intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:216

158
lượt xem
45
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX tìm hiểu quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trong lịch sử trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa; làm rõ bối cảnh, diễn tiến, tình hình và đặc điểm, những bài học lịch sử của mối quan hệ đó.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- LÊ THỊ MỸ TRINH QUAN HỆ CỦA ĐẠI VIỆT VỚI CHÂN LẠP TRƯỚC THẾ KỈ XX LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- LÊ THỊ MỸ TRINH QUAN HỆ CỦA ĐẠI VIỆT VỚI CHÂN LẠP TRƯỚC THẾ KỈ XX Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số: 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ THANH THANH Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
  3. MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hoạt động ngoại giao có vai trò và vị trí rất quan trọng đối với mỗi quốc gia. Các quốc gia trên thế giới không thể tồn tại và phát triển cô lập. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, việc mở rộng quan hệ đối ngoại, thiết lập mối quan hệ đa phương đang trở thành một trong những điều kiện phát triển của các quốc gia. Trong lịch sử, Việt Nam đã thiết lập quan hệ với nhiều quốc gia trong khu vực và thế giới trên nhiều lĩnh vực. Các mối quan hệ này đều có vai trò nhất định trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, tùy vào mối quan hệ với từng quốc gia, trong những thời kì lịch sử cụ thể. Vào thời kì phong kiến, trong điều kiện cách trở về địa lý, thông tin liên lạc cũng như giao thông chưa phát triển, quan hệ với các nước láng giềng rất được coi trọng. Mối quan hệ với Chân Lạp đến trước thế kỉ XX, nhất là giai đoạn thế kỉ XVII - XIX được các chúa Nguyễn và vua Nguyễn lưu tâm. Chân Lạp xưa - Campuchia nay - và Đại Việt xưa - Việt Nam nay là hai quốc gia láng giềng, có chung đường biên giới và cùng nằm trên bán đảo Đông Dương. Ngay từ rất sớm, Đại Việt và Chân Lạp đã có quan hệ với nhau trên nhiều lĩnh vực. Thời điểm bang giao chính thức giữa hoàng gia Chân Lạp và Đại Việt là vào đầu thế kỉ XVII dưới triều vua Chey Chettha II (1618 - 1628), chấm dứt vào năm 1897 khi người Pháp chính thức đặt nền bảo hộ và bắt đầu khai thác thuộc địa tại đây [50, tr.315]. Đề tài Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX được nghiên cứu nhằm mục đích góp phần hệ thống hóa một cách đầy đủ các sự kiện lịch sử để dựng nên bức tranh sinh động, trung thực về quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp đến trước thế kỉ XX, cung cấp một cách nhìn toàn diện về quan hệ của hai nước; dựng lại rõ quá trình mở cõi về phía Nam của người Việt nói chung và chính quyền phong kiến nói riêng; nhìn nhận lại mối quan hệ Đại Việt - Chân Lạp - Xiêm; đồng thời qua đó thấy được vai trò và vị trí của Đại Việt trong giai đoạn này trên chính
  4. trường khu vực. Việc nghiên cứu còn góp phần bổ sung nguồn tài liệu cho việc nhận thức về lịch sử Việt Nam thời Trung đại. Sang thế kỉ XXI, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động. Xu hướng ngoại giao đa phương trở nên năng động và tích cực. Việt Nam đang bước vào thời kì tăng cường hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối ngoại giao đa phương, đa dạng; chú trọng tăng cường mối quan hệ với các nước láng giềng. Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử ngoại giao nói chung và lịch sử quan hệ Đại Việt - Chân Lạp nói riêng có ý nghĩa khoa học, thực tiễn và thời sự sâu sắc. Nghiên cứu sự kiện lịch sử để hiểu đúng bản chất là rất cần thiết và nhất là những sự kiện quá khứ có liên quan đến quan hệ hiện tại. Những bài học của mối quan hệ ngoại giao trong lịch sử có thể góp phần nhận thức và giải quyết mối quan hệ hiện tại về mặt chủ quyền lãnh thổ, về đường biên giới giữa Việt Nam - Campuchia và việc hoạch định đường lối ngoại giao cho ngày nay. Việc nghiên cứu đề tài này cũng góp phần giúp người viết thu thập tư liệu, phục vụ việc giảng dạy ở trường Trung học phổ thông và mở rộng phạm vi nghiên cứu về sau. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Mục đích của việc nghiên cứu là tìm hiểu quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trong lịch sử trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa; làm rõ bối cảnh, diễn tiến, tình hình và đặc điểm, những bài học lịch sử của mối quan hệ đó. 3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp là một trong những mối quan hệ được chính quyền phong kiến Đại Việt xem trọng, đặc biệt trong giai đoạn từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX. Nhìn chung, đó là mối quan hệ bang giao hòa hiếu, thân thiện, diễn ra trên nhiều lĩnh vực và có tính liên tục. Mối quan hệ giữa hai nước đã được ghi lại trong nhiều bộ sử, qua các thời kì khác nhau. Đó là những tư liệu cổ, có thể cung cấp cho chúng ta những sự kiện chủ yếu trong quan hệ giữa hai nước.
  5. Đầu tiên là bộ Đại Việt sử lược, một công trình khuyết danh được hoàn thành vào những năm 1377 - 1388. Bộ sách được ghi chép dưới dạng biên niên, gồm ba quyển: quyển một ghi chép lịch sử từ thời thượng cổ đến hết Tiền Lê (1009), quyển hai ghi chép từ thời Lý Thái Tổ (1010) đến Lý Nhân Tông (1127), quyển ba ghi chép từ thời Lý Thần Tông (1128) đến Lý Huệ Tông (1124). Dù chỉ là một bộ sách nhỏ, song có nhiều chi tiết giúp ích cho việc nghiên cứu lịch sử nước nhà, nhất là về buổi đầu thời kì tự chủ. Bên cạnh việc ghi chép lại các sự kiện một cách vắn tắt, tác phẩm còn có những phần đối chiếu với các tài liệu thư tịch cổ khác, làm tăng tính chính xác của sử liệu. Nội dung ghi chép rất đa dạng, bao gồm: những việc làm của vua; việc kiến trúc thành quách, điện các, chùa tháp; việc bang giao với phong kiến Trung Hoa; việc bang giao với Champa, Chân Lạp… Nghiên cứu tác phẩm, người đọc có thể hiểu diện mạo kinh tế - xã hội cũng như thế thứ các đời vua, quan hệ bang giao của nước ta với các quốc gia trong khu vực giai đoạn trước triều Trần. Cũng ghi chép các sự kiện của lịch sử Việt Nam theo dạng biên niên, bộ Đại Việt sử kí toàn thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn dựa trên tác phẩm Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu và tác phẩm Sử kí tục biên của Phan Phu Tiên. Năm 1665, Phạm công Trứ chỉnh lý trước tác của Ngô Sĩ Liên và viết thêm phần Bản kỷ tục biên. Năm 1697, các quan Lê Hy, Nguyễn Quý Đức viết thêm và hiệu đính phần Bản kỷ tục biên, tập hợp toàn bộ các trước tác nói trên gọi là Đại Việt sử kí toàn thư. Tác phẩm ghi chép các sự kiện lịch sử của dân tộc từ thời Hồng Bàng cho đến hết đời Lê Thái Tổ. Trong tác phẩm, có một số ghi chép về mối bang giao của Đại Việt với các quốc gia trong khu vực, trong đó có mối quan hệ với Chân Lạp trên nhiều lĩnh vực. Bộ Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn gồm 6 quyển, được viết vào năm 1776, lúc ông đang giữ chức Tham tán quân cơ ở Thuận Quảng. Bộ sách ghi chép về hai đạo Thuận Hóa và Quảng Nam trên nhiều mặt từ cảnh quan môi trường, địa lý hành chính, sản vật, phong tục đến lệ thuế má, nhân vật… Bộ sách ngoài phần điểm lại quá trình dựng nghiệp của Nguyễn Hoàng ở Thuận Hóa và đối đầu với họ Trịnh ở Đàng Ngoài, có phần ghi chép về công cuộc mở đất về phía Nam của triều đình
  6. phong kiến Đàng Trong. Tác phẩm được xem là một bộ địa lý - lịch sử phong phú về hai xứ Thuận - Quảng thế kỉ XVI - XVIII. Bộ Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn được vua Minh Mạng cho tiến hành biên soạn vào năm 1821, gồm hai phần: Đại Nam thực lục tiền biên ghi chép giai đoạn lịch sử từ khi Nguyễn Hoàng vào Nam (1558) đến đời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1777); Đại Nam thực lục chính biên ghi chép giai đoạn từ khi Nguyễn Ánh bôn ba tìm cách khôi phục quyền lực dòng họ (1777) đến khi vua Đồng Khánh mất (1889). Bộ sách là một tập hợp các ghi chép dưới dạng biên niên về những sự việc cụ thể, những lời nói, việc làm của vua, lời tâu trình của quần thần, việc nội trị, ngoại giao; trong đó có quan hệ bang giao của Việt Nam với Chân Lạp. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là tác phẩm do Nội các triều Nguyễn biên soạn. Đây là loại sách điển lệ, được biên soạn từ năm 1843 dưới thời vua Thiệu Trị và hoàn thành vào năm 1851 dưới thời vua Tự Đức. Nội dung ghi chép tương đối đầy đủ các chiếu chỉ, phiến dụ của triều Nguyễn và các việc đã đem ra thi hành, các tấu sớ ở các bộ, các nha từ năm Gia Long thứ nhất (1802) đến năm Tự Đức thứ tư (1852). Bộ sách gồm 262 quyển, chia thành 6 phần tương ứng với 6 ngành của công việc quốc gia, do 6 bộ phụ trách. Phần bộ Lễ ghi chép về việc bang giao gồm các mục: triều cận, quán xá, tuất điển, cứu vớt, cấm ước, phiên dịch, ban cho các nước lệ thuộc và ban cho thuộc Man, có nhiều tư liệu liên quan đến chính sách của triều Nguyễn đối với Chân Lạp. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là một kho tư liệu về các chủ trương nội trị, chính sách ngoại giao của triều Nguyễn đối với các nước, trong đó có Chân Lạp. Đại Nam liệt truyện do Quốc sử quán biên soạn năm 1841, hoàn thành vào năm 1895 và được khắc in vào 1909. Nội dung chủ yếu là ghi chép về hàng trăm nhân vật lịch sử được chia thành các mục: Hậu phi, hoàng tử, công chúa, chư thần… Bên cạnh việc ghi chép về các nhân vật lịch sử, tập 2 của Đại Nam liệt
  7. truyện còn ghi chép về quan hệ của triều Nguyễn với các nước, trong đó có Chân Lạp. Tập hợp các nguồn tư liệu cổ khác nhau về mối quan hệ giữa Đại Việt với các nước trong khu vực, công trình Thư tịch cổ Việt Nam về Đông Nam Á do tác giả Nguyễn Lệ Thi biên soạn là một nguồn tư liệu phong phú. Đây là công trình tập hợp các sự kiện chính trong quan hệ giữa Việt Nam và các nước Đông Nam Á được ghi chép trong các thư tịch cổ như Phủ biên tạp lục, Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, Đại Việt sử kí toàn thư, Việt sử thông giám cương mục… Nội dung tư liệu bao quát trên tất cả các mặt trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á về kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa… Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, được trình bày chủ yếu trong tiến trình của lịch sử Việt Nam hoặc lịch sử các nước Đông Nam Á. Cho đến nay, một công trình nghiên cứu mang tính chất chuyên sâu và có hệ thống về nhiều lĩnh vực trong mối quan hệ đó vẫn là rất cần thiết. Trước hết, nghiên cứu về bang giao của Đại Việt qua các thời kì có bộ Bang giao Đại Việt của tác giả Nguyễn Thế Long. Bộ sách gồm 5 tập, tương ứng với các thời kì lịch sử như Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý, Trần - Hồ, Lê - Mạc - Lê Trung Hưng, Tây Sơn, Nguyễn. Quan hệ bang giao giữa Đại Việt với các nước trong khu vực đã được trình bày chi tiết trong tác phẩm. Trong tập 4 của bộ sách, tác giả trình bày về bang giao giữa Đại Việt với các nước Tây, Nam và Hải đảo, trong đó có phần Chân Lạp. Trong mối quan hệ bang giao giữa Đại Việt với Chân Lạp, tác giả viết về lịch sử vương quốc Chân Lạp, những mẩu chuyện bang giao giữa hai nước, các thủ tục trong bang giao như lệ triều cống, đón tiếp các sứ bộ… Tác giả chia quá trình bang giao giữa hai nước làm ba giai đoạn là Lý - Trần - Lê (thế kỉ XI - XVI), chúa Nguyễn - Tây Sơn, triều Nguyễn. Đây là tác phẩm chứa nhiều sự kiện tiêu biểu trong quan hệ của Đại Việt với các nước. Tuy nhiên, tư liệu về quan hệ giữa Đại Việt với Chân Lạp còn rất ít.
  8. Tác giả Đinh Thị Dung nghiên cứu về quan hệ ngoại giao dưới triều Nguyễn trong Luận án Tiến sĩ Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX. Tác giả đã đề cập đến quan hệ của triều Nguyễn với nhiều quốc gia như Trung Quốc, Chân Lạp, Xiêm La, Vạn Tượng. Tác giả đã đưa ra những nhận định riêng và khái quát về những cố gắng các vua triều Nguyễn trong quan hệ ngoại giao với các nước, trong đó có Chân Lạp. Tuy nhiên, phần nghiên cứu về ngoại giao giữa triều Nguyễn với Chân Lạp còn sơ lược, chưa đi sâu vào từng lĩnh vực trong mối quan hệ đó. Cuốn Lịch sử Đông Nam Á của D.G.E. Hall là tác phẩm nghiên cứu nhiều vấn đề về lịch sử các nước Đông Nam Á, dựng nên bức tranh sinh động về lịch sử hình thành, phát triển, suy vong của các quốc gia trong khu vực; đồng thời làm rõ mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các nước. Cuốn sách chia thành 4 phần theo tiến trình lịch sử, trong đó có một số nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận văn này như: – Chương thứ 5 của phần I nghiên cứu về người Khơme và thời kì Angkor đến năm 1594, chương thứ 9 nghiên cứu về Việt Nam. – Chương thứ 24 và 25 của phần II nghiên cứu về Việt Nam và Campuchia, cụ thể: + Chương 24 nghiên cứu về Việt Nam - Đàng Trong và Đàng Ngoài, (1620 - 1820), gồm các vấn đề như Trịnh - Nguyễn phân tranh (1620 - 1777), sự thiết lập đế chế nhà Nguyễn (1777 - 1820). + Chương 25 nghiên cứu về Chân Lạp với các vấn đề nội trị và ngoại giao như tình hình Chân Lạp từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX, cuộc xâm lược của Xiêm, chính sách đối ngoại của Chân Lạp, tình hình nội chiến tranh giành quyền lực ở Chân Lạp… Cũng nghiên cứu về lịch sử các nước Đông Nam Á, tác phẩm Lược sử Đông Nam Á do Phan Ngọc Liên chủ biên cung cấp những tư liệu mang tính khái quát về
  9. lịch sử các nước trong đó có Đại Việt và Chân Lạp từ lúc mới thành lập đến thời hiện đại. Trong cuốn Việt Nam sử lược, tác giả Trần Trọng Kim nghiên cứu về lịch sử Việt Nam từ thời thượng cổ đến khi Pháp xâm lược và cai trị nước ta; trong đó có nghiên cứu sơ lược về quan hệ Việt Nam - Cao Miên. Tác phẩm này được viết theo lối biên niên, ghi nhận lại các sự kiện lịch sử. Nghiên cứu về quá trình mở rộng lãnh thổ về phía Nam, tác giả Phan Khoang có cuốn Việt sử xứ Đàng Trong. Tác phẩm là một bản “lược đồ” vẽ lại đường đi của tiền nhân ta khoảng 400 năm trước trong công cuộc khẩn hoang lập ấp ở miền đất mới. Quá trình xác lập chủ quyền ở vùng đất Nam Bộ, trong đó có vấn đề bang giao với Chân Lạp được trình bày khá chi tiết trong công trình này. Cùng nội dung nghiên cứu với cuốn Việt sử xứ Đàng Trong là công trình Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ trong các thế kỉ XVII, XVIII, XIX của tác giả Huỳnh Lứa. Tác phẩm cung cấp cho người nghiên cứu nhiều tư liệu về công cuộc chuyển cư, quá trình khai phá của di dân người Việt tại vùng đất Nam Bộ, cơ cấu sở hữu ruộng đất, tình hình sản xuất nông nghiệp, các ngành nghề thủ công, sự hình thành làng xã và vai trò của thôn ấp trong công cuộc khai hoang… Công trình nghiên cứu đã góp phần dựng lại bức tranh Nam Bộ trong các thế kỉ từ XVII đến XIX trên tất cả các mặt của đời sống. Nam Bộ đất và người gồm 6 tập của Hội khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh tập hợp nhiều bài viết của nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng. Công trình chủ yếu nghiên cứu về công cuộc khẩn hoang vùng đất Nam Bộ, nghiên cứu về các phong tục tập quán, đời sống vật chất và tinh thần của các cộng đồng cư dân sống tại đây. Tác phẩm phác họa một cách toàn diện về vùng đất và con người Nam Bộ. Quyển Người Việt gốc Miên của Lê Hương được viết năm 1969 có nội dung đề cập đến nhiều vấn đề của người Miên đang sống ở Nam Bộ: nguồn gốc, dân số, sinh hoạt, phong tục tập quán, tôn giáo, văn hóa - xã hội, kinh tế. Tác phẩm miêu tả khá sinh động về sinh hoạt kinh tế - văn hóa - xã hội của cộng đồng người Khơme;
  10. qua đó, chúng ta có thể thấy quá trình dung hợp, tiếp biến văn hóa của hai cộng đồng cư dân Việt - Miên trên vùng đất Nam Bộ. Kỷ yếu hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ - Những vấn đề lịch sử thế kỉ XVII - XIX của trường Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh tập trung nhiều bài nghiên cứu của các tác giả về vùng đất Nam Bộ và Nam Trung Bộ từ thế kỉ XVII - XIX. Nhiều bài nghiên cứu liên quan đến đề tài như Quan hệ Việt Nam - Chân Lạp thế kỉ XVII - XIX, Vấn đề mở rộng lãnh thổ về phía Nam của người Việt, Mối quan hệ tay ba giữa Việt Nam - Chân Lạp - Xiêm… Qua toàn bộ kỉ yếu, người đọc có thể khái quát được nhiều vấn đề liên quan đến mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX. Ngoài ra, các bài viết trong các kỷ yếu hội thảo khoa học như: Hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỉ XVII - XIX, nghiên cứu khoa học Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ, Hội thảo chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX, Hội thảo Vùng đất Nam Bộ thời kì cận đại… các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Văn hóa Tập san… cũng là nguồn tư liệu đã đề cập trong nhiều mức độ về vấn đề mà luận văn nghiên cứu. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đề tài không đi sâu nghiên cứu về lịch sử của hai quốc gia Đại Việt và Chân Lạp mà chỉ tập trung tìm hiểu quá trình phát sinh, phát triển và kết thúc mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX. Nguyên nhân, điều kiện lịch sử, tính chất của quá trình quan hệ này chịu sự chi phối, tác động của nhiều yếu tố: bối cảnh lịch sử khu vực, quá trình lập quốc và phát triển của mỗi nước; đặc biệt là Đại Việt. Tiến trình mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp được nghiên cứu chủ yếu trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao cũng như hệ quả tác động của nó đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.
  11. Sau khi thoát khỏi ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, mở ra kỉ nguyên độc lập dân tộc, với lòng yêu nước nồng nàn và ý thức dân tộc mạnh mẽ, các vị vua các vương triều Đại Việt đã đặt quốc hiệu mới. Đinh Bộ Lĩnh là vị vua đầu tiên đặt quốc hiệu mới cho nước nhà với tên Đại Cồ Việt. Tháng 10 năm 1054, Lý Thánh Tông lên ngôi, đổi quốc hiệu Đại Cồ Việt thành Đại Việt, với ý nghĩa là đứng ngang hàng với nhà Tống ở phương Bắc. Tháng 2 năm 1400, sau khi cướp ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly lập ra nhà Hồ và đặt quốc hiệu mới là Đại Ngu. Từ năm 1407 đến năm 1427, nước ta nằm dưới ách đô hộ của giặc Minh nên không có quốc hiệu. Tháng 2 năm 1428, sau khi quét sạch bóng quân thù, giải phóng dân tộc, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế và khôi phục quốc hiệu Đại Việt. Trên danh nghĩa chính thống, quốc hiệu này được dùng đến đầu thế kỉ XIX, cụ thể là năm 1804 mới được thay bằng quốc hiệu Việt Nam. Như vậy, Đại Việt là quốc hiệu của quốc gia. Đó là kết quả quá trình lập quốc, phát triển đất nước ngày càng vững mạnh của quốc gia Đại Việt sau khi thoát khỏi giai đoạn ngàn năm Bắc thuộc. Tên gọi Chân Lạp (Chenla) xuất hiện lần đầu trong các thư tịch cổ Trung Hoa vào khoảng cuối thế kỉ V đầu thế kỉ VI. Đây là khoảng thời gian Chân Lạp lập quốc và từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc của Phù Nam. Tên gọi này được dùng cho đến năm 1807. Năm 1807, dưới triều vua Gia Long ở Đại Việt, vua Chân Lạp là Nặc Chăn đã xin đổi quốc hiệu từ “Chân Lạp” thành “Cao Miên”. Tên gọi này được sử dụng đến thời Pháp thuộc. Tên gọi Campuchia bắt đầu sử dụng từ thời Pháp, được đặt theo tên của nhân vật trong truyền thuyết “Kambu - Mera” 1 của người Chân Lạp. Như vậy, theo lịch sử, tên gọi Chân Lạp được sử dụng lâu nhất trong suốt quá trình hình thành và phát triển của Chân Lạp. Như vậy, đề tài nghiên cứu quan hệ Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX được xét trong xuyên suốt quá trình lịch sử lâu dài. Đây là khoảng thời gian quốc 1 Đây là truyền thuyết Khơme được ghi lại trên một văn khắc vào thế kỉ X, mô tả nguồn gốc hoàng gia. Đó là cuộc hôn nhân giữa tu sĩ tên Kambu Svayambhuva và nữ thần tên Mera, do thần Siva ban cho ông.
  12. hiệu hai nước có sự thay đổi. Trong đó, Đại Việt là nước cũ của Việt Nam ngày nay. Chân Lạp là nước cũ của Campuchia ngày nay. Cả hai quốc hiệu Đại Việt và Chân Lạp đều là những quốc hiệu được dùng dài nhất và phổ biến nhất trong thư tịch của cả hai quốc gia. Đề tài sử dụng hai thuật ngữ Đại Việt và Chân Lạp không đơn thuần chỉ mang tính chất quốc hiệu mà nó còn chỉ bộ máy nhà nước, tinh thần truyền thống văn hóa của hai cộng đồng dân tộc. Bên cạnh đó, luận văn cũng đề cập đến hai cộng đồng Việt và Khơme. Hai khái niệm này không đơn thuần được dùng để chỉ hai tộc người mà mang ý nghĩa bao quát hơn. Đó là cộng đồng dân cư sinh sống trên một lãnh thổ nhất định, có cùng vận mệnh lịch sử trong quá trình dựng nước và giữ nước. Cộng đồng cư dân này được xem là một thực thể xã hội mà tên Đại Việt hay Chân Lạp được chọn làm đại diện để chỉ thực thể đó. Đó chính là hai quốc tộc Việt và Khơme trong thời kì phong kiến. Cộng đồng cư dân Việt bao gồm các tộc người khác nhau, cùng sinh sống trên lãnh thổ Đại Việt; trong đó, tộc người Việt là chủ thể. Cộng đồng cư dân Khơme bao gồm các tộc người sinh sống trên lãnh thổ Chân Lạp; trong đó, tộc người Khơme là chủ thể. Luận văn cố gắng trình bày mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trên các lĩnh vực: chính trị, quân sự, ngoại giao. Phần kinh tế, văn hóa, xã hội do hạn chế về nguồn tư liệu nên việc trình bày sẽ nhẹ hơn. Phần này được xem là hệ quả tác động có được từ các mối quan hệ về chính trị, quân sự, ngoại giao. Trước thế kỉ X, Đại Việt được gọi là quận Giao Chỉ, phụ thuộc vào phong kiến Trung Hoa nên chưa thiết lập quan hệ với Chân Lạp. Ở giai đoạn này chỉ có một sự kiện quan hệ được ghi nhận, đó là quan hệ hỗ trợ của quân dân Chân Lạp trong cuộc kháng chiến chống nhà Đường của nhân dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của Mai Thúc Loan. Từ thế kỉ X đến khoảng thế kỉ XIV, quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp chủ yếu diễn ra trên lĩnh vực quân sự. Chân Lạp trong giai đoạn hưng thịnh của đế chế Ăng-co, nhiều lần mang quân xâm phạm vùng biên giới của Đại
  13. Việt. Thế kỉ XV - XVI, quan hệ giữa hai nước có sự gián đoạn vì bối cảnh lịch sử của cả hai quốc gia đều có sự xáo trộn; chủ yếu là do Chân Lạp bắt đầu suy yếu dần và phải tập trung đối phó với nguy cơ xâm lược từ các vương quốc của người Thái. Đối lập với Chân Lạp, Đại Việt ngày càng phát triển vững mạnh. Cương vực ngày càng mở rộng. Xu hướng cát cứ trở thành một quy luật chung. Quan hệ Đại Việt với Chân Lạp từ thế kỉ XVII diễn ra trong bối cảnh Chân Lạp ngày càng khủng hoảng và suy vong. Các vương triều phong kiến thường xuyên diễn ra cảnh tranh quyền, thoán vị phải tìm chỗ dựa ở các vương triều Đại Việt (chủ yếu là ở Đàng Trong). Đây cũng là giai đoạn, vùng đất Thủy Chân Lạp từng bước bị thay đổi chủ quyền và sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Phạm vi thời gian nghiên cứu: Quan hệ Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX được nghiên cứu mở đầu từ những mối quan hệ đầu tiên của hai nước trong quá trình phối hợp chống ách đô hộ của phong kiến nhà Đường ở Trung Hoa. Với xuất phát điểm như thế, luận văn sẽ làm rõ được quá trình phát sinh của mối quan hệ, những điều kiện lịch sử chi phối đến mối quan hệ; đồng thời có thể so sánh được tính chất mối quan hệ trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. Mốc kết thúc của mối quan hệ này là thời điểm năm 1897 khi thực dân Pháp căn bản hoàn thành công cuộc xâm chiếm và bắt đầu chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất ở Đông Dương. Đây là lúc tính chất quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp đã có sự thay đổi và chuyển sang một thời kì mới. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện đề tài này, người viết sử dụng các phương pháp sau: – Phương pháp lịch sử: Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong luận văn, nhất là phần nghiên cứu diễn tiến mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp. Theo chiều dài thời gian, mối quan hệ này được tái hiện từ quá trình đoàn kết của hai nước Đại Việt - Chân Lạp trong cuộc chiến chống ách đô hộ của nhà Đường năm 722, cho đến khi hai nước đặt quan hệ chính thức vào năm 1620 và kết thúc
  14. vào năm 1897 khi thực dân Pháp bắt đầu khai thác thuộc địa ở Đông Dương lần thứ nhất. – Phương pháp logic: Đặt mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trong bối cảnh của hai nước theo từng giai đoạn lịch sử, cũng như bối cảnh khu vực Đông Nam Á; đặc biệt nhấn mạnh vị trí, vai trò của Xiêm La trong mối quan hệ này. Quan hệ chính trị - quân sự - ngoại giao đã tác động đến quan hệ kinh tế - văn hóa - xã hội của Đại Việt với Chân Lạp. – Phương pháp liên ngành: khai thác nguồn tư liệu, kế thừa kết quả nghiên cứu thuộc các ngành khoa học khác nhau: sử học, dân tộc học, văn hóa…
  15. 6. BỐ CỤC LUẬN VĂN Luận văn ngoài phần Mở đầu và Kết luận, có 3 chương: Chương 1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỦA MỐI QUAN HỆ ĐẠI VIỆT VỚI CHÂN LẠP 1.1. Khái quát sự hình thành các quốc gia Đông Nam Á 1.2. Quá trình hình thành, bảo vệ và phát triển của quốc gia Đại Việt 1.3. Quá trình hình thành, phát triển của quốc gia Chân Lạp Chương 2. QUÁ TRÌNH QUAN HỆ CỦA ĐẠI VIỆT VỚI CHÂN LẠP ĐẾN THẾ KỈ XVI 2.1. Đặc điểm chính sách đối ngoại của các vương triều Đại Việt 2.2. Đặc điểm chính sách đối ngoại của Chân Lạp 2.3. Chính sách và hoạt động đối ngoại với Chân Lạp của các triều đại Đại Việt Chương 3. QUAN HỆ CỦA ĐẠI VIỆT VỚI CHÂN LẠP THẾ KỈ XVII - XIX 3.1. Tình hình Đại Việt và Chân Lạp thế kỉ XVII - XIX 3.2. Chính sách và hoạt động đối ngoại với Chân Lạp của các triều đại Đại Việt từ thế kỉ XVII - XIX 3.3. Hệ quả quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp thế kỉ XVII - XIX
  16. Chương 1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỦA MỐI QUAN HỆ ĐẠI VIỆT VỚI CHÂN LẠP 1.1. Khái quát sự hình thành các quốc gia Đông Nam Á Đông Nam Á là khu vực có diện tích khá rộng, khoảng trên bốn triệu km2, trải dài trên một phần trái đất. Đây là khu vực có ý nghĩa quan trọng trong những bước đi đầu tiên của loài người và trong từng chặng đường lịch sử thế giới. Nơi đây từ rất sớm đã chứa đựng những điều kiện thuận lợi cho việc tập trung dân cư và hình thành các nhà nước. Về vị trí địa lý, Đông Nam Á được xem là “ngã tư đường” nối Trung Quốc, Nhật Bản, khu vực Tây Á và Địa Trung Hải lại với nhau. Về mặt khí hậu, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng chủ yếu của gió mùa, tạo nên hai mùa tương đối rõ rệt: mùa khô (lạnh, mát) và mùa mưa (tương đối nóng và ẩm). Chính gió mùa và khí hậu biển làm cho khí hậu vùng biến đổi, không khô cằn như một số khu vực lục địa khác có cùng vĩ độ. Gió mùa kèm theo những cơn mưa nhiệt đới đã cung cấp đủ lượng nước cho con người trong đời sống và sản xuất; đồng thời tạo nên môi trường cảnh quan đa dạng, phong phú. Mưa nhiệt đới trên địa bàn tự nhiên của khu vực tạo thành những vùng nhỏ, xen kẽ giữa rừng nhiệt đới, đồi núi, bờ biển và đồng bằng. Tuy không có những đồng bằng rộng lớn như các vùng châu thổ sông Ấn, sông Hằng… cũng không có những đồng cỏ mênh mông như vùng thảo nguyên; không gian sinh tồn ở đây nhỏ, hẹp nhưng lại rất phong phú, đa dạng. Con người có thể khai thác từ thiên nhiên đủ các loại thức ăn để sinh tồn trong buổi ban đầu. Nhìn chung, những điều kiện tự nhiên của Đông Nam Á tỏ ra thuận lợi cho những bước đi đầu tiên của con người. Những mùa mưa mang tính ổn định, khí hậu khô mát, địa bàn sinh tụ đa dạng… tạo nên không gian lí tưởng cho cuộc sống con người. Đây chính là nguyên nhân khiến từ rất sớm, khu vực này có cư dân cổ tập trung sinh sống. Nhiều dấu vết của quá trình chuyển biến từ vượn thