Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Báo dân chúng với cuộc đấu tranh vì dân sinh dân chủ
lượt xem 3
download
Luận văn cố gắng làm rõ hơn những hoạt động đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Việt Nam dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng trong phong trào đòi dân sinh, dân chủ 1936-1939 đƣợc phản ánh trên báo Dân Chúng. Qua đó, một lần nữa khẳng định giá trị nguồn tƣ liệu lịch sử của báo Dân Chúng, phục vụ nghiên cứu và các hoạt động chuyên môn của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, của các cơ quan giáo dục, của các cơ quan nghiên cứu lịch sử báo chí cách mạng… Mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Báo dân chúng với cuộc đấu tranh vì dân sinh dân chủ
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRẦN THỊ THỦY BÁO DÂN CHÚNG VỚI CUỘC ĐẤU TRANH VÌ DÂN SINH DÂN CHỦ LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội - 2010
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRẦN THỊ THỦY BÁO DÂN CHÚNG VỚI CUỘC ĐẤU TRANH VÌ DÂN SINH DÂN CHỦ Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam Mã số : 60.22.54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Xanh Hà Nội - 2010
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………..…………...……………1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài………………………………...………………2 3. Mục đích nghiên cứu…………………………………...………….............4 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu…………………………………............4 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu………………..…………4 6. Đóng góp của luận văn…………………………………………….............5 7. Bố cục của luận văn………………………...………………………………5 CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC VỀ SỰ XUẤT HIỆN VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BÁO DÂN CHÖNG. 1.1 Tình hình thế giới, Việt Nam và báo chí nói chung của Đảng Cộng sản Đông Dương trong những năm 1936-1939. 1.1.1.Tình hình thế giới và Việt Nam những năm 1936-1939……………6 1.1.1.1 Tình hình thế giới…….………………………………………6 1.1.1.2. Tình hình Việt Nam…………………….……………………7 1.1.2. Tình hình báo chí của Đảng Cộng sản Đông Dương trong những năm 1936-1939………..………………………...…………………………10 1.1.2.1. Chính sách báo chí của thực dân Pháp ở Đông Dương trong những năm 1936-1939…………..…………………………………...10 1.1.2.2. Báo chí của Đảng Cộng sản Đông Dương những năm 1936- 1939……….………………………………………………………..12 1.2. Sự xuất hiện và hoạt động của báo Dân chúng 1.2.1. Sự xuất hiện báo Dân Chúng…………..………………………….15 1.2.2. Những nét khái lược về hoạt động của báo Dân chúng trong năm 1938-1939………………………...……………………………………….17 1.2.2.1. Nội dung, chủ đề, mục tiêu chính trị của báo Dân Chúng………………………………...……………………………..17 1.2.2.2. Chỉ đạo báo……………………………………..…………18 1
- 1.2.2.3. In ấn, phát hành…………………………….…….............18 1.2.2.4. Biên tập viên, cộng tác viên, bạn đọc……………...............20 CHƢƠNG 2: CUỘC ĐẤU TRANH ĐÕI DÂN CHỦ. 2.1. Đòi tự do báo chí và tự do biểu tình, hội họp 2.1.1.Đòi tự do báo chí…………………………………………………....23 2.1.2. Đòi tự do hội họp, biểu tình……………………….……………….27 2.2. Đòi tự do lập các hội ái hữu và nghiệp đoàn……………...…………28 2.3. Đấu tranh đòi thả tù chính trị………………………………………….42 2.4. Đấu tranh đòi cải cách chế độ tuyển cử, biến nghị trường thành diễn đàn đấu tranh vì quyền lợi của dân chúng………………………….41 2.4.1. Phản ánh tính chất hạn hẹp, thối nát của Tuyển cử, của dân biểu……………………………………………………………….............42 2.4.2. Đấu tranh đòi cải cách chế độ tuyển cử và các hội đồng dân biểu……………………………………………………………...………...43 2.4.3. Biến nghị trường thành diễn đàn đấu tranh vì quyền lợi của dân chúng……...………………………………………………………………44 2.5. Chống trở lại Hiệp ước 1884…………………………………..............50 CHƢƠNG 3: CUỘC ĐẤU TRANH ĐÕI CẢI THIỆN DÂN SINH. 3.1. Đấu tranh đòi cải cách chính sách thuế………………………………54 3.2. Phản ảnh bất công, mất dân chủ và đấu tranh đòi cải thiện đời sống của công nhân và nông dân. 3.2.1. Phản ảnh bất công, mất dân chủ và đấu tranh đòi cải thiện đời sống của công nhân………………………………………………………60 3.2.2. Phản ảnh bất công mất dân chủ và đấu tranh đòi cải thiện đời sống của nông dân……………………………………………………………...67 3.3. Phản ảnh bất công, mất dân chủ và đấu tranh đòi cải thiện đòi sống của các thành phần khác……………….………………................................77 3.3.1. Phản ảnh bất công mất dân chủ và đấu tranh đời cải thiện đời sống của công nhân viên chức, tiểu thương, tiểu chủ…………………………77 2
- 3.3.2. Phản ảnh bất công mất dân chủ và đấu tranh đòi cải thiện đời sống của binh lính……………………………...………………………………82 3.3.3. Phản ảnh tình trạng thiếu trường học và đấu tranh đòi cỉa thiện điều kiện học tập cho học sinh…………………………………………...84 KẾT LUẬN ………………………………………………………………………88 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………..91 PHỤ LỤC (1): Thống kê những bài báo về dân sinh, dân chủ trên báo Dân Chúng………………………………………………………………….................95 PHỤ LỤC (2): Một số tờ báo Dân Chúng 1938-1939 hiện đang lƣu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam…………………………..……………. …………...154 3
- MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Trong cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, oanh liệt của cách mạng Việt Nam để giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, báo chí đƣợc xem là một vũ khí cực kỳ quan trọng. Đồng chí Trƣờng Chinh đã từng nói “Không thể làm cách mạng mà không có báo chí cách mạng” báo chí có chức năng “mở tai mở mắt” cho đồng bào “hướng dẫn dân chúng đoàn kết đấu tranh” (Báo Việt Nam Độc lập -1942). Cách mạng đòi hỏi phải có báo chí cách mạng, sinh ra báo chí cách mạng, và sử dụng báo chí cách mạng làm vũ khí chiến đấu thúc đẩy cách mạng Việt Nam phát triển và giành thắng lợi. Ngay từ khi đất nƣớc còn chìm đắm trong những đêm dài nô lệ, vấn đề báo chí và đòi tự do báo chí đã đƣợc Nguyễn Ái Quốc đề cập đến bằng nhiều bài viết và sách báo. Ngƣời còn sử dụng mọi diễn đàn để tố cáo chế độ báo chí hà khắc của thực dân Pháp tại Đông Dƣơng, vạch trần sự thối nát của báo chí thực dân. Ngƣời đã nhiều lần lớn tiếng đòi tự do báo chí, cũng nhƣ đòi các quyền tự do dân chủ khác. Đảng Cộng sản Việt Nam khi ra đời (03/02/1930) đã đánh giá cao vai trò của báo chí. Cƣơng lĩnh đầu tiên của Đảng có ghi: “Đảng phải mở rộng tuyên truyền cổ động, ra sách, báo, truyền đơn”…để làm cho “quần chúng biết mục đích của Đảng và ý kiến của Đảng đối với các việc xảy ra” [26, tr.23]. Trong những năm lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập, đặc biệt, trong phong trào vận động dân chủ 1936-1939, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đã sử dụng triệt để vai trò của báo chí để tuyên truyền, quan điểm, đƣờng lối, chính sách của Đảng, cổ động, tổ chức quần chúng đấu tranh. Hàng loạt tờ báo đƣợc in và phát hành rộng rãi: Tin Tức, Thời Mới, An Nam Trẻ, Tiền Phong, Dân Chúng, Lao Động… Thời kỳ này, hệ thống báo chí cách mạng do Đảng lãnh đạo, dù là của Trung ƣơng, Xứ uỷ hay của các đoàn thể cách mạng khác, đều phản ánh đời sống cực khổ và những nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, tố cáo tội ác của chính quyền thống trị, tuyên truyền đƣờng lối của Đảng, hƣớng dẫn quần chúng đấu tranh và thực sự kết thành một pháo đài trên mặt trận tƣ tƣởng, giƣơng cao ngọn cờ đòi tự do, dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, đại xá 4
- chính trị phạm, tự do hội họp, biểu tình, đòi cải cách chính sách thuế, đấu tranh chống bọn Tờrốtxkít… Tất cả nhằm cổ động và tổ chức đấu tranh thực hiện các nhiệm vụ mà Đảng đề ra trong thời kỳ bấy giờ. Trong những năm 1936-1939, báo Dân Chúng thực sự là một hiện tƣợng độc đáo trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và báo chí cách mạng nói riêng. Dân Chúng là cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, đƣợc xuất bản công khai hợp pháp, không cần xin phép trƣớc, đã buộc chính quyền thuộc địa phải thừa nhận, trong khi Đảng lại chƣa hoạt động đƣợc công khai. Báo Dân Chúng đã in với số lƣợng cao nhất trên đất Đông Dƣơng thời bấy giờ. Trong suốt quá trình lịch sử trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945, Dân Chúng là tờ báo giữ vai trò tiên phong, mở đƣờng cho tự do báo chí ở nƣớc ta dƣới chế độ cai trị của thực dân Pháp. Trung thành với tôn chỉ mục đích của mình, trong hơn một năm tồn tại với 80 số báo công khai, Dân Chúng đã là tấm gƣơng phản chiếu rất mực trung thực sinh hoạt chính trị-xã hội ở Đông Dƣơng và trên thế giới trƣớc thềm chiến tranh thế giới lần thứ II. Báo Dân Chúng là một nguồn sử liệu quý và có giá trị về nhiều mặt. Những nội dung đƣợc phản ánh, trình bày trên báo giúp chúng ta hiểu đƣợc đầy đủ không chỉ diện mạo, mà cả chiều sâu của xã hội Việt Nam những năm 1938- 1939. Qua Dân Chúng thấy rõ đƣờng lối, sự lãnh đạo cách mạng của Đảng nói chung và chỉ đạo báo chí trong phong trào dân chủ nói riêng. Để tìm hiểu thêm cuộc đấu tranh chống chính quyền phản động thuộc địa và tay sai của nhân dân Đông Dƣơng để đòi các quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình những năm 1938-1939, tôi chọn: “Báo Dân Chúng với cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ” làm đề tài luận văn thạc sĩ Lịch sử Việt Nam cận, hiện đại của mình. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Báo Dân Chúng xuất bản năm 1938-1939, hiện nay Bảo tàng Cách mạng Việt Nam đang giữ 79/80 số (thiếu số 14). Báo Dân Chúng đƣợc lƣu giữ ở kho giấy, đã vào sổ kiểm kê đăng ký bƣớc đầu và sổ phân loại hiện vật (từ 6520/Gy4879 đến 6600/Gy4959). 5
- Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về báo Dân Chúng. Tác phẩm đầu tiên nghiên cứu có liên quan đến đề tài này phải kể đến là cuốn Báo chí và cách mạng của Trần Huy Liệu, xuất bản tại Hà Nội vào năm 1946. Sau đó là cuốn Báo Dân Chúng của Nguyễn Thành, in tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 1981. Đây là một tập sách dày công sƣu tầm và nghiên cứu, nêu lên cho chúng ta biết đƣợc một trong những thời kỳ hoạt động sôi nổi, công khai của Đảng qua trên một năm tồn tại của tờ báo từ 22/7/1938 đến cuối tháng 8/1939. Đến năm 1984, Nguyễn Thành tiếp tục cho ra đời cuốn Báo chí Cách mạng Việt Nam 1925-1945, nhà xuất bản Khoa học và Xã hội in tại Hà Nội. Tác giả đã giành 11 trang (từ 201-212) để viết về Báo Dân Chúng thời kỳ vận động dân chủ ở nƣớc ta. Tiếp đó là những tác phẩm nhƣ: Lược sử báo chí Việt Nam của Nguyễn Việt Chƣớc, Nxb Nam Sơn, Sài Gòn năm 1973; Đào Phiếu tác giả cuốn Nguyễn Văn Cừ một người lãnh đạo xuất sắc của Đảng, Nxb Sự thật, năm 1987 và Nguyễn Văn Cừ - Nhà lãnh đạo lỗi lạc của cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội năm 2007; Năm 2000, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam đã cho in 3 tập sách Báo Dân chúng, do Nhà xuất bản Lao động ấn hành, trong đó in nguyên văn các bài trên 79 số báo Dân Chúng. Ngoài những tác phẩm đƣợc xuất bản ở trung ƣơng cũng nhƣ ở địa phƣơng nhƣ đã nêu ở trên, cũng đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu về báo Dân Chúng cũng đƣợc đăng tải trên các tạp chí nhƣ: bài “Giới thiệu lịch sử báo chí Việt Nam” của Trần Huy Liệu đăng trên Tạp chí nghiên cứu Lịch sử số 1, tháng 3/1959. Bài “Báo chí cách mạng trong thời kỳ 1936-1939” tác giả Hồ Sĩ Lộc đăng trên Tạp chí Xƣa & Nay, số 76, quyển B, tháng 2/2000. Bài “Các cuộc vận động bầu cử và tranh cử trong cuộc đấu tranh vì các quyền dân sinh, dân chủ (1936-1939)” Phạm Hồng Tung in trên Tạp chí phát triển KH&CN, tập 9, số 10/2006. Bài “Dân Chúng-tờ báo tiếng Việt công khai đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương” của G.S Phạm Xanh đăng trên Tạp chí Xƣa & Nay, số 76, quyển A, tháng 6/2000… Một số Hồi ký của các nhân vật đã tham gia hoạt động nhƣ : “ Chúng tôi làm báo” của Nguyễn Văn Trấn…cũng đã đề cập tới báo Dân Chúng. 6
- Nhìn chung, trong số các công trình này có tác phẩm thì nghiên cứu toàn diện, có tác phẩm nghiên cứu từng vấn đề phản ảnh trên báo Dân Chúng. Tuy nhiên, những vấn đề đƣợc đề cập phần nhiều còn mang tính khái quát, ít nhiều chƣa đề cập đầy đủ chi tiết, sâu sắc về các chủ đề cụ thể, hoặc mới chỉ nghiên cứu khai thác ở khía cạnh một số bài viết mang tính chủ trƣơng, chỉ đạo của các nhà lãnh đạo lúc bấy giờ. Vì vậy, có thể nói cho đến nay, chƣa có một công trình chuyên biệt nào đi sâu nghiên cứu cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ phản ánh trên báo Dân Chúng trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ ở Đông Dƣơng 1938-1939. 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Luận văn cố gắng làm rõ hơn những hoạt động đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Việt Nam dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng trong phong trào đòi dân sinh, dân chủ 1936-1939 đƣợc phản ánh trên báo Dân Chúng. Qua đó, một lần nữa khẳng định giá trị nguồn tƣ liệu lịch sử của báo Dân Chúng, phục vụ nghiên cứu và các hoạt động chuyên môn của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, của các cơ quan giáo dục, của các cơ quan nghiên cứu lịch sử báo chí cách mạng… Qua luận văn có thể bƣớc đầu, rút ra bài học kinh nghiệm về công tác tuyên truyền, vận động, tổ chức quần chúng thông qua báo chí công khai, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của báo chí hiện nay. 4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Đối tƣợng nghiên cứu: Toàn bộ báo Dân Chúng (trừ số 14) từ số 1, ra ngày 22/7/1938 đến số 80 ra ngày 30/8/1939. (Bản gốc lƣu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam) - Phạm vi nghiên cứu: Cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng những năm 1938-1939 trong bối cảnh Việt Nam và thế giới. 5. PHƢƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện đƣợc Luận văn, trên quan điểm, đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng trong phong trào dân chủ 1936-1939 tôi tiến hành phân tích, đánh giá các vấn đề thuộc nội dung của luận văn. Luận văn đƣợc trình bày một cách trung thực, khách quan, trên cơ sở kết hợp giữa phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp lôgíc. 7
- Ngoài ra còn sử dụng phƣơng pháp đối chiếu, so sánh, thống kê để xử lý tài liệu và thông tin liên quan nhằm đảm bảo tính chính xác và khoa học cho luận văn. 6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Đánh giá một cách khách quan, khoa học về vai trò của Báo Dân Chúng trong việc tuyên truyền quan điểm, đƣờng lối, chính sách của Đảng và cổ động, tập hợp quần chúng đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, chuẩn bị cho những bƣớc đi tiếp của cách mạng giải phóng dân tộc, chuẩn bị điều kiện tiếp nhận thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Bƣớc đầu rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc tuyên truyền, vận động, tổ chức quần chúng trong hoạt động báo chí. Góp phần vào việc nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy và học tập lịch sử thời kỳ 1936-1939 và lịch sử báo chí Việt Nam. 7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, Luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng: Chương 1: Khái lược về sự xuất hiện và hoạt động của báo Dân Chúng. Chương 2: Cuộc đấu tranh đòi dân chủ. Chương 3: Cuộc đấu tranh đòi cải thiện dân sinh. 8
- CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC VỀ SỰ XUẤT HIỆN VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BÁO DÂN CHÖNG 1.1. Tình hình thế giới, Việt Nam và báo chí nói chung của Đảng Cộng sản Đông Dương trong những năm 1936-1939. 1.1.1. Tình hình thế giới và Việt Nam những năm 1936-1939. 1.1.1.1. Tình hình thế giới Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, nền kinh tế các nƣớc, nhất là các nƣớc tƣ bản phát triển, vẫn còn để lại những hậu quả nặng nề. Những mâu thuẫn xã hội vốn có trong lòng các nƣớc này, mâu thuẫn giữa các nƣớc đế quốc với nhau càng thêm sâu sắc. Trong thời gian này Liên Xô đang trên đà phát triển, hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1933-1937). Phong trào đấu tranh cách mạng và giải phóng dân tộc bùng nổ ở nhiều nƣớc trên thế giới. Trƣớc tình hình đó, giới cầm quyền một số nƣớc tƣ bản, tìm lối thoát bằng con đƣờng phát xít hóa đất nƣớc. Chủ nghĩa phát xít đã hình thành và phát triển ở Italia, Đức, Nhật Bản. Lò lửa chiến tranh đã đƣợc nhen nhóm ở châu Âu và châu Á. Cuối năm 1935, Đức, Nhật, sau đó là Italia đã ký kết “ Hiệp ƣớc chống Quốc tế Cộng sản”. Trục phát xít Béclin-Tôkiô-Rôma hình thành. Chủ nghĩa phát xít còn xuất hiện ở nhiều nƣớc khác, nhƣ Ba Lan, Bungari, Hunggari, Tây Ban Nha. Họa phát xít và nguy cơ chiến tranh phát xít đang đe dọa cả loài ngƣời. Trƣớc tình hình đó, Đại hội lần thứ VII, Quốc tế Cộng sản họp tháng 7/1935 ở Mátxcơva với sự có mặt của 65 đoàn đại biểu Đảng Cộng sản của các nƣớc, trong đó lần đầu tiên có đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng do đồng chí Lê Hồng Phong dẫn đầu. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc tham gia với tƣ cách “đại biểu tƣ vấn”. Đại hội đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhƣ xác định kẻ thù trƣớc mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít; nhiệm vụ trƣớc mắt của giai cấp công nhân là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống nguy cơ chiến tranh, bảo vệ hoà bình, thành lập mặt trận rộng rãi của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa phát xít. 9
- Trong Báo cáo đọc trƣớc Đại hội, đồng chí Đimitơrốp - Tổng bí thƣ Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản đã nhận định: “Chủ nghĩa phát xít chính là sự tiến công tàn bạo nhất của tƣ bản chống lại quần chúng lao động” “ Chủ nghĩa phát xít nắm quyền là nền chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, sô vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tƣ bản tài chính” “ Ngày nay trong nhiều nƣớc tƣ bản chủ nghĩa, quần chúng lao động trƣớc mắt phải lựa chọn một cách cụ thể không phải giữa nền chuyên chính vô sản với chế độ dân chủ tƣ sản, mà là giữa chế độ dân chủ tƣ sản với chủ nghĩa phát xít” [20, tr.142]. Nghị quyết của Đại hội đã kịp thời giúp các Đảng Cộng sản đề ra chủ trƣơng đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh từng nƣớc. Nó đã thống nhất hành động cách mạng của giai cấp công nhân thế giới trong mục tiêu chung. Năm 1936, phong trào chống phát xít giành đƣợc nhiều thắng lợi. Ở Trung Quốc, Tƣởng Giới Thạch buộc phải bắt tay với Đảng Cộng sản. Mặt trận Dân tộc Thống nhất đƣợc hình thành, gồm Đảng Cộng sản Trung Quốc, Quốc dân Đảng Trung Quốc và những lực lƣợng yêu nƣớc dân chủ hiệp sức chống Nhật. Ở châu Âu, mặt trận nhân dân Tây Ban Nha giành đƣợc thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử đầu năm 1936. Trên cơ sở thắng lợi đó, Chính phủ Mặt trận nhân dân Tây Ban Nha đƣợc thành lập. Tháng 4/1936, Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử đã đứng ra thành lập nội các mới do lãnh tụ Đảng Xã hội Lêông Blum làm Thủ tƣớng. Đối với thuộc địa, Chính phủ Pháp có 3 quyết định quan trọng: trả tự do cho chính trị phạm; thành lập Ủy ban điều tra tình hình thuộc địa; thi hành một số cải cách xã hội cho nhân dân lao động. Tại các thuộc địa Pháp ở châu Phi, phong trào đấu tranh lên cao. Ở Angiêri, Marốc, Sênêgan, những cuộc mít tinh, biểu tình đòi dân chủ, tự do, đòi thực hiện những cải cách xã hội diễn ra ở nhiều nơi. 1.1.1.2. Tình hình Việt Nam - Tình hình kinh tế: Về nông nghiệp : Chính quyền thực dân thực hiện chính sách tạo điều kiện cho tƣ bản Pháp chiếm đoạt ruộng đất. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế, 10
- phần lớn đất đai canh tác tập trung vào tay tƣ bản Pháp và một số ít vào tay địa chủ, quan lại Việt Nam. Trong toàn quốc, khoảng 2/3 hộ nông dân không có ruộng hoặc ít ruộng. Phần lớn đất đai nông nghiệp độc canh trồng lúa. Phần còn lại trồng ngô, khoai, sắn. Các đồn điền trồng cao su phân bố ở Nam kỳ và Nam Trung kỳ. Tính đến năm 1939, diện tích trồng cao su ở Việt Nam là 86.628 ha [20, tr.144]. Ngoài cao su, các chủ tƣ bản Pháp còn trồng những cây công nhiệp khác nhƣ chè, cà phê, đay, gai, bông… Về công nghiệp: Ngành công nghiệp khai thác mỏ đƣợc đẩy mạnh hơn cả thời kỳ trƣớc khủng hoảng. Nguyên nhân do nhiều nƣớc nhập nguyên liệu chiến lƣợc chuẩn bị cho chiến tranh. Tổng sản lƣợng công nghiệp khai thác mỏ năm 1929 trị giá 18,6 triệu đồng, năm 1939 là 29,5 triệu đồng. Sản lƣợng các ngành công nghiệp dệt, chế cất rƣợu, sản xuất xi măng tăng. Các ngành điện, nƣớc, cơ khí, lọc đƣờng, làm giấy…ít phát triển. Về thƣơng nghiệp: Nhà nƣớc thực dân độc quyền bán thuốc phiện, rƣợu, muối và thu đƣợc lợi nhuận kếch sù. Về ngoại thƣơng, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là khoáng sản và nông sản, nhập cảng máy móc và sản phẩm công nghiệp tiêu dùng. Tóm lại, những năm 1936-1939 là thời kỳ phục hồi và phát triển nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên sự phát triển chỉ tập trung vào một số ngành, đáp ứng nhu cầu chiến tranh. Nền kinh tế Việt Nam vẫn bị phụ thuộc và lạc hậu. - Tình hình xã hội: Mặc dù nền kinh tế có chiều hƣớng phục hồi, nhƣng số ngƣời không có việc làm rất đông. Năm 1936 có 408.336 ngƣời thất nghiệp. Mức lƣơng của công nhân thời kỳ này thấp so với năm đầu của cuộc khủng hoảng. Trong khi đó giá cả sinh hoạt tăng vọt, mức sống của những ngƣời làm công ăn lƣơng giảm sút. Số đông nông dân ít ruộng hoặc không có ruộng. Nhiều nông dân trở thành tá điền. Đời sống của họ cơ cực vì địa tô chiếm gần nửa hoa lợi mùa màng. Những năm 1936-1939, thiên tai ngập lụt, vỡ đê xảy ra liên tiếp. Năm nào cũng có nạn đói, bệnh dịch. Ngoài ra ở các làng xã, nông dân phải chịu những thủ đoạn vơ vét, bóc lột của bọn lý dịch, cƣờng hào, những hủ tục cƣới cheo, đình đám… 11
- Tƣ sản dân tộc có ít vốn, không có khả năng lập ra những công ty lớn, lại bị thuế khóa nặng nề và sự chèn ép của tƣ bản Pháp. Tầng lớp tiểu tƣ sản, trí thức bị thất nghiệp nhiều. Công chức Việt Nam lƣơng thấp, không đủ ăn. Địa chủ vừa và nhỏ bị chủ đồn điền Pháp hoặc đại địa chủ ngƣời Việt chèn ép, lấn chiếm ruộng đất. Các tầng lớp lao động khác cũng phải chịu giá sinh hoạt đắt đỏ, thuế má tăng. Nhìn chung, đời sống của đa số nhân dân khó khăn, cực khổ. Chính vì thế, họ đã hăng hái đứng lên đấu tranh đòi tự do, cơm áo dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng. - Tình hình chính trị: Trƣớc tình hình thế giới và trong nƣớc có nhiều biến chuyển, tháng 7/1936 Hội nghị Trung ƣơng lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng do đồng chí Lê Hồng Phong-Uỷ viên Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản chủ trì đã họp tại Thƣợng Hải (Trung Quốc). Hội nghị đã dựa trên những luận điểm cơ bản của Nghị quyết Đại hội lần thứ VII, Quốc tế Cộng sản, căn cứ vào tình hình cụ thể của Việt Nam để đề ra đƣờng lối và phƣơng pháp đấu tranh thích hợp. Nghị quyết Hội nghị đề cập tới một số vấn đề cơ bản sau đây: - “Nhiệm vụ chiến lƣợc của cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam là chống đế quốc, chống phong kiến không hề thay đổi. Nhƣng để phù hợp với tình hình mới Đảng xác định mục tiêu trực tiếp, trƣớc mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hoà bình. Kẻ thù chủ yếu trƣớc mắt của nhân dân Đông Dƣơng là bọn phản động thuộc địa và tay sai của chúng. - Khẩu hiệu đấu tranh: Tạm thời chƣa nêu khẩu hiệu “ Đánh đổ đế quốc Pháp, giành độc lập dân tộc” và khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân nghèo” mà nêu: “ Đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình”. - Tổ chức: Chủ trƣơng thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dƣơng bao gồm các giai cấp, đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau. - Phƣơng pháp đấu tranh: Kết hợp các hình thức công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp; đấu tranh chính trị và hòa bình” [20, tr.146] 12
- Hội nghị Trung ƣơng tháng 7/1936 là sự vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản vào điều kiện cụ thể ở Đông Dƣơng. Hội nghị đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lƣợc với mục tiêu cụ thể trƣớc mắt của cách mạng, mối quan hệ giữa mục tiêu đấu tranh với hình thức tổ chức và hình thức đấu tranh, mối quan hệ giữa liên minh công nông với mặt trận tập hợp lực lƣợng rộng rãi, mối quan hệ giữa phong trào cách mạng Đông Dƣơng với phong trào cách mạng ở Pháp và trên thế giới… Những nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng tháng 7/1935 đƣợc bổ sung, phát triển thêm trong các nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng năm 1937 và 1938. Với chủ trƣơng đó, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đã lãnh đạo quần chúng đấu tranh trên các mặt trận trong thời kỳ 1936-1939. Từ cuối năm 1936, phong trào cách mạng ở Việt Nam bắt đầu đi lên với khí thế mới, tiếp tục phát triển trong năm 1937, đến năm 1938 có thể coi là đỉnh cao cả về chiều rộng và chiều sâu, diễn ra trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tƣ tƣởng, với nhiều hình thức đấu tranh phong phú, rất hiếm có ở một nƣớc thuộc địa. Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, chính quyền thực dân buộc phải nhƣợng bộ những yêu sách cụ thể, trƣớc mắt của chúng ta. Nhƣng do tình hình chính trị ở Pháp xấu đi, thực dân Pháp ở Đông Dƣơng phản công lại Đảng Cộng sản và quần chúng nhân dân Đông Dƣơng. Sang năm 1939, cách mạng Việt Nam gặp nhiều khó khăn, nhƣng dƣới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam vẫn tiếp tục đẩy mạnh các cuộc đấu tranh cố giữ những quyền lợi đã giành đƣợc và chống nguy cơ chiến tranh, chống phát xít Nhật xâm lƣợc. Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, đối với Đông Dƣơng, thực dân Pháp công khai thực hành chủ nghĩa phát xít, trƣớc hết đánh vào Đảng và các đoàn thể quần chúng do Đảng lãnh đạo. Đảng Cộng sản Đông Dƣơng chuyển vào hoạt động bí mật. Tháng 11/1939 Đảng tổ chức Hội nghị Trung ƣơng để nhận định tình hình, và đề ra nhiệm vụ cho cách mạng Đông Dƣơng trong điều kiện lịch sử mới. 1.1.2. Tình hình báo chí của Đảng Cộng sản Đông Dương trong những năm 1936-1939. 13
- 1.1.2.1. Chính sách báo chí của thực dân Pháp ở Đông Dương trong những năm 1936-1939. Ở Đông Dƣơng, đối với chính sách báo chí, chính quyền thực dân Pháp đƣa ra nhiều đạo luật, sắc lệnh, có loại quy định ở nƣớc Pháp, đƣợc ban hành và có hiệu lực ở Đông Dƣơng, cũng có loại của toàn quyền Đông Dƣơng ban hành riêng cho Đông Dƣơng. Đạo luật về tự do báo chí của Quốc hội Pháp thông qua ngày 29/7/1881 đƣợc ban hành ở Nam kỳ theo Nghị định của toàn quyền Đông Dƣơng, ngày 12/9/1881. Đáng lẽ sau ngày 12/9/1881 các báo chí ở Nam kỳ xuất bản bằng tiếng Việt phải đƣợc tự do theo luật báo chí này của Quốc hội Pháp. Nhƣng thực dân Pháp ở Đông Dƣơng đã tùy tiện không chịu thi hành, bác bỏ hiệu lực pháp lý của nó, buộc mọi tờ báo tiếng Việt đều phải làm đơn xin phép. Chỉ khi nào đƣợc Toàn quyền chuẩn y, mới đƣợc ra báo. Trong quá trình biên tập phải chịu kiểm duyệt cắt bỏ những đoạn hay những bài xét ra không có lợi cho sự thống trị thực dân. Khi cần thiết, chúng ra lệnh thu hồi giấy phép, đóng cửa tòa soạn. Trong thƣ đề ngày 02/02/1889 của Toàn quyền Đông Dƣơng Risô gửi cho Bộ trƣởng thuộc địa G.Rốc có đoạn viết: “ Đạo luật 1881 không thể thực hiện đƣợc ở đây, và cái tính cách thuộc địa của nó đã làm cho chúng ta bó tay trong rất nhiều trƣờng hợp: trên lãnh thổ đƣợc nhƣợng bộ bởi vua An Nam này, nên nhớ một điều là chúng ta không sống trên một thuộc địa, nơi mà chúng ta có thể hƣởng tất cả những quyền lợi quốc gia và hành chính, chúng ta cũng phải đang sống ở một nƣớc bảo hộ thƣờng mà nơi ấy chúng ta chỉ có một việc làm là bảo vệ kiều dân của chúng ta. Vì lý do đó mà chúng ta hiểu tại sao báo chí hay những ấn phẩm phải theo đúng những điều kiện thích hợp trong một nƣớc bảo hộ và cũng là một cách để chúng ta có thể đề phòng những gì không hay rất có thể xảy ra” [37, tr.40] Theo đề nghị của Toàn quyền Đông Dƣơng, ngày 25/3/1889 Ủy ban tố tụng của Hải quân và thuộc địa họp đã quyết định Đạo luật về tự do báo chí ngày 29/7/1881 không áp dụng ở các xứ thuộc địa nhƣ Bắc kỳ, Trung kỳ (và cả Lào, Campuchia). Bộ thuộc địa ra Sắc lệnh ngày 30/12/1898, ban hành ở Đông 14
- Dƣơng ngày 30/6/1899. Nội dung của Sắc lệnh nhằm đối phó với báo chí xuất bản ở Đông Dƣơng, Sắc lệnh này bãi bỏ việc thực hiện tự do báo chí theo luật ngày 29/7/1881 ở Nam kỳ. Sắc lệnh này là cơ sở chủ yếu cho thực dân Pháp ở Đông Dƣơng áp dụng đối với báo chí ở Đông Dƣơng, nó đã mở rộng quyền hạn cho Toàn quyền Đông Dƣơng tùy tiện ngăn cấm và cản trở lƣu hành những báo chí có những bài công kích Chính phủ thuộc địa phản động. Bên cạnh đó, nhà cầm quyền còn cấp tiền cho các báo có khuynh hƣớng chính trị xấu để lôi kéo và nuôi dƣỡng những tờ báo phản động. Rất nhiều đơn gửi lên Toàn quyền Đông Dƣơng xin phép ra báo đã bị bác bỏ. May lắm có tờ nào ra đƣợc thì cũng qua kiểm duyệt, xem xét kéo dài. Cho đến khi tờ Dân Chúng đƣợc xuất bản công khai ở Sài Gòn mà không xin phép trƣớc, bƣớc qua tất cả các Sắc lệnh, Nghị định phản động về báo chí, mặc nhiên bƣớc đầu nhà cầm quyền phải làm ngơ. Ngày 30/8/1938, Chính phủ Pháp ra Sắc lệnh cho phép xuất bản báo chí, ấn phẩm không cần phải xin phép ở Nam kỳ. Song đến ngày 29/8/1939 đứng trƣớc ngƣỡng cửa chiến tranh, Chính phủ Pháp ra Sắc lệnh buộc các báo chí quốc văn, cũng nhƣ Pháp văn đều phải chịu sự kiểm duyệt trƣớc khi ấn hành và không hạn định giá trị về thời gian. 1.1.2.2. Báo chí của Đảng Cộng sản Đông Dương những năm 1936-1939 Sau cao trào cách mạng 1930-1931, một loạt báo chí có xu hƣớng tiến bộ, yêu nƣớc bị đình bản. Trong 4 năm từ 1931-1934 có 161 tờ báo và tạp chí bị đóng cửa, trong đó Nam kỳ 67 tờ, Trung Kỳ 14 tờ, Bắc kỳ 80 tờ. Chỉ còn lƣu hành những báo chí của thực dân, bảo hoàng, những tờ báo đƣợc nhà nƣớc thực dân trợ cấp. Các tờ báo của tƣ nhân còn lại phải nín thở hoạt động dƣới chiêu bài “rút giấy phép” và hiển nhiên nếu báo nào muốn tồn tại phải nói dựa theo tiếng nói của nhà cầm quyền. Con số 161 tờ báo bị đình bản trong 4 năm đủ chứng minh chính sách đàn áp tự do ngôn luận, tự do báo chí của chính quyền thực dân Đông Dƣơng. Đồng thời nó cũng nói lên tinh thần đấu tranh bất khuất của giới báo chí tiến bộ. Ngay trong tình hình đó thì các chiến sĩ yêu nƣớc vẫn tiến hành những cuộc đấu tranh. Kết quả là các nhà báo tiến bộ đã buộc chính quyền thực dân Pháp phải hủy bỏ cơ quan kiểm duyệt báo chí từ 1/1/1935. 15
- Năm 1936, với lệnh ân xá, hàng loạt tù chính trị đƣợc tha, các cán bộ của Đảng chắp nối liên lạc, xây dựng cơ sở, tổ chức lại các cấp uỷ và lợi dụng tình hình mới để ra sách báo công khai. Tiếp tục truyền thống bất khuất, vào thời kỳ 1936-1939, cuộc đấu tranh đòi tự do báo chí đƣợc đẩy lên một đà mới. Báo chí cách mạng Việt Nam ra sức tranh thủ điều kiện thuận lợi mới về chính trị, xuất bản công khai. Nội dung thƣờng yêu cầu tự do báo chí, tự do ngôn luận, phê phán gay gắt chế độ báo chí đƣơng thời, yêu cầu thi hành chế độ báo chí nhƣ ở Pháp. Và ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản đối với việc thành lập Mặt trận dân chủ chống phát xít; tuyên truyền cho sự chuyển hƣớng chỉ đạo chiến lƣợc của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, vận động thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dƣơng, đòi tự do dân chủ, cải thiện đời sống và hoà bình, chống phản động thuộc địa và chủ nghĩa phát xít, chống chủ nghĩa Tờrốtxkit, chủ nghĩa cải lƣơng và mọi lý luận tƣ tƣởng phản động khác để đẩy tới một cao trào cách mạng mới. Thời kỳ này Đảng có các tờ chữ Pháp nhƣ: Le Travail, Rassemblement! (1937), En Avant! (1937); Notre voix (1939) L’Avant Garde, Le Peuple…đây là những tờ báo theo chế độ đã ban hành, thì báo tiếng Pháp do ngƣời Pháp hay ngƣời Việt chủ trƣơng đều không cần phải xin phép, chỉ cần làm thủ tục đơn giản. Bên cạnh đó Đảng chủ trƣơng đi thuê, mƣợn lại những tờ báo sẵn có từ trƣớc, nhƣng ngƣời quản lý, tổng biên tập là ngƣời của Đảng phụ trách. Hình thức có khi nhƣ cũ, có khi ít nhiều thay đổi cách trình bày, nhƣng nội dung thì hoàn toàn khác nhƣ: Tờ Hồn Trẻ, xuất bản ngày 31/1/1935 do Nguyễn Mạnh Đang chủ nhiệm. Tờ Tân Xã Hội, xuất bản ngày 3/9/1936 sáng lập Viên Nguyễn Bính Nam, chủ nhiệm Vũ Đình Huỳnh. Tờ Khoẻ, xuất bản ngày 5/3/1937 do chủ nhiệm Trần Quang Huề. Tờ Bạn Dân của Misen cho đồng chí Đào Duy Kỳ quản lý. Tờ Tiếng Trẻ do Phạm Hữu Ninh chủ nhiệm, Trần Văn Tuyên quản lý, xuất bản ngày 22/12/1936. Tờ Tân Tiến số 1 ra tháng 8/1936 do Lê Quang Trinh làm giám đốc. Tờ Phổ Thông số 1 ra ngày 18/2/1938 do Lê Hoàng làm giám đốc, quản lý Huỳnh Hoa Cƣơng. Tờ Việt Dân số 1 ra ngày 2/12/1936 do Đặng Thúc 16
- Liêng làm giám đốc. Tờ Kịch Bóng do Bùi Văn Còn làm giám đốc, quản lý Nguyễn Thông Phán sau chuyển thành giám đốc là bà Phạm Xuân Chi, quản lý là Nguyễn Văn Trấn. Theo tinh thần chỉ đạo của Trung Ƣơng trong thông cáo ngày 20/3/1937: “các cấp đảng bộ phải khuyến khích những ngƣời cảm tình đứng tên ra xin chính phủ cho phép xuất bản những tờ báo công khai” [18, tr.217] một số tờ báo ra đời nhƣ: Hà Thành thời báo, xuất bản ngày 16/4/1937 Lê Kế Huyên làm giám đốc. Tờ Thời Thế, xuất bản ngày 30/10/1937 do Lê Kế Huyên làm giám đốc, Trần Đình Chi làm quản lý. Tờ Nhành Lúa, ra ngày 15/1/1937 do Nguyễn Xuân Lữ chủ biên, Hải Triều làm Tổng thƣ ký toà soạn. Tờ Kinh tế Tân văn do Phạm Bá Nguyên làm giám đốc, Lê Quế làm chủ nhiệm. Tờ Dân do Nguyễn Xuân Cát làm giám đốc, Nguyễn Đan Quế làm quản lý, Phan Đăng Lƣu chỉ đạo biên tập… Trên các báo chí cách mạng, Đảng công khai tuyên truyền đƣờng lối mới của Đảng. Nhiều “thƣ ngỏ” “thƣ công khai” của Trung ƣơng Đảng gửi các đảng phái, các xu hƣớng chính trị, các tổ chức quần chúng, các tầng lớp nhân dân đƣợc công bố trên báo chí. Lần đầu tiên đƣờng lối của Đảng đƣợc tuyên truyền công khai tỏa sáng đến đông đảo nhân dân, rọi chiếu con đƣờng đấu tranh của dân tộc. Lần đầu tiên Đảng công khai bảo vệ đƣờng lối đúng đắn của mình, phê phán một cách có căn cứ mọi xu hƣớng tả khuynh, hữu khuynh. Trên các cột báo lớn, bằng những đầu đề nổi bật, ở những vị trí trang trọng, báo chí cũng đã nêu lên nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, đƣa tin về các cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân, tiểu tƣ sản, trí thức, học sinh, binh lính, phụ nữ…đòi các quyền lợi cơ bản. Các tờ báo trên liên tiếp ra đời, tờ báo này bị cấm, tờ báo khác lại xuất hiện. Đứng trƣớc cao trào cách mạng trong cả nƣớc ngày càng phát triển mạnh mẽ mà đỉnh cao là năm 1938. Với sự cố gắng nỗ lực, Đảng đã cho ra đời đƣợc báo Tin Tức, xuất bản ngày 02/4/1938 là cơ quan của Xứ uỷ Bắc kỳ. Đồng chí Đặng Xuân Khu (Trƣờng Chinh) làm giám đốc, Trần Huy Liệu làm chủ bút, ngƣời sáng lập Lƣơng Văn Tuân, quản lý Trịnh Hoài Đức. Tờ Dân Chúng xuất bản 22/7/1938 là cơ quan trung ƣơng của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng do Tổng bí thƣ Nguyễn Văn Cừ chỉ đạo. Tiếp sau đó là tờ Dân Tiến-Cơ quan liên hiệp tất cả các lực lƣợng cấp tiến, thực chất là của Xứ uỷ Trung kỳ, xuất bản ngày 17
