intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:113

171
lượt xem
28
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939) tìm hiểu vùng đất Miền Đông Nam Kỳ trước và trong thời Pháp thuộc; sự hình thành và phát triển đồn điền cao su ở Miền Đông Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1898-1939); khai thác đồn điền cao su và hiệu quả kinh tế của đồn điền cao su ở Miền Đông Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1898-1939).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)

  1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH --------------------------------- NGUYỄN THỊ PHƯỢNG LỊCH SỬ ĐỒN ĐIỀN CAO SU Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ THỜI KỲ PHÁP THUỘC GIAI ĐỌAN (1898-1939) Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam Mã số : 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ HUỲNH HOA Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
  2. Lời cảm ơn Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học, quý thầy cô khoa sử đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn. Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng, biết ơn TS. Lê Huỳnh Hoa, cô đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn. Tôi cũng xin cảm ơn Ban Giám Hiệu trường THPT Phước Vĩnh và các đồng nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành việc học tập và nghiên cứu. Tôi xin tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, bạn bè đã giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hầu hết các nhà nghiên cứu về chế độ thuộc địa trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều thừa nhận rằng, chế độ thống trị thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương Tây là một chế độ áp bức bóc lột tàn bạo đáng bị lên án. Nhưng khách quan, nó cũng thúc đẩy nền kinh tế thuộc địa chuyển sang hình thái kinh tế mới với sự hiện diện của nhân tố mới - nhân tố kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thuộc địa Việt Nam thời Pháp thuộc, Miền Đông Nam Kỳ là một trong những địa phương phản ánh tập trung những yếu tố kinh tế mới. Đặc biệt nhất là hoạt động của “đồn điền cao su” – ngành đại diện cho hoạt động nông nghiệp thực dân hiện đại. Từ nhiều thế kỷ trước, khi Nam Kỳ còn đặt dưới sự kiểm soát của Chân Lạp, Miền Đông Nam Kỳ là một vùng hoang vu nhiều rừng rậm. Dưới thời các chúa Nguyễn, cư dân người Việt, người Hoa… vào khai phá, biến nơi đây thành vùng trồng trọt lớn của vùng đất Nam Bộ. Từ khi thực dân Pháp xâm lược và tiến hành khai thác thuộc địa ở nước ta, Miền Đông Nam Kỳ đã có những biến đổi sâu sắc về kinh tế. Xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận, tư bản Pháp đặc biệt quan tâm tới nông nghiệp, tận dụng tối đa điều kiện thiên nhiên thuận lợi về đất đai để đầu tư trồng trọt, trong đó cây cao su – một loại nguyên liệu phục vụ cho ngành công nghiệp, có giá trị kinh tế cao và là sản phẩm đang được thị trường thế giới bấy giờ ưa chuộng – đứng ở vị trí số một, trở thành cây trồng chính trên đồng đất Miền Đông Nam Kỳ. Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, Miền Đông Nam Kỳ đã nhanh chóng trở thành nơi có diện tích đồn điền cao su lớn nhất cả nước. Cây cao su từ đó sớm khẳng định vị trí và vai trò trong nền kinh tế Miền Đông Nam Kỳ nói riêng và cả nước nói chung, trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của cả nước, đem lại nguồn lợi rất lớn cho tư bản thực dân Pháp. Với sự xuất hiện của vùng nguyên liệu cây cao su công nghiệp, Nam Kỳ đã hình thành được hai vùng sản xuất nguyên liệu chính phục vụ cho xuất khẩu của thực dân Pháp, đó là lúa gạo ở Miền Tây và cao su ở Miền Đông. Trong đó Miền Đông
  4. Nam Kỳ với thế mạnh đặc trưng của mình đã tác động khá lớn đến tổng thể kinh tế Nam Kỳ. Để hiểu rõ vị trí và vai trò của cây cao su trong nền kinh tế Miền Đông Nam Kỳ nói riêng và Việt Nam nói chung thời Pháp thuộc, tôi đã chọn đề tài « Lịch sử đồn điền cao su ở Miền Đông Nam Kỳ thời Pháp thuộc giai đoạn (1898-1939) » làm đề tài tốt nghiệp luận văn thạc sỹ của mình. Mong rằng những hiểu biết lịch sử sau khi nghiên cứu có thể làm cơ sở khoa học và thực tiễn để hiểu, để xác định hướng đi kinh tế của Miền Đông Nam Kỳ trong hiện tại và tương lai. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Để thực hiện đề tài, tôi đã tìm đọc và nhận thấy có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến những nội dung có liên quan đến đề tài. Các nội dung này phần lớn được thể hiện hòa lẫn trong các công trình nghiên cứu về nhiều mặt của Nam Kỳ và Miền Đông Nam Kỳ. Có thể giới thiệu sơ bộ sau đây. Trước tiên phải kể đến các tác phẩm của người Pháp. Họ rất quan tâm nghiên cứu về vấn đề trồng trọt ở Miền Đông Nam Kỳ, đã bỏ không ít thời gian vào việc nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Miền Đông Nam Kỳ: - Terres rouges et terres noires basaltiques d’Indochine, nhà xuất bản Hà Nội, năm 1931 và Economic agricole del l Indochine, nhà xuất bản Hà Nội, năm 1932 của Yves Henry. - Le problem économique Indochinois của P. Bernard, xuất bản năm 1934. - Note sur la main d’auvre caoutchouc des plantations de la Cochinchine et du Cambodge của G. Wormeser, nhà xuất bản Sài Gòn, năm 1938. Ngoài ra còn có một số bài viết đề cập đến đồn điền cao su ở những góc độ và mức độ khác nhau được đăng trên các tạp chí: Économique Indochinoi, Extrême Asie, Asie francaise, Presse Indochinoise, Chấn hưng kinh tế...Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp cho người đọc nhiều tư liệu quý có giá trị tham khảo cao, rất có ít đối với người nghiên cứu. Sau cách mạng tháng tám, nhất là từ sau năm 1954, nhiều tác giả người Việt đã quan tâm khảo cứu về kinh tế, xã hội Việt Nam, trong đó có những công trình đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau của Miền Đông Nam Kỳ nhưng ít nhiều có liên quan đến vấn đề cao su:
  5. - Kinh tế Miền Nam của Phạm Thành Vinh, nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1957. Tác giả đã dành phần 2 của chương một để nêu đặc điểm kinh tế ở miền đồi núi thuộc Miền Nam – vấn đề khai thác các vùng đất đỏ và việc trồng cây công nghiệp. - Những thủ đoạn bóc lột của tư bản Pháp ở Việt Nam của Nguyễn Khắc Đạm, nhà xuất bản Văn- sử- địa, Hà Nội, 1957. Ngoài nội dung quá trình bỏ vốn và chính sách cướp đoạt ruộng đất của tư bản Pháp ở Việt Nam, trong chương 3 tác giả đã giành 10 trang để trình bày sơ lược về phương thức kinh doanh đồn điền cao su của tư bản Pháp, đồng thời còn đưa ra những số liệu cao su xuất cảng. - Trong cuốn Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc của Nguyễn Công Bình, nhà xuất bản Văn- sử- địa, Hà Nội, 1959. Tác giả cũng đề cập sơ lược đến điền chủ cao su người Việt. - Tư bản Pháp và vấn đề cao su ở Miền Nam Việt Nam của Nguyễn Phong, nhà xuất bản Khoa Học, năm 1963. Đây là một chuyên khảo về vấn đề cao su. Tác phẩm của Nguyễn Phong đã giúp những người không tiếp cận được với các sách tiếng Pháp có những hiểu biết nhất định về lịch sử đồn điền cao su. Bên cạnh đó, những ý kiến nhận xét của ông cũng đáng để người đọc tham khảo. Tuy nhiên, đây chưa phải là một công trình nghiên cứu đầy đủ về đồn điền cao su. Tác giả chưa trình bày vấn đề một cách có hệ thống, ông chủ yếu trình bày sơ lược việc kinh doanh cao su của tư bản Pháp về: chính sách cướp đất đai của thực dân Pháp, tình cảnh lao động và đời sống của công nhân cao su, phong trào đấu tranh của công nhân cao su. Các vấn đề về sự ra đời và phát triển của các công ty và đồn điền cao su, quy mô của đồn điền, sự phân bố các đồn điền cao su cũng như sở hữu của các điền chủ chưa được tác giả làm rõ. - Tình hình kinh tế Đông Dương(1900-1939) và kế hoạch tái thiết, trang bị canh tân Đông Dương, nguyên tác của ủy ban kế hoạch Pháp do Lê Khoa dịch và bình, xuất bản năm 1969. - Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ của Nguyễn Thế Anh, nhà xuất bản Lửa Thiêng, năm 1970 và Việt Nam Pháp thuộc sử của Phan Khoang, phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, năm 1971. Trong chương 2 trình bày về sinh hoạt kinh tế của Việt Nam, hai tác giả cũng đã nêu sơ lược về diện tích, sản lượng cao su.
  6. - Vấn đề cao su Việt Nam của Đỗ Văn Minh, luận văn cao học Quốc gia hành chính Sài Gòn, năm 1971. Đây cũng là một chuyên khảo về cao su, tuy nhiên tác phẩm của ông chủ yếu nghiên cứu ở giai đoạn từ 1945 trở về sau. - Nền kinh tế Việt Nam dưới thời Pháp thuộc (1920-1930) của Trịnh Như Kim, luận văn cao học sử, Đại họcVạn Hạnh, năm 1972. - Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ của Huỳnh Lứa (chủ biên), nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh, năm 1987. Trong chương 4 khi trình bày về công cuộc khai phá dưới thời Pháp thuộc, các tác giả đã dành 7 trang để nêu sơ lược về: diện tích trồng cao su, sự phân bố, năng suất và tác động của đồn điền cao su đối với kinh tế, xã hội Miền Đông Nam Kỳ. - Sự hiện diện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương (1859- 1939) của Jean- Pierre Aumiphine (bản dịch), xuất bản ở Hà Nội, năm 1994. Tác giả cũng trình bày một cách khái quát về hoạt động đồn điền cao su. - Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Miền Nam Việt Nam (1954- 1975) của Võ Văn Sen, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996. Trong chương 1, tác giả đã giành một vài trang để sơ lược về hoạt động kinh doanh của tư bản Pháp trong nông nghiệp ở Nam Kỳ trong đó có cây cao su. - Cây cao su đặc sản của vùng Đông Nam Bộ của Lê Huỳnh Hoa đăng trên tạp chí xưa và nay, số 45b, 11/1997. Bài viết của tác giả Lê Huỳnh Hoa đã trình bày những nội dung chủ yếu nhất của đồn điền cao su (sự du nhập cây cao su vào Việt Nam, chính sách cướp đất và tuyển mộ lao động, việc khai thác mủ và xuất khẩu cao su). Song, do vấn đề chỉ được đề cập trong một số trang ít ỏi, tác giả chưa thể làm sáng tỏ tất cả mọi mặt - Góp thêm tư liệu Sài Gòn- Gia Định từ 1859-1945 của Nguyễn Phan Quang, nhà xuất bản Trẻ Tp. Hồ Chí Minh, năm 1998. Tác giả cũng nêu sơ lược về diện tích cao su và sản lượng cao su xuất khẩu. - Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa( 1858-1945) của Nguyễn văn Khánh, nhà xuất bản Đại học quốc gia, Hà Nội, năm 1999. Tác giả cũng đề cập đến hoạt động của đồn điền cao su ở Nam Kỳ về: diện tích cao su, số lượng đồn điền, sản lượng cao su xuất khẩu. - Một trăm năm cao su Việt Nam của Đặng văn Vinh, nhà xuất bản Nông nghiệp, Tp. HCM, năm 2000. Tác phẩm của ông đã trình bày khá rõ về sự ra đời và
  7. phát triển của đồn điền cao su ở nước ta, sự cải tiến kỹ thuật trồng trọt cũng như phong trào đấu tranh của công nhân cao su. Tuy vậy, một số vấn đề như: chính sách và biện pháp cướp đoạt đất đai của thực dân Pháp, hiệu quả kinh tế của đồn điền cao su, tác động của đồn điền cao su đối với kinh tế - xã hội Miền Đông Nam Kỳ … chưa được tác giả làm rõ, cần được tìm hiểu thêm. - Cảng Sài Gòn và những biến đổi kinh tế Nam Kỳ thời Pháp thuộc(1860-1939) của Lê Huỳnh Hoa, luận án tiến sĩ khoa học Lịch sử, Đại học sư phạm Tp.HCM, năm 2002. Tác giả cũng đã trình bày về hoạt động đồn điền cao su. Đặc biệt còn có một số công trình chuyên nghiên cứu về giai cấp công nhân Việt Nam và bộ phận công nhân cao su như là: - Địa ngục cao su của Nguyễn Hải Trừng, nhà xuất bản Sự Thật, năm 1955. - Giai cấp công nhân Việt Nam của Trần văn Giàu , nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1961. - Phú Riềng đỏ của Trần Tử Bình, nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội, 1971. - Một số vấn đề về lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam của Nguyễn Công Bình, nhà xuất bản Lao động, năm 1974. - Giai cấp công nhân Việt Nam trước khi thành lập Đảng của Ngô văn Hòa- Dương Kinh Quốc, nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 1978. - Giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ 1936-1939 của Cao văn Biền, nhà xuất bản KHXH, 1979. - Phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân cao su Miền Đông Nam Bộ của Thành Nam, nhà xuất bản Lao động, năm 1982. - Lịch sử phong trào công nhân cao su Việt Nam (1906-1990) của Huỳnh Lứa (chủ biên), Nhà xuất bản Trẻ, năm 1993. - Phú Riềng đỏ trong phong trào công nhân Miền Đông Nam Kỳ của Hà Minh Hồng, nghiên cứu lịch sử số 5, năm 1999. Những tác phẩm trên giúp chúng tôi nhận biết chân xác hơn về : sự ra đời và phát triển cũng như tình cảnh lao động và đời sống của giai cấp công nhân Việt Nam, đặc biệt là bộ phận công nhân làm việc tại các đồn điền cao su. Đồng thời, thấy rõ bản chất bóc lột của tư bản thực dân Pháp. Bên cạnh đó, một số tác giả có những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề cao su ở một số địa phương của Miền Đông Nam Kỳ. Nhìn chung các tài liệu này
  8. cũng giúp người nghiên cứu bổ sung thêm một ít tư liệu về đồn điền cao su ở các địa phương. - Lịch sử các đồn điền cao su thuộc miền đất đỏ Bình Long của Lê Linh, Tuần san Phòng thương mãi Sài Gòn, số 186-187, 1961. - Thực tế khai thác cao su của người Pháp tại Bình Long, của Ngô Viết Đức, luận văn cao học Quốc gia hành chính Sài Gòn, năm 1972. - Những chặng đường đấu tranh cách mạng của công nhân cao su Đồng Nai của Nguyễn Viết Trân, Công ty cao su Đồng Nai xuất bản, năm 1985. - Lịch sử đấu tranh cách mạng Sông Bé (1920-1945) của Lưu Huỳnh Thống, trong “Địa chí Sông Bé”, nhà xuất bản Tổng hợp Sông Bé, 1991. - Sự hình thành và phát triển của đội ngũ công nhân cao su Đồng Nai qua các thời kì lịch sử (1906-1991) của Trần Toản, luận án tiến sĩ khoa học lịch sử, Viện khoa học xã hội tại Tp.HCM, năm 1991. - Tìm hiểu phong trào đấu tranh của công nhân cao su Sông Bé (1933-1975), luận văn cao học sử, Viện khoa học xã hội tại Tp.HCM, 1991. - Phong trào đấu tranh của công nhân Thủ Dầu Một trong kháng chiến chống thực dân Pháp của Nguyễn Thị Mộng Tuyền, nhà xuất bản Lao Động, năm 2002. - Những biến đổi kinh tế- xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Phước thời Pháp thuộc giai đoạn 1897-1939 của Bùi Thị Huệ, luận văn cao học sử, Đại học sư phạm Tp.HCM, năm 2002. Nhìn chung, các tác phẩm trên đã đề cập ở nhiều mức độ khác nhau về đồn điền cao su ở Miền Đông Nam Kỳ thời Pháp thuộc. Có tài liệu khảo cứu khá chi tiết, có tài liệu chỉ nói đến một cách sơ lược như là một sự kiện bên cạnh nhiều sự kiện khác. Song, tất cả đều có ích đối với người nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu tập trung và hệ thống về hoạt động của đồn điền cao su ở Miền Đông Nam Kỳ. Vì vậy, nghiên cứu “Lịch sử đồn điền cao su ở Miền Đông Nam Kỳ thời Pháp thuộc giai đoạn (1898-1939)” sẽ là một đóng góp thiết thực để hiểu rõ hơn về hoạt động kinh tế mang tính đặc thù đã từng làm nên thế mạnh kinh tế của Miền Đông Nam Kỳ thời Pháp thuộc. 3. Mục đích nghiên cứu Xuất phát từ nhận thức nêu trên, đề tài muốn đặt ra và giải quyết các yêu cầu khoa học cụ thể sau đây :
  9. - Bước đầu tập hợp, thống kê, hệ thống hóa tư liệu, dựng lên bức tranh sinh động về hoạt động trồng trọt chính của Miền Đông Nam Kỳ thời Pháp thuộc, cụ thể là cây cao su. - Từ thực tế hoạt động của đồn điền cao su ở Miền Đông Nam Kỳ thời Pháp thuộc, tiến hành xem xét, đánh giá những ảnh hưởng tích cực và hạn chế của đồn điền cao su đối với kinh tế, xã hội của Miền Đông Nam Kỳ. - Trên cơ sở nhận thức về sự khai thác triệt để và những hậu quả mà thực dân Pháp để lại cho thuộc địa. Bước đầu rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng và phát triển kinh tế Miền Đông Nam Kỳ trong hiện tại và tương lai. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài tìm hiểu về hoạt động cụ thể của đồn điền cao su ở Miền Đông Nam Kỳ giai đoạn (1898-1939). Vì vậy, hoạt động của đồn điền cao su (1898-1939)– ngành sản xuất mang tính đặt thù của kinh tế Miền Đông Nam Kỳ thời Pháp thuộc – là đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Tuy nhiên được giới hạn trong phạm vi nghiên cứu như sau: - Không gian nghiên cứu của đề tài là khu vực Miền Đông Nam Kỳ gồm các tỉnh : Thủ Dầu Một, Biên Hoà, Bà Rịa, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn. Ngày nay thuộc địa phận hành chính các tỉnh : Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Tây Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh. - Thời gian nghiên cứu của đề tài được giới hạn bởi hai mốc :  Mốc mở đầu là năm 1898 : Đây là năm bắt đầu trồng và lập đồn điền cao su ở Miền Đông Nam Kỳ.  Mốc kết thúc là năm 1939 : Trên thực tế đây là năm kết thúc công cuộc khai thác thuộc địa lần II. Từ năm 1940-1945, phát xít Nhật đã nhảy vào Đông Dương. Về danh nghĩa thực dân Pháp vẫn duy trì chủ quyền của mình, nhưng trên thực tế, các hoạt động của thực dân Pháp đã hoàn toàn bị phát xít Nhật chi phối, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, phương pháp lịch sử và phương pháp logic được xác định là những phương pháp cơ bản để tiến hành nghiên cứu. Hỗ trợ cho phương pháp lịch sử và phương pháp logic là phương pháp thống kê nhằm hệ thống các số liệu, dữ kiện làm cơ sở để kết hợp đồng thời với phương
  10. pháp tổng hợp rút ra những kết quả tổng hợp, đáp ứng yêu cầu của một đề tài lịch sử kinh tế. Ngoài ra phương pháp so sánh cũng được vận dụng để giúp làm sáng tỏ những hoạt động và biến đổi của kinh tế, xã hội Miền Đông Nam Kỳ so với các thời kỳ trước và sau đó. 6. Đóng góp của Luận văn - Luận văn đã tiếp cận, lựa chọn, thu thập và tổng hợp một số tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau đặc biệt là nguồn tư liệu hiện đang lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh có liên quan đến kinh tế, xã hội nói chung và đồn điền cao su nói riêng ở Miền Đông Nam Kỳ thời Pháp thuộc. Việc nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống sự phát triển của đồn điền cao su ở Miền Đông Nam Kỳ sẽ giúp phục dựng lại hoạt động của các đồn điền cao su ở đây - một hoạt động mang tính đặt thù của kinh tế Miền Đông Nam Kỳ thời Pháp thuộc. -Trên cơ sở khôi phục lại hoạt động kinh tế tiêu biểu đó, luận văn góp phần giúp đọc giả hiểu rõ vị trí và vai trò của cây cao su đối với kinh tế Miền Đông Nam Kỳ thời Pháp thuộc. -Qua nghiên cứu luận văn còn làm sáng rõ : 1. Nhận thức về thế mạnh, tiềm năng của vùng kinh tế Miền Đông Nam Kỳ trong quá khứ, làm cơ sở định hướng cho hoạt động kinh tế của Miền Đông Nam Kỳ hiện nay trên bước đường công nghiệp hóa- hiện đại hoá đất nước. 2. Nhận thức về chủ nghĩa thực dân. 7. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được chia thành 4 chương: Chương 1 : Vùng đất Miền Đông Nam Kỳ trước và trong thời Pháp thuộc. Chương 2 : Sự hình thành và phát triển đồn điền cao su ở Miền Đông Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1898-1939). Chương 3 : Khai thác đồn điền cao su và hiệu quả kinh tế của đồn điền cao su ở Miền Đông Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1898-1939). Chương 4 : Tác động của đồn điền cao su đối với kinh tế - xã hội của Miền Đông Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1898-1939).
  11. Chương 1 : VÙNG ĐẤT MIỀN ĐÔNG NAM KỲ TRƯỚC VÀ TRONG THỜI PHÁP THUỘC 1.1. Miền Đông Nam Kỳ trước thời Pháp thuộc 1.1.1. Điều kiện tự nhiên Miền Đông Nam Kỳ là vùng đất mới trong lịch sử phát triển của đất nước Việt Nam. Trong giai đoạn Pháp thuộc, Miền Đông Nam Kỳ bao gồm các tỉnh: Gia Định, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa, Tây Ninh. Ngày nay thuộc địa phận các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh. Về mặt vị trí địa lí: Phía Tây và Tây Nam, nằm kề đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Phía Đông và Đông Nam giáp biển. Phía Bắc và Đông Bắc giáp vùng Tây Nguyên. Theo tác giả Huỳnh Lứa trong tác phẩm “Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ”, Miền Đông Nam Kỳ có diện tích 27.920 km2, là vùng đồng bằng phù sa cổ, tồn tại dưới dạng bán bình nguyên, có địa hình đồi gò lượn sóng, độ cao trung bình từ vài chục mét đến khoảng 200m trên mực nước biển, độ dốc dưới 150 chiếm 80% diện tích, gồm những cao nguyên thấp và những ngọn đồi lượn sóng, rải rác xuất hiện một vài ngọn núi trẻ như núi Chứa Chan (858m), núi Bà Rá (736m), núi Bà Đen (986m)… Miền Đông Nam Kỳ là một vùng đất cao tiếp liền dưới chân phía nam các cao nguyên Bảo Lộc - Di Linh kéo dài từ Tây Ninh đến Bà Rịa. Rìa phía nam đổ thoai thoải xuống đồng bằng sông Cửu Long. Đây là vùng của các núi lửa đã tắt và của các bậc thềm sông, khoảng 1/3 diện tích có địa hình hiểm trở, còn lại đất đỏ và đất xám là chủ yếu, rất thích hợp cho cây công nghiệp.[27, tr.17-18] Đất đỏ ở Miền Đông Nam Kỳ trải rộng ở phía bắc chạy dài thành một dải theo hướng bắc-đông-bắc; nam-đông-nam phủ trên nền đá hoa cương cổ. Trước hết người ta tìm thấy đất đỏ ở gần Kompong-cham (tả ngạn sông Mê Kông), nó đi qua Lộc Ninh, Xa Trạch và từ An Bình xuống phía nam về Bà Rịa. Đó là loại đất sét ít chất đá vôi, có nhiều mùn và có một hàm lượng hữu cơ khá lớn. Đất không lẫn cuội và sỏi, ở độ sâu 15-40 mét đất vẫn giữ được đồng chất. Đặc điểm của loại đất này là không bị cứng nên dễ hút nước mưa, không để cho nước chảy thành dòng và giữ được độ ẩm rất tốt thích hợp với việc trồng cây công nghiệp. Các nhà khoa học Pháp đã phát hiện
  12. riêng ở Miền Đông Nam Kỳ, diện tích đất đỏ tối thiểu là 200.000 ha tạo thành một dải rộng từ 2 đến 20 cây số, dài 200 cây số. [35, tr.12] Vùng đất xám được phân bố từ phía tây đến phía đông Nam Kỳ qua các tỉnh Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Gia Định, Biên Hòa, Bà Rịa. Đây là loại đất chiếm diện tích lớn nhất ở Miền Đông Nam Kỳ. Đất xám là loại đất sét có pha nhiều cát nên ít giữ nước, ít đá vôi, ít mùn, lượng hữu cơ có nhưng chua và ít đạm. Nếu trồng trọt, phải sử dụng phân bón thích hợp. Loại đất này thích hợp cho những loại cây lâu năm, ngoài ra còn trồng được các loại hoa màu. Dãy đất phù sa mới nằm tiếp giáp vùng đồng bằng châu thổ do các con sông: sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và sông Bé bồi tụ nên chỉ tạo ra những đồng bằng nhỏ hẹp, ngập nước thích hợp cho việc canh tác lúa. Do sự phân bố tự nhiên về mặt đất đai như trên, nguồn tài nguyên chính yếu của Miền Đông Nam Kỳ là lâm sản. Ở đây, có khoảng 60 loại gỗ tốt, đặc biệt là các loại gỗ dầu, trắc, cẩm lai, gõ, mun… Rừng tre, rừng tràm, rừng đước, sú, vẹt cũng là những nguồn tài nguyên đáng kể. Dưới thời Pháp thuộc, các vùng đất đỏ và các thềm phù sa cổ đã được khai thác thành những đồn điền lớn trồng các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê. Nếu như ở Miền Tây Nam Kỳ có hệ thống sông Cửu Long thì ở Miền Đông Nam Kỳ có hệ thống sông Đồng Nai. Hệ Đồng Nai bao gồm sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ. Sông Đồng Nai là con sông quan trọng thứ nhì ở Nam Kỳ dài 580 km, do hai nhánh sông Đa Dung và Đa Nhim từ cao nguyên Lâm Viên chảy xuống hợp thành nên có nhiều thác lớn. Sau khi tiếp nhận sông La Ngà từ bên trái, sông Bé từ bên phải, sông bắt đầu chảy vào đồng bằng qua đợt thác cuối cùng là thác Trị An. Sông chảy uốn khúc rồi gặp sông Sài Gòn từ Hớn Quản qua Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Gia Định về mạn Nhà Bè. Từ đây sông thông ra biển bằng nhiều nhánh: sông Đồng Tranh, sông Ngã Bảy, sông Lòng Tàu, sông Soài Rạp (sông Nhà Bè). Sông Đồng Nai chịu ảnh hưởng mạnh của thủy triều. Nhờ thủy triều mà dòng sông sâu, thuyền lớn có thể ngược hai sông Vàm Cỏ đến biên giới Việt- Campuchia, ngược sông Đồng Nai đến Biên Hòa, ngược sông Sài Gòn đến hết tỉnh Thủ Dầu Một. Các con sông thuộc hệ Đồng Nai đã tạo thành một mạng lưới giao thông đường thủy thuận lợi cho cư dân các tỉnh Miền Đông, đồng thời nó còn thông với các tỉnh Miền Tây và Campuchia qua hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây.
  13. Miền Đông Nam Kỳ có đặc điểm khí hậu nhiệt đới cận xích đạo với nền nhiệt độ cao và hầu như không thay đổi đáng kể trong năm, nhiệt độ tối đa 34o-35o và tối thiểu là 18o. Đặc biệt có sự phân hóa sâu sắc theo mùa, phù hợp với hoạt động của gió mùa. Ở đây có hai mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 dương lịch trùng hợp với gió mùa tây nam, mùa khô kéo dài từ tháng 11đến tháng 4 là khoảng thời gian có gió mùa đông bắc. Lượng mưa tương đối dồi dào, lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.500-2.000mm. Nhìn chung, đây là vùng có khí hậu tương đối điều hòa, ít có thiên tai, không gặp thời tiết quá lạnh, ảnh hưởng của bão hạn chế. Khí hậu của vùng rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, nhất là cây công nhiệp lâu năm như cao su. 1.1.2. Khái quát lịch sử khai phá vùng đất Miền Đông Nam Kỳ. 1.1.2.1. Sự hiện diện đầu tiên của con người trên vùng đất Miền Đông Nam Kỳ. Những khám phá của khảo cổ học cho biết một cách chắc chắn con người đã có mặt trên vùng đất Miền Đông Nam Kỳ cổ từ khá lâu đời, cách đây khoảng 4.000 năm đến 2.500 năm. Những di cốt đầu tiên được tìm thấy ở nhiều nơi trong vùng. Số lượng các di tích cư trú, các khu mộ cổ của lớp cư dân đầu tiên có đến hàng trăm địa điểm. Đặc biệt là khu đất đỏ bazan và vùng hạ lưu sông Đồng Nai – Sài Gòn, vùng ven sông Vàm Cỏ Đông có mật độ cư trú các di tích khá dày. Từ các di tích Vườn Dũ, Cù Lao Rùa, Dốc Chùa đến những di tích được chôn trong hầm đá cự thạch (Xuân Lộc), trong các ngôi mộ chum gốm ở di tích Phú Hòa (cách nay khoảng 3000- 2500 năm) trên vùng đất đỏ bazan, các ngôi mộ chum ở Cần Giờ (cách ngày nay khoảng 3.000-2.000 năm)… Các di cốt ấy đã ghi nhận một cách có căn cứ về lớp cư dân đầu tiên khai phá vùng đất Miền Đông Nam Kỳ nói riêng và Nam Kỳ nói chung. Vùng phù sa cổ - Miền Đông Nam Kỳ - là nơi lớp cư dân đầu tiên cư trú đông nhất lúc bấy giờ không phải là đồng bằng châu thổ sông Cửu Long – vùng phù sa mới. Cho đến nay, khảo cổ học chưa tìm thấy những di tích cư trú đích thực của lớp người đầu tiên ấy ở vùng châu thổ sông Cửu Long. Cư trú ở vùng cao của Nam Kỳ, những cư dân đầu tiên này đã lấy nghề trồng trọt làm nghề sản xuất chính trong đó chủ yếu là trồng lúa rẫy. Đây có thể coi là một trong những đặc điểm của quá trình phát triển kinh tế buổi đầu của cư dân Miền Đông Nam Kỳ.
  14. Trên cơ sở trình độ kỹ thuật kim khí phát triển, vào những thế kỷ đầu công nguyên, lớp người đầu tiên này bắt đầu tiến xuống chinh phục đồng bằng sông Cửu Long, xây dựng nên vùng đô thị Óc Eo – Ba Thê, một hải cảng khá nổi tiếng của vương quốc Phù Nam. Tuy nhiên thế kỷ VI, Phù Nam bị Chân Lạp thôn tính. Do đó từ thế kỷ VI-XVI, người Khơme là cư dân chủ yếu ở Miền Tây và một phần của Miền Đông Nam Kỳ lan tới lưu vực sông Bến Nghé. Họ sống rải rác trên các giồng đất cao. Trên lưu vực sông Đồng Nai còn có một số dân tộc ít người (Stiêng, Châu Mạ, Châu Ro, Mơ nông, Tàmun…) sinh sống trên vùng đồi núi. Lớp cư dân thứ hai này tiếp tục khai phá vùng đất này. Nhưng do dân số ít, kỹ thuật sản xuất thấp kém cho nên ngoại trừ một vài vùng đất cao ở bìa rừng và một số gò đồi thì đại bộ phận đất đai còn lại đều là rừng rậm chưa hề được khai phá. Vì vậy cho đến cuối thế kỷ XIII, vùng đất này về cơ bản vẫn là một vùng hoang vu, chưa được khai phá bao nhiêu mặc dù thế kỷ XIII là đỉnh cao của thời đại Ăngkor. Điều này được thể hiện khá rõ qua sự mô tả quang cảnh vùng duyên hải và đồng bằng Nam Kỳ của Châu Đạt Quan, một sứ thần của triều đình nhà Nguyên được cử sang kinh đô Ăngkor(1296) để giao thiệp với vua Chân Lạp: “ Bắt đầu vào Châu Bồ (vùng biển Vũng Tàu ngày nay), gần hết cả vùng đều là bụi rậm của rừng thấp, những cửa rộng của con sông lớn chảy dài hàng trăm dặm, bóng mát um tùm của những gốc cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chỗ trú xum xuê, khắp nơi vang tiếng chim hót và tiếng thú kêu. Vào nửa đường trong sông, thấy những cánh đồng hoang không có một gốc cây. Xa nữa, tằm mắt chỉ toàn thấy cỏ cây đầy rẩy. Hàng trăm hàng nghìn trâu rừng tụ hợp từng bầy. Tiếp đó nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm”.[27, tr.37]. 1.1.2.2. Sự xuất hiện của lưu dân người Việt với qúa trình khai phá vùng đất Miền Đông Nam Kỳ trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Như đã nêu ở trên, vùng đất Miền Đông Nam Kỳ mặc dù từ lâu đã là nơi sinh sống của những lớp cư dân thuộc nhiều thành phần chủng tộc và dân tộc khác nhau. Nhưng cho đến thế kỷ XVI, về cơ bản đây vẫn là vùng đất hoang vu chưa được mở mang khai phá gì nhiều. Từ đầu thế kỷ XVII, Miền Đông Nam Kỳ cũng như toàn bộ vùng đất Nam Kỳ trở nên rầm rộ và sôi động, do có sự xuất hiện của cư dân mới, chủ yếu là người Việt từ miền Thuận Quảng di cư vào. Nguyên nhân của hiện tượng xã hội này chính là do
  15. những cuộc chiến tranh tương tàn của hai tập đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn. Dân chúng không sống nổi trong tình cảnh binh đao, nô dịch, thiên tai, đói nghèo. Họ quyết định rời bỏ làng mạc, xiêu tán vào phương Nam, hội nhập cùng với cư dân bản địa khai hoang, lập ấp, mưu cầu cuộc sống an bình, no ấm. Theo chân người Việt, vào những thập kỷ cuối thế kỷ XVII, một số người Hoa “phản Thanh phục Minh” cũng được chúa Nguyễn cho lánh nạn vào đây sinh sống. Đến giữa thể kỷ XVIII, lại có thêm người Chăm gia nhập vào lớp cư dân mới. Họ cùng cộng cư với người dân bản địa và cư dân người Việt sinh sống lâu dài. Số lưu dân người Việt khi vào tới đất Đồng Nai – Gia Định thì địa điểm dừng chân đầu tiên của họ, theo sử cũ “Gia Định thành thông chí” là vùng Mô Xoài-Bà Rịa. Vì đây là vùng đất địa đầu nằm trên trục giao thông đường bộ từ Bình Thuận vào Nam, lại tiếp giáp biển. Từ Mô Xoài – Bà Rịa, di dân người Việt tiến dần về phía nam vào vùng Đồng Nai – Biên Hòa, nơi có trục đường giao thông thủy bộ gặp nhau, định cư và khai khẩn. Tuy nhiên, phần lớn đất đai ở đây là rừng rậm và những đồi cỏ tranh nên việc khai phá gặp nhiều khó khăn, lưu dân người Việt chỉ tập trung khai phá vùng dọc sông, vùng đất cao ráo, vùng phụ cận dinh Trấn Biên như: Bàn Lân, Bến Gỗ, Bến Cá, cù lao Rùa, Tân Triều, Cù lao Tân Chánh, rạch Lá Buông...[27, tr.49]. Đến cuối những năm 70 của thế kỷ XVII, vùng này nhận thêm lưu dân người Hoa. Họ là những người Trung Hoa không thần phục triều đình Mãn Thanh chạy sang nước ta xin lưu trú được chúa Nguyễn chấp nhận và đưa vào đây. Ngoài ra cũng có một bộ phận lưu dân vào cửa Cần Giờ ngược sông Bình Phước (sông Lòng Tàu) lên vùng Sài Gòn – Bến Nghé và vùng ngày nay là huyện Thuận An, Bến Cát của Bình Dương. Theo các nguồn sử liệu phương Tây, thì từ đầu thế kỷ XVII, người Việt đã đến định cư và khai phá vùng này. Họ cùng với cư dân địa phương- người Khơ me, khai phá các vùng đất cao như khu vực kéo dài từ Chợ Quán đến gò Cây Mai, Chùa Gò, khu vực từ Tân Định, Bà Chiểu, Gò Vấp…kéo dài đến Hóc Môn và dọc theo trục lộ đi về phía Tây Ninh.[27, tr.49-50] Ở phía Bắc của Bến Nghé, ngược lên tiếp giáp với Chân Lạp, mức độ khai phá còn ít, chỉ có vùng Bến Tầm Long đã được lưu dân người Việt và cư dân người Khơ me hợp tác khai khẩn. Theo “Gia Định Thành thông chí”, vùng bến Tầm Long, nơi có con đường qua lại giữa Việt Nam –Chân Lạp “có nhiều người Cao Miên… và người
  16. Kinh ở lẫn lộn với nhau, rừng rú rậm rịt, nay đã khai khẩn đều thành ra những cách đồng trồng dâu, trồng mía. [27, tr.65] Về phía Nam của Bến Nghé, vùng khẩn hoang cũng được mở rộng theo sông rạch, những vùng đất cao tiện lợi như vùng dọc sông Cát. Trong nửa đầu thế kỷ XVIII, Bến Nghé bị chiến tranh tàn phá nên tốc độ khẩn hoang có chậm lại. Từ giữa thế kỷ XVIII, vùng Bến Nghé khôi phục và phát triển trở lại với các khu định cư của người Việt, người Hoa. Đồn dinh, doanh trại tiếp tục được mở rộng và xây dựng thêm. Công cuộc khai hoang được đẩy mạnh, các vùng khai khẩn của nông dân, của binh lính được mở rộng trên qui mô lớn. Như vậy đến những năm cuối thế kỷ XVII, cùng với người Hoa, người Chăm, người Khơ me, lưu dân người Việt đã định cư và khai phá cả một vùng đất rộng lớn ở Miền Đông Nam Kỳ từ địa đầu Mô Xoài – Bà Rịa cho đến Sài Gòn – Bến Nghé. Dân số đã hơn 40.000 hộ (khoảng 200.000 người). Đó chính là cơ sở xã hội để năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu phái Nguyễn Hữu Cảnh vào thiết lập chính quyền ở vùng này “lấy đất Nông Nại đặt làm Gia Định phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, thiết lập xã, thôn, phường, ấp, chia ranh giới, khai khẩn ruộng đất, đánh thuế đinh điền và lập hộ tịch đinh điền” [27, tr.46]. Huyện Tân Bình lúc đó bao gồm các quận 1,3,4,5,6,8,10,11,Tân Bình, Phú Nhuận, Gò Vấp, Bình Thạnh, Hóc Môn, Cần Giờ, Củ Chi, toàn tỉnh Tây Ninh và một phần tỉnh Long An ngày nay. Huyện Phước Long bao gồm một vùng rộng lớn từ Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa-Vũng Tàu, một phần tỉnh Bình Thuận, Thủ Đức, Thủ Thiêm, Nhà Bè, Giồng Ông Tố [49, tr.16]. Như vậy phủ Gia Định khi ấy đã bao trùm lên khắp vùng Miền Đông Nam Kỳ. Tuy nhiên, những người đi khẩn hoang trong buổi đầu phần lớn là dân nghèo phiêu bạt, phương tiện thiếu thốn, trình độ kỹ thuật hạn chế, nên những điểm định cư và khai phá mới chỉ rải rác đây đó. Đất hoang, rừng rậm vẫn còn nhiều. Sang thế kỷ XVIII, các địa điểm định cư và khai phá ở khu vực Bến Nghé, chung quanh Sài Gòn tiếp tục được mở rộng. Nhiều thôn ấp được phát triển thành xã như xã An Lộc (1716), xã An Phước (1746), xã Phú Thọ (1747), xã Tân Sơn Nhất (1749), xã An Lợi Đông (1751). [27, tr.51]
  17. Ngoài những cuộc khai phá do dân chúng tự động tiến hành, từ cuối thế kỷ XVII các chúa Nguyễn còn sử dụng binh lính khai phá đất đai canh tác ở khu vực trú quân và mộ dân lập đồn điền khẩn hoang. Việc làm này của chính quyền họ Nguyễn đã góp phần thúc đẩy quá trình khai phá đất đai ở Miền Đông Nam Kỳ trong thế kỷ XVIII. Như vậy, trong hai thế kỷ khai phá vùng đất mới, lưu dân người Việt, người Hoa cùng cư dân tại chỗ người Khơme đã từng bước khai phá được một vùng đất rộng lớn ở Miền Đông Nam Kỳ. Cho đến cuối thế kỷ XVIII, những người đi khai phá đã tạo ra được những diện tích canh tác đáng kể, đặt cơ sở vững chắc cho việc mở rộng công cuộc khai phá sau này. Theo con số thống kê của Lê Quý Đôn trong “Phủ biên tạp lục”, thì vào những năm 70 của thế kỷ XVIII, huyện Tân Bình có ruộng thực trưng hơn 1.451 mẫu, huyện Phước Long có ruộng thực trưng hơn 787 mẫu, đó là chưa kể các khoản ruộng núi, đất dâu, đất mía, đất vườn trầu, ruộng các họ, ruộng quan đồn điền. Huyện Phước Long còn có trường Gian Thảo có ruộng đất ngoài 6.000 sở. [27, tr.72] Những số liệu thống kê nói trên của Lê Quý Đôn tuy chưa đầy đủ và rõ ràng lắm nhưng cũng cung cấp một hình ảnh khá đậm nét về tình hình khai phá đất đai ở Miền Đông Nam Kỳ trong các thế kỷ XVII, XVIII. Phần lớn diện tích khai khẩn được đưa vào sản xuất nông nghiệp trồng lúa. Người dân lưu tán cùng với cư dân địa phương đã đưa ngành nông nghiệp trồng lúa vùng này phát triển lên một bước mạnh cả về qui mô lẫn năng suất, sản lượng. Địa bàn trồng lúa ngày càng mở rộng, không chỉ giới hạn ở những giòng đất cao mà còn tỏa ra các vùng đất trũng, đất ven sông. Ở vùng Bắc và Đông Bắc Bến Nghé bao gồm Hóc Môn, Gò Vấp, Phú Thọ, Hạnh Thông, Giồng Ông Tố, dọc sông Vàm Cỏ Đông, Trảng Bàng, Khê Lăng, nền nông nghiệp trồng lúa chiếm vị trí hàng đầu.[27, tr.73-74] Nhờ đất đai màu mỡ thích hợp với việc trồng lúa, lại nhờ biết áp dụng các biện pháp kỹ thuật cày cấy và sử dụng giống lúa thích hợp với từng loại ruộng, đồng thời chọn đúng thời vụ kết hợp với làm thuỷ lợi nhỏ, người nông dân Miền Đông Nam Kỳ đã sớm đưa năng suất lên khá cao. Vào cuối thế kỷ XVIII cấy một hộc thóc giống gặt được 100 hộc [27, tr.79]. Với năng suất khá cao như thế, lại được thực hiện trên một diện tích canh tác rộng lớn. Miền Đông Nam Kỳ trong nửa cuối thế kỷ XVIII đã sớm
  18. trở thành một vựa lúa lớn, nguồn cung cấp thóc gạo quan trọng cho các phủ phía ngoài của xứ Đàng trong nhất là xứ Thuận Hoá. Piere Poivre trong đoạn nhật kí 27-10-1749 của mình cũng nhận xét rằng: “Hiện nay Đồng Nai là một vựa lúa lớn của cả xứ Đàng trong. Vùng này đã cung cấp cho toàn xứ một khối lượng lớn về thóc” [27, tr.80]. Những nhận xét như thế cho thấy hoạt động nông nghiệp trồng lúa ở vùng đất phù sa cổ Miền Đông Nam Kỳ đã phát triển nhanh trong nửa đầu thế kỷ XVIII. Nhìn chung, công cuộc khai phá vùng đất Miền Đông Nam Kỳ trong thế kỷ XVIII có nhiều khởi sắc, tuy nhiên tình trạng đất hoang rừng rậm ở đây vẫn còn khá nhiều. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quí Đôn đã ghi lại rằng: “ ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Lôi Lạp, Cửa Đại, Cửa Tiểu trở vào, toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm” [27, tr.37]. Năm 1802, sau khi thắng Tây Sơn và lên ngôi hoàng đế, trên cơ sở những thành quả đạt được từ thời các chúa Nguyễn, vua Gia Long tiếp tục đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang ở cả Miền Đông lẫn Miền Tây của Nam Kỳ. Bằng những biện pháp cụ thể, nhà nước Nguyễn đã chú trọng khuyến khích dân chúng đi khai hoang với nhiều thủ tục dễ dãi như: người đi khai hoang tự do lựa chọn nơi khai phá; miễn thuế cho người đi khai phá đất hoang trong vòng 3 năm hoặc lâu hơn; cấp không hoặc cho mượn nông cụ, thóc giống, trâu bò; quy định đất đai khai phá được thuộc sở hữu của người khai phá. Thúc đẩy dân chúng khẩn hoang là công việc thường xuyên của quan lại địa phương và là tiêu chuẩn để nhà vua thực hiện thưởng phạt. Năm 1836 và 1839, vua Minh Mạng đã ban hành lệ thưởng phạt đối với việc đôn đốc khai hoang ở Nam Kỳ.[27, tr.98] Bên cạnh đó, triều đình nhà Nguyễn còn đứng ra tổ chức dân chúng, binh lính…tiến hành khai hoang qua hình thức đồn điền và khai hoang lập ấp. Với những biện pháp tích cực nêu trên, công cuộc khai hoang ở Nam Kỳ nói chung và Miền Đông Nam Kỳ nói riêng đã được đẩy mạnh. Diện tích đất nông nghiệp tăng lên đáng kể so với 2 thế kỷ trước. Theo kết quả đo đạt vào năm 1836 được ghi trong Quốc triều chính biên toát yếu thì tổng diện tích đất đai khai phá được của toàn Nam Kỳ tính đến năm này là “ nguyên trưng điền thổ 20.197 sở 13 giây, 8 đám và linh tinh 3.464 mẫu, nay đo đạc thành điền thổ khoảng hơn 630.075 mẫu, lại
  19. nguyên trước là ngạch ruộng hơn 65 sở, nay khám thành ao nuôi cá cả thảy 1.017 miếng”. Ở Miền Đông Nam Kỳ, dưới triều Tự Đức, sách Đại Nam nhất thống chí cho biết diện tích khai phá của tỉnh Biên Hòa là 14.932 mẫu; Gia Định là 175.063 mẫu. Theo số liệu do thực dân Pháp thu lượm được và công bố trên Niên giám Nam kỳ năm 1868 về diện tích khai phá vào năm 1868 ở các khu vực thuộc Miền Đông Nam Kỳ như sau: - Sài gòn: 7.277 ha - Chợ Lớn: 10.008 - - Tây Ninh 103 - - Trảng bàng 809 - - Biên Hòa 1.964 - - Bà Rịa 1.624 - - Thủ Dầu Một 1.058 - - Long Thành 1.709 - - Thủ Đức 4.087 - Nguồn: [27, tr.132-133] Nhìn chung, cho đến nửa đầu thế kỷ XIX, hoạt động khẩn hoang diễn ra mạnh mẽ ở vùng ven sông Phước Long ( Đồng Nai), sông Tân Bình ( sông Sài Gòn). Ở đây, dưới sự tổ chức của chính quyền, cư dân người Việt cùng với người Hoa, người Khơ me… vừa mở rộng các vùng đất đã được khai phá trước đây, vừa tiến sâu vào những vùng đất còn hoang vu. Nhờ đó đã nối liền được các trung tâm định cư hình thành trong các thế kỷ trước thành một vùng ruộng vườn chạy dài từ Bà Rịa, Biên Hòa đến Gia Định. Tuy nhiên ở phía bắc của Miền Đông Nam Kỳ, mức độ khai phá vẫn còn chậm. Vì vậy trong thời kỳ Pháp thuộc, thực dân tư bản Pháp đã đẩy mạnh khẩn hoang nơi này lập ra những đồn điền rộng lớn. 1.2. Miền Đông Nam Kỳ thời Pháp thuộc Tháng 2/1859, sau khi gặp thất bại trong cuộc tấn công vào Đà Nẵng (8/1858), thực dân Pháp đưa quân vào đánh chiếm Sài Gòn, cửa ngõ của Nam Kỳ. Sau đó, từng phần đất của Nam Kỳ lần lượt rơi vào tay thực dân Pháp. Năm 1862, thực dân Pháp chiếm ba tỉnh Miền Đông. Vào cuối năm 1867, toàn bộ lục tỉnh Nam Kỳ nằm gọn
  20. trong tay Pháp. Nam Kỳ đã bị cắt khỏi phần đất của Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Từ đây, công cuộc khai phá Nam Kỳ nói chung và Miền Đông Nam Kỳ nói riêng bước sang một giai đoạn mới trong một hoàn cảnh mới. 1.2.1. Công cuộc khai phá đất đai ở Miền Đông Nam Kỳ của thực dân Pháp. 1.2.1.1. Mục đích của chính sách khai thác đất đai của thực dân Pháp. Trong lịch sử thuộc địa của thực dân Pháp, dù là ở đâu việc chiếm và khai thác đất luôn là mục tiêu hàng đầu. Tiếp nối giai đoạn chinh phục bằng quân sự là giai đoạn khai thác đất đai, bởi đó là cơ sở của toàn bộ chính sách khai thác thuộc địa. Năm 1894, trong Thông tư gởi toàn quyền các thuộc địa, Bộ trưởng Bộ thuộc địa Deleasse bày tỏ: “khai thác những vùng lãnh thổ rộng lớn mà chúng ta đã chiếm được thiết lập ở đó các đồn điền, phát triển sức sản xuất của thuộc địa và bằng chính con đường đó phát triển mối quan hệ về thương mại với chính quốc” [43, tr.11]. Tại Việt Nam, thực dân Pháp đã không chậm trể chiếm lấy những vùng đất đai có thể khai thác. Chúng đã đề ra và thực hiện nhiều chính sách khác nhau để khai thác và cướp đoạt nguồn tài nguyên đất đai giàu tiềm năng của đất nước ta. Nam Kỳ là nơi thực dân Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất sớm nhất, vừa mới đặt chân vào Nam Kỳ, tư bản Pháp đã đặt vấn đề “mở mang kinh tế” bằng cách, thu tóm những vùng đất đai tốt nhất. Thực dân Pháp nhận thức rất rõ tầm quan trọng của vấn đề sở hữu đất đai vì chế độ tư hữu ruộng đất là một trong những phương tiện sản xuất đảm bảo đủ nguồn hàng phục vụ xuất khẩu. Nam Kỳ là thuộc địa khai thác – chủ yếu là khai thác nông nghiệp (lúa, cao su), nếu không nắm chắc trong tay đất đai thì tư bản Pháp sẽ không thu được những món lãi khổng lồ. Vì vậy, vấn đề sở hữu và phân phối ruộng đất đối với chính quyền thực dân là điều rất quan trọng. Trong điều kiện như vậy, sự cố gắng để làm chủ một diện tích ruộng đất lớn chính là “nhiệm vụ chính trị” là “trọng tâm hoạt động” của thực dân Pháp trong thời kì khai thác thuộc địa. Năm 1897, triều đình Huế kí điều ước nhượng cho thực dân quyền khai khẩn đất hoang. Ngày 1/5/1900, thực dân Pháp ra nghị định phủ nhận quyền sở hữu ruộng đất trong luật pháp phong kiến để dễ cướp đoạt ruộng đất của nông dân. Chính sách chiếm đất của chính quyền thực dân ngày càng được xúc tiến mạnh mẽ. Đó là một chế độ được hợp pháp hóa bằng việc ban hành những văn bản pháp lý
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2