vỡ hơn, làm cho hiệu suất máy nghiền tăng lên.
Chất trợ nghiền sử dụng trong đề tài tác động theo tất cả các cơ chế: hỗ trợ
phá vỡ hạt ( hấp phụ bề mặt vết nứt, tạo áp lực xé) và chống vón tụ (tích điện cùng
dấu, tạo hiệu ứng không gian, giảm năng lượng bề mặt)
Bảng số liệu 3.1 còn cho thấy khi tăng hàm lượng chất trợ nghiền thì tỷ diện
bề mặt tiếp tục tăng lên. Với chất trợ nghiền GM1189, khi hàm lượng tăng từ 400g/tấn lên 800g/tấn thì tỷ diện tăng từ 4040 cm2/g lên 4070 cm2/g. Còn với chất
trợ nghiền NH2370H, khi hàm lượng tăng từ 400g/tấn lên 600g/tấn thì tỷ diện tăng từ 4070 cm2/g lên 4090 cm2/g. Đồng thời, chất trợ nghiền NH2370H cho thấy hiệu
55
quả cao hơn so với GM1189. Cụ thể, với cùng lượng chất trợ nghiền là 400g/tấn thì tỷ diện của mẫu sử dụng NH2370H là 4070 cm2/g (mẫu NH0.4), cao hơn so với mẫu sử dụng GM1189 (4040 cm2/g, mẫu GM0.4). Mẫu NH0.4 với lượng sử dụng
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
chỉ 400g/tấn nhưng có tỷ diện tương ứng với mẫu phải sử dụng đến 800g/tấn khi sử
dụng chất trợ nghiền GM1189. Các số liệu phân tích này cho thấy hiệu quả của
NH2370H cao hơn rõ rệt so với GM1189 trong vai trò làm tăng hiệu suất của quá
trình nghiền.
3.2 Ảnh hƣởng của chất trợ nghiền đến lƣợng nƣớc tiêu chuẩn:
Để khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền đến lượng nước tiêu chuẩn, các
mẫu với lượng và loại chất trợ nghiền khác nhau được nghiền mịn đến tỷ diện ≈ 4000 cm2/g. Lượng nước tiêu chuẩn của các mẫu được tổng hợp trong bảng 3.2.
Bảng 3.2: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến lượng nước tiêu chuẩn
Tên mẫu R 0.09mm (%) R 0.045mm (%) Lƣợng nƣớc tiêu
chuẩn (%)
2.08 17.88 27.2 ĐC
GM0.4 1.92 17.76 26.8
GM0.5 2.12 17.88 27.1 GM1189 GM0.6 1.92 17.00 27.1
GM0.8 2.12 18.08 27.0
NH0.4 1.80 17.04 26.9
NH0.5 1.84 16.72 27.0 NH2370H NH0.6 1.92 17.44 26.7
56
NH0.8 1.80 16.66 26.7
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 3.2: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến lượng nước tiêu chuẩn
Nhận xét:
Nếu lượng nước trộn quá lớn, không phản ứng hết, khi bay hơi sẽ tạo nhiều
lỗ xốp, giảm độ bền cơ của đá xi măng. Lượng nước quá ít, vữa không đủ độ linh
động thi công, cường độ xi măng cũng giảm. Xi măng nhiều khoáng C3A, C3S có
lượng nước tiêu chuẩn cao hơn xi măng nhiều khoáng C2S và C4AF. Độ mịn xi
măng cao cũng làm tăng lượng nước tiêu chuẩn.
Số liệu trong bảng 3.2 cho thấy khi có mặt chất trợ nghiền với tỷ lệ khác
nhau thì lượng nước tiêu chuẩn dao động trong khoảng khá hẹp, từ 26.7% đến
27.1%, xấp xỉ cận dưới so với với lượng nước tiêu chuẩn của mẫu không sử dụng
chất trợ nghiền (27.2%), đồng thời chúng đều đạt TCVN 6260:2009 và TCCS –
TAFICO – 05.
Kết quả trên cho thấy chất trợ nghiền không có ảnh hưởng nhiều đến lượng
nước tiêu chuẩn, chứng tỏ GM1189 và NH2307H là những chất trợ nghiền kỵ nước.
Thực tế nghiên cứu phân tích cũng cho thấy GM1189 và NH2307H là những chất
trợ nghiền được tổng hợp trên cơ sở của gốc Alkanolamine bậc 3 nên chúng làm
cho tính háo nước của hạt xi măng giảm đi. Điều này có thể được giải thích như
sau: khi hấp phụ phần ưa nước của phân tử phụ gia sẽ bám vào bề mặt hạt xi măng,
57
phần kỵ nước thường hướng ra ngoài. Do đó hạt xi măng sẽ được phần kỵ nước bao
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
bọc hướng ra ngoài, chính sự bao bọc của màng kỵ nước này và sự trung hòa làm
giảm quá trình hydrat hóa của lớp bề mặt hạt làm cho tính háo nước của hạt xi măng
yếu đi.
Đồng thời, khi có mặt của những chất trợ nghiền này trong vữa xi măng thì
độ linh động của vữa cũng được tăng lên một chút nên lượng nước tiêu chuẩn giảm
xuống từ 0.1% đến 0.5% so với mẫu đối chứng. Chính vì vậy lượng nước thất thoát
do quá trình tạo mẫu là rất ít, hầu như toàn bộ lượng nước cho vào đều có khả năng
hydrat hóa xi măng nên không cần cho lượng nước nhiều như không có chất trợ
nghiền.
Việc sử dụng chất trợ nghiền GM1189 hoặc NH2370H không làm tăng nhu
cầu nước của xi măng so với mẫu đối chứng cho thấy đây là các chất trợ nghiền phù
hợp khi xét theo khía cạnh lượng nước tiêu chuẩn.
3.3 Ảnh hƣởng của chất trợ nghiền đến thời gian ninh kết:
Thời gian ninh kết được đặc trưng bởi thời gian bắt đầu ninh kết và thời gian
kết thúc ninh kết. Thời gian ninh kết có ý nghĩa rất quan trọng trong xây dựng. Nếu
thời gian ninh kết nhanh thì phải chuẩn bị vữa nhanh, thời gian ninh kết chậm thì
việc thi công gặp trở ngại. Nếu vữa xi măng ninh kết quá nhanh thì việc chuẩn bị
vữa hay bê tông để tạo hình nhanh mà vẫn không kịp, chính vì vậy dễ sinh ra phế
liệu, do đó yêu cầu thời gian ninh kết của vữa phải phù hợp để đảm bảo thời gian thi
công của công trình xây dựng.
Tương tự như việc khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền đến lượng nước
tiêu chuẩn, việc khảo sát thời gian ninh kết cũng được thực hiện trên các mẫu với lượng và loại chất trợ nghiền khác nhau được nghiền mịn đến tỷ diện ≈ 4000 cm2/g.
58
Thời gian ninh kết của các mẫu được tổng hợp trong bảng 3.3 và các đồ thị 3.5, 3.6.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Bảng 3.3: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến thời gian ninh kết
Tên mẫu
Thời gian bắt đầu ninh kết (phút) R 0.09mm (%) R 0.045mm (%)
Thời gian kết thúc ninh kết (phút) Khoảng thời gian ninh kết (phút)
2.08 17.88 120 170 50 ĐC
GM0.4 1.92 17.76 115 155 40
GM1189
GM0.5 GM0.6 GM0.8 2.12 1.92 2.12 120 120 105 17.88 17.00 18.08 165 165 155 45 45 50
NH0.4 1.80 17.04 120 170 50
NH2370H 110 120
135 16.72 17.44 16.66 160 160 175 NH0.5 NH0.6 NH0.8 1.84 1.92 1.80 50 40 40
59
Hình 3.3: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến thời gian ninh kết
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 3.4: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến khoảng thời gian ninh kết
Nhận xét:
Thời gian ninh kết là thời gian hồ mất dần tính linh động, chuyển từ trạng
thái bán lỏng sang trạng thái đông đặc. Việc biết trước thời gian ninh kết rất thiết
thực cho người sử dụng vì dựa vào đây có thể ấn định khối lượng trộn vữa, bê tông
cho phù hợp với thời gian thi công.
Thời gian bắt đầu ninh kết không sớm hơn 45 phút, thời gian kết thúc ninh
kết không chậm hơn 420 phút.
Số liệu trong bảng 3.3 cho thấy khi có mặt chất trợ nghiền với tỷ lệ khác
nhau thì thời gian bắt đầu ninh kết dao động trong khoảng 105 – 115 phút
(GM1189), 110 – 135 phút (NH2307H), đồng thời chúng đều đạt TCVN
6260:2009. Đối với TCCS – TAFICO – 05 thì mẫu GM0.4, GM0.8 và NH0.5
không đạt yêu cầu kỹ thuật.
Số liệu trong bảng 3.3 cho thấy khi có mặt chất trợ nghiền với tỷ lệ khác
nhau thì thời gian kết thúc ninh kết giảm so với mẫu đối chứng. Lượng nước tiêu
chuẩn của xi măng có chất trợ nghiền giảm so với mẫu đối chứng cũng dẫn đến
giảm thời gian ninh kết. Do mẫu thí nghiệm được sử dụng cùng một nguồn nguyên
60
liệu, nên tạm thời ta bỏ qua yếu tố của thành phần khoáng. Do các mẫu thí nghiệm
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
được đúc và dưỡng ẩm trong cùng một điều kiện, nên đề tài tạm thời bỏ qua yếu tố
môi trường. Ở đây ta sẽ xem xét yếu tố hàm lượng và chủng loại chất trợ nghiền
cho vào. Qua bảng số liệu 3.3 cho thấy sự có mặt của chất trợ nghiền GM1189,
NH2307H làm cho các quá trình hydrat có khả năng xảy ra tốt hơn.
Việc sử dụng chất trợ nghiền GM1189 hoặc NH2370H không làm tăng thời
gian ninh kết của xi măng so với mẫu đối chứng cho thấy đây là các chất trợ nghiền
phù hợp khi xét theo khía cạnh thời gian ninh kết.
Các số liệu phân tích bảng 3.3 cho thấy hiệu quả của NH2370H cao hơn rõ
rệt so với GM1189 trong ảnh hưởng đến thời gian ninh kết.
3.4 Ảnh hƣởng của chất trợ nghiền đến độ ổn định thể tích:
Một trong những tính chất cơ lý quan trọng của xi măng là độ ổn định thể
tích. Xi măng sau khi đóng rắn yêu cầu biến đổi thể tích một cách đều đặn hoặc
không biến đổi thể tích. Nếu xi măng biến đổi thể tích không đều đặn hoặc biến đổi
quá lớn ảnh hưởng đến cường độ xi măng. Sự biến đổi thể tích quá lớn (>0.2% kích
thước đầu) hoặc không đều dẫn tới nứt vỡ cấu kiện. Sự biến đổi thể tích do cấu trúc
gel của đá xi măng, do quá trình kết tinh các khoáng trong đá xi măng, hoặc do
những phản ứng hóa học xảy ra sau khi xi măng đóng rắn tỏa nhiệt và tạo sản phẩm
có thể tích riêng lớn hơn những chất ban đầu gây dãn nở thể tích.
Kết quả khảo sát độ ổn định của các mẫu xi măng với lượng và loại chất trợ nghiền khác nhau, nghiền mịn đến tỷ diện ≈ 4000 cm2/g được tổng hợp trong bảng
3.4 và đồ thị trong hình 3.5.
Bảng 3.4: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến độ ổn định thể tích
Tên mẫu R 0.09mm (%) R 0.045mm (%) Độ ổn định thể tích
(mm)
2.08 17.88 0.8 ĐC
GM0.4 1.92 17.76 1.0
GM0.5 2.12 17.88 1.0 GM1189
61
GM0.6 1.92 17.00 0.5
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
GM0.8 2.12 18.08 1.0
NH0.4 1.80 17.04 1.0
NH0.5 1.84 16.72 0.5 NH2370H NH0.6 1.92 17.44 0.8
NH0.8 1.80 16.66 0.8
Hình 3.5: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến độ ổn định thể tích
Nhận xét:
Qua bảng số liệu 3.4 cho thấy độ ổn định thể tích chỉ dao động từ 0 -1 mm
cho thấy khi sử dụng chất trợ nghiền thì độ ổn định thể tích vẫn tương đối cao.
Qua bảng số liệu 3.4 cũng một lần nữa cho thấy lượng nước tiêu chuẩn
không bị dư thừa.
Việc sử dụng chất trợ nghiền GM1189 hoặc NH2370H vẫn đảm bảo độ ổn
định thể tích khá cao của xi măng so với mẫu đối chứng cho thấy đây là các chất trợ
nghiền phù hợp khi xét theo khía cạnh độ ổn định thể tích.
Các số liệu phân tích bảng 3.4 cho thấy hiệu quả của NH2370H cao hơn rõ
62
rệt so với GM1189 trong ảnh hưởng đến độ ổn định thể tích.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
3.5 Ảnh hƣởng của chất trợ nghiền đến cƣờng độ nén:
Chất trợ nghiền, mục đích chính khi đưa chất trợ nghiền vào xi măng là nâng
cao hiệu suất máy nghiền, ngoài ra không làm suy giảm một số tính chất của xi
măng như cường độ. Sự thay đổi cường độ của xi măng khi có mặt phụ gia trợ
nghiền có thể do tác động vật lý (tăng độ mịn và cải thiện thành phần hạt) hoặc do
cả tác động hóa học (tăng tốc hoặc kìm hãm quá trình hydrat hóa và đóng rắn của xi
măng, phụ gia trợ nghiền tác dụng với các khoáng clinker tạo sản phẩm hydrat hóa
mới…).
Cường độ của xi măng là khả năng chịu nén của mẫu vữa xi măng. Cường độ
khi nén của xi măng càng cao thì cường độ nén của bê tông càng cao. Giá trị cường
độ nén của xi măng được dùng làm cơ sở để xác định mác xi măng, từ đó tính toán
và thiết kế cấp phối vữa, bê tông hợp lý theo yêu cầu. Cường độ của xi măng là chỉ
tiêu quan trọng nhất mà người ta muốn biết khi sản xuất một loại xi măng nào đó để
cung cấp cho thị trường các chủng loại xi măng thương phẩm khác nhau.
Cường độ chịu nén của các mẫu xi măng với lượng và loại chất trợ nghiền khác nhau, nghiền mịn đến tỷ diện ≈ 4000 cm2/g được tổng hợp trong bảng 3.5 và
đồ thị trong hình 3.6, 3.7, 3.8 và 3.9.
Bảng 3.5: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến cường độ nén
Cƣờng độ nén (MPa) Tên mẫu
R7 30.6 R28 37.9 R3 24.4 R1 12.3 ĐC
GM0.4 29.6 38.3 22.9 11.4
GM1189
GM0.5 GM0.6 GM0.8 29.8 31.2 30.9 39.2 38.9 41.1 24.0 25.4 24.8 11.5 12.4 11.8
NH0.4 32.4 41.4 25.6 12.4
NH2370H
63
NH0.5 NH0.6 NH0.8 33.3 34.7 33.1 41.5 43.1 42.2 27.2 26.5 25.6 13.3 12.7 11.4
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 3.6: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến cường độ nén 1 ngày
Hình 3.7: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến cường độ nén 3 ngày
64
Hình 3.8: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến cường độ nén 7 ngày
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 3.9: Ảnh hưởng của GM1189 và NH2307H đến cường độ nén 28 ngày
Từ các số liệu thí nghiệm thu được như trong bảng 3.5, để thấy rõ hơn ảnh hưởng của các chất trợ nghiền đến cường độ nén, đề tài đã tính toán tỷ lệ chênh lệch cường độ của các ngày tuổi ứng với các mẫu sử dụng chất trợ nghiền với lượng và loại khác nhau, số liệu được tổng hợp trong bảng 3.6.
Bảng 3.6: Sự tăng giảm cường độ của mẫu thí nghiệm so với mẫu đối chứng
Sự tăng giảm cƣờng độ nén so với mẫu ĐC (%) Tên mẫu R1 R3 R7 R28
GM0.4 -7.32 -6.15 -3.27 1.06
GM0.5 -6.50 -1.64 -2.61 3.43 GM1189 GM0.6 0.81 4.09 1.96 2.64
GM0.8 -4.07 1.64 0.98 8.44
NH0.4 0.81 4.92 5.88 9.23
NH0.5 8.13 11.48 8.82 9.49 NH2370H NH0.6 3.25 8.61 13.39 13.72
65
NH0.8 -7.32 4.92 8.17 11.35
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Nhận xét:
* Đối với nhóm mẫu sử dụng chất trợ nghiền GM1189, kết quả khảo sát
cường độ nén trong bảng 3.5, 3.6 và trong các hình 3.6, 3.7, 3.8 và 3.9 cho thấy:
- Chất trợ nghiền GM1189 không có tác động tích cực đến sự phát triển
cường độ tuổi sớm ở các thời điểm 1 ngày, 3 ngày và 7 ngày. So sánh với mẫu đối
chứng thì khi sử dụng GM1189 với lượng nhỏ dưới 500g/tấn xi măng đều làm chậm
quá trình phát triển cường độ sớm. Ở 1 ngày tuổi, cường độ của mẫu đối chứng là
R1ĐC = 12.3 MPa, trong khi cường độ của mẫu GM0.4 chỉ đạt 11.4 MPa, thấp hơn
7.32% so với mẫu ĐC (mẫu GM0.5 thấp hơn 6.50% so với mẫu ĐC). Ở các độ tuổi
3 ngày và 7 ngày thì sự chênh lệch cường độ giữa mẫu GM0.4 và mẫu ĐC được thu
hẹp dần, tương ứng là 6.15% và 3.27%. Khi lượng chất trợ nghiền GM1189 tăng lên
như trong mẫu GM0.6 và GM0.8 thì cường độ tuổi sớm của chúng cao hơn một
chút so với mẫu ĐC, tuy nhiên sự khác biệt giữa chúng là không rõ rệt, chỉ đạt
khoảng 1-2%.
- Ở cường độ tuổi muộn, chất trợ nghiền GM1189 cho thấy vai trò rõ rệt
trong việc nâng cao cường độ cho xi măng. Khi tăng lượng chất trợ nghiền GM1189
thì cường độ của vữa xi măng đã tăng lên đáng kể. Sau 28 ngày tuổi, cường độ của
mẫu ĐC chỉ đạt 37.9 MPa. Khi sử dụng với hàm lượng 500g/tấn xi măng (mẫu
GM0.5) thì cường độ đã tăng lên 39.2 MPa, cao hơn 3,43% so với mẫu ĐC, còn khi
sử dụng với hàm lượng 800g/tấn xi măng (mẫu GM0.8) thì cường độ đã tăng lên
41.1 MPa, cao hơn 8.44% so với mẫu ĐC.
- Như vậy, khi sử dụng chất trợ nghiền GM1189 thì với 1 lượng nhỏ dưới
500g/tấn xi măng thì tốc độ phát triển cường độ ở tuổi sớm là chậm hơn so với mẫu
không sử dụng chất trợ nghiền. Tuy nhiên, khi sử dụng với lượng đủ lớn (600-
800g/tấn xi măng) thì đã khắc phục được sự chậm phát triển cường độ của vữa xi
măng. Còn ở cường độ tuổi muộn thì rõ ràng sự có mặt của chất trợ nghiền
GM1189 với lượng lớn nhỏ khác nhau đều làm tăng cường độ cho vữa xi măng.
* Đối với nhóm mẫu sử dụng chất trợ nghiền NH2307H, kết quả khảo sát
66
cường độ nén trong bảng 3.5, 3.6 và trong các hình 3.6, 3.7, 3.8 và 3.9 cho thấy:
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
- Chất trợ nghiền NH2307H không có tác động tích cực đến sự phát triển
cường độ tuổi sớm ở các thời điểm 1 ngày, 3 ngày và 7 ngày. So sánh với mẫu đối
chứng thì khi sử dụng NH2307H với lượng nhỏ dưới 500g/tấn xi măng chỉ làm tăng
rất ít quá trình phát triển cường độ sớm. Ở 1 ngày tuổi, cường độ của mẫu đối
chứng là R1ĐC = 12.3 MPa, trong khi cường độ của mẫu NH0.4 chỉ đạt 12.4 MPa,
chỉ cao hơn 0.81% so với mẫu ĐC. Ở các độ tuổi 3 ngày và 7 ngày thì sự chênh lệch
cường độ giữa mẫu NH0.4 và mẫu ĐC được thể hiện rõ dần, tương ứng là 4.92% và
5.88%. Khi lượng chất trợ nghiền NH2307H tăng lên như trong các mẫu NH0.5 và
NH0.6 thì cường độ tuổi sớm của chúng cao hơn so với mẫu ĐC, tuy nhiên sự khác
biệt giữa chúng lại tỷ lệ nghịch với liều lượng chất trợ nghiền NH2307H sử dụng ,
tương ứng 8.13% và 3.25%. Tuy nhiên khi tiếp tục tăng lượng chất trợ nghiền
NH2307H lên 800g/tấn xi măng thì làm giảm quá trình phát triển cường độ 1 ngày (
giảm 7.32% so với mẫu đối chứng).
- Ở cường độ tuổi muộn, chất trợ nghiền NH2307H cho thấy vai trò rõ rệt
trong việc nâng cao cường độ cho xi măng. Khi tăng lượng chất trợ nghiền
NH2307H thì cường độ của vữa xi măng đã tăng lên đáng kể. Sau 28 ngày tuổi,
cường độ của mẫu ĐC chỉ đạt 37.9 MPa. Khi sử dụng với hàm lượng 500g/tấn xi
măng (mẫu NH0.5) thì cường độ đã tăng lên 41.4 MPa, cao hơn 9.23% so với mẫu
ĐC, còn khi sử dụng với hàm lượng 600g/tấn xi măng (mẫu NH0.6) thì cường độ đã
tăng lên 43.1 MPa, cao hơn 13.72% so với mẫu ĐC. Tuy nhiên nếu tiếp tục tăng
hàm lượng lên 800g/tấn xi măng (mẫu NH0.8) thì cường độ tăng lên 42.2 MPa, cao
hơn 11.35% so với mẫu ĐC, nhưng thấp hơn so với hàm lượng 600g/tấn xi măng.
- Như vậy, khi sử dụng chất trợ nghiền NH2307H thì với 1 lượng nhỏ dưới
500g/tấn xi măng thì tốc độ phát triển cường độ ở tuổi sớm là không rõ rệt hơn so
với mẫu không sử dụng chất trợ nghiền. Tuy nhiên, khi sử dụng với lượng đủ lớn
(500-600g/tấn xi măng) thì đã khắc phục được sự chậm phát triển cường độ của vữa
xi măng. Còn ở cường độ tuổi muộn thì rõ ràng sự có mặt của chất trợ nghiền
67
NH2307H với lượng lớn nhỏ khác nhau đều làm tăng cường độ cho vữa xi măng.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Qua những nhận xét về kết quả đạt được khi sử dụng chất trợ nghiền trong
quá trình nghiền xi măng có thể thấy rằng, nguyên nhân chủ yếu của việc tăng
cường độ khi tăng hàm lượng chất trợ nghiền có thể là do trong thành phần của chất
trợ nghiền có chứa một số chất có khả năng hòa tan C4AF – một loại khoáng khó
hòa tan ở môi trường kiềm. Vì vậy, khi hòa tan được khoáng này thì ngoài khả năng
làm tăng mức độ hydrat hóa của chính khoáng C4AF ra, chúng còn có thể làm tăng
khả năng hydrat hóa của các khoáng khác do chúng phá vỡ được lớp màng bao phủ
bên ngoài mà C4AF đã tạo nên trong quá trình phản ứng. Vì thế, cường độ của mẫu
đã được cải thiện rõ rệt.
* So sánh hiệu quả tác động giữa 2 chất trợ nghiền GM1189 và NH2370H
cho thấy: chất trợ nghiền NH2370H cho thấy hiệu quả về cường độ cao hơn so với
GM1189. Cụ thể, với cùng lượng chất trợ nghiền là 400g/tấn thì cường độ của mẫu
sử dụng NH2370H là 12.4 MPa (mẫu NH0.4), cao hơn so với mẫu sử dụng
GM1189 (11.4 MPa, mẫu GM0.4). Mẫu NH0.4 với lượng sử dụng chỉ 400g/tấn
nhưng có cường độ tương ứng với mẫu phải sử dụng đến 600g/tấn khi sử dụng chất
trợ nghiền GM1189. Các số liệu phân tích (bảng 3.5 và bảng 3.6) này cho thấy hiệu
quả của NH2370H cao hơn rõ rệt so với GM1189 trong vai trò làm tăng cường độ.
* Để làm sáng tỏ sự ảnh hưởng của chất trợ nghiền đến cường độ của vữa xi
măng, đề tài đã tiến hành lựa chọn một số mẫu tiêu biểu để khảo sát cấu trúc, tính
chất thông qua việc chụp ảnh hiển vi điện tử quét SEM và phân tích thành phần hạt
bằng phương pháp Lasez.
Hình 3.10 là ảnh chụp bề mặt của mẫu không sử dụng chất trợ nghiền và các
mẫu sử dụng lượng, loại chất trợ nghiền khác nhau sau thời gian đóng mẫu đủ 28
ngày. Qua quan sát bề mặt các mẫu có thể nhận thấy hàm lượng lỗ xốp trạng thái
phát triển tinh thể của các mẫu có sự khác biệt khá rõ rệt. Mẫu ĐC có độ xốp khá
lớn khi so sánh với mẫu GM0.4 và NH0.4, mẫu NH0.4 cũng cho thấy mật độ tinh
68
thể dày đặc hơn so với mẫu GM0.4.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 3.10: Hình SEM của mẫu ĐC, GM0.4 và NH0.4
(a) ĐC (b) GM0.4 (c) NH0.4
So sánh cấu trúc giữa mẫu NH0.4 và NH0.6 (hình 3.11 a,b) cũng có thể
nhận thấy rằng, mẫu có cường độ cơ học cao hơn (mẫu NH0.6) có cấu trúc sít đặc
hơn so với mẫu NH0.4.
69
Hình 3.11: Ảnh SEM của mẫu NH0.4 (a) và NH0.6 (b)
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Nói về tính chất của xi măng như: hoạt tính, tốc độ đóng rắn không những
được quyết định bởi thành phần khoáng của clinker, hình dạng và kích thước các
tinh thể alit, belit mà còn phụ thuộc vào độ mịn của xi măng [4].
Độ mịn của xi măng được đánh giá thông qua chỉ tiêu: Lượng sót trên sàng, tỷ
diện và thành phần hạt.
Các tác giả thuộc Viện nghiên cứu khoa học xi măng Liên Xô [4] đã nghiên
cứu ảnh hưởng của thành phần hạt xi măng đến một số tính chất của xi măng cho
thấy dải cỡ hạt xi măng tối ưu về cường độ khi xi măng có thành phần hạt (theo %
khối lượng) như sau:
+ Các hạt < 5 µm chiếm < 20%
+ Các hạt 5 – 20 µm chiếm 40 – 45%
+ Các hạt 20 – 40 µm chiếm 20 – 25%
+ Các hạt > 40 µm chiếm 15 – 5%
Trong đó, kết quả thí nghiệm cho rằng:
+ Dải cỡ hạt 0 – 5 µm cao có tác dụng làm tăng cường độ tuổi 1 ngày.
+ Dải cỡ hạt 5 – 10 µm cao có tác dụng làm tăng cường độ tuổi 3 và 7 ngày.
+ Còn dải cỡ hạt 10 – 20 µm lại có tác dụng quyết định cường độ tuổi một
tháng và muộn hơn của vữa xi măng.
Cùng với kết quả của ảnh SEM, kết quả khảo sát thành phần hạt của các mẫu
như trong các hình 3.12, 3.13, 3.14, 3.15 và 3.16 dưới đây cũng cho thấy sự tương
70
thích giữa thành phần hạt so với cường độ cơ học của mẫu thí nghiệm.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 3.12: Phân bố thành phần hạt mẫu ĐC
71
Hình 3.13: Phân bố thành phần hạt của mẫu GM0.4
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 3.14: Phân bố thành phần hạt của mẫu GM0.8
72
Hình 3.15: Phân bố thành phần hạt của mẫu NH0.4
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 3.16: Phân bố thành phần hạt của mẫu NH0.6 Số liệu phân tích thành phần hạt và cường độ chịu nén của các mẫu tương
ứng được trình bày trong bảng 3.7
Bảng 3.7: Bảng thống kê kết quả đo độ phân bố thành phần hạt xi măng
Cƣờng độ Độ phân bố cỡ hạt (%)
Mã hóa R1 R3 R7 R28 < 4.472 μm 4.472 ÷ 10.097 μm 10.097 ÷ 19.904 μm
12.3 24.4 30.6 37.9 7.757 16.055 21.440 ĐC
11.4 22.9 29.6 38.3 8.413 15.552 21.868 GM 0.4
11.8 24.8 30.9 41.1 7.337 16.774 24.254 GM 0.8
12.4 25.6 32.4 41.4 7.882 16.815 23.401 NH 0.4
73
12.7 26.5 34.7 43.1 7.727 17.982 26.294 NH 0.6
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
- Số liệu trong bảng tổng hợp 3.7 và hình 3.17 cho thấy: hàm lượng cỡ hạt
dưới 5 µm của các mẫu là tương đối đồng đều nhau nên cường độ tuổi sớm 1 ngày
của các mẫu cũng không có sự chênh lệch lớn, qua đó cho thấy cả chất trợ nghiền
GM1189 và NH2370H đều không có tác dụng phát triển cường độ sớm cho vữa xi
măng.
Hình 3.17: Đồ thị ảnh hưởng của chất trợ nghiền GM1189 và NH2307H đến độ phân bố cỡ hạt R< 4.472 μm
74
Hình 3.18: Đồ thị ảnh hưởng của chất trợ nghiền GM1189 và NH2307H đến độ phân bố cỡ hạt 4.472 μm < R < 10.097 μm
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
- Số liệu trong bảng tổng hợp 3.7 và hình 3.18 trên cho thấy: hàm lượng cỡ
hạt từ 5 – 10 µm của các mẫu bắt đầu cho thấy sự khác biệt, trong đó điển hình là
mẫu NH0.6, mẫu này có tỷ lệ % cỡ hạt từ 5 – 10 µm là 17.982%, cao nhất trong số
các mẫu nghiên cứu, chính vì vậy việc mẫu NH0.6 cho cường độ 3 ngày và 7 ngày
(lần lượt là 26.5 MPa, 34.7 MPa) cao hơn các mẫu khác là hoàn toàn hợp lý theo
như nghiên cứu của Viện nghiên cứu khoa học xi măng Liên Xô. Tương tự như vậy,
mẫu GM0.4 có tỷ lệ % cỡ hạt từ 5 – 10 µm là 15.552%, thấp nhất trong số các mẫu
nghiên cứu, tương ứng với đó là cường độ 3 ngày và 7 ngày của mẫu này cũng có
giá trị thấp nhất nhất (lần lượt là 22.9 MPa và 29.6 MPa).
- Số liệu trong bảng tổng hợp 3.7 và hình 3.19 cho thấy: ở dải cỡ hạt 10 – 20 µm, dải có ảnh hưởng lớn đến cường độ tuổi một tháng và muộn hơn theo nghiên cứu của tác giả thuộc Viện nghiên cứu khoa học xi măng Liên Xô, kết quả phân tích cho thấy mẫu NH0.6 có tỷ lệ % cỡ hạt từ 10 – 20 µm là 26.294%, cao nhất trong các mẫu nên cường độ 28 ngày cũng thu được giá trị cao nhất (43.1 MPa). Ngược lại,mẫu GM 0.4 có cường độ 28 ngày thấp nhất (38.3 MPa) cũng hoàn toàn logic với tỷ lệ % cỡ hạt từ 10 – 20 µm thấp nhất trong số các mẫu (21.868%).
Hình 3.19: Ảnh hưởng của chất trợ nghiền GM1189 và NH2307H đến độ phân bố
75
cỡ hạt 10.097 μm < R < 19.904 μm
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
3.6 Nghiên cứu tiết giảm lƣợng clinker trong phối liệu
Kết quả nghiên cứu trong các phần trên đã cho thấy NH2307H là một chất
trợ nghiền có hiệu quả và tác dụng rõ rệt đến hiệu suất nghiền và cường độ cơ học
của xi măng. Vì vậy trong nghiên cứu này, đề tài tiến hành sử dụng chất trợ nghiền
NH2307H với hàm lượng tối ưu 600g/tấn cho phối liệu nghiền xi măng với lượng
clinke được tiết giảm 2%, thay thế vào đó là đá vôi, ký hiệu mẫu là NH0.6(2). Các
kết quả khảo sát được trình bày cụ thể như các mục dưới đây.
* Về hiệu suất nghiền:
Kết quả khảo sát hiệu suất nghiền của mẫu NH0.6(2) cùng với các mẫu ĐC
và NH0.6 dùng để so sánh được tổng hợp như trong bảng 3.8 và hình 3.20.
Bảng 3.8: Ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến hiệu suất nghiền:
Thời gian nghiền (phút) Tỷ diện Blaine (cm2/g) Mẫu
21,5 3940 ĐC
21,5 4090 NH0.6
21,0 4171 NH0.6 (2)
76
Hình 3.20: Đồ thị khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến hiệu suất nghiền
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Nhận xét:
Bảng số liệu 3.8 và hình 3.20 cho thấy khi giảm clinker xuống 2%, tăng đá
vôi 2% thì tỷ diện bề mặt tiếp tục tăng lên trong khi thời gian nghiền giảm 30 giây. Tỷ diện của mẫu đối chứng là 3940 cm2/g, khi sử dụng chất trợ nghiền với lượng 600g/tấn thì tỷ diện tăng lên 4090 cm2/g tương ứng với chất trợ nghiền NH2370H trong cùng thời gian nghiền. Với liều lượng 600g/tấn, thì tỷ diện tăng từ 4090 cm2/g lên 4171 cm2/g khi tăng 2% đá vôi, giảm 2% clinker. Các số liệu phân tích này một
lần nữa cho thấy hiệu quả của NH2370H trong vai trò làm tăng hiệu suất của quá
trình nghiền. Ngoài ra, khi thay 2% clinker bằng đá vôi thì lượng nguyên liệu khó
nghiền (clinker) giảm đi, lượng nguyên liệu dễ nghiền ( đá vôi) được tăng lên trong
phối liệu. Vì vậy phối liệu sẽ dễ nghiền hơn, nên hiệu suất nghiền được tăng lên.
*Lƣợng nƣớc tiêu chuẩn:
Để khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong việc nghiên cứu
tiết giảm clinker đến lượng nước tiêu chuẩn, đề tài đã tiến hành nghiền mẫu có sử
dụng chất trợ nghiền NH2307H (lượng 600 g/tấn). Mẫu được nghiền mịn đến tỷ diện ≈ 4000 cm2/g. Lượng nước tiêu chuẩn của các mẫu được tổng hợp trong bảng
3.9 và hình 3.21.
Bảng 3.9: Ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến lượng nước tiêu chuẩn nghiền:
Tên mẫu Lƣợng nƣớc tiêu chuẩn (%)
27.2 ĐC
NH0.6 26.7 NH2370H
77
NH0.6(2) 26.6
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 3.21: Đồ thị khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH 2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến lượng nước tiêu chuẩn
Nhận xét:
Số liệu trong bảng 3.9 và hình 3.21 cho thấy nghiên cứu tiết giảm clinker thì
lượng nước tiêu chuẩn dao động trong khoảng khá hẹp, từ 26.6% đến 26.7%, xấp xỉ
cận dưới so với với lượng nước tiêu chuẩn của mẫu không sử dụng chất trợ nghiền
(27.2%), đồng thời chúng đều đạt TCVN và TCCS – TAFICO – 05.
Kết quả góp phần chứng minh chất trợ nghiền NH2307H không có ảnh
hưởng nhiều đến lượng nước tiêu chuẩn, Kết quả thí nghiệm này thêm phần khẳng
định việc sử dụng chất trợ nghiền NH2370H không làm tăng nhu cầu nước của xi
măng cho thấy đây là các chất trợ nghiền phù hợp khi xét theo khía cạnh lượng
nước tiêu chuẩn.
Đồng thời việc tăng 2% đá vôi, giảm 2% clinker cũng không có ảnh hưởng
nhiều đến lượng nước tiêu chuẩn.
* Thời gian ninh kết:
Tương tự như việc khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong
thí nghiệm giảm clinker, tăng hàm lượng đá vôi đến lượng nước tiêu chuẩn, việc
78
khảo sát thời gian ninh kết cũng được thực hiện trên các mẫu có sử dụng chất trợ nghiền NH2307H (lượng 600 g/tấn) được nghiền mịn đến tỷ diện ≈ 4000 cm2/g.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Thời gian ninh kết của các mẫu được tổng hợp trong bảng 3.10 và các hình 3.22 và
3.23.
Bảng 3.10: Ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến thời gian ninh kết
Tên mẫu Thời gian bắt Thời gian kết Khoảng thời
đầu ninh kết thúc ninh kết gian ninh kết
(phút) (phút) (phút)
120 170 50 ĐC
120 160 40 NH2370H NH0.6
NH0.6(2) 110 160 50
79
Hình 3.22: Đồ thị khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến thời gian bắt đầu ninh kết và kết thúc ninh kết.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Hình 3.23: Đồ thị khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến khoảng thời gian ninh kết
Nhận xét:
Số liệu trong bảng 3.10 cho thấy việc tăng 2% clinker, giảm 2% đá vôi khi
có mặt chất trợ nghiền NH2307H với tỷ lệ 600 g/tấn thì thời gian bắt đầu ninh kết
dao động trong khoảng 110 – 120 phút , đồng thời chúng đều đạt TCVN và TCCS –
TAFICO – 05. Thời gian bắt đầu ninh kết hầu như bằng nhau.
Số liệu trong bảng 3.10 cho thấy khi nghiên cứu tiết giảm clinker thì thời
gian kết thúc ninh kết giảm so với mẫu đối chứng.
Việc sử dụng chất trợ nghiền NH2370H trong nghiên cứu tiết giảm clinker,
không làm tăng thời gian ninh kết của xi măng so với mẫu đối chứng khẳng định
đây là các chất trợ nghiền phù hợp khi xét theo khía cạnh thời gian ninh kết.
Bảng 3.10 đồng thời cho thấy việc tăng 2% đá vôi, giảm 2% clinker cũng
vẫn phù hợp khi xét theo góc độ thời gian ninh kết.
* Độ ổn định thể tích:
Kết quả khảo sát độ ổn định của các mẫu xi măng với việc sử dụng chất trợ nghiền NH2307H (lượng 600 g/tấn), nghiền mịn đến tỷ diện ≈ 4000 cm2/g được
80
tổng hợp trong bảng 3.11 và đồ thị trong hình 3.24.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Bảng 3.11: Ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến độ ổn định thể tích
Tên mẫu Độ ổn định thể tích (mm)
0.8 ĐC
NH0.6 0.8 NH2370H
NH0.6 (2) 0.5
Hình 3.24: Đồ thị khảo sát ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến độ ổn định thể tích
Nhận xét:
Qua bảng số liệu 3.11 cho thấy độ ổn định thể tích chỉ dao động từ 0.5 – 0.8
mm cho thấy khi sử dụng chất trợ nghiền thì độ ổn định thể tích vẫn tương đối cao.
Việc sử dụng chất trợ nghiền NH2370H trong nghiên cứu tiết giảm clinker vẫn đảm
bảo độ ổn định thể tích khá cao của xi măng so với mẫu đối chứng một lần nữa cho
thấy đây là chất trợ nghiền phù hợp khi xét theo khía cạnh độ ổn định thể tích.
* Cƣờng độ nén:
Cường độ chịu nén của các mẫu xi măng với việc sử dụng chất trợ nghiền NH2307H (lượng 600 g/tấn), nghiền mịn đến tỷ diện ≈ 4000 cm2/g được tổng hợp
81
trong bảng 3.12, 3.13 và đồ thị trong hình 3.25.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Bảng 3.12: Ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến cường độ nén
Tên mẫu Cƣờng độ nén (MPa)
R1 R3 R7 R28
12.3 24.4 30.6 37.9 ĐC
NH0.6 12.7 26.5 34.7 43.1 NH2307H
NH0.6 (2) 11.8 24.9 32.4 41.9
Từ các số liệu thí nghiệm thu được như trong bảng 3.12, để thấy rõ hơn ảnh hưởng của chất trợ nghiền NH2307H đến cường độ nén, đề tài đã tính toán tỷ lệ chênh lệch cường độ của các ngày tuổi ứng với các mẫu NH0.6 và NH0.6(2), số liệu được tổng hợp trong bảng 3.13.
Bảng 3.13: Sự tăng giảm cường độ của mẫu thí nghiệm trong nghiên cứu tiết giảm clinker
Tên mẫu Sự tăng giảm cƣờng độ nén so với mẫu ĐC (%)
R1 R3 R7 R28
NH0.6 3.25 8.61 13.39 13.72 NH2307H
NH0.6 (2) -4.47 2.05 5.88 10.55
82
Hình 3.25: Đồ thị khảo sát ảnh hưởng chất trợ nghiền NH2307H trong nghiên cứu tiết giảm clinker đến cường độ nén
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
Nhận xét:
Đối với nghiên cứu tiết giảm clinker sử dụng chất trợ nghiền NH2307H ( liều
dùng 600 g/tấn), kết quả khảo sát cường độ nén trong bảng 3.12, 3.13 và trong hình
3.25 một lần nữa cho thấy:
+ Chất trợ nghiền NH2307H không có tác động tích cực đến sự phát triển
cường độ tuổi sớm ở các thời điểm 1 ngày, 3 ngày và 7 ngày.
+ Ở cường độ tuổi muộn, chất trợ nghiền NH2307H cho thấy vai trò rõ rệt
trong việc nâng cao cường độ cho xi măng. Và việc giảm 2% clinker, tăng 2% đá
vôi, giảm thời gian nghiền 30 giây vẫn đảm bảo cường độ theo TCVN và TCCS –
83
TAFICO – 05.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận:
Sau quá trình nghiên cứu thực nghiệm và phân tích các kết quả đạt được, đề tài đã
đúc rút được một số kết luận sau:
(1) Việc sử dụng chất trợ nghiền GM1189 hoặc NH2307H trong quá trình
nghiền xi măng đều có tác dụng làm tăng hiệu suất nghiền, trong đó NH2307H cho
thấy hiệu quả trợ nghiền cao hơn so với GM1189.
(2) Sự có mặt của GM1189 hoặc NH2307H trong phối liệu xi măng không
gây ảnh hưởng nhiều đến các tính chất cơ lý của xi măng như lượng nước tiêu
chuẩn, thời gian đông kết, độ ổn định thể tích.
(3) GM1189, NH2307H không có tác dụng trong việc phát triển cường độ
tuổi sớm của đá xi măng, nhưng cường độ muộn (28 ngày) cải thiện rõ rệt, trong đó
NH2307H cho thấy tác động nâng cao mác xi măng rõ rệt hơn so với GM1189. Với
lượng dùng 600g/tấn xi măng, NH2307H nâng cao được 13,72% mác so với mẫu
không dùng chất trợ nghiền.
(4) Chất trợ nghiền GM1189 và NH2307H không có tác dụng làm tăng hàm
lượng dải hạt 0 μm – 10 μm, nhưng lại có tác dụng làm tăng dải hạt 10 μm – 20 μm,
qua đó góp phần làm tăng cường độ tuổi muộn cho đá xi măng.
(5) Khi sử dụng NH2307H với lượng 600g/tấn xi măng cho phép tiết giảm
được 2% clinker để thay thế bằng đá vôi mà vẫn đảm bảo được mác cho xi măng
PCB40 và các tính chất cơ lý khác.
Kiến nghị:
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu trong phòng Quản lý chất lượng – Nhà máy
Xi măng Tây Ninh, đề nghị Nhà máy Xi măng Tây Ninh cho phép được chạy thử
84
nghiệm công nghiệp chất trợ nghiền NH2307H với liều lượng 600g/tấn xi măng.
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Đào Xuân Phái (25/05/2009), Tăng cường quá trình nghiền mịn các vật liệu rắn trong sản xuất xi măng bằng sử dụng các chất trợ nghiền từ các loại phụ
gia hoạt tính bề mặt, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
2. Đỗ Quang Minh và Trần Bá Việt (2015), Công nghệ sản xuất xi măng Pooc
3.
lăng và các chất kết dính vô cơ, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. C.J. Engelsen (2008), Quality improvers in cement making – State of the art, COIN Project P1 Advanced cementing materials.
4.
Nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm xi măng và cải tiến công nghệ nghiền XM, chủ biên, http://ximangdadung.com/xi-mang/chuyen-de-nganh-
xi-mang/xi-mang-chat-luong-cao/3309-nghien-cuu-nang-cao-chat-luong-san-
pham-xi-mang-va-cai-tien-cong-nghe-nghien-xm.html
5.
Nguyễn Kiên Cường (2001), Nghiên cứu sử dụng phụ gia trợ nghiền vô cơ trong quá trình nghiền nguyên liệu xi măng, Hà Nội.
6. TCVN 2682:2009 (2009), Xi măng pooc lăng - Yêu cầu kỹ thuật, Hà Nội.
7. TCVN 6260:2009 (2009), Xi măng pooc lăng hỗn hợp - Yêu cầu kỹ thuật, Hà
Nội.
8. ThS.Huỳnh Thị Hạnh (07/2007), Tài liệu bồi dưỡng kiến thức kỹ thuật sản
xuất xi măng, Trường Đại học Bách Khoa TP. Hồ Chí Minh.
9. TS. Tạ Ngọc Dũng (05/2016), Chuyên đề xi măng ( phần: cơ sở khoa học
của việc sử dụng phụ gia ) ( tài liệu tham khảo lớp cao học FICO), Hà Nội.
10. Bộ xây dựng - Viện Khoa học Công nghệ Vật liệu Xây Dựng (09/2001), Báo
cáo tổng kết đề tài: Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất và sử dụng phụ gia trợ
nghiền kị ẩm để bảo quản xi măng. TCVN 10825:2015 (2015), Xác định sự phân bố cỡ hạt của bột gốm bằng 11.
phương pháp nhiễu xạ Laze.
12. Cerulli Tiziano Bravo Anna, Giarnetti Mariagrazia, Magistri Matteo, Grinding aids: A Study on their machanism of action, Mapei S.p.A., via Cafiero 22, 20158 Milano, Italy. S. Morasse C. Jolicoeur, J. Sharman, A. Tagnit-Hamou, F. Slim, M. Pagé, 13.
85
"Polyol – type Compounds as Clinker Grinding aids: Influence on Power Fluidity and on Cement Hydration".
CBHD: PGS. TS. Huỳnh Đức Minh
14. Dr. Martin Weibel and Dr. Ratan K. Mishra (2014), "Comprehensive under-
standing of grinding aids", Sika Technology.
15. Vagn Johansen Linda M. Hills, and F. MacGregor Miller, (2002), Solving
raw material challenges.
16. P.E. Tsakiridis M. Katsiotia, P. Giannatos, Z. Tsibouki, J. Marinos, (2009),
"Characterization of various cement grinding aids and their impact on
grindability and cement performance". T.A.M. Mohammed (2002), Composition and phase mineral variation of 17.
Portland cement in Mass Factory Sulaimani – Kurdistan Region NE- Iraq
18. R. K. Mishra (2014), En route to a multi-model scheme for clinker
comminution with chemical grinding aids. Sika Sika grind technology. 19.
Z. Heren and H. Ollmez (1996), "The influence of ethanolamines on the 20.
hydration and mechanical properties of Portland Cement".
21. WANG Dongmin ZHAO Jihui, WANG Xueguang, LIAO Shucong, (2015),
"Characteristics and Mechanism of Modified Triethanolamineas Cement
86
Grinding Aids".