- 20/12/1938 do Huỳnh Văn Thanh quản lý, Phan Đăng Lƣu chỉ đạo biên tập. Tờ Dân Muốn-cơ quan của Xứ uỷ Trung kỳ xuất bản ngày 20/12/1938 do chủ nhiệm Phan Văn Tạo, chỉ đạo biên tập Phan Đăng Lƣu. Tờ Lao Động, xuất bản ngày 29/11/1938 do Nguyễn Thành A làm quản lý. Tờ Thế Giới, xuất bản tháng 9/1938-9/1939. Tờ Đời Nay, xuất bản tháng 12/1938-9/1939. Tờ Ngày Mới, xuất bản năm 1939… Báo chí cách mạng thời kỳ 1936-1939 tận dụng mọi điều kiện thuận lợi mới, mọi phƣơng tiện kỹ thuật có thể để thu thập tin, đến tận nơi điều tra sự việc, và đƣa lên báo tƣơng đối nhanh, tận dụng máy thu thanh, điện thoại, điện báo để lấy tin và liên lạc; dùng xe lửa, ô tô, tàu thuỷ để phát hành báo… Báo chí cách mạng thời kỳ 1936-1939 tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin và đƣờng lối, chính sách của Đảng trong quần chúng, góp phần thúc đẩy sự thống nhất phong trào cả nƣớc, trong toàn Đông Dƣơng hoà vào nhau, hƣởng ứng lẫn nhau, cùng nhau tiến lên đấu tranh dƣới những khẩu hiệu chung, khắc phục tính rời rạc địa phƣơng. Toà soạn báo là nơi quần chúng đến bày tỏ nguyện vọng, phản ánh tình hình địa phƣơng cho Đảng, biên tập viên, phóng viên của báo đi vào quần chúng, hình thành mối liên hệ công khai, một trạm giao thông hợp pháp tin cậy, thƣờng xuyên giữa Đảng và quần chúng. Toà soạn báo còn là địa chỉ cho các chiến sĩ cách mạng đến tìm liên lạc với tổ chức đảng khi ra tù, hay ở nƣớc ngoài về. 1.2. Sự xuất hiện và hoạt động của báo Dân Chúng 1.2.1. Sự xuất hiện báo Dân Chúng Những năm trƣớc đây, trong phong trào báo chí, nhiều cán bộ của Đảng đã xuất bản một số báo không có danh nghĩa gì, xem nhƣ báo tự do của tƣ nhân, Hồn trẻ tập mới-tờ báo cách mạng ra đời công khai sớm nhất ở nƣớc ta, ra đƣợc 12 số thì bị rút giấy phép. Tân Xã hội xuất bản đƣợc số ra mắt, số 1 và số 2 cũng bị cấm, tờ báo chữ Pháp LeTravail đến tháng 4/1937 cũng bị đình bản. Tờ Rassemblement ra đƣợc 5 số phải ngừng, tuy có khó khăn về tài chính nhƣng chủ yếu là do phong trào đang lên mạnh, tên báo không có tác dụng động viên, thúc đẩy phong trào, cần có tờ báo khác ra thay. Xứ ủy cho ra tờ EnAvant mạnh mẽ hơn, viết hay hơn, có thêm Đặng Thai Mai và một số ngƣời khác tham gia. Song En Avant chỉ xuất bản đƣợc 11 số rồi ngừng. Báo chữ Pháp ngƣời viết 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong nền nghệ thuật cổ Champa
97 p | 238 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong lịch sử
130 p | 175 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa của vùng đất Nam kỳ với phương Tây đến đầu thế kỉ XX
167 p | 198 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867
216 p | 146 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử kênh đào Nam bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
69 p | 167 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam
125 p | 149 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thực trạng đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 đến nay
101 p | 186 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên (Thế kỷ XVII - XIX)
132 p | 149 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất Hà Tiên thế kỷ XVIII - XIX
164 p | 154 | 35
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang
108 p | 194 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản từ năm 1868 đến năm 1912
144 p | 152 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)
113 p | 170 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010 - Huỳnh Thị Thấm
141 p | 173 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Melayu trong văn hóa Chăm - Quá trình định hình và phát triển
118 p | 137 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Đức quốc xã trước chiến tranh thế giới thứ hai (1933 - 1939)
144 p | 136 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử học: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010
126 p | 119 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế du lịch huyện Sóc Sơn, Hà Nội (1986-2016)
98 p | 66 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế - Xã hội Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn (1802-1885)
101 p | 16 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn