ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

HOÀNG ĐÌNH TRỌNG

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI HỌC VÀ

NHÂN GIỐNG CÂY HOÀNG ĐẰNG (Fibraurea

tinctoria Lour) BẰNG PHƯƠNG PHÁP GIÂM HOM

TẠI HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM HỌC

Thái Nguyên - 2020

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

HOÀNG ĐÌNH TRỌNG NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI HỌC VÀ NHÂN GIỐNG CÂY HOÀNG ĐẰNG (Fibraurea tinctoria Lour) BẰNG PHƯƠNG PHÁP GIÂM HOM TẠI HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN Ngành: Lâm học

Mã số ngành: 8620201

LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM HỌC

Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. ĐẶNG THỊ THU HÀ

2. TS. VŨ VĂN THÔNG

Thái Nguyên - 2020

Thái Nguyên - 2020

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng: Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các

số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa từng

được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác và chưa từng sử dụng để bảo

vệ một học vị nào.

Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện đề tài nghiên cứu

và hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn chính xác

và đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020

TÁC GIẢ

Hoàng Đình Trọng

ii

LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được

sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, các tổ chức và các cá nhân. Tôi xin bày

tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các tập thể, cá nhân đã tạo điều kiện giúp

đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn này.

Trước hết tôi xin chân thàng cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học

Nông Lâm Thái Nguyên, Khoa Lâm nghiệp, Phòng đào tạo của Nhà trường

cùng các thầy cô giáo, những người đã trang bị kiến thức cho tôi trong suốt quá

trình học tập.

Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn cô

giáo TS. Đặng Thị Thu Hà, người đã trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn khoa học và

giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn này.

Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các đồng chí lãnh đạo Hạt Kiểm

lâm huyện Võ Nhai và c

ác hộ nông dân trên địa bàn huyện Võ Nhai đã giúp đỡ tôi về thông tin,

số liệu trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn.

Do thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn của tôi chắc hẳn không thể

tránh khỏi những sơ suất, thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp, bổ

sung của các thầy cô giáo cùng toàn thể bạn đọc để nội dung luận văn được

hoàn thiện hơn.

Xin trân trọng cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020

TÁC GIẢ

iii

Hoàng Đình Trọng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Đặt vấn đề ...................................................................................................... 1

2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 2

3. Ý nghĩa nghiên cứu ....................................................................................... 2

3.1. Ý nghĩa khoa học…………………………………………………………2 3.2. Ý nghĩa thực tiễn…………………………………………………………2 Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU .................................................... 3

1.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu ...................................................... 3

1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước ..................................... 4

1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới .......................................................... 4

1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ........................................................... 9

1.3 Tổng quan về khu vực nghiên cứu ............................................................ 18

1.3.1. Đặc điểm tự nhiên của khu vực nghiên cứu .......................................... 18

1.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ...................................................................... 22

Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................ 26

2.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 26

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ............................................................ 26

2.2.1. Địa điểm: Huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên ...................................... 26

2.2.2. Thời gian tiến hành ............................................................................... 26

2.3. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 26

2.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 26

2.4.1. Phương pháp kế thừa số liệu ................................................................. 27

2.4.2. Phương pháp ngoại nghiệp .................................................................... 27

2.4.3. Phương pháp nhân giống cây Hoàng Đằng .......................................... 31

2.4.4. Phương pháp xử lý số liệu ..................................................................... 35

iv

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................ 36

3.1. Đặc điểm sinh thái học của loài cây Hoàng đằng tại khu vực nghiên cứu

......................................................................................................................... 36

3.1.1. Đặc điểm hình thái của cây Hoàng đằng .............................................. 36

3.1.2. Đặc điểm phân bố của loài Hoàng đằng ............................................... 39

3.1.3. Đặc điểm của loài Hoàng đằng trong quần xã thực vật rừng................ 41

3.2. Ảnh hưởng của chất kích thích và nồng độ đến khả năng ra rễ, số rễ và

chiều dài rễ của hom cây Hoàng Đằng ........................................................... 43

3.2.1. Ảnh hưởng của nồng độ và loại chất kích thích đến tỷ lệ ra rễ ............ 43

3.2.2. Ảnh hưởng của nồng độ và loại chất kích thích đến số rễ, chiều dài rễ 46

3.3. Ảnh hưởng của vị trí hom đến khả năng ra rễ ......................................... 48

3.4. Ảnh hưởng của hỗn hợp ruột bầu đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của

cây hom ........................................................................................................... 50

KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ ................................................... 56

1. Kết luận ....................................................................................................... 56

1.1. Đặc điểm sinh thái học cây Hoàng Đằng tại huyện Võ Nhai .................. 56

1.2. Ảnh hưởng của nồng độ và loại chất kích thích đến khả năng ra rễ ........ 56

1.3. Ảnh hưởng của tuổi hom đến tỷ lệ ra rễ ................................................... 56

1.4. Ảnh hưởng của hỗn hợp ruột bầu đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của

cây hom ........................................................................................................... 57

2. Tồn tại ......................................................................................................... 57

3. Kiến nghị ..................................................................................................... 57

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 59

v

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1: Hiện trạng đất Võ Nhai phân theo loại đất năm 2017 .................... 20

Bảng 1.2 Cơ cấu kinh tế huyện Võ Nhai giai đoạn 2015 - 2017 .................... 22

Bảng 1. 3 Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của huyện Võ Nhai giai đoạn

2015-2017 ........................................................................................................ 23

Bảng 2.1. Tổng hợp điều tra theo tuyến tại khu vực nghiên cứu .................... 28

Bảng 3.1: Chỉ tiêu về thân cây Hoàng đằng tại huyên Võ Nhai ..................... 36

Bảng 3.2: Số đo trung bình 100 lá trưởng thành ............................................. 39

Bảng 3.3: Số đo trung bình 100 quả trưởng thành .......................................... 38

Bảng 3.4: Phân bố cây Hoàng Đằng theo độ cao tại huyện Võ Nhai ............. 39

Bảng 3.5: Phân bố cây theo trạng thái rừng .................................................... 40

Bảng 3.6: Tổng hợp công thức tổ thành tầng cây gỗ ...................................... 41

Bảng 3.7: Nguồn gốc, mật độ tái sinh của loài Hoàng đằng ......................... 424

Bảng 3.8. Chất lượng cây Hoàng đằng tái sinh............................................... 43

Bảng 3.9. Kết quả giâm hom Hoàng đằng ở nồng độ và loại thuốc khác nhau

......................................................................................................................... 45

Bảng 3.10. Kết quả giâm hom Hoàng đằng ở các vị trí hom khác nhau ......... 49

Bảng 3.11: Sinh trưởng cây hom qua các lần đo ............................................ 51

Bảng 3.12. Sinh trưởng Doo và Hvn trong các công thức thí nghiệm ........... 53

vi

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1 Bản đồ huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên ...................................... 19

Hình 3.2: Lá trưởng thành và lá non cây Hoàng đẳng Fibraurea tinctoria Lour

tại khu vực nghiên cứu .................................................................................... 38

Hình 3.3. Hình ảnh mẫu lá, thân và quả Hoàng đằng ..................................... 39

Hình 3.4. Cắt hom ........................................................................................... 44

Hình 3.5a ......................................................................................................... 46

Hình 3.5c ......................................................................................................... 46

Hình 3.5b ......................................................................................................... 46

Hình 3.6a, 3.6b và 3.6c ................................................................................... 47

Hình 3.7. Một số hình ảnh về giâm hom cây Hoàng đằng.............................. 48

Hình 3.8. Ảnh hưởng của tuổi hom đến tỷ lệ ra rễ, số rễ và chiều dài rễ ....... 50

Hình 3.9. Tỷ lệ sống, đường kính, chiều cao sau 5 tháng cấy hom ................ 53

Hình 3.10. Sinh trưởng chiều cao, đường kính qua 5 lần đo .......................... 54

1

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề

Cây Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria Lour hay Fibraurea recisa Pierre)

thuộc họ tiết Dê (Menispermaceae) là một trong những loài thực vật có chứa

alkaloid được sử dụng rộng rãi. Theo cuốn “Dược liệu” nhà xuất bản Y học –

1983 thì dược phẩm từ cây Hoàng đằng có công dụng chữa đau mắt, mụn nhọt,

sốt nóng, kiết lỵ và ngộ độc thức ăn. Các nghiên cứu từ trước đến nay trên đối

tượng cây Hoàng đằng cho thấy các công dụng mà nó có được là do hợp chất

alkaloid palmatin – thành phần hoạt chính trong cây tạo ra.

Hiện nay do phong trào khai thác dược liệu để sử dụng hoặc bán trên thị

trường và trồng rừng sản xuất nên số lượng, chất lượng các cây thuốc nam bị

suy giảm nghiêm trọng. Người dân khai thác sản phẩm các cây thuốc không

mang tính bền vững thậm chí nhiều loài khai thác mang tính hủy diệt trong đó

cây Hoàng đằng cũng không phải là trường hợp ngoại lệ, người dân chủ yếu lợi

dụng khai thác từ rừng tự nhiên chưa chú ý đến việc gây trồng. Ở một một số

tỉnh miền núi phía Bắc đã xuất hiện các hộ gia đình gây trồng loài cây này để

sử dụng nhưng chủ yếu trồng theo tập quán kinh nghiệm, gây trồng manh mún

nhỏ lẻ, cây giống không được tuyển chọn, thiếu kỹ thuật.

Với những giá trị to lớn đem lại cây Hoàng đằng đã và đang được người

dân quan tâm, chú trọng trong công tác phát triển cây dược liệu, huyện Võ Nhai

được tỉnh Thái Nguyên lựa chọn là một trong những cây mũi nhọn góp phần

xóa đói, giảm nghèo, tiến tới làm giàu cho người dân địa phương nhằm phát

triển kinh tế nông lâm nghiệp bền vững. Tuy nhiên số lượng cây Hoàng đằng

cho năng suất ổn định, chất lượng tốt hiện nay còn rất ít và tại một số địa phương

do khai thác mà không mang tính bền vững do đó đang đứng trước nguy cơ

tuyệt chủng. Mặc dù vậy việc nghiên cứu lựa chọn những cây Hoàng đằng có

năng suất, chất lượng tốt để lưu giữ và phát triển nguồn gen chưa được quan

tâm đúng mức nhất là việc lựa chọn phương pháp nhân giống và các tiêu chí để

2

đánh giá cây Hoàng đằng chưa được nghiên cứu. Chính vì vậy, việc thực hiện

đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm sinh thái học và nhân giống vô tính cây Hoàng

đằng (Fibraurea tinctoria Lour) bằng phương pháp giâm hom tại huyện Võ

Nhai, tỉnh Thái Nguyên” là rất cần thiết nhằm góp phần phục hồi, bảo tồn và

phát triển loài cây thuốc có giá trị cao, đồng thời phù hợp với chủ trương phát

triển cây dược liệu của nhà nước và nguyện vọng của cộng đồng nhân dân địa

phương, góp phần làm tăng hiệu quả công tác phát triển cây dược liệu của nước

ta.

2. Mục tiêu nghiên cứu

- Mô tả được đặc điểm sinh thái học loài cây Hoằng đằng ở khu vực

nghiên cứu.

- Xác định được tuổi hom, nồng độ, loại chất kích thích ra rễ, giá thể

giâm hom, hỗn hợp ruột bầu phù hợp trong nhân giống bằng phương pháp

giâm hom.

3. Ý nghĩa nghiên cứu

3.1. Ý nghĩa khoa học

Kết quả nghiên cứu của đề tài làm cơ sở khoa học và thực tiễn để nhằm

nhân giống loài cây Hoằng đằng chất lượng cao đáp ứng nhu cầu sản xuất thuốc

hiện nay. Đồng thời là tư liệu tham khảo có giá trị cho các nhà khoa học, nhà

chuyên môn, các học viên, sinh viên khi nghiên cứu về vấn đề này.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn

Thành công của đề tài có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo tồn và

phát triển nguồn giống cây Hoàng đằng giúp cho người dân đa dạng hóa cây

dược liệu phục vụ mục tiêu kinh tế, góp phần tăng thu nhập, nâng cao thu nhập

của người dân huyện Võ Nhai nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói chung.

3

Chương 1

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu

 Về cơ sở sinh học

Công việc nghiên cứu đối với bất kỳ loài cây rừng nào chúng ta cũng cần

phải nắm rõ đặc điểm sinh học của từng loài. Việc hiểu rõ hơn về đặc tính sinh

học của loài giúp chúng ta có những biện pháp tác động phù hợp, sử dụng nguồn

tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý và bảo vệ hệ động thực vật quý hiếm,

ngăn ngừa suy thoái của các loài nhất là các loài động vật, thực vật quý, hiếm,

ngăn ngừa ô nhiễm môi trường,... là cơ sở khoa học xây dựng mối quan hệ giữa

con người và thế giới tự nhiên được tốt hơn.

 Về cơ sở bảo tồn

Biến đổi khí hậu, chặt phá rừng làm cho nhiều loài động, thực vật đứng

trước nguy cơ tuyệt chủng chính vì vậy công tác bảo tồn loài, bảo tồn đa dạng

sinh học ngày càng được quan tâm và chú trọng .

Để có thể bảo vệ và phát triển tốt các loài động vật thực quý hiếm Chính

phủ đã ban hành Nghị định số 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 quy định về

quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước

về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp loài cây

Hoàng đằng nằm trong nhóm IIA.

Nghị định 160/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định về Tiêu chí xác

định loài và chế độ quản lý loài thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được

ưu tiên bảo vệ. Tiêu chí xác định các loài cần được ưu tiên ảo vệ gồm có 2

tiêu chí.

+ Số lượng cá thể còn ít hoặc đang bị đe dọa tuyệt chủng

+ Là loài đặc hữu hoặc có một trong các giá trị đặc biệt về khoa học, y

tế, kinh tế, sinh thái, cảnh quan, môi trường và văn hóa-lịch sử.

4

1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước

1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới

Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria Lour và Fibraurea recisa Pierre) thuộc

họ Tiết dê (Menispermaceae), bộ Mao lương (Ranunculales). Thành phần hóa

học: Hoạt chất trong Hoàng đằng là Alkaloid mà chất chính là Palmatin 1-3,5%

và một ít jatrorrhizin, columbamin và berberin theo Gao-Xiong Rao et al

(2009).

Theo hệ thống phân loại thực vật APG II (Angiosperm Phulogeny Group

II) năm 2003 Họ Tiết dê (Menispermaceae) có 75 chi, 450 loài. Trong đó có

chi Hoàng đằng (Fibraurea) là chi gồm 5 loài dây leo, chủ yếu phân bố ở vùng

nhiệt đới châu Á. Loài Fibraurea elliptica phân bố tại bán đảo Luzon

Phillipines, loài Fibraurea laxa phân bố tại Indonesia, loài Fibraurea recisa phân

bố tại các tỉnh Nam Bộ của Việt Nam, loài Fibraurea trotteri phân bố tại Ấn

Độ, loài Fibraurea tinctoria Lour phân bố tại Việt Nam, Lào, Campuchia.

Theo Lecomte H (1950) mô tả cây Hoàng Đằng trong tập Quần thể thực

vật Đàng trong (Flora Cochinchinensis). Hoàng Đằng là cây dây leo bằng thân

quấn, dài tới 10m, vỏ ngoài của thân già nứt nẻ và gỗ có màu vàng. Thân non

nhẵn, màu lục, ít phân nhánh. Lá mọc so le, hình trái xoan hoặc thuôn, dài 9-

18cm, rộng 3-7cm, gốc bằng hoặc hơi tròn, đầu có mũi nhọn, hai mặt nhẵn, mặt

trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới nhạt, 3 gân chính rõ; cuống lá dài 5-14cm,

phình ở hai đầu. Hoa đơn tính khác gốc, cụm hoa chum mọc ra ở phần thân già

đã rụng lá. Hoa nhỏ màu vàng chanh, có 6 lá đài, cánh hoa 3 rộng và mỏng hơn

lá đài, hoa đực có 6 nhị, chỉ nhị dài hơn bao phấn, hoa cái nhị lép hoặc không

rõ, bầu hình trứng. Quả hạch hình xoan hay trứng thuôn, khi chín màu vàng,

mùi hơi khó chịu. Hạt 1 hình vuông dẹt, Hoàng Đằng ra hoa vào tháng 4-5, quả

chín vào tháng 11-12. Cây có khả năng tái sinh bằng hạt và chồi sau khi khai

thác.

5

Tính chất chung của Alkaloid theo Gao-Xiong Rao et al (2009).

- Mùi vị: Đa số Alkaloid không có mùi có vị đắng và có một số ít có vị

cay như capsa, icin, piperidin, Palmatin…

- Màu sắc: Hầu hết các Alkaloid đều không màu, trừ một số ít Alkaloid

có màu vàng như berberin, Plamatin. Cần lợi dụng tính chất này trong chiết

xuất và phân lập khi nghiên cứu về các thành phần hóa học của cây Hoàng

Đằng bằng phương pháp phân tích quang phổ cho thấy các Alkaloid mới từ cây

Hoàng đằng đã được xác định là 1,2-methylenedioxy-8-hydroxy-6a (R)-

aporphine. Thân của cây Hoàng đằng là một loại thảo dược chống nấm hiệu

quả. Hoàng đằng có tên trong phân những cây thuốc và vị thuốc chữa lỵ, trực

trùng. Trong Hoàng đằng chủ yếu là Palmatin với tỷ lệ 1-3,5%. Ngoài ra còn

có một ít jatrorrhizin, columbamin

Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria Laur và Fibraurea recisa Pierre) thuộc

họ tiết dê (Menispermaceae), bộ Mao lương (Ranunculales). Thành phần hóa

học: Hoạt chất trong Hoàng đằng là Alkloid mà chất chính là Palmatin 1 – 3,5%

và một ít jatrorrhizin, columbamin và berberin theo Gao-Xiong Rao ct al (2009)

Nghiên cứu tác dụng chữa bệnh của từng loài cây thuốc và bản chất hoá

học của dược liệu được quan tâm trên quy mô rộng lớn. Nhiều nghiên cứu đã

khẳng định hầu hết các cây cỏ đều có tính kháng sinh là một trong những yếu

tố miễn dịch tự nhiên. Tác dụng kháng khuẩn là do các hợp chất tự nhiên hay

gặp: Sulfua, saponin (Allium odium); becberin (Coptis chinensis Franch.);

tamin (Zizyphusjụuba Miller). Mỗi loài cây với từng công năng, tác dụng, ở

mỗi địa phương lại được sử dụng riêng theo một bản sắc dân tộc.

Ở Trung Quốc, ngoài nền y học cổ truyền chính thống của người hán

(Trung y), các cộng đồng không phải người hán, với dân số khoảng 100 triệu

người, cũng có các nền y học riêng của mình, gọi là y học dân tộc cổ truyền

(Traiditional Ethno-medicine) sử dụng khoảng 8000 loài cây cỏ làm thuốc.

6

Trong đó, có 5 nền y học chính là nền y học cổ truyền Tây Tạng (sử dụng 3.294

loài), Mông Cổ (1.430 loài), Ugur, Thái (800 loài)

Theo A.S. Islam, (1991), ở Bangladesh có một số cây thuốc quý như

Tylophora indica (dùng làm thuốc chữa hen), trước kia dễ tìm kiếm, nay đã trở

nên hiếm hoi.

Theo O. Akerele, (1991), là loài Ba gạc – Rauvolfia serpentina vốn mọc

tự nhiên khá phổ biến ở Ấn Độ, Srilanca, Bangladesh, Thái Lan,… mỗi năm

khai thác được khoảng 1.000 tấn nguyên liệu xuất sang thị trường Âu – Mỹ,

làm thuốc chữa cao huyết áp (riêng Ấn Độ chiếm 40 – 50%). Song, do bị khai

thác liên tục nhiều năm đã làm cho cây thuốc này mau cạn kiệt.

Theo He Shan An và Cheng Zhong Ming, (1985), ở Trung Quốc vốn có

một số loài Dioscorea japonica, trữ lượng khá lớn, trong thập kỷ 50, đã từng

khai thác tới 30.000 tấn, hiện đã bị giảm sút nhiều, có loài thậm chí phải trồng

và duy trì loài giống. Một vài loài cây thuốc quý như Fritillaria cirrhosa (làm

thuốc ho) phân bố phổ biến ở vùng Tây – Bắc tỉnh Tứ Xuyên nay chỉ còn sót

lại ở 1 – 2 điểm, với số lượng cá thể rất ít. Hoặc loài Iphigenia indica có tác

dụng chữa ung thư, chỉ phân bố rất hẹp ở vùng Lijang và Dali tỉnh Vân Nam,

do bị tìm kiếm khai thác gay gắt, hiện có thể đã bị tuyệt chủng. Một số loại cây

thuốc quý khác như Paris polyphylla, Gastrodia elata, Nervilia fordii,…cũng

là những ví dụ điển hình.

Sara Oldfield, tổng thư ký của Tổ chức bảo tồn các vườn bách thảo quốc

tế, nhận xét “Sự biến mất của các cây thuốc là một thảm họa thực sự”. Phần

lớn dân số thế giới, trong đó có 80% người Châu Phi, hoàn toàn phụ thuộc vào

dược thảo để chữa bệnh.Theo một báo cáo của tổ chức bảo tồn quốc tế Plantlife,

trên khắp thế giới có khoảng 50.000 loại cây có thể dùng làm thuốc, nhưng xấp

xỉ 15.000 trong số đó đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Tình trạng thiếu

dược thảo đã xảy ra ở Trung Quốc, Ấn Độ, Kenya, Nepal, Tanzania và Uganda.

7

Tuy nhiên giá trị và lợi nhuận mà cây thuốc đem lại rất lớn. Ở Mỹ mỗi

năm lợi nhuận thu được từ cây thuốc khoảng 1,5 tỷ USD. Ở Trung Quốc, chỉ

riêng việc xuất khẩu cao đơn hoàn tán cũng cho doanh thu khoảng 2 tỷ USD/

năm. Hiện nay, phong trào dùng cây thuốc để phòng và chữa bệnh trên thế giới

đã đặt ra một vấn đề cần lưu ý: 2/3 trong số 50.000 loài cây thuốc được sử dụng,

khai thác từ các cây hoang dại sẵn có nhưng không được trồng lại để bổ sung.

Theo một nghiên cứu của nhà thực vật học người Anh là Alan Hamilton, thành

viên của Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (viết tắt là WWF), có từ 4.000 –

10.000 loài cây cỏ dùng làm thuốc có nguy cơ bị tiệt chủng. Nguyên nhân

không phải hoàn toàn do sự phát triển của Y học cổ truyền mà theo tác giả là

do thị trường dược thảo ở Châu Âu và Bắc Mỹ tăng trưởng 10% mỗi năm, trong

vòng 10 năm nay. Trên quy mô toàn cầu, doanh số mua bán cây thuốc hàng

năm ước tính lên tới 16 tỷ Euro.

Nhân giống bằng hom (Cutting propagation): Là một phương pháp nhân

giống sinh dưỡng với hom là một đoạn thân, cành, rễ được đặt trong điều kiện

môi trường thích hợp sẽ phát triển chồi bất định và mọc thành cây độc lập. Đây

là một hình thức nhân giống sinh dưỡng, dựa trên khả năng sinh sản sinh dưỡng

của cây, trên cơ sở phân bào nguyên nhiễm. Tế bào mẹ sinh ra tế bào con có bộ

nhiễm sắc thể giống hệt mình. Do vậy sinh sản sinh dưỡng duy trì được các đặc

tính di truyền của cơ thể mẹ và ổn định qua nhiều thế hệ. Phương pháp này được

áp dụng để duy trì các dòng vô tính để tăng số lượng các cá thể cây hiếm hay

duy trì các genotyp quan trọng của cây mẹ , nhân giống bằng hom đã được các

nhà làm vườn và trồng cây cảnh ở các nơi khác nhau trên thế giới sử dụng từ lâu

đời và áp dụng trong sản xuất lâm nghiệp cách đây hàng trăm năm, được nghiên

cứu ở các nước trên thế giới như Liên Xô (cũ), Trung Quốc, Thuỵ Điển, Australia,

Pháp, Ấn Độ, Malaysia, Indonesia, Nhật Bản, Công Gô,… đặc biệt từ khi con

người tổng hợp được các chất điều hoà sinh trưởng nhân tạo.

Ở Liên Xô (cũ) việc nhân giống bằng hom đã được tiến hành trên 50

8

năm trước, đã thí nghiệm nhân giống 260.000 hom của 240 loài cây thuộc 55

họ. Trong đó, có 47 loài lá kim, 113 loài lá rộng cho các loài cây rừng, cây

làm cảnh, làm thuốc, cây công nghiệp và cây ăn quả. Tại Thụy Điển, hàng

năm công ty Hylles hog sản xuất khoảng 4.000.000 cây hom Vân sam. Năm

1993 vườn ươm Toolara tại bang Quensland (Australia), sản xuất 700.000

cây hom Thông lai. Nhật Bản hàng năm sản xuất 49 triệu hom cây Lãnh sam. Ở

Trung Quốc, chỉ riêng với nghiên cứu sản xuất chế phẩm ABT, người ta đã nghiên

cứu thực nghiệm 1.270 loài cây gỗ, cây ăn quả, cây hoa, cây nông nghiệp, thực

vật có ích …Quảng Đông (Trung Quốc) có 4 vườn ươm sản xuất cây hom,

trong đó có 3 vườn ươm cấp huyện, đạt công suất 1 triệu cây/năm. Tại

Malaysia, 75 loài cây họ Quả hai cánh đã được nhân giống bằng hom. Tại Thái

Lan, 1 ha vườn giống Sao đen 5 tuổi có thể sản xuất 200.000 cây hom đủ

trồng 400-500 ha rừng.

Theo Gao-Xiong Rao et al (2009) với các loài cây thân gỗ và cây bụi

sống nhiều năm trong các hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới, nhu cầu về ánh sáng

thường thay đổi qua các giai đoạn phát triển khác nhau. Đây là yếu tố sinh thái

hết sức quan trọng góp phần quyết định đến sự phân bố, khả năng sinh trưởng,

phát triển và tạo ra năng suất sinh vật học của cây. Cùng với ánh sáng thì các

đặc điểm về tính chất đất đai, đặc biệt là hàm lượng các yếu tố dinh dưỡng

trong đất cũng đóng vai trò chi phối quan trọng đến khả năng cho năng suất

của cây. Chính vì vậy nghiên cứu về ảnh hưởng của yếu tố ánh sáng, đất đai và

phân bón tới sinh trưởng, phát triển của cây là những nội dung không thể thiếu

trong nghiên cứu gây trồng và bảo tồn các loài cây thuốc bản địa.

Khi nghiên cứu và thử nghiệm các kỹ thuật gây trồng đối với các loài

cây thuốc bản địa, các nhà nghiên cứu thường phải quan tâm tìm hiểu rất kỹ

về đặc điểm sinh thái nơi phân bố của loài cây đó trong tự nhiên, nghiên cứu

đặc điểm sinh trưởng và phát triển của nó tương ứng với sự biến động các yếu

tố sinh thái trong điều kiện cụ thể ngoài thực địa. Với nhiều loài thực vật nhiệt

9

đới, các yếu tố sinh thái chi phối quan trọng có thể kể đến như: ánh sáng, nhiệt

độ, ẩm độ không khí, tính chất đất đai (hàm lượng các yếu tố dinh dưỡng, độ

dày tầng đất, thành phần cơ giới đất, độ pH, mùn, ẩm độ đất…). Đây chính là

cơ sở khoa học quyết định thành công của các nghiên cứu gây trồng cây thuốc

bản địa.

Tại Ấn Độ, việc gây trồng cây thuốc được giới hạn ở các vườn đơn lẻ trong

các giai đoạn lịch sử trước đây. Việc gây trồng một cách có hệ thống được công ty

Đông Ấn du nhập vào năm 1787. Năm 1930, chính phủ đã thành lập chương trình

trồng cây thuốc và cây có tinh dầu trên cơ sở khoa học, các loài được gây trồng

như Digiralis lanata, Hyoscyamus sp, Atropa belladona… Sau ngày giành được

độc lập, chính phủ Ấn Độ đã thành lập nhiều tổ chức sử dụng và trồng các loài

dược liệu chưa được khám phá trước đây. Hàng loạt tổ chức nhà nước và cá nhân

tham gia các chương trình nghiên cứu bảo tồn và trồng cây thuốc Viện nghiên cứu

làm vườn, Trung tâm nghiên cứu quốc gia, Hội đồng trung ương nghiên cứu các

hệ thống y học Ấn Độ, Bộ nông lâm nghiệp, các trường đại học nông nghiệp.

1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

Theo Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003) Trong “Danh lục các loài thực

vật Việt Nam” đã mô tả, có hai loài Hoàng đằng ở Việt Nam:

1. Fibrarea recisa Pierre (1885), tên gọi Nam hoàng, Hoàng đằng, Hoàng

liên nam, Vàng giang, Khau khem.

Phân bố: Thừa Thiên Huế (Hốt Mít), Đà Nẵng (Liên Chiểu), Quảng Nam

(Đại Lộc, Trà My), Phú Yên (Sông Cầu), Khánh Hòa (Nha Trang), Kom Tum

(Đăk Gle, Sa Thầy), Lâm Đồng (Lạc Dương, Đan Kia, Bảo Lộc, Pnom

Sapoum). Còn có ở Lào, Campuchia.

Dạng sống và sinh thái: Dây leo, thân to dài tới 20-25m, cây ưa sáng và

ẩm, nhưng cũng chịu được bóng. Thường mọc rải rác trong rừng thứ sinh, ven

nương rẫy, ở độ cao 1000m. Ra hoa tháng 1-3, có quả tháng 4-6.

10

Công dụng: Gỗ làm thuốc nhuộm vàng, rễ làm thuốc bổ đắng, thanh

nhiệt, giảm độc, lợi tiểu. Còn công dung chữa mụn nhọt, mẩn ngứa, viêm ruột,

viêm dạ dày, kiết lỵ, viêm bang quan, đái đường, viêm ruột cấp tính, viêm kết

mạc. Thân và lá sắc uống chữa đau lung. Cây có chữa Palmatin.

2. Fibraurea tinctoria Lour (1790), - F.chloroleu Mies (1871) – Cocculus

fibraurea DC (1817), tên gọi Hoàng đằng, Nam hoàng liên, Nam hoàng nhuộm.

Phân bố: Lâm Đồng (Di Linh), Đồng Nai (Biên Hòa). Còn có ở Trung

Quốc, Malaixia, Inđônêxia.

Dạng sống và sinh thái: Dây leo, than to. Dài 8-10m. Mọc rải rác trong

rừng thưa, nơi sáng. Ra hoa tháng 3-8. Công dụng: Thân và rễ phơi hay sấy

khô, tán bột, làm thành viên chữa lỵ, viêm ruột ỉa chảy, sốt rét, viêm tai, lở ngứa

ngoài da. Rễ bổ, lợi tiểu. Gỗ làm thuốc nhuộm vàng. Trong cây có chữa

Palmatin. “Alkloid là những hợp chất hữu cơ chứa nitơ, đa số có nhân dị vòng,

có phản ứng kiềm, thường gặp trong thự vật và đôi khi trong động vật, thường

có dược tính mạnh và có những phản ứng hóa học với một số thuốc thử chung

của alkaloid” dựơc điển Việt Nam (2002). Hàm lượng trong cây thường rất

thấp, từ một số trường hợp như cây canhkina hàm lượng Alkaloid đạt 6-10%

trong nhựa thuốc phiện có 20-30%. Bình thường một dược liệu chứa 1-3%

Alkaloid được coi là hàm lượng khá cao. Trong cây, Alkaloid ít khi có trạng

thái tự do (Alkaloid bazơ) mà thường tồn tại ở dạng mưối với axit hữu cơ như

malat, oxalate, acelat…đôi khi có ở dạng mưối a xít vô cơ, chúng tan trong dịch

tế bào. Ở một số cây Alkaloid kết hợp với tannin với acid hay với đường ở

trong cây. Điều đáng chú ý là hàm lượng Alkaloid trong cây phụ thuộc nhiều

vào yếu tố khí hậu, ánh sang, chất đất, phân bón, giống cây và thời kỳ sinh

trưởng. Trong tự nhiên Alkaloid phân bố ở cả trong thực vật và động vật nhưng

chủ yếu là thực vật. Trong cây một lá mầm đã tìm thấy khoảng 500 Alkaloid,

trong khi đó ở cây hai lá mầm đã tìm thấy hơn 3600 chất. Ở thực vật hạt kín –

Angiospermae sự phân bố Alkaloid có tính nhảy vọt theo Nguyễn Văn Đàn –

11

Nguyễn Viết Trực (1985). Cây Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria Lour) thuộc họ

Tiết dê (Menispermaceae) là một trong những loài thực vật có chữa Alkaloid

được sử dụng rộng rãi. Theo cuốn “Dược điển Việt Nam” nhà xuất bản Y dược

(2002) thì dược phẩm từ cây Hoàng đằng có công dụng chữa đau mắt, mun

nhọt, sốt nóng, kiết lỵ và ngộ độc thức ăn.

Đỗ Tất Lợi (1999), trong sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”

của GS Đỗ Tất Lợi đã nêu Hoàng đằng dung để thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu

tiện, chữa đinh nhọt, nóng tím, viêm ruột cất tính, đau họng, viêm kết mạc, đau

mắt và bệnh hoàng đảm, chữa lỵ, than và lá sắc uống chữa đau lung, đau tai.

Hoàng đằng còn làm nguồn nguyên liệu chiết xuất Palmatin.

Các nghiên cứu về cây Hoàng đằng ở Việt Nam Phạm Hữu Hạnh, Hà

Văn Năm (2014) “ Nghiên cứu nhân giống cây Hoàng đằng tại Quảng Ninh”.

Với mục tiêu bảo tồn và phát triển cây Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria) trên

đất Quảng Ninh, bảo tồn nguồn gen, hướng tới công tác cải thiện giống cây

Hoàng đằng và bổ sung loài cây trồng quý hiếm vào cơ cấu cây lâm nghiệp của

tỉnh. Trần Đức Long (2004), đã cho thấy kích thước cây càng lớn thì hàm lượng

Alkaloid trong nguyên liệu càng cao. Ở các bộ phận khác nhau trong cây hàm

lượng Alkaloid là khác nhau. Hàm lượng cao nhất ở rễ già và gốc sau đó giảm

dần về hai phía rễ và thân. Ở phần ngọn và lá không phát hiện thấy Alkaloid.

Do đó khi thu hái ta nên lấy bộ phận già của cây để có chất lượng nguyên liệu

tốt. Nguyễn Thị Lê (2018) “ Nghiên cứu đa dạng sinh học của cây Hoàng đằng

tại miền Bắc”, tác giả đã thu thập mẫu cây Hoàng đằng ở 4 khu vực khác nhau

(3 mẫu ở Ba Vì Hà Nội; 3 mẫu tại huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên; 4 mẫu ở

thị xã Cao Bằng và Uông Bí Quảng Ninh). Kết quả thu được sau khi phân tích

DNA và hàm lượng Palmatin: 2 mẫu Hoàng đằng ở Thái Nguyên tuy có điều

kiện sống khác hẳn nhau (núi đất – mẫu 2 – huyện Phú Lương và núi đá vôi –

mẫu 3 – huyện Đồng Hỷ), đặc điểm hình thái khác nhau, thành phần và hàm

lượng các chất trong dịch chiết có sự khác nhau (mẫu 2 phát hiện 6 thành phần,

12

tỉ lệ Palmatin chiếm 84,05% trong thành phần dịch chiết, hàm lượng Palmatin

đạt 1,11%; mẫu 3 phát hiện 8 thành phần, tỉ lệ Palmatin chiếm 78,05% thành

phần dịch chiết, hàm lượng Palmatin đạt 0,73%) nhưng DNA vẫn giống nhau

ở mức cao nhất so với các mẫu khác (0,92). Như vậy, dù điều kiện sống có thay

đổi nhưng DNA vẫn ít chịu ảnh hưởng. Điều đó góp phần khẳng định thêm việc

sử dụng phương pháp phân loại bằng sinh học phân tử đã và đang trở thành

khoa học mũi nhọn trong phân loại học, bổ sung cho phương pháp phân loại

học truyền thống. Hàm lượng Palmatin trong các mẫu Hoàng đằng: Mẫu Hoàng

đằng ở Cao Bằng có hàm lượng cao nhất 3,27%, mẫu Hoàng đằng ở Thái

Nguyên (huyện Đồng Hỷ) và ở Hà Nội (Ba Vì) có hàm lượng thấp nhất 0,73%.

Mẫu ở Quảng Ninh (huyện Uông Bí) 2,18%. Mẫu thu ở Thái Nguyên (huyện

Phú Lương) 1,11%.

Theo Võ Văn Chi đất nước Việt Nam có nguồn dược liệu rất phong phú

lên đến trên 4.000 loài thực vật và nấm lớn có công dụng làm thuốc; 52 loài tảo

biển, 408 loài động vật và 75 loài khoáng vật có công dụng làm thuốc, trong đó

có nhiều loài cây thuốc được sếp vào loài quý và hiếm trên thế giới như: Sâm

ngọc linh, Sâm vũ diệp, Tam thất hoang, Bách hợp, Thông đỏ, Vàng đắng,

Hoàng liên ô rô, Hoàng liên gai, Thanh thiên quỳ, Ba gạch Vĩnh Phúc… Võ

Văn Chi (2012) từ điển cây thuốc Việt Nam (Bộ mới), tập I, trang 1107, Nxb Y

học, Hà Nội. “Hoàng đằng có vị đắng, tính lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu

viêm, sát trùng. Palmatin có tác dụng ức chế đối với các vi khuẩn trong đường

ruột. Công dụng: Thường dùng chữa các loại sưng viêm, chữa chảy máu mắt, sốt

rét, kiết lỵ, viêm ruột, ỉa chảy, viêm tai, lở ngứa ngoài da và cũng làm thuốc bổ

đắng.

Ngoài ra, loài Hoàng đằng cũng được một số tác giả khác như Võ Văn

Chi (1997), đã nghiên cứu về kỹ thuật gây trồng, nhân giống, tuy nhiên chưa

có kết quả cụ thể, nhưng phần lớn các tác giả cho rằng Hoàng đằng có thể trồng

được bằng hạt hoặc bằng giâm cành, song hiện tại cây thuốc này chưa có hướng

13

dẫn kỹ thuật chính thức. Trong phạm vi thực nghiệm, người ta đã thành công

trong việc nhân giống bằng các đoạn thân và cành (có sử dụng chất kích thích

ra rễ)

Theo Đỗ Huy Bích và cs (2004), cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt

Nam, tập I, trang 942, Nxb Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội. “Hoàng đằng có vị

đắng, tính hàn, vào 2 kinh tâm và can, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát

trùng, lợi thấp, thông tiện. Công dụng: Hoàng đằng được dùng làm thuốc bổ

đắng chữa các chứng viêm tấy, kiết lỵ, tiêu chảy, sốt rét, bệnh về gan, nóng

trong, lở ngứa ngoài da, mắt đỏ có màng, viêm tai chảy mủ.

Thái Văn Trừng (1978), thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7004 loài thực

vật bậc cao có loài thuộc 1850 chi, 289 họ.

Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), đã thống kê thành phần loài của VQG có

khoảng 2.000 loài thực vật, trong đó có 904 cây có ích thuộc 478 chi, 213 họ

thuộc ngành: Dương xỉ, Hạt trần, Hạt kín, các loài này được xếp thành 8 nhóm

có giá tri khác nhau.

Ðỗ Tất Lợi (1991), đã mô tả 2 loài Hoàng đằng thuộc họ Tiết dê

(Menispermaceae), trong đó loài Fibraurea tinctoria Lour, khác với loài

Fibraurea recisa Pierre ở chỗ lá nhọn, chỉ phân nhánh 2 lần.

Lê Ngọc Công (2004), đã nghiên cứu ảnh hưởng của một số quần xã thực

vật và độ che phủ ảnh hưởng theo tính chất hóa học của đất tới lượng vi sinh

vật thành phần giun đất, hệ thực vật tỉnh Thái Nguyên đã thống kê các loài thực

vật bậc cao có mạch của tỉnh Thái Nguyên là 160 họ, 468 chi, 654 loài chủ yếu

là cây lá rộng thường xanh, trong đó có nhiều cây quý như: Móng bò

(Bauhinnia pyrrhoclaza), Ràng ràng xanh (Ormonsia fordiana), Vang

(Caesalpina sappan), Sòi tía (Sapium discolor), Bùm bụp (M, barbatus), Me

rừng (Phyllanthus emblica), Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa),Thầu táu (Aporosa

microcalyx), Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria), Dây đau xương (Tinospora

sinensis).

14

Trần Công Khánh, (2012), Giám đốc Viện Nghiên cứu và Phát triển cây

thuốc cổ truyền dân tộc (CREDEP): “Chính vì không hiểu gì về công dụng của

cây thuốc, lại được các chủ đầu tư thu mua tận nơi nên đại đa số bà con sống ở

những nơi có cây thuốc sinh trưởng và phát triển đều khai thác theo kiểu chặt

tận gốc, nhổ cả rễ. Và thế là những thầy lang giàu kinh nghiệm chữa bệnh giờ

cũng chẳng dễ dàng gì kiếm được cây thuốc cho những bài thuốc gia truyền

của mình, để rồi một ngày nào đó nó sẽ trở thành các “bài thuốc chết” vì không

kiếm đâu ra cây thuốc nguyên liệu”.

Báo cáo của Tổng Công ty Dược Việt Nam cho thấy Viện dược liệu (2004),

cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, đã nhập khẩu 182 loại Dược liệu

với tổng khối lượng 18.300 tấn, với 81 loại nhập trên 100 tấn/loại. Trong đó, có

13 loại thuốc đi từ động vật và khoáng vật; 169 loại từ cây thuốc, trong đó nhiều

loại là thuốc bắc đầu vị, một số không có ở Việt Nam.

Nhằm bảo tồn nguồn tài nguyên cây thuốc, từ năm 2013, VQG Tam Đảo

đã triển khai Đề tài Nghiên cứu, xác định mối đe dọa, xây dựng mô hình thực

nghiệm và đề xuất giải pháp bảo tồn, phát triển bền vững các loài cây thuốc

quý, hiếm tại VQG. Mục tiêu của Đề tài nhằm xây dựng mô hình trồng bảo tồn

và phát triển một số loài cây thuốc quý hiếm, góp phần bảo tồn tri thức bản địa,

phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh tại địa phương; xây dựng quy trình kỹ thuật

nhân giống, mô hình trồng các loài cây thuốc quý hiếm, góp phần phát triển

kinh tế hộ gia đình tại huyện Tam Đảo. Kết quả thực hiện sau 2 năm nghiên

cứu, Vườn đã nghiên cứu và trồng sưu tập thành công 3 ha cây thuốc quý với

tổng số 10 loài, bao gồm: ba kích, sâm cau, hoàng tinh hoa trắng, na rừng,

hoàng đằng, khổ sâm, gối hạc, hoài sơn, thiên niên kiện, râu hùm hoa tía.

Theo Trần Đức Long (2004), khi nghiên cứu khả năng nhân giống loài

Hoàng đằng tại vườn quốc gia Bến En - Thanh Hoá, kết quả cho thấy Hoàng

đằng có thể nhân giống vô tính bằng phương pháp giâm hom với thuốc kích

thích ra rễ là IAA 1500ppm trong thời gian 5 giây, độ che bóng thích hợp là

15

25% và dùng công thức phân vi sinh 5% trộn với đất tầng mặt để làm hỗn hợp

ruột bầu thì cây giống sinh trưởng tốt và tỷ lệ sống cao nhất. Tuy nhiên, tác giả

chưa đi sâu nghiên cứu kỹ thuật nhân giống hữu tính và đặc điểm sinh thái của

cây con trong giai đoạn vườn ươm. Đồng thời khi nghiên cứu kỹ thuật nhân

giống vô tính bằng phương pháp giâm hom Hoàng đằng, tác giả mới chỉ đưa ra

được tỷ lệ hom sống, hom chết mà chưa chỉ ra được tỷ lệ hom ra rễ và chiều

cao của cây đủ tiêu chuẩn để cấy vào bầu là như thế nào.

Trong một công trình nghiên cứu khác, Nguyễn Thị Lê (2012), cho thấy

giá trị thương mại và khả năng gây trồng của các loài thuốc ở Việt Nam và ở

VQG Tam Đảo. Trong đó, tác giả ghi nhận loài Hoàng đằng (Fibraurea

tinctoria) có khả năng trồng bằng cành ở Ba Vì. Ngoài ra, loài Hoàng đằng

cũng đã được một số tác giả khác như Võ Văn Chi (1999) đã nghiên cứu về

kỹ thuật gây trồng, nhân giống, tuy nhiên chưa có kết quả cụ thể, nhưng phần

lớn các tác giả cho rằng Hoàng đằng có thể trồng được bằng hạt hoặc bằng

giâm cành, song hiện tại cây thuốc này chưa có hướng dẫn kỹ thuật chính

thức. Trong phạm vi thực nghiệm, người ta đã thành công trong việc nhân giống

bằng các đoạn thân và cành (có sử dụng chất kích thích ra rễ).

Theo Phạm Hữu Hạnh (2014), nhân giống vô tính bằng phương pháp

giâm hom, sử dụng thuốc kích thích ra rễ IAA với nồng độ 1000ppm đã cho tỷ

lệ ra rễ, số rễ một hom và chiều dài rễ đạt cao nhất. Tỷ lệ ra rễ đạt 58,9%, số rễ

một hom đạt 6,1, chiều dài rễ 3,8cm. Sau 50-60 ngày khi cây hom có từ 3-4 lá

có thể đem cấy chuyển vào bầu.

Theo Nguyễn Thị Hải và cs (2017), nghiên cứu nhân giống loài Hoàng

đằng ở khu Bảo tồn thiên nhiên Na Hang, tỉnh Tuyên Quang. Nhân giống bằng

hạt gieo ngay trong cát ẩm có tỷ lệ nảy mầm cao nhất 98,9% chỉ sau 51 ngày.

Hạt ngâm trong nước ấm khoảng 400C trong 10giờ, sau 55 ngày hạt bắt đầu nảy

mầm và hạt có tỷ lệ nảy mầm 84,4 và hạt ngâm trong nước lã 10 giờ có tỷ lệ

nảy mầm thấp hơn 82,2% và thời gian bắt đầu nảy mầm là 58 ngày.

16

Theo Vũ Văn Thông và cs (2017), đã nghiên cứu kỹ thuật nhân giống vô

tính cây Hoàng đằng, chất kích thích được sử dụng là IAA, IBA và NAA với 5

công thức nồng độ là: I: 500ppm, II: 1.000ppm, III: 1.500ppm, IV: 2.000ppm

và công thức V: Đối chứng (không sử dụng chất kích thích sinh trưởng) kết quả

cho thấy: Trong 3 chất kích thích sinh trưởng đã thử nghiệm, chất IAA cho tỉ

lệ ra rễ cao nhất và ở nồng độ là 1.500 ppm, điều này chứng tỏ IAA có tác dụng

kích thích ra rễ của hom Hoàng đằng tốt hơn so với IBA và NAA. Tuổi hom có

ảnh hưởng đến tỉ lệ ra rễ của hom cây Hoàng đằng, trong điều kiện cùng loại

thuốc kích thích sinh trưởng, cùng nồng độ, cùng thời gian xử lí. Hom bánh tẻ

đạt tỉ lệ ra rễ cao nhất và bằng 66,66%. Thành phần hỗn hợp ruột bầu 80% đất,

15% phân chuồng, 5% phân NPK cho tỉ lệ sống cao nhất và cây sinh trưởng tốt

nhất. Ở tuần thứ 20 tỉ lệ cây sống đạt 94,67%, tỉ lệ cây chết là 5,33%.

Theo Trần Ngọc Hải (2008), cây Hoàng đằng có thể nhân giống bằng hạt

và giâm hom. Đối với nhân giống bằng hạt vào tháng 8-9 khi quả bắt đầu chín

có màu vàng nhạt đến vàng đậm thì tiến hành thu hái quả. Sau khi thu hái

không cần bỏ vỏ có thể phơi trong bóng râm từ 1-2 ngày cho quả chín đều.

Sau đó đem gieo quả lên luống đất hoặc cát đến khi hạt nảy mầm thì đưa vào

trong bầu đất để tiện cho việc mang đitrồng sau này. Nhân giống bằng phương

pháp giâm, hom sau khi cắt các đoạn thân dài 25-40cm rồi giâm trong luống

cát hoặc đất ẩm, cũng có thể giâm trực tiếp trong bầu đất sâu từ 15-20cm.

Nếu giâm trực tiếp trong bầu đất thì phải chọn loại túi bầu tương đối lớn

(10x14cm hoặc 12x16cm). Có thể sử dụng thuốc kích thích ra rễ như IAA,

IBA, ABT hoặc NAA. Tuy nhiên, tác giả chưa chỉ ra được loại thuốc và nồng

độ thuốc kích thích ra rễ thích hợp nhất.

Nguyễn Thị Hải và cs (2017), nghiên cứu nhân giống cây Hoàng đằng ở

khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang bằng hom có sử dụng chất

kích thích ra rễ nồng độ 2.000ppm sau 20 ngày có tỷ lệ hom ra rễ nhiều nhất

(chiếm 51,11%). Sau 40 ngày có tỷ lệ hom ra rễ cao nhất khi sử dụng chất kích

17

thích IBA nồng độ 2.000ppm đạt 78,89%. Sau 60 ngày, khi hom đã đủ tiêu

chuẩn cấy vào bầu, sử dụng IBA nồng độ 1.500ppm có tỷ lệ hom ra rễ cao nhất

96,67%. Tiếp đến là sử dụng IAA nồng độ 1.500ppm và sử dụng IBA

2.000ppm có tỷ lệ hom ra rễ cùng đạt 94,44%. Hom giâm ở các vị trí cắt hom

khác nhau cho thấy, các hom bánh tẻ sau 20 ngày, 40 ngày và 60 ngày đều cho

kết quả cao nhất với các giá trị tương ứng về tỷ lệ hom sống (100%, 97,8% và

97,8%) và tỷ lệ hom ra chồi (20%, 52,2% và 97,8%). Nhân giống bằng hạt gieo

ngay trong cát ấm có tỷ lệ nảy mầm cao nhất (98,9%) chỉ sau 51 ngày. Hạt

ngâm trong nước ấm khoảng 400C trong 10 giờ, sau 55 ngày hạt bắt đầu nảy

mầm thấp hơn (82,2%) và thời gian bắt đầu nảy mầm sau 58 ngày.

Cây Hoàng đằng vốn mọc tự nhiên trong rừng và có sức sống mạnh, biên

độ sinh thái rộng. Qua nghiên cứu cho thấy có thể trồng được ở nhiều nơi. Tuy

nhiên, phù hợp nhất vẫn là trồng dưới tán rừng thứ sinh, rừng phục hồi ẩm, đất

tơi xốp. Xử lý thực bì bằng phương pháp thủ công, chủ yếu lá phát dây leo,

cây bụi xung quanh phần hố trồng khoảng 1m2. Cuốc hố theo hàng so le

nhau cự ly 2mx2m, kích thước hố 30x30x30cm, bón lót từ 3-5kg phân

chuồng hoai. Thời vụ trồng ở các tỉnh phía Nam tháng 6-7, tháng 3-4 ở các

tỉnh phía Bắc. Sau khi trồng chú ý giữa ẩm cho cây, đến cuối mùa khô cần

làm cỏ, xới đất một lần. Từ năm thứ 2 trở đi mỗi năm tiến hành làm cỏ 1 lần,

cắm cọc để cây leo lên, có thể mở tán để cây có nhiều ánh sáng hơn. Tuy

nhiên, tác giả chưa nói rõ là mở tán với độ tàn che là bao nhiêu % thì phù hợp.

Trong một công trình nghiên cứu khác, Trần Văn Ơn (2004), cho thấy giá

trị thương mại và khả năng gây trồng của các loài thuốc ở Việt Nam và ở VQG

Tam Đảo. Trong đó, tác giả ghi nhận loài Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria)

có khả năng trồng bằng cành ở Ba Vì.

Theo Diệp Anh Tuấn (2015) cẩm nang thực tập chuyên ngành Sinh thái

và tài nguyên gồm các mục từ mục đích - ý nghĩa, phương pháp thu mẫu, đo

đạc các chỉ tiêu tại thực địa, dụng cụ cần thiết, cách thức xử lý mẫu cho tới các

18

lưu ý những vấn đề có thể dẫn tới sai lệch kết quả, theo trật tự liên quan tới

công tác điều tra môi trường vật lý tới môi trường sinh học.

* Nhận xét: Điểm qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên

quan đến lĩnh vực nghiên cứu cho thấy đến nay các nghiên cứu về cây Hoàng

đằng khá nhiều, tập chung chủ yếu về đặc điểm phân loại, sinh thái học, tác

dụng và kỹ thuật gây trồng... Những nghiên cứu này đã góp phần quan trọng

cho bảo tồn và phát triển các loài cây dược liệu quý, cải thiện đời sống của

người dân vùng núi Việt Nam. Mặc dù là những cây dược liệu thuộc loại quí

hiếm và đang có nguy cơ tuyệt chủng ngoài tự nhiên nhưng những nghiên cứu về

loài cây thuốc này một cách toàn diện lại chưa được thực hiện. Đến nay nghiên

cứu đặc điểm sinh thái học và kỹ thuật nhân giống loài cây Hoàng đằng bằng

phương pháp giâm hom đã được các nhà khoa học trong nước ta nghiên cứu khá

nhiều, việc lựa chọn nghiên cứu vấn đề này để làm cơ sở cho việc phát triển bền

vững loài dược liệu quý Hoàng đằng cũng như để bảo tồn, thương mại hoá sản

phẩm và phát triển kinh tế vùng nông thôn, miền núi nói chung và tại miền núi

nói riêng.

1.3 Tổng quan về khu vực nghiên cứu

1.3.1. Đặc điểm tự nhiên của khu vực nghiên cứu

1.3.1.1. Vị trí địa lý

Huyện Võ Nhai nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Thái Nguyên có vị trí địa

lý 105o45 phút – 106o27 phút kinh độ đông; 21o36 phút – 21o56 phút vĩ độ bắc.

Phía bắc giáp huyện Chợ Mới và Na Rì tỉnh Bắc Kạn, Phía nam giáp huyện

Yên Thế tỉnh Bắc Giang, Phía tây giáp huyện Đồng Hỷ và huyện Phú Lương,

Phía đông giáp huyện Bình Gia, Bắc Sơn, Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn.

19

Hình 1.1 Bản đồ huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên

1.3.1.2. Đặc điểm địa hình

Địa hình Võ Nhai khá phức tạp, chủ yếu là đồi núi, hình thành 3 vùng rõ

rệt: Vùng núi cao nằm ở phía Bắc, gồm 6 xã: Nghinh Tường, Sảng Mộc,

Thượng Nung, Cúc Đường, Thần Sa, Vũ Chấn, có đất rừng đa dạng với tập

đoàn cây, con phong phú, tạo nên cảnh đẹp tự nhiên. Tuy nhiên, do đặc điểm

là núi cao, dốc, phần lớn là núi đá vôi nên đất lâm nghiệp chiếm ưu thế, đồng

thời diện tích đất được phân tán.

1.3.1.3. Đặc điểm khí hậu

Huyện Võ Nhai có điều kiện địa hình phức tạp và được phân chia thành

3 vùng khác nhau nhưng điều kiện khí hậu miền núi bắc bộ nhưng có phần khắc

nghiệt hơn. Nhiệt độ bình quân hàng năm là 22,9oC, nhiệt độ cao tuyệt đối

khoảng 39,5oC vào tháng 6, nhiệt độ thấp tuyệt đối là 3oC vào tháng 1.

20

Chịu ảnh hưởng chế độ mưa của vùng núi Bắc Bộ, mùa mưa ở Võ Nhai

thường diễn ra từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm

sau. Lượng mưa trung bình hàng năm 1.941,5mm và phân bố không đều tập

trung vào các tháng mùa mưa khoảng 1.765mm (chiếm 91% tổng lượng mưa

cả năm), lượng mưa lớn nhất thường diễn ra vào tháng 8 trung bình 372,2mm.

1.3.1.4. Tài nguyên nước

Nguồn nước trên địa bàn huyện Võ Nhai khá phong phú, nhưng phân bố

không đều. Ngoài nguồn nước mặt từ sông, suối, còn có các mạch nước ngầm

từ các hang động trong núi đá vôi. Huyện Võ Nhai có hai con sông nhánh thuộc

hệ thống sông Cầu và sông Thương, được phân bố ở phía bắc và phía nam

huyện. Bên cạnh đó, huyện còn có sông Nghinh Tường có chiều dài 46km, bắt

nguồn từ những dãy núi của vòng cung Bắc Sơn (Lạng Sơn), chảy qua các xã

Nghinh Tường, Sảng Mộc, Thượng Nung, Thần Sa, rồi đổ ra sông Cầu. Khoảng

40% chiều dài dòng chảy là vùng đá vôi, thung lũng thường hẹp và sâu, vách

đá dựng đứng.

Ngoài ra, Huyện Võ Nhai có 11 hồ chứa nước, 50 đập kiên cố, 12 trạm

bơm, hệ thống kênh mương do nhà nước hỗ trợ và nhân dân đóng góp xây dựng

cũng góp phần đẩy mạnh công tác trồng trọt tại địa phương trong giai đoạn qua.

1.3.1.5. Tài nguyên đất

Hiện nay, tổng diện tích đất của huyện Võ Nhai là 84.480,41 ha, trong

đó được chia ra thành nhiều nhóm đất theo bảng 1.1 như sau:

Bảng 1.1: Hiện trạng đất Võ Nhai phân theo loại đất năm 2017

STT Loại đất

1 Đất phù sa 2 Đất đen 3 Đất xám bạc màu 4 Đất nâu đỏ 5 Đất nâu vàng Diện tích (ha) 1.816,00 1.869,50 59.977,20 5.740,80 709,50 Cơ cấu (%) 2,15 2,21 70,97 6,79 0,83

21

6 Đất vàng nhạt 7 Các loại đất khác Tổng diện tích đất 3.297,00 11.070,41 84.480,41 3,90 13,09 100,00

(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Võ Nhai năm 2017)

Qua bảng trên ta có nhận xét:

Thứ nhất, đất phù sa ngòi suối hiện nay của huyện đạt 1.816 ha, chiếm

2,15% so với toàn diện tích đất huyện. Đất này có thành phần cơ giới nhẹ, cấp

hạn lớn, tỷ lệ mùn trung bình, hàm lượng lân dễ tiêu khá. Tuy nhiên, đất này có

nhược điểm là chua và tỷ lệ các nguyên tố vi lượng khá nghèo.

Thứ hai, đất đen với diện tích là 1.869,5 ha, chiếm 2,21% đất tự nhiên

của huyện. Loại đất này hình thành chủ yếu trên đá mẹ hoặc mẫu chất giàu

base, phân bố trong vành đai nhiệt đới ẩm, đã có những biểu hiện khá rõ của

quá trình rửa trôi, tích tụ sét, hình thành một tầng B thỏa mãn các yêu cầu của

tầng Argic. Đất đen này giàu mùn, đạm, lân nhưng nghèo kali. Do đó, loại đất

này có thể trồng nhiều loại cây trên cạn như: thuốc lá, các loại đậu đỗ, bông

vải, bắp,… và các cây dài ngày như chuối, cây ăn quả, cây lúa nước,….

Thứ ba, đất xám bạc màu chiếm nhiều nhất đạt 59.977,2 ha, chiếm

70,97% diện tích. Đây là đất Ferelit được phát triển trên đá biến chất được phân

bố đều ở các xã trong huyện, thành phần cơ giới trung bình và tầng đất có kết

cấu tơi xốp nên dễ bị sụt lở, có độ chua.

Thứ tư, đất nâu đỏ là 5.740,8 ha, chiếm 6,79% diện tích. Đây là đất

Ferelit được phát triển trên đá vôi. Loại đất này có tầng mỏng nhưng cấu tạo

của đất tốt, hàm lượng các nguyên tố vi lượng trong đất như Ca, Mg rất lớn.

Thứ năm, đất nâu vàng là 709,5 ha, chiếm 0,83% diện tích được phát

triển trên phù sa cổ. Loại đất này có tầng dày trên 1m và năm trên sườn đồi có

độ dốc nhỏ hơn 120. Chất lượng đất ở đây chua, nghèo nàn, đồng thời có lượng

nhôm di động cao.

22

Thứ sáu, đất vàng nhạt là 3.297 ha, chiếm 3,9% diện tích. Đây là tầng

đất trung bình, có thành phần cơ giới nhẹ với hàm lượng mùn và chất hữu cơ

nghèo. Đất này có hạn chế là có độ chua rất cao, dễ bị xói mòn và bị bạc màu.

Thứ bảy, các loại đất khác là 11.070,41 ha, chiếm tỷ lệ 13,09%. Đây là

những loại đất biến đổi, thường xuyên bị ngập nước nên có độ chua cao, hàm

lượng dinh dưỡng ở mức trung bình, tầng đất dày khoảng 50cm và có kết cấu

kém, dễ bị rửa trôi.

1.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

1.3.2.1. Đặc điểm kinh tế huyện Võ Nhai

Hiện nay, so với các huyện khác của tỉnh Thái Nguyên, huyện Võ Nhai

vẫn là huyện vùng cao nhiều khó khăn, mức sống đồng bào còn thấp, kinh tế

xã hội còn chưa phát triển. Chính vì vậy, cấp ủy chính quyền các cấp trong

huyện Võ Nhai luôn xác định phát huy tối đa nội lực lồng ghép với những chính

sách quan tâm của Nhà nước nhằm phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống

cho nhân dân các dân tộc trong huyện.

Bảng 1.2 Cơ cấu kinh tế huyện Võ Nhai giai đoạn 2015 - 2017

Đơn vị tính: %

Chỉ tiêu 2015 2016 2017

Nông lâm nghiệp, thủy sản 43,51 45,44 45,90

Công nghiệp - xây dựng cơ bản 37,20 33,88 34,35

Thương mại - dịch vụ 19,29 20,68 19,75

Tổng 100,00 100,00 100,00

(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Võ Nhai giai đoạn 2015-2017)

Giao thông: Trên địa bàn huyện Võ Nhai có tuyến quốc lộ 1B dài 27 km

chạy qua nối với các huyện của tỉnh Lạng Sơn, tuyến đường liên tỉnh là đường

nhựa, đường liên xã bao gồm cả đường nhựa và đường cấp phối còn lại là đường

liên thôn, xóm chủ yếu là đường đất.

23

Thủy lợi: Hệ thống thủy lợi với 73 công trình lớn nhỏ đảm bảo tưới tiêu

cho diện tích đất nông nghiệp. Tuy nhiên chất lượng các công trình đang bị

xuống cấp cần được đầu tư nâng cấp, sửa chữa đồng thời kiên cố hóa lại các hệ

thống kênh mương còn lại, xây dựng thêm hồ chứa nước, các hệ thống tiêu lũ

để đảm bảo tưới tiêu cho diện tích đất nông nghiệp và phục vụ công tác phòng

chống chữa cháy rừng.

Điện, nước sinh hoạt : Tất cả các xã trong vùng dự án đều đã có điện lưới

quốc gia đã cung cấp cho 88% dân số trong toàn xã, nhưng do bán kính phục

vụ của các trạm biến áp quá lớn nên xảy ra quá tải vào giờ cao điểm.

Thông tin liên lạc: Hiện nay tất cả các xã trong vùng dự án đều có thông

tin liên lạc đến trung tâm xã. Tuy nhiên có nhiều thôn bản do nằm cách xa trung

tâm nên thông tin liên lạc còn nhiều hạn chế.

1.3.2.2. Đặc điểm xã hội huyện Võ Nhai

Theo niên giám thống kê năm 2015 của huyện Võ Nhai thì vùng dự án

bao gồm 14 xã và 01 thị trấn có có 39.128 lao động, chiếm 65 % dân số trong

vùng dự án, lao động ở nông thôn là 27.500 người chiếm 80% tổng nguồn lao

động. Nguồn lao động dồi dào song trình độ lao động còn thấp. Vì vậy trong

tương lai cần chú trọng tập trung đào tạo nghề, nâng cao trình độ chuyên môn

nghiệp vụ và giới thiệu việc làm cho người lao động, đảm bảo việc tiếp nhận

và chuyển giao kỹ thuật công nghệ tiên tiến hiện đại áp dụng vào sản xuất nhằm

nâng cao chất lượng cũng như sản lượng các sản phẩm làm ra, nâng cao thu

nhập, cải thiện và ổn định cuộc sống cho người dân từng bước đi lên trong quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa huyện Võ Nhai nói riêng và tỉnh Thái

Nguyên nói chung. Cơ cấu lao động theo cơ cấu kinh tế của huyện Võ Nhai

giai đoạn 2015-2017 cụ thể như sau:

Bảng 1. 3 Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của huyện Võ Nhai

giai đoạn 2015-2017

Ngành kinh tế

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

So sánh

So sánh

24

2016/2015

2017/2016

Số

Số

Số

Số

Số

cấu

cấu

cấu

(%)

(%)

lượng

lượng

lượng

lượng

lượng

(%)

(%)

(%)

Nông, lâm, ngư

17.548

52,09

17.479

47.90

17.373

44.40

-69

99.6

-106

99.4

nghiệp

Công nghiệp,

11.422

33,91

13.834

37.91

15.761

40.28

2412

121.1

1927

113.9

xây dựng

Thương mại,

4.716

14,0

5.174

14.18

5.994

15.32

458

109.7

820

115.8

dịch vụ

33.686

686

36.487

100,0

39.128

100,0

2.801

108.3

2.641

107.2

Tổng cộng

(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Võ Nhai giai đoạn 2015-2017)

Tỷ trọng lao động làm trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp có xu

hướng giảm trong giai đoạn 2015-2017. Cụ thể: năm 2015 là 52,09%, năm 2016

là 47,9%, giảm 4,19% so với năm 2015. Đến năm 2017, con số này chỉ còn là

44,4%, giảm 3,5% so với năm 2016. Mặc dù thu nhập của lao động bình quân

có sự tăng nhẹ nhưng tỷ trọng lao động trong ngành này vẫn giảm so với các

ngành khác. Điều này xuất phát từ việc thu nhập thực tế của người dân làm

trong lĩnh vực này tăng nhưng không cao so với các ngành công nghiệp và dịch

vụ.

* Nhận xét: Huyện Võ Nhai có địa hình phức tạp, đồi núi là chủ yếu, đất

ruộng ít, phần lớn diện tích là đồi núi thấp và núi đá vôi, những vùng đất bằng

phẳng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp nhỏ, chủ yếu theo các khe suối, triền

sông và thung lũng. Do đó, huyện Võ Nhai gặp khó khăn hơn so với các huyện

khác trong tỉnh. Bởi đây là huyện có địa bàn nằm ở vùng sâu, vùng xa các trung

tâm kinh tế lớn của tỉnh, lại không có cửa khẩu biên giới nên việc giao lưu,

buôn bán bị hạn chế, thu hút đầu tư từ bên ngoài gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên

địa hình đồi núi cộng với điều kiện khí hậu thuân lợi, nguồn nước khá phong

phú , có nhiều loại đất canh tác phù hợp với nhiều loại cây trồng, nhất là cây

công nghiệp, cây ăn quả và trồng rừng, đất ở đây chủ yếu là đồi núi thích hợp

25

cho phát triển các loại rừng trồng; thuận lợi trồng các loài cây lâm nghiệp như

Mỡ, các loại Keo, các loài cây bản địa có giá trị như Lim xanh, Lát hoa, Muồng

đen, Trám, Kháo vàng,...

26

Chương 2

NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Cây Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria Lour) thuộc họ Tiết dê

(Menispermaceae), bộ Mao lương (Ranunculales)

- Các loại thuốc kích thích ra rễ cho cây Hoàng Đằng được dùng là: IAA,

IBA và NAA với 5 công thức nồng độ khác nhau là 500ppm, 1500ppm,

1500ppm, 2000ppm và đối chứng (không sử dụng chất điều hòa sinh trưởng)

- Các loại giá thể cho cây Hoàng Đằng giai đoạn vườn ươm là Cát vàng,

Trấu sống, phân chuồng hoai mục và supe lân Lâm thao.

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

2.2.1. Địa điểm: Xã Nghinh Tường, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên

2.2.2. Thời gian tiến hành

Đề tài được thực hiện từ tháng 7 năm 2019 đến tháng 8 năm 2020.

2.3. Nội dung nghiên cứu

- Nghiên cứu đặc điểm sinh thái học của cây Hoằng đằng ở khu vực

nghiên cứu.

- Nghiên cứu ảnh hưởng của loại thuốc kích thích và nồng độ thuốc

đến tỷ lệ sống, khả năng chồi và ra rễ của hom cây Hoàng Đằng

- Nghiên cứu ảnh hưởng của vị trí hom đến khả năng ra rễ cây Hoàng Đằng

- Nghiên cứu ảnh hưởng của giá thể (hỗn hợp ruột bầu) đến khả năng ra

rễ của hom cây Hoàng Đằng

2.4. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp chung để điều tra nghiên cứu là áp dụng theo “Quy trình

điều tra dược liệu” của Bộ y tế, 1973 và “Phương pháp điều tra thu thập cây

thuốc” của Nguyễn Tập, 2006.

27

2.4.1. Phương pháp kế thừa số liệu

Thu thập các tài liệu liên quan đến khu vực nghiên cứu như: bản đồ địa

hình, bản đồ hiện trạng rừng, các tài liệu về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã

hội, các báo cáo nghiên cứu khoa học về thực vật ở khu vực điều tra.

Kế thừa có chọn lọc các tài liệu, công trình nghiên cứu có liên quan của

các nhà khoa học trong và ngoài nước đã nghiên cứu tại các địa phương có loài

Hoàng đằng phân bố để bổ sung các thông tin cho luận văn.

2.4.2. Phương pháp ngoại nghiệp

Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đây có liên quan đến

cây Hoàng Đằng đã được công bố lựa chọn các điểm điều tra nghiên cứu cây

Hoàng Đằng tại các khu vực có sự phân bố của cây Hoàng Đằng. Ở các địa

điểm nghiên cứu tiến hành thiết lập các tuyến điều tra để điều tra sự phân bố

của loài Hoàng Đằng.

a) Phương pháp nghiên cứu đặc điểm hình thái: Sử dụng phương pháp

quan sát mô tả trực tiếp đối tượng lựa chọn đại diện kết hợp với phương pháp

đối chiếu, so sánh với các tài liệu đã có. Đây là phương pháp thông dụng được dùng

trong nghiên cứu thực vật học Nguyễn Hoàng Nghĩa (2001). Cụ thể như sau:

- Quan sát mô tả hình thái và xác định kích thước của các bộ phận: thân

cây, vỏ cây, sự phân cành, lá, hoa và hạt của cây Hoàng đằng, đối với thân cây

ta dùng thước dây để xác định chu vi tại vị trí D1.3, đo lá và quả bằng cách

chọn những lá và quả sinh trưởng bình thường không bị sâu bệnh hay biến dạng

dùng thước kẻ hoặc thước dây đo chiều dài và rộng rồi ghi lại các thông số đã

đo vào bảng, ngoài ra chúng ta có thể dùng thước kẹp để đo kích thước quả rất

tiện lợi và có độ chính xác cao.

- Lấy mẫu tiêu bản không những của loài nghiên cứu mà lấy của các loài

khác trong quần xã phục vụ cho việc định danh loài. Các mẫu vật thu được cần

so sánh với các tiêu bản trước đây hoặc những loài cây có hình thái tương tự

nhằm xác định tính chính xác của loài Nguyễn Hoàng Nghĩa (2001) .

28

- Đo đếm giá trị trung bình của lá và quả cây Hoàng đằng. Thu hái 100

mẫu lá, quả ở 3 vị trí trên tán cây (dưới tán, giữa tán và đỉnh tán).

- Dụng cụ thiết bị hỗ trợ: Máy ảnh, thước dây, ống nhòm, thước đo độ

cao, GPS,…

b) Điều tra theo tuyến ngẫu nhiên: Dựa trên thực địa để xác định và thu

thập được đầy đủ nhất số lượng cây Hoàng đằng hiện có ở khu vực nghiên cứu,

tại mỗi điểm điều tra, lập tuyến đi qua các kiểu địa hình và dạng sinh thái đặc

trưng để thu thập số liệu về loài theo yêu cầu. Chúng tôi đã dựa vào độ cao,

hướng phơi và trạng thái rừng để tiến hành lập tuyến cụ thể là 3 tuyến để tiến

hành điều tra.

Phương pháp được thực hiện là những phương pháp thông dụng được

sử dụng trong điều tra lâm học và nghiên cứu thực vật học của Nguyễn Nghĩa

Thìn (2007) .

Kế thừa tài liệu đã có kết hợp với điều tra bổ sung theo tuyến ngoài thực

địa nhằm xác định vùng phân bố của loài Hoàng đằng. Tại Khu vực nghiên cứu

lập các tuyến điều tra đi qua khu vực có loài Hoàng đằng phân bố và đi qua các

trạng thái rừng khác nhau. Trên các tuyến điều tra, tiến hành điều tra phát hiện

bằng cách quan sát. Nhận dạng qua đặc điểm hình thái trên những tuyến điều

tra.

Dựa trên bản đồ địa hình và bản đồ quản lý khu vực tiến hành sơ thám

khu vực nghiên cứu, tham khảo các tài liệu liên quan và các cán bộ, người dân

quen biết thông thạo địa hình. Lập kế hoạch cho công tác điều tra ngoại nghiệp.

Đề tài đã chọn và lập tuyến điều tra đại diện cho khu vực nghiên cứu như

bảng 2.1

Bảng 2.1. Tổng hợp điều tra theo tuyến tại khu vực nghiên cứu

Tuyến Toạ độ ( X – Y) Độ cao (m) Độ dốc (độ) Hướng Phơi Độ tàn che Trạng thái rừng

29

Đông 0608468 201 32 0.4 Nứa - Gỗ 1 Bắc 2418432

Tây 0608117 212 28 0.5 Vầu - Gỗ 2 Nam 2418351

0607768 297 31 Nam 0.5 IIA 3 2418213

c) Điều tra trên các ô tiêu chuẩn (OTC): Do hiện nay số lượng cây Hoàng

đằng trong tự nhiên còn rất ít, trên mỗi tuyến chúng tôi sẽ tiến hành lập 2-3 ô

tiêu chuẩn nơi xuất hiện cây Hoàng đằng và để đảm bảo tính đa dạng của thực

vật chúng tôi sẽ tiến hành lập OTC mỗi ô có diện tích 2.000 m2 với kích thước

(50mx40m).

Qua sơ thám, điều tra trên các tuyến, chúng tôi đã lập được tổng cộng 3

tuyến đo, tại các tuyến đo có xuất hiện cây Hoàng đằng lập 8 ô tiêu chuẩn.

- Để tăng tính đại diện của ô mẫu điển hình phải đảm bảo các yêu cầu

sau:

- Ô phải nằm gọn trong lâm phần hoặc lô rừng.

- Ô phải nằm cách xa đường mòn lớn, đường cái, bìa rừng ít nhất là 10m.

- Ô không được vượt qua khe hoặc vắt qua dông núi.

- Ô phải đồng nhất về các yếu tố kết cấu địa hình, đất đai,... đã nêu trên.

- Ô không chứa đựng các khoảng trống lớn trong ô (Mật độ cây phải rải

đều trong toàn bộ diện tích ô).

- Phải thuận lợi cho các thao tác điều tra. Tại các điểm đo nếu xuất hiện

loài Hoàng đằng, tiến hành lập các OTC. Trên các điểm đo, tiến hành điều tra

toàn diện bộ diện tích 2.000m 2, tiến hành đo đếm các thông tin như tầng cây

gỗ, cây tái sinh, cây bụi và thảm tươi trên diện tích OTC có cây Hoàng đằng

phân bố tự nhiên.

Cách lập ô tiêu chuẩn. Sử dụng cọc tiêu + thước dây: Để lập ô bằng

30

phương pháp này trước tiên ta phải xác định được hướng của ô định lập sau đó

dùng cọc tiêu xác định một điểm làm tâm của OTC. Điều tra các thông tin

trong ô tiêu chuẩn theo phương pháp điều tra lâm học Hoàng Kim Ngũ và

Phùng Ngọc Lan, (2005). Số liệu thu thập được ở các ô tiêu chuẩn trên tuyến

điều tra, trên các vị trí khác nhau được nghi chép theo các mẫu biểu lập sẵn.

Các chỉ tiêu cần xác định là: Loài cây chiếm ưu thế tầng cây cao, tầng cây bụi

và tình hình tái sinh của loài v.v. Dụng cụ và thiết bị hỗ trợ: GPS, máy ảnh,

thước kẹp, thước dây, thước đo cao, bảng biểu lập sẵn (chi tiết biểu mẫu phụ

lục 0). Tại các OTC có loài Hoàng đằng phân bố, tiến hành điều ta, mô tả các

chỉ tiêu cần phục vụ cho các nội dung nghiên cứu của đề tài như độ dốc mặt

đất, hướng phơi, độ cao, xác định tên loài cây có trên OTC. Sau đó xách định

tên loài và các chỉ tiêu đo đếm của tầng cây gỗ:

- Đường kính thân cây (D1.3 cm) được đo bằng thước dây.

- Chiều cao vút ngọn (Hvn, m) và chiều cao dưới cành (Hdc, m) được

đo bằng thước đo cao với độ chính xác đến dm. Hvn của cây rừng được xách

định từ gốc tới đỉnh sinh trưởng của cây, Hdc được xác định từ gốc đến cành

cây đầu tiên tham gia vào tán của cây rừng.

- Đường kính tán lá (Dt , m) được đo bằng thước dây, đo hình chiếu tán

lá trên mặt phẳng ngang theo hai hướng Đông Tây, Nam Bắc, sau đó tính trị

số bình quân.

- Điều tra tầng cây gỗ được ghi vào mẫu bảng phụ lục 01

d) Phương pháp điều tra cây tái sinh: Hoàng đằng là dạng sống dây leo,

nên chúng em phân chia thành các cấp. Tiến hành đo tái sinh cây Hoàng đằng

tiến hành các bước, xác định:

- Đo đếm toàn bộ cây tái sinh loài hoàng đằng trên OTC

- Tên loài cây tái sinh.

- Xác định chất lượng cây tái sinh:

31

 Cây tốt là cây thân thẳng, không cụt ngọn, sinh trưởng phát triển tốt,

không sâu bệnh.

 Cây xấu là những cây cong queo, cụt ngọn, sinh trưởng phát triển kém,

sâu bệnh.

 Còn lại là cây có chất lượng trung bình.

- Xác định nguồn gốc cây tái sinh: Hạt hay chồi Khi điều tra tái sinh trên

OTC, chúng tôi đồng thời xách định các chỉ tiêu: Độ tàn che, độ che phủ bình

quân và độ dốc mặt đất tại vị trí OTC. Điều tra cây tái sinh được ghi vào mẫu

bảng phụ lục 01.

đ) Phương pháp điều tra cây bụi, thảm tươi trên 08 OTC đã lập, chúng

tôi tiến hành đo đếm đồng thời các cây bụi và thảm tươi trên toàn bộ diện tích.

- Điều tra cây bụi (shrubs) theo chỉ tiêu: Tên loài chủ yếu, số lượng khóm

(bụi), chiều cao bình quân, độ che phủ trung bình của từng loài trên OTC, kết

quả ghi vào phiếu điều tra cây bụi

- Điều tra thảm tươi (ground cover vegettation) theo các chỉ tiêu: Loài

chủ yếu, chiều cao bình quân, độ che phủ bình quân của loài và tình hình sinh

trưởng của thảm tươi trên OTC. Để xác định độ che phủ của tầng cây bụi, thảm

tươi chúng tôi thực hiện như sau: dùng thước dây có chia vạch theo 2 đường

kính vuông góc với nhau của OTC, trên mỗi đường đã vạch tính tổng chiều dài

của những đoạn bị tán của cây bụi và thảm tươi che lấp, độ dài bị che lấp này

chia cho chiều dài đường kính của OTC sẽ thu được độ che phủ. Cộng tổng và

chia trung bình của 02 đường kính sẽ ra độ che phủ trung bình của 1 OTC.

2.4.3. Phương pháp nhân giống cây Hoàng Đằng

cây mẹ có thân và tán đẹp, sinh trưởng tốt. Cành được chọn lấy hom là những Bố trí thí nghiệm: Tiến hành thu mẫu hom cây Hoàng đằng từ những

cành bánh tẻ, mới ra trong mùa sinh trưởng. Hom được cắt vát 450 vào buổi

sáng bằng dao sắc, dài khoảng 13 - 17 cm, hom lành lặn, không dập xước. Dùng

kéo cắt bớt một phần lá và ngâm hom trong dung dịch chống nấm Benlate C,

32

nồng độ 0,1%trong thời gian 15 - 20 phút. Sau đó bó các hom lại và nhúng phần

gốc hom trong các loại chất điều hòa sinh trưởng khác nhau, rồi giâm lên

giá thể.

+ Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng và nồng độ

tới kết quả giâm hom. Ba loại chất điều hòa sinh trưởng (ĐHST) được sử dụng

là IAA, IBA và NAA với ba công thức nồng độ khác nhau, cụ thể: Thí nghiệm

được bố trí theo khối ngẫu nhiên đầy đủ, lặp lại 3 lần, mỗi lần 30 hom. Các

CTTN được tiến hành trong cùng một điều kiện môi trường.

CTTN1: Sử dụng IAA nồng đồ 500 ppm;

CTTN2: Sử dung IAA nồng độ 1.000 ppm;

CTTN3: Sử dụng IAA nồng độ 1.500 ppm;

CTTN4: Sử dụng IAA nồng độ 2.000 ppm;

CTTN5: Sử dụng NAA nồng độ 500 ppm;

CTTN6: Sử dụng NAA nồng độ 1.000 ppm;

CTTN7: Sử dụng NAA nồng độ 1.500 ppm;

CTTN8: Sử dụng NAA nồng độ 2.000 ppm;

CTTN9: Sử dụng IBA nồng độ 500 ppm;

CTTN10: Sử dụng IBA nồng độ 1.000 ppm;

CTTN11: Sử dụng IBA nồng độ 1.500 ppm;

CTTN12: Sử dụng IBA nồng độ 2.000 ppm;

Đối chứng (ĐC): Không sử dụng hóa chất.

Hom sau khi xử lý chất ĐHST, được giâm trên luống với 2 loại giá thể:

GT1 100% cát vàng; GT2 60% cát vàng + 40 % trấu sống. Luống giâm hom

được phủ kín nilon để giữ ẩm, tránh sự thoát hơi nước mạnh của hom mới

giâm. Lớp nilon này được bỏ ra khi tưới nước cho hom và khi thời tiết nắng

nóng. Làm giàn che khu vực giâm hom bằng lưới đen để hạn chế tác động trực

tiếp của ánh sáng mặt trời. Hằng ngày tưới nước sạch tạo ẩm 2 lần vào buổi

33

sáng và chiều tối, những ngày nắng nóng có thể tưới 3 – 4 lần bằng ô doa. Theo

dõi sự thay đổi nhiệt độ, độ ẩm trong suốt quá trình giâm hom.

+ Thí nghiệm 2: Kế thừa kết quả của thí nghiệm 1, tiến hành nghiên cứu

ảnh hưởng của giá thể đến kết quả giâm hom. Hom được xử lý bởi chất ĐHST

cho kết quả tốt nhất ở thí nghiệm 1, sau đó được giâm trên 2 loại giá

thể là: giá thể cho kết quả tốt hơn từ thí nghiệm 1 và giá thể có hỗn hợp gồm

89% đất

+ 10% phân chuồng hoai mục + 1% supe lân Lâm thao.

+ Thí nghiệm 3: Kế thừa kết quả của các nội dung nghiên cứu trên, tiến

hành tiếp thí nghiệm về ảnh hưởng của thời gian xử lí hom tới kết quả giâm

hom. Ở nồng độ của loại chất điều hòa sinh trưởng cho kết quả giâm hom tốt

nhất, hom được xử lý với 4 khoảng thời gian 15 phút, 20 phút, 25 phút và 30

phút. Sau khi xử lý hom được giâm trên loại giá thể cho kết quả giâm hom tốt

nhất từ thí nghiệm 2. Ba loại chất điều hòa sinh trưởng (ĐHST) được sử dụng là

IAA, IBA và NAA với ba công thức nồng độ khác nhau, cụ thể: Thí nghiệm

được bố trí theo khối ngẫu nhiên đầy đủ, lặp lại 3 lần, mỗi lần 30 hom. Các

CTTN được tiến hành trong cùng một điều kiện môi trường.

2.4.3.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng đến tỷ lệ ra rễ

đến nhân giống giâm hom cây Hoàng Đằng

Trong thí nghiệm này thử nghiệm 3 chất điều hòa sinh trưởng ở các nồng

độ khác nhau, cụ thể như sau:

Chất điều hòa sinh trưởng được dùng là IAA, IBA, và NAA với 5 công

thức nồng độ khác nhau là 500ppm, 1.000ppm, 1.500ppm, 2.000ppm và đối

chứng (không sử dụng chất điều hòa sinh trưởng).

Mỗi công thức sử dụng 90 hom, thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu

nhiên với 3 lần lặp lại, mỗi lần 30 hom cành. Chỉ tiêu theo dõi: Tỷ lệ sống, tỷ

lệ ra rễ (%), số lượng rễ và chiều dài rễ (cm) sau 90 ngày giâm.

2.4.3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của vị trí hom đến tỷ lệ ra rễ của hom

34

Sử dụng chất điều hòa sinh trưởng thích hợp nhất được xác định từ các thí

nghiệm ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng. Các thí nghiệm này hom được

lấy ở đoạn thân, cành có đường kính 0,3 – 0,5cm, chiều dài 13 – 17 cm. Chia vị

trí hom làm 3 cấp khác nhau: Hom già, hom bánh tẻ và hom non. Hom sau khi xử

lý được giâm vào bể giâm hom chứa cát sạch.

Thí nghiệm 30 hom/1 công thức x 3 lần lặp = 90 hom/1 công thức x 3 công

thức tuổi khác nhau = 270 hom.

2.4.3.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của hỗn hợp ruột bầu đến khả năng sinh trưởng của hom

Thành phần hỗn hợp ruột bầu: Thử nghiệm một số công thức hỗn hợp

ruột bầu như sau:

+ Công thức 1: 100% đất tầng B, không có phân

+ Công thức 2: 80% đất tầng B + 20% phân chuồng hoai

+ Công thức 3: 80% đất tầng B + 15% phân chuồng hoai + 5% NPK

+ Công thức 4: 90% đất tầng B + 10% NPK

- Kỹ thuật đóng và xếp bầu

Sơ đồ bố trí thí nghiệm:

Công thức 1 Công thức 2 Công thức 3 Công thức 4

Công thức 2 Công thức 1 Công thức 4 Công thức 3

Công thức 3 Công thức 4 Công thức 1 Công thức 2

Đất và phân để tạo hỗn hợp ruột bầu phải được trộn đều trước khi đóng bầu.

Ruột bầu không nên đóng quá chặt hoặc quá lỏng, ruột phải đảm bảo độ xốp độ

ẩm. Độ xốp của ruột bầu từ 60 – 70%. Kỹ thuật đóng bầu như sau: Dùng tay xoa

túi bầu để tách miệng bầu và kéo cho túi phồng ra, sau đó một tay giữ túi đồng

thời dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ giữ căng miệng túi. Tay kia bốc hoặc xúc

đất cho vào túi, được 1/3 túi thì ấn nhẹ cho đất hơi chặt ở đáy bầu. Tiếp tục cho

đất vào đầy túi, ấn nhẹ cho đất nén xuống đầy và cho thành bầu phẳng.

35

2.4.2.4. Chăm sóc theo dõi các chỉ tiêu của cây hom

Giâm hom: Ta chọn khu đất cao, khuất gió gần nguồn nước và đường

vận chuyển, độ dốc nhỏ. Cát (hoặc đất) được cày cuốc sâu 25-30cm, lên luống

cao 10-20cm, rộng 1-1,2m. Trước khi giâm phải xử lý cát: dùng vôi bột hoặc

hóa chất. Sau khoảng 6 - 8 tuần, khi hom ra rễ bứng cấy vào bầu. Sau khi cắm

hom, tưới đủ ẩm cho đất nền, chụp khung nilon. Hàng ngày tưới ẩm 2 - 3 lần

(những ngày trời nắng to thì tưới 3 lần), 2 - 3 ngày thì tưới ẩm cho nền cát một

lần, nền cát luôn giữ ẩm 60 -70%. Ở giai đoạn đầu, khi hom tách rời hoàn toàn

khỏi cơ thể mẹ, hom bị mất nước rất nhanh nếu không tưới nước kịp thời và

thường xuyên thì hom sẽ bị chết. Tưới nước vừa đủ, nếu tưới nhiều sẽ dẫn đến

hom dễ bị thối và chết, nếu tưới ít thì lượng nước này sẽ không cung cấp đủ

cho mọi hoạt động sống của hom, dần dần hom mất nước nhiều sẽ dẫn đến

chết.

Chăm sóc cây trong bầu: Thường xuyên theo dõi cây con, nhặt bỏ lá rụng

và cây chết. Phá váng, nhổ cỏ, tưới nước nhưng tránh để úng nước... Định kỳ

mỗi tuần tưới phân 1 lần với liều lượng 0,2kg NPK (5:10:3) hoà tan 6,6 lít

nước tưới cho 1.000 cây. Sau khi tưới phân, tưới rửa lại lá bằng nước sạch.

Định kỳ mỗi tuần phun Benlat một lần với nồng độ 0,06% (6g/10 lít

nước/50m2) để phòng nấm bệnh. Khi thấy nấm bệnh phát triển phải có

biện pháp xử lý kịp thời. Khi cây được 6 tháng tuổi, tiến hành đảo bầu lần

một, loại bỏ những cây chết và phân loại cây theo tình hình sinh trưởng.

+ Cây giống được 8-12 tháng tuổi có thể xuất vườn đem đi trồng.

2.4.4.Phương pháp xử lý số liệu

Các số liệu thu thập được phân tích, xử lý theo các phương pháp thống

kê, so sánh, được thực hiện trên máy tính theo chương trình phần mềm Excel,

SPSS để tính toán và xử lý số liệu. Tổng hợp số liệu và viết báo cáo.

36

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1. Đặc điểm sinh thái học của loài cây Hoàng đằng tại khu vực nghiên cứu

3.1.1. Đặc điểm hình thái của cây Hoàng đằng

3.1.1.1. Đặc điểm hình thái của thân và rễ cây Hoàng đằng

Các mẫu Hoàng đằng thu được tại 8 ô tiêu chuẩn tại xã Nghinh Tường,

huyện Võ Nhai đều mọc trên diện tích rừng thứ sinh, ở các trạng thái IIA, IB,

Rừng trồng Keo, Vầu - Gỗ, Nứa. Cây mọc trên vùng núi đất, nơi có sườn dốc,

xung quanh là cây bụi và cây thảo khá rậm rạp. Ánh sáng mặt trời hầu như

không chiếu được tới mặt đất, độ ẩm cao. Cây Hoàng đằng gặp trong khu vực,

qua xác định đều là loài (Fibraurea tinctoria Lour). Qua tiến hành điều tra thu

thập được số liệu cụ thể như bảng 3.1

Bảng 3.1: Chỉ tiêu về thân cây Hoàng đằng tại huyên Võ Nhai

Thân STT Chiều dài (m) Đường kính(cm)

1 3,2 0,2

2 7,0 3,0

3 5,2 1,2

4 7,5 2,5

5 8,0 3,3

6 6,5 2,2

7 5,5 1,0

8 6,0 0,5

9 7,0 0,4

10 8,3 2,5

11 9,5 3,6

12 17 4,5

13 15 4,0

14 8,0 2,1

15 9,0 2,5

37

14 16 3,6

16 17 4,3

12 18 3,1

10 19 0,7

Qua Bảng 3.1 cho thấy chiều dài trung bình của 19 cây Hoàng đằng là

9,2m và đường kính trung bình 2,4cm, cây có đường kính nhỏ nhất 0,2cm, dài

3,2cm, cây có đường kính to nhất là 4,5cm chiều dài 17m.

Hình 3.1. Hình ảnh mẫu Hoàng đằng xã Nghinh tường huyện Võ Nhai

Các mẫu cây đều có đặc điểm chung đó là những cây thân gỗ. Phần thân

già có lớp bần sần sùi màu xám trắng hay xám vàng dày nứt dọc sâu và rất dễ

bị bong mảng mủn, xốp, vị rất đắng. Phần thân non có các khía cạnh dọc theo

chiềudài thân. Thân non và lá non cắt ngang có nhựa mỏ mầu trắng. Rễ có kích

thước gần bằng thân, hoặc to hon, màu hơi vàng, lớp bần phía ngoài mỏng hơn

phần trên thân. Rễ thường ăn nổi trên mặt đất hoặc cách mặt đất 10 - 20cm, rễ

có thể dài hơn 30m, rễ chính lớn ít có rễ con. Cả thân và rễ khi cắt ngang đều

có màu vàng tươi, các tia ruột toả thành hình như nan hoa bánh xe.

3.1.1.2. Đặc điểm hình thái của lá

Để đánh giá về chiều dài, kích thước của lá. Đề tài đã tiến hành điều tra

100 lá cây Hoàng đằng tại khu vực nghiên cứu và ghi số liệu vào bảng 3.2 cụ

thể như sau:

38

Bảng 3.2: Số đo trung bình 100 lá trưởng thành

Chỉ số

Nhỏ nhất Chiều dài cuốn lá (cm) 5 Chiều dài lá (cm) 13 Chiều rộng lá (cm) 4

Lớn Nhất 19,5 32 24,8

Trung bình 15 20 12,5

Lá có chiều dài cuốn lá từ 05cm đến 19,5cm, chiều dài lá từ 13cm đến

32cm, chiều rộng là 04cm đến 24,8cm.

Hình 3.2: Lá trưởng thành và lá non cây Hoàng đẳng Fibraurea tinctoria Lour tại khu vực nghiên cứu

3.1.1.3. Đặc điểm hoa quả cây hoàng đằng

Để đánh giá chiều dài, kích thước của quả, đề tài đã tiến hành thu thập

100 mẫu quả để tiến hành đo và cho số liệu cụ thể như trong bảng 3.3

Bảng 3.3: Số đo trung bình 100 quả trưởng thành

Quả Chỉ số Chiều dài – L (m)

Đường kính (cm) 1,5 2,1 Nhỏ Nhất

3,5 2,5 Lớn Nhất

2,9 2,1 Trung Bình

Kết quả đo 100 lần lấy được 1kg quả là 260 quả, với số quả có đường

kính từ 1,5 đến 2,5cm, chiều dài từ 2,1 đến 3,5cm trên tổng 1kg quả.

39

Hình 3.3. Hình ảnh mẫu quả Hoàng đằng

Quả non xanh đậm có nhiều nút đêm thành chùm, có nhựa mầu tráng

trong quả, đường kính qua 2cm, chiều dài là 3cm, cuống quả 1-1,5cm, quả chín

màu vàng, trọng lượng quả là 260 quả/1kg.

3.1.2. Đặc điểm phân bố của loài Hoàng đằng

Đề tài tiến hành điều tra phân bố cây Hoàng đằng theo 3 nội dung: Phân

bố theo độ cao, Phân bố trong các trạng thái rừng và phân bố theo tuyến điều

tra.

3.1.2.1. Phân bố theo độ cao

Qua tiến hành điều tra ta có thể nhận thấy mật độ phân bố cây Hoàng

đằng theo độ cao, ở từng độ cao khác nhau thì mật độ xuất hiện cây Hoàng

đằng cũng khác nhau cụ thể trong bảng 3.4 như sau:

Bảng 3.4: Phân bố cây Hoàng Đằng theo độ cao tại huyện Võ Nhai

OTC Số cây Doo (cm) Độ cao (m)

1 212

2 269

3 297 1 1 1 1 1 1 1 3,2 7,0 5,2 7,5 8,0 6,5 5,5 L (m) 0,2 3,0 1,2 2,5 3,3 2,2 1,0

40

4 230

5 296

6 281

7 206

8 248

0,5 0,4 2,5 3,6 4,5 4,0 2,1 2,5 3,6 4,3 3,1 0,7 6,0 7,0 8,3 9,5 17 15 8,0 9,0 14 16 12 10 8 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 19

Tại khu vực nghiên cứu, theo số liệu thống kê ở bảng 3.4 cho thấy cây

Hoàng đằng có phân bố ở độ cao từ 206 m đến 297 m so với mặt nước biển. Do

bị khai thác quá mức nên sự phân bố tập chung của cây Hoàng đằng không thể

hiện rõ ràng ở độ cao nào. Nhìn chung cây Hoàng đằng phân bố tại khu vực

nghiên cứu là rất thưa và hiếm.

3.1.2.2. Phân bố theo trạng thái rừng

Qua tiến hành điều tra, kết quả cho thấy cây Hoàng đằng thường hay

phân bố theo trạng thái rừng cụ thể tại khu vực nghiêm cứu thống kê được

qua bảng 3.5 như sau:

Bảng 3.5: Phân bố cây theo trạng thái rừng

STT OTC Ghi chú

1 2 3 4 5 6 7 8 1 2 3 4 5 6 7 8 Rừng phục hồi Rừng phục hồi Bãi chăn thả Đất rừng trồng Keo Rừng bị khai thác kiệt Rừng tái sinh phục hồi Rừng phục hồi sau nương rẫy rừng phục hồi sau nương rẫy

Tổng Trạng thái V ầu - gỗ Nứa - g ỗ IB Rừng trồng Keo Nứa - gỗ IIA IIA Vầu, nứa, gỗ 8 Số cây 2 3 2 2 1 2 3 4 19

41

Tại khu vực nghiên cứu, theo số liệu thống kê ở bảng 3.5 cây Hoàng đằng

phân bố trong nhiều trạng thái rừng khác nhau (5 trạng thái). Các trạng thái đó

gồm: IB,IIA,Vầu - gỗ, nứa - Gỗ, và Rừng trồng Keo. Như vậy cây Hoàng đằng

có thể sinh trưởng trong nhiều trạng thái rừng khác nhau.

3.1.3. Đặc điểm của loài Hoàng đằng trong quần xã thực vật rừng

3.1.3.1. Đặc điểm tầng cây gỗ nơi có Hoàng đằng phân bố

Bảng 3.6: Sự tham gia của Hoàng đằng trong thành tầng cây gỗ

OTC Công thức tổ thành

Số lượng (cây) 75 Loài cây công thức tổ thành 24 1 2 3

11 6 4

76 68 85 31 25 35 5 6 7

11 6 8 3,90 VTr + 2,06 Vt +4,04 LK ( 27 Lk) Không có tầng cây gỗ Không có tầng cây gỗ 4,54 Vtr + 1,82h + 0,91k + 0,91Vt + 0,91 Tmv+ 0,91 Lk ( 1 Lk) 2,76Vtr + 2,36Vt + 4,88Lk (29 Lk) 2,79Vtr + 2,64Vt + 4,57 Lk ( 23 Lk) 3,05Vtr +2 Vt +4,95Lk ( 33 Lk) 0,58 Mlt + 5,88Vtr + 0,59V + 1,18Kđg +0,59Tt + 1,18Xđ

Tổng 326

Ghi chú:

Vtr: Vối thuốc răng cưa Vt: vối thuốc

Tmv: Thông mã vĩ Kh: Kháo

H: Hông Tb: Thôi ba

Tt: Trám trắng V: Vầu

Kđg: Kè đuôi giong Lk: loài khác

LCCTTT: Loài cây tham gia công thức tổ thành

N: Tổng số cây trong OTC

Qua tiến hành điều tra và từ bảng thống kê trên ta nhận thấy Hoàng

đằng có mặt trong tất cả các công thức tổ thành tầng cây gỗ, tuy nhiên số lượng

42

cây Hoàng đằng xuất hiện nhiều nhất là ở trạng thái rừng phục hồi sau nương

rẫy.

Thống kê ở bảng 3.6, chủ yếu là các loài cây gỗ: Vối thuốc răng cưa,

Vối thuốc, Muồng trắng, Mán đỉa cùng nhiều loài khác. Như vậy loài Hoàng

đằng phân bố rộng ở các trạng thái rừng kể cả trạng thái rừng có tầng cây gỗ

như IB, IC, tới các trạng thái rừng có tầng cây gỗ và ngay cả dưới tán rừng vầu

như tầng cây gỗ ở OTC 4 và 5. tầng cây vầu OTC 3.

3.1.3.2. Đặc điểm tái sinh loài Hoàng đằng phân bố

3.1.3.2.1.Nguồn gốc và mật độ tái sinh

Kết quả điều tra về nguồn gốc và mật độ cây tái sinh của cây Hoàng đằng

được đánh giá tính trên đơn vị diện tích của 8 OCT qua bảng số liệu bảng 3.7 như

sau

Bảng 3.7: Nguồn gốc, mật độ tái sinh của loài Hoàng đằng

Nguồn gốc OTC Số cây

1 2 3 4 5 6 7 8

Diện tích (m2) 2.000 2.000 2.000 2.000 2.000 2.000 2.000 2.000 Tỷ lệ % 2 3 2 2 1 2 3 4 19 Hạt 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Chồi 2 3 2 2 1 2 3 4 100

Qua bảng 3.7, cho ta thấy mật độ tái sinh cây Hoàng đằng xuất hiện

trong các OTC cụ thể là từ 1- 4 cây. Theo đánh giá thì nguồn gốc cây Hoàng

đằng tái sinh 100% từ chồi, nguyên nhân chính phần lớn là các cây trưởng

thành đã bị người dân chặt lấy gốc và thân làm dược liệu và một số phục vụ

mục đích kinh doanh, số cây tái sinh tong tự nhiên cũng không được bảo vệ

phần lớn cũng bị người dân chăn thả, đốt nương làm rãi do vậy làm cho độ cây

Hoàng đằng ngày càng giảm mạnh hơn.

43

3.1.3.2.2. Chất lượng cây tái sinh

Chất lượng cây Hoàng đằng tái sinh được đánh giá theo 3 cấp độ cụ thể

như sau:

 Cây tốt là cây thân thẳng, không cụt ngọn, sinh trưởng phát triển tốt,

không sâu bệnh.

 Cây xấu là những cây cong queo, cụt ngọn, sinh trưởng phát triển kém,

sâu bệnh.

 Còn lại là cây có chất lượng trung bình.

Bảng 3.8. Chất lượng cây Hoàng đằng tái sinh

Diện tích (m2) OTC Số cây

2.000 2.000 2.000 2.000 2.000 2.000 2.000 2.000

1 2 3 4 5 6 7 8 Tổng Tỷ lệ % Chất lượng cây tái sinh (%) Trung bình 0 1 2 1 0 0 1 1 6 31,6 Tốt 1 2 0 0 1 2 2 3 11 57,9 Xấu 1 0 0 1 0 0 0 0 2 10,5 2 3 2 2 1 2 3 4 19

Qua bảng 3.8 cho thấy tỷ lệ chất lượng cây Hoàng đằng tái sinh ở mức

tốt chiếm tỷ lệ 57,9%, trung bình chiếm 31,6 %, cây xấu chiếm 10,5%. Từ đó

cho thấy tại khu vực nghiên cứu chất lượng cây tái sinh tự nhiên còn khá tốt,

tuy nhiên cũng cần có các biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm tác động vào thảm

thực vật để thúc đẩy quá trình tái sinh của cây Hoàng đằng cao hơn.

3.2. Kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của chất kích thích và nồng độ đến

khả năng ra rễ, số rễ và chiều dài rễ của hom cây Hoàng Đằng

3.2.1. Ảnh hưởng của nồng độ và loại chất kích thích đến tỷ lệ ra rễ

44

Đề tài đã tiến hành thí nghiệm về nồng độ và loại chất kích thích đến khả

năng ra rễ của cây hom. Trong các thí nghiệm này, đã tiến hành thử nghiệm các

loại thuốc: IBA, IAA và NAA với các nồng độ: 500ppm, 1.000ppm, 1.500ppm

và 2.000ppm. Các hom trong thí nghiệm này được lấy ở những cành bánh tẻ,

chiều dài hom 13 – 17cm (mỗi hom có tối thiểu 3 đốt).

Hình 3.4. Cắt hom

Kết quả sau 22 ngày hom bắt đầu ra rễ, trong khi đó sau 11 ngày hom

đã bắt đầu ra mầm. Sau 45 ngày giâm hom ở các công thức khác nhau có thể

đem cấy cây vào bầu. Kết quả về giâm hom giữa các công thức thí nghiệm có

sự khác nhau về tỷ lệ hom ra rễ, số rễ trung bình, chiều dài rễ trung bình và được

thể hiện trong bảng 3.9.

45

Bảng 3.9. Kết quả giâm hom Hoàng đằng ở nồng độ và loại thuốc

khác nhau

Loại hoá chất Công thức Số hom thí nghiệm Số hom ra rễ Tỉ lệ ra rễ (%) Số rễ TB một hom Nồng độ ppm Chiều dài TB rễ (cm)

3,5 37,778 4,50 34 1 500 90

3,8 53,333 5,20 48 2 1.000 90

4,1 62,222 6,70 56 3 1.500 90 IBA

3,8 57,778 6,50 52 4 2.000 90

40,000 4,90 4,01 36 5 500 90

57,778 6,50 4,35 52 6 1.000 90

64,444 6,80 4,87 58 7 1.500 90 IAA

58,889 6,30 3,56 53 8 2.000 90

38,889 4,20 3,46 35 9 500 90

53,333 5,10 4,35 48 10 1.000 90

57,778 6,30 4,54 52 11 1.500 90 NAA

54,444 5,90 4,15 49 12 2.000 90

36,667 4,300 3,37 33 13 - 90 Đối chứng

PTPS CT F = 13.186 Sig. = 0.000

Qua số liệu ở bảng 3.9 cho thấy nồng độ và các chất điều hòa sinh trưởng

ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ hom ra rễ giữa các công thức thí nghiệm

(Sig.F<0,05), sử dụng chất điều hoà sinh trưởng I B A, IAA và NBA có tác

dụng kích thích ra rễ tốt hơn so với không sử dụng chất điều hoà sinh trưởng.

Tỷ lệ ra rễ tăng dần khi tăng nồng độ chất điều hoà sinh trưởng, tuy nhiên

khi nồng độ tăng lên 2.000ppm, tỷ lệ ra rễ lại giảm, cụ thể đối với chất IBA

tỷ lệ ra rễ cao nhất ở nồng độ 1.500ppm đạt 62,222%, tiếp theo là ở nồng độ

2.000ppm đạt 57,778%, thấp nhất ở nồng độ 500ppm đạt 37,778%; đối với

46

chất IAA cao nhất ở nồng độ 1.500ppm đạt 64,444%, tiếp theo là ở nồng độ

2.000ppm đạt 58,889%, thấp nhất ở nồng độ 500ppm đạt 40,000%; đối với

chất NAA cao nhất ở nồng độ 1500ppm đạt 57,778, thấp nhất ở nồng độ

500ppm đạt 38,889%.

Từ những kết quả và phân tích trên đây, nhận thấy rằng: Nồng độ tới

hạn cho cả 3 chất kích thích ra rễ là 1.500ppm. Trong 3 chất kích thích

sinh trưởng nêu trên, chất IAA cho tỷ lệ ra rễ cao nhất ở cùng một nồng độ

là 1.500ppm, điều này chứng tỏ IAA có tác dụng kích thích ra rễ của hom

Hoàng đằng tốt hơn so với IBA và NAA. Số liệu bảng 3.9 được minh họa qua

biểu đồ hình 3.5a, 3.5b và 3.5c dưới đây.

Hình 3.5a Hình 3.5c

Hình 3.5b

3.2.2. Ảnh hưởng của nồng độ và loại chất kích thích đến số rễ, chiều dài rễ

Qua bảng số liệu 3.9 cho thấy nồng độ các chất điều hoà sinh trưởng

đã ảnh hưởng rõ rệt đến số rễ và chiều dài của rễ, khi nồng độ tăng thì số rễ và

chiều dài rễ cũng có xu hướng tăng theo. Cả 3 chất IBA và IAA và NAA ở

47

nồng độ 1.500ppm đều cho số rễ và chiều dài rễ đạt cao nhất, cụ thể số rễ

trung bình đạt các giá trị tương ứng 6,7 và 6,8 và 6,3, chiều dài rễ trung bình

đạt 4 , 1 cm và 4 ,87cm và 4,54cm. Thấp nhất là công thức đối chứng (không

sử dụng chất kích thích sinh trưởng) với số rễ trung bình đạt 4,3 và chiều dài

rễ đạt 3,37cm. Kết quả phân tích phương sai một nhân tố về số rễ TB/hom

cho thấy đã có sự khác nhau rõ rệt giữa các công thức (Sig.<0,05), lựa chọn

công thức có số rễ ra nhiều nhất bằng tiêu chuẩn Duncan. Từ số liệu bảng

3.9 được minh họa qua biều đồ hình 3.6a, 3.6b và 3.6c dưới đây.

Hình 3.6a, 3.6b và 3.6c

Một số hình ảnh về giâm hom cây Hoàng đằng tại vườn ươm và một số

cây con đã đủ tiêu chuẩn để tiến hành đem trồng.

48

Hình 3.7. Một số hình ảnh về giâm hom cây Hoàng đằng

Kết luận:

Từ những kết quả nghiên cứu trên đây bước đầu rút ra một số kết luận sau:

- Cả 3 loại thuốc kích thích ra rễ: IBA, IAA và NAA đều có ảnh hưởng

đến tỷ lệ ra rễ của hom, đến số rễ và chiều dài rễ ở những mức độ khác nhau.

- Về nồng độ: Bước đầu ghi nhận ở nồng độ 1500ppm cho hiệu quả cao nhất.

- Về loại thuốc: Thuốc IAA hiệu quả cao hơn thuốc IBA và NAA.

- Trong nhân giống cây Hoàng đằng bằng phương pháp giâm hom

nên sử dụng thuốc kích thích ra rễ IAA với nồng độ 1.500ppm.

3.3. Ảnh hưởng của vị trí hom đến khả năng ra rễ

Trong thí nghiệm này, không thể xác định chính xác vị trí của hom đem thí

nghiệm. Đề tài đã chia vị trí hom làm 3 cấp khác nhau: Hom già, hom bánh tẻ và

hom non.

- Hom già là hom được cắt ở 1/3 đoạn cành phía gốc cành.

- Hom bánh tẻ là hom được cắt ở 1/3 đoạn cành tiếp theo.

- Hom non là hom được cắt ở 1/3 đoạn cành phía trên ngọn cành.

Loại chất kích thích ra rễ sử dụng loại thuốc: IAA, nồng độ 1500ppm

Kết quả sau 20 ngày hom bắt đầu ra rễ, trong khi đó sau 10 ngày hom đã

bắt đầu ra mầm. Sau 45 ngày giâm hom ở các công thức khác nhau có thể

đem cấy cây vào bầu. Kết quả về giâm hom giữa các công thức thí nghiệm có

sự khác nhau về tỷ lệ hom ra rễ, số rễ trung bình, chiều dài rễ trung bình và được

49

thể hiện trong bảng 3.10.

Bảng 3.10. Kết quả giâm hom Hoàng đằng ở các vị trí hom khác nhau

Vị trí hom Công thức Nồng độ ppm Số hom thí nghiệm Số hom ra rễ Tỉ lệ ra rễ (%) Số rễ TB một hom Chiều dài TB rễ (cm)

Già 1 1.500 90 52 57,777 6,20 4,15

1.500 1.500 90 90 60 48 66,666 53,333 7,22 5,30 4,96 3,76 Bánh tẻ Non Bánh tẻ 2 3

Kết quả ở bảng 3.10 cho thấy sự khác biệt về tỉ lệ ra rễ, số rễ và chiều dài

rễ của hom được cắt ở các vị trí khác nhau là có ý nghĩa thống kê, giúp chúng tẻtẻ

ta lựa chọn được vị trí hom tốt nhất để tiến hành giâm hom cây Hoàng đằng để

đạt được kết quả, chất lượng cây tốt nhất trước khi xuất vườn đem trồng. Bánh tẻ

- Vị trí hom có ảnh hưởng đến tỷ lệ ra rễ của hom cây Hoàng đằng, trong

điều kiện cùng loại thuốc kích thích ra rễ, cùng nồng độ, cùng thời gian xử lí

nhưng tỷ lệ ra rễ khác nhau. Cụ thể với hom cành già tỷ lệ ra rễ đạt 57,777%,

hom bánh tẻ đạt tỷ lệ ra rễ 66,666% và hom non đạt tỷ lệ ra rễ 53,333%. Để

khẳng định chắc chắn tuổi hom có ảnh hưởng đến tỷ lệ ra rễ hay không, đề tài

đã tiến hành phân tích phương sai một nhân tố để kiểm tra. Kết quả phân tích

phương sai một nhân tố cho thấy: Vị trí hom có ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ ra

rễ của hom Hoàng đằng. Căn cứ sai dị từng cặp đã chọn ra công thức cho tỷ lệ

ra rễ tốt nhất, đó là hom vị trí bánh tẻ. Kết quả nghiên cứu trên đây cũng phù

hợp với kết quả nghiên cứu của tác giả Trần Ngọc Hải (2008) khi nghiên cứu một

số phương pháp nhân giống cây Hoàng đằng.

- Vị trí hom có ảnh hưởng đến số lượng rễ/hom của cây Hoàng đằng. Mặc

dù cùng điều kiện về nồng độ, loại chất kích thích và thời gian xử lí, nhưng số

lượng rễ/hom không giống nhau. Sự khác nhau đó có thể được giải thích như

sau: Hom cành già các tế bào của lớp tượng tầng đã già cỗi, khả năng phân

chia tế bào để tạo mô sẹo hình thành rễ kém nên tỷ lệ ra rễ của loại hom này

50

thấp. Hom cành non khả năng phân chia tế bào của lớp tượng tầng diễn ra rất

mạnh để hình thành mô sẹo, tuy nhiên do các tế bào này còn non chưa ổn định

nên khả năng chống chịu kém dẫn đến tỷ lệ hom ra rễ thấp. Với loại hom bánh

tẻ khả năng phân chia tế bào diễn ra mạnh, ổn định nên tỷ lệ ra rễ của loại hom

này cao hơn so với hom cành già và hom còn non.

- Vị trí hom có ảnh hưởng đến chiều dài rễ. Hom già đạt chiều dài rễ trung

bình là 4,15cm, hom non đạt chiều dài rễ trung bình nhỏ nhất 3,76cm và hom

bánh tẻ đạt chiều dài trunng bình lớn nhất 4,96cm.

Số liệu bảng 3.10 được minh họa qua biểu đồ hình 3.8 dưới đây

Ảnh hưởng của vị trí hom đến tỉ lệ ra rễ

Ảnh hưởng của vị trí hom đến chiều dài rễ

Ảnh hưởng của vị trí hom đến tỉ lệ ra rễ

%

Cm 6

Rễ 8

70

7

60

5

6

50

4

5

40

3

4

30

3

2

20

2

1

10

1

0

0

0

Già

Bánh tẻ Non

Già

Bánh tẻ Non

Già

Bánh tẻ Non

Hình 3.8. Ảnh hưởng của vị trí hom đến tỷ lệ ra rễ, số rễ và chiều dài rễ

3.4. Ảnh hưởng của hỗn hợp ruột bầu đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của

cây hom

Đề tài đã thiết lập 4 công thức hỗn hợp ruột bầu và tiến hành theo dõi sinh

trưởng của cây hom ở mỗi công thức bằng cách quan sát và đo chiều cao vút

ngọn, đường kính cổ rễ của cây. Kết quả xác định sinh trưởng của cây hom

trong giai đoạn vườn ươm được tổng hợp ở bảng 3.11.

51

Bảng 3.11: Sinh trưởng cây hom qua các lần đo

Lần đo

1 (sau 4 tuần tuổi)

2 (sau 8 tuần tuổi)

3 (sau 12 tuần tuổi)

4 (sau 16 tuần tuổi) Ghi chú

5 (sau 20 tuần tuổi)

Công thức thí nghiệm I II III IV I II III IV I II III IV I II III IV I II III IV Số cây sống 145 146 147 143 137 144 145 141 135 143 142 139 133 140 142 138 131 138 142 136 Tỷ lệ sống (%) 96,67 97,33 98,00 95,33 91,33 96,00 96,67 94,00 90,00 95,33 94,67 92,67 88,67 93,33 94,67 92,00 87,33 92,00 94,67 90,67 Hvn (cm) 11,2 13,5 13,8 12,7 12,3 14,9 15,2 13,7 12,6 15,2 15,7 14,1 12,9 15,8 15,9 14,5 13,5 16,1 16,2 14,8 Doo (mm) 0,21 0,23 0,25 0,22 0,23 0,28 0,31 0,27 0,24 0,31 0,34 0,29 0,25 0,33 0,35 0,31 0,26 0,35 0,38 0,33

Từ bảng 3.11 nhận thấy:

+ Về tỷ lệ sống: Tỷ lệ sống của cây con Hoàng đằng đạt rất cao, sau 4 tuần

tuổi tỷ lệ sống giảm không đáng kể ở tất cả các công thức và biến động từ 96,67

đến 98%. Sau 8 tuần tuổi đạt từ 91,33 – 96,67%, sau 12 tuần tuổi tỷ lệ sống đạt

từ 90,00 – 95,33%, sau 16 tuần tuổi tỷ lệ sống đạt từ 88,67 – 94,67%, sau 20 tuần

tuổi tỷ lệ sống đạt từ 87,33 – 94,67%.

Như vậy cây hom Hoàng đằng trong giai đoạn vườn ươm tỷ lệ sống (từ tuần

1 đến tuần thứ 20) rất cao. Số hom bị chết giao động trong khoảng từ 5,33 –

52

12,67%. Xét trong từng công thức hỗn hợp ruột bầu nhận thấy ở công thức đối

chứng (không có phân) tỷ lệ cây chết là cao nhất và tiếp đến là công thức chỉ

có phân chuồng không có phân NPK. Điều đó được giải thích như sau: Công

thức đối chứng không bón phân chuồng và phân NPK hàm lượng dinh dưỡng

trong đất không đủ để nuôi cây, đất nhanh khô làm cho khả năng chống chịu

với điều kiện tự nhiên thấp đẫn đến tỷ lệ cây chết cao. Công thức chỉ bón phân

NPK không bón phân chuồng tỷ lệ cây chết cao hơn những công thức có bón

cả phân chuồng và NPK là do đất đóng bầu là đất tầng B, tỷ lệ mùn rất thấp do

đó ở công thức này đất bị bí chặt qua các lần tưới dẫn đến bộ rễ không phát

triển được làm cho cây còi cọc và dẫn đến chết.

Kết quả bảng 3.11 cho thấy hom cây Hoàng đằng sinh trưởng, phát triển

trên các giá thể khác nhau ảnh hưởng không rõ rệt đến tỷ lệ cây sống cũng như

sinh trưởng và phát triển của cây hom. Qua các lần đo công thức bón 15% phân

chuồng, 5% phân NPK cho tỷ lệ sống và sinh trưởng cao nhất. Ở tuần thứ 20

(sau 5 tháng) tỷ lệ cây sống đạt 94,67%, tỷ lệ cây chết là 5,33%, tỷ lệ cây chết

như vậy trong sản xuất nông lâm nghiệp là chấp nhận được.

+ Về sinh trưởng đường kính cho thấy: Sau 4 tuần tuổi đạt 0,21 – 0,25cm,

sau 8 tuần tuổi sinh trưởng đường kính đạt 0,23 – 0,31cm, sau 20 tuần tuổi

đường kính đạt 0,26 – 0,38cm. Sinh trưởng đường kính lần đo thứ 5 (sau 5

tháng), nhận thấy công thức có bón 15% phân chuồng và 5% phân NPK sinh

trưởng đường kính lớn nhất.

+ Sinh trưởng chiều cao: Sau 4 tuần tuổi sinh trưởng chiều cao đạt 11,2

– 13,8cm, sau 8 tuần 12,3 – 15,2 cm, sau 20 tuần tuổi chiều cao đạt 13,5 –

16,2cm. Nhìn chung sinh trưởng về chiều cao của cây hom Hoàng đằng là tương

đối chậm.

Cùng với sinh trưởng đường kính, sinh trưởng chiều cao ở lần đo thứ 5,

công thức bón 15% phân chuồng, 5% phân NPK sinh trưởng chiều cao tốt nhất

đạt 16,2cm.

53

Tỷ lệ sống, sinh trưởng đường kính, chiều cao cây hom được minh họa qua

biểu đồ hình 3.9.

Hình 3.9. Tỷ lệ sống, đường kính, chiều cao sau 5 tháng cấy hom

Để nghiên cứu ảnh hưởng của hỗn hợp ruột bầu đến sinh trưởng đường

kính, chiều cao trong từng công thức thí nghiệm trong cả quá trình sinh trưởng

của cây hom, từ số liệu thu thập được, đề tài đã tổng hợp vào bảng 3.12.

Bảng 3.12. Sinh trưởng Doo và Hvn trong các công thức thí nghiệm

Sinh trưởng chiều cao (cm) Lần đo CT1 CT2 CT3 CT4

11,2 13,5 13,8 12,7 1

12,3 14,9 15,2 13,7 2

12,6 15,2 15,7 14,1 3

12,9 15,8 15,9 14,5 4

13,5 16,1 16,2 14,8 5

Sinh trưởng đường kính gốc (mm)

0,21 0,23 0,25 0,22 1

0,23 0,28 0,31 0,27 2

0,24 0,31 0,34 0,29 3

0,25 0,33 0,36 0,31 4

0,26 0,35 0,38 0,33 5

54

- Sinh trưởng đường kính gốc

Sinh trưởng đường kính nói chung, đường kính gốc nói riêng là một trong

những chỉ tiêu đánh giá năng lực sinh trưởng của cây con. Từ số liệu tổng hượp

ở bảng 3.12, nhận thấy sinh trưởng đường kính gốc trong từng công thức đều

có xu hướng tăng dần theo tuổi, trong đó tháng thứ nhất đường kính tăng trưởng

mạnh nhất những tháng sau tăng trưởng có xu hướng chậm lại. Điều đó được

giải thích như sau, tháng đầu mặc dù bộ rễ chưa phát triển nhưng đoạn cành

hom lúc này còn nhiều chất dự trữ trong thân và đây là nguồn chất dinh dưỡng

để nuôi cây hom. Sang những tháng sau, nguồn chất dinh dưỡng dự trữ cạn dần

trong khi đó bộ rễ chưa được hoàn chỉnh nên sinh trưởng đường kính có xu

hướng chậm lại. Giữa các công thức thí nghiệm tăng trưởng đường kính có sự

khác nhau rõ rệt. Ở công thức 3 (có bón phân chuồng và phân NPK) sinh trưởng

đường kính là mạnh nhất, ở lần đo thứ 5 đạt 0,38cm, kém nhất ở công thức đối

chứng, đường kính đạt 0,26cm.

- Sinh trưởng chiều cao

Cùng với đường kính, chiều cao thân cây cũng là chỉ tiêu quan trọng

đánh giá năng lực sinh trưởng của cây con trong giai đoạn vườn ươm. Sinh

trưởng chiều cao ở công thức đối chứng là kém nhất, lần đo thứ 5 đạt 13,5cm,

mạnh nhất là ở công thức 3 đạt 16,2cm, tiếp đến là công thức 2, công thức 4.

Sinh trưởng đường kính và chiều cao được minh họa qua biểu đồ hình 3.10

Hình 3.10. Sinh trưởng chiều cao, đường kính qua 5 lần đo

Kết luận: Thành phần hỗn hợp ruột bầu có ảnh hưởng đến:

55

- Tỷ lệ sống của cây hom sau 20 tuần tuổi và sinh trưởng đường kính,

chiều cao của cây hom.

- Ảnh hưởng đến lượng tăng trưởng thường xuyên định kỳ về đường kính

và chiều cao.

- Trong 4 công thức thí nghiệm, công thức 3 (15% phân chuồng + 5%

NPK + 80% đất tầng B) có tỷ lệ cây sống cao nhất, khả năng sinh trưởng đường

kính, chiều cao mạnh nhất.

- Trong suốt thời gian 20 tuần chăm sóc cây con trong giai vườn ươm ghi

nhận chưa thấy xuất hiện hiện tượng sâu bệnh hại. Nguyên nhân có thể do đây

là loài cây có khả năng đề kháng cao với sâu bệnh hại hoặc do đất, hom cây

Hoàng đằng được khử trùng nên không xuất hiện bệnh hại trong suốt thời gian

theo dõi.

- Bước đầu khuyến nghị nên sử dụng công thức: 15% phân chuồng + 5%

NPK + 80% đất tầng B để sản xuất đại trà cây con Hoàng đằng bằng phương

pháp giâm hom để phát triển mô hình trồng cây Hoàng đằng phục vụ nhu cầu

làm thuốc.

56

KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ ĐỀ XUẤT

1. Kết luận

1.1. Đặc điểm sinh thái học cây Hoàng Đằng tại huyện Võ Nhai

Hoàng đằng là loại cây dây leo quấn dài từ 3,2 - 17m, đường kính thân

từ 0,2 – 4,5 cm, thân non có màu xanh, thân già màu xám trắng. Rễ, thân cắt

ngang có màu vàng tươi, thân non cắt ra có nhựa màu trắng, vị rất đắng. Lá

đơn mọc cách. Cuống lá dài 5 – 19,5 cm, cuống lá phình to ở đầu. Phiến lá bầu

dục thuôn dài 13 – 30 cm; rộng 4 – 24,8cm, cứng, nhẵn; đầu nhọn, gốc lá tròn;

mặt trên xanh đậm, mặt dưới xanh nhạt. Gân lá có 4 đôi, đôi gân gốc kéo dài

đến ½ phiến lá. Tại xã Nghinh Tường, huyện Võ Nhai cây Hoàng đằng phân

bố rải rác dưới tán rừng lá rộng thường xanh trạng thái Nứa - Gỗ, Vầu - Gỗ,

IIA . Độ tàn che 0,3 - 0,8. Đa phần là cây nhỏ tái sinh bằng hạt hoặc chồi. Cây

mọc trên đất nâu vàng có tầng mùn dày 5 -10cm. Phân bố ở độ cao 201 - 291

m trên mực nước biển.100% cây cây tái sinh chồi. Tỷ lệ che phủ cây bụi nơi

Hoàng đằng phân từ 3% đế 74% trong đó độ che phủ cây bụi trung bình là

35,6%. Tỷ lệ độ che phủ cây thảm tươi nơi có Hoàng đằng phân bố từ 5% đến

27%, độ che phủ trung bình là 20,6%.

1.2. Ảnh hưởng của nồng độ và loại chất kích thích đến khả năng ra rễ

Cùng loại chất kích thích và cùng nồng độ tuy nhiên lại cho kết quả khác

nhau, nghiên cứu đã chỉ ra loại chất kích thích ra rễ thích hợp để nhân giống

cây Hoàng đằng bằng phương pháp giâm hom là chất IAA và nồng độ thích

hợp là 1.500ppm (ngâm trong 5 giây) cho tỷ lệ ra rễ cao nhất và chiều

dài rễ bình quân đạt 4,35cm.

1.3. Ảnh hưởng của vị trí cắt hom đến tỷ lệ ra rễ

- Vị trí hom có ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ ra rễ của hom cây Hoàng đằng,

trong điều kiện cùng loại thuốc kích thích ra rễ, cùng nồng độ, cùng thời gian

xử lí nhưng tỷ lệ ra rễ khác nhau. Qua nghiên cứu đánh giá vị trí hom sinh

trưởng, phát triển tốt nhất là hom bánh tẻ (là hom được cắt 1/3 đoạn giữa cành)

57

1.4. Ảnh hưởng của hỗn hợp ruột bầu đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của cây

hom

Thành phần hỗn hợp ruột bầu có ảnh hưởng đến:

- Tỷ lệ sống của cây hom sau 20 tuần tuổi.

- Sinh trưởng đường kính, chiều cao của cây hom.

- Ảnh hưởng đến lượng tăng trưởng thường xuyên định kỳ về đường kính và

chiều cao.

Từ kết quả nghiên cứu cho thấy hỗn hợp ruột bầu có ảnh hưởng rõ rệt

đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của cây hom, chúng ta nên sử dụng công thức

15% phân chuồng + 5% NPK + 80% đất tầng B để sản xuất đại trà cây con

Hoàng đằng bằng phương pháp giâm hom để phát triển mô hình trồng cây

Hoàng đằng phục vụ nhu cầu làm thuốc.

2. Tồn tại

Bên cạnh những kết quả đạt được, đề tài còn một số tồn tại sau:

Chưa nghiên cứu được ảnh hưởng của thời vụ đến tỷ lệ ra rễ của hom Hoàng

đằng.

Thời gian theo dõi sinh trưởng của cây hom còn ngắn (20 tuần tuổi) chưa

đến giai đoạn xuất vườn.

3. Kiến nghị

Để có thể sử dụng hiệu quả tại địa phương và để những nghiên cứu về

sau được tốt hơn chúng tôi đề xuất một số giải pháp để nâng cao giá trị sử

dụng và bảo tồn gen cây Hoàng đằng.

3.1. Giải pháp nâng cao giá trị sử dụng

- Tổ chức đào tạo, tập huấn và tuyên truyền cho nhân dân để nâng cao

nhận thức bảo tồn, sử dụng nguồn tài nguyên dược liệu cây Hoàng đằng.

- Xúc tiến trồng thử nghiệm, khuyến khích các hộ gia đình trồng và tạo

liên kết giữa các hộ nông dân và doanh nghiệp nhằm giúp cho sản phẩm cây

58

Hoàng đằng có đầu ra ổn định, nâng cao đời sống kinh tế của người dân địa

phương.

3.2. Giải pháp bảo tồn

- Tổ chức đào tạo, tập huấn cho các hộ dân có nhu cầu hoặc đang sản

xuất, kinh doanh trong lĩnh vực cây dược liệu nói chung và cây Hoàng đằng

nói riêng về vấn đề trồng và thu hái. Hướng dẫn các kỹ thuật về thu hái, chế

biến, bảo quản nhằm bảo đảm chất lượng tốt.

- Xây dựng mô hình vườn cây bảo tồn có thể kinh doanh là phương thức

bảo tồn có thể cho kết quả khả thi nhất.

- Tăng cường công tác vận động người dân ý thức bảo vệ và phát triển

nguồn gen cây Hoàng đằng tại địa phương

- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới sinh trưởng của Hoàng Đằng để

chọn nơi trồng phù hợp, đạt hiệu quả cao nhất để bảo tồn nguồn giống.

- Tiếp tục nghiên cứu kỹ thuật nhân giống bằng hom cành sử dụng các

loại thuốc và nồng độ chất hích thích ở các mùa thời vụ giâm hom khác nhau

để có số liệu chính xác hơn.

59

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Nguyễn Bình An (2011), Nghiên cứu đặc điểm sinh học, phân bố và khả

năng nhân giống của hai loài Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria Lour) và

Lá khôi (Ardisia gigantifolia Stapf) tại Vườn Quốc gia Bến En, tỉnh Thanh

Hoá, Luận văn thạc sỹ khoa học Lâm nghiệp, Đại học Lâm nghiệp Việt

Nam.

2. Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003) Trong “Danh lục các loài thực vật Việt

Nam” Tập 2, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội

3. Đỗ Huy Bích và cs (2004), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập

I. NXB Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội.

4. Bộ Khoa học và công nghệ (1996), Sách đỏ Việt Nam - Phần thực vật, Nhà

xuất bản Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

5. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2010), Quy chuẩn kỹ thuật quốc

gia về Phương pháp điều tra phát hiện dịch hại cây trồng (QCVN 01 – 38:

2010/BNNPTNT).

6. Lê Ngọc Công (2004), đã nghiên cứu ảnh hưởng của một số quần xã thực

vật và độ che phủ ảnh hưởng theo tính chất hóa học của đất tới lượng vi

sinh vật thành phần giun đất.

7. Lê Tùng Châu, Nguyễn Văn Tập (1996), Nguồn tài nguyên di truyền cây thuốc

ở Việt Nam, Tài Nguyên di truyền thực vật ở Việt Nam, Nhà xuất bản Nông

nghiệp, Hà Nội.

8. Võ Văn Chi (2012), “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, Nhà xuất bản Y học, Hà

Nội.

9. Lý Văn Chính (2013), “Sử dụng hợp chất thiên nhiên làm thuốc là sự lựa

chọn thông thái của nhân loại”, Viện y học Bản địa Việt Nam, ngày 07

tháng 02.

60

10. Chính Phủ (2010), “Quyết định số 2166/QĐ-TTg ngày 30 tháng 11 năm

2010 về việc Ban hành kế hoạch hành động của Chính phủ về phát triển

y, dược cổ truyền Việt Nam đến năm 2020”.

11. Chính phủ (2013), “Quyết định số 1976/QĐ-TTg ngày 30 tháng 10 năm

2013 về việc Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm

2020 và định hướng đến năm 2030”.

12. Trần Ngọc Hải (2004), Kỹ thuật trồng một số cây đặc sản rừng và cây

LSNG, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

13. Trần Ngọc Hải, Nguyễn Viết Khoa (2008), Kỹ thuật gây trồng một số loài

cây lâm sản ngoài gỗ, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

14. Nguyễn Thị Hải và CS (2017) nghiên cứu nhân giống loài Hoàng đằng ở

khu Bảo tồn thiên nhiên Na Hang, tỉnh Tuyên Quang

15. Phạm Hữu Hạnh (2014), “ Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật trồng thử nghiệm

4 loại cây thuốc quý tại trạm nghiên cứu thực nghiệm lâm đặc sản huyện

Hoành Bồ tỉnh Quảng Ninh”

16. Triệu Văn Hùng (2007), Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam, Dự án hỗ trợ chuyên

ngành Lâm sản ngoài gỗ pha II tại Việt Nam, Nhà xuất bản Bản đồ, Hà

Nội.

17. Hoàng Tích Huyền (2011), “GS. Hoàng Tích Huyền nói về CELLOG SP”,

Công ty cổ phần chăm sóc sức khỏe Việt Nam (Vietmedicare).

18.Thanh Huyền (2012), “Việt Nam trước nguy cơ cạn kiệt nguồn tài nguyên

cây thuốc”, Trung tâm con người và thiên nhiên (ww.thiennhien.net)

19. Nguyễn Nhược Kim, Trần Thúy, Lê Thị Hồng Hoa, Hoàng Minh Chung,

Nguyễn Thị Minh Tâm, Trần Lưu Văn Hiền (2005), “Bào chế đông dược”,

Khoa y học cổ truyền, Trường Đại học y Hà Nội, Nhà xuất bản y học Hà

Nội.

61

20. Phạm Thanh Kỳ, Nguyễn Thị Tâm và Trần Văn Thanh, (1998), Bộ môn dược

liệu – Trường Ðại học Dược Hà nội Bài giảng dược liệu (tập 2) - NXB Y học

21. Trần Công Khánh (2012), “Bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên cây

thuốc ở tỉnh Cao Bằng”,

22. Quốc Khánh (2011), “Cây thuốc bản địa: khai thác cạn kiệt, xuất khẩu tràn

lan”, Sài gòn giải phóng online (www.sggp.org.vn)

23. Trần Đức Long (2004), khi nghiên cứu khả năng nhân giống loài Hoàng

đằng tại vườn quốc gia Bến En - Thanh Hoá

24. Đỗ Tất Lợi (1999), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nhà xuất bản

Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

25. Ngọc Lý (2010), “Đa dạng sinh học trước nguy cơ tiêu hao”, Tin tức và sự

kiện, Tài Nguyên môi trường Việt Nam, ngày 13 tháng 6.

26. Nguyễn Hoàng Nghĩa (2001), Nhân giống vô tính và Trồng rừng dòng vô

tính, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

27. Nguyễn Hồng Phong (2012), Nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc được

đồng bào dân tộc Dao sử dụng tại Vườn guốc gia Hoàng Liên tỉnh Lào

Cai, Luận văn thạc sỹ khoa học Lâm nghiệp, Đại học Lâm nghiệp Việt

Nam.

28. Lương y Minh Phúc (2013), “Thảo dược quý & Phương chủ trị”, Nhà xuất

bản y học, tr.600.

29. Nguyễn Văn Tập (1996), Nghiên cứu bảo tồn những cây thuốc quý hiếm có

nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ khoa học sinh học,

Trường ĐH Quốc Gia Hà Nội.

30. Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), Phương pháp nghiên cứu thực vật, Nxb, Đại

học Quốc gia Hà Nội.

31. Vũ Văn Thông và cs (2017) Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống vô tính cây

Hoàng đằng.

62

32. Thái Văn Trừng (1978), Thảm thực vật rừng Việt Nam trên quan điểm hệ

sinh thái, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội

33. Công ty TNHH thực phẩm chức năng LOHHA, tp://lohha.com.vn/thu-

vien/h/

63

B. TÀI LIỆU NƯỚC NGOÀI

34. A.S. Islam, (1991), ở Bangladesh có một số cây thuốc quý như Tylophora

indica (dùng làm thuốc chữa hen), trước kia dễ tìm kiếm, nay đã trở nên

hiếm hoi theo.

35. Beer J. H. and McDermott M. J (1996), The economic value of non timber

forest products in Southeast Asia, NC-IUCN, Amsterdam, ISBN: 90-5909-

01-

36. Tran Van On (2004), Litera ture Review on the trade of medicinal plants in

Vietnam and with Tam Dao National Park and bufferzone, 54pp.

37. Gao-Xiong Rao et al (2009), Antifungal alkaloids from the fresh rattan stem

of Fibraurea recisa Pierre, Department of Pharmacy, Kunming General

Hospital of Chengdu Military Region, 212 Da-Guan Road. Kunming

650032, PR China.

38. O. Akerele, (1991), một loài cây thuốc quý khác là Coptis teeta mọc nhiều

ở vùng Đông – Bắc Ấn Độ, trước kia khai thác hàng chục tấn mỗi năm

bán sang các nước vùng Đông Nam Á, nay đã trở nên rất hiếm, thậm chí

đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.

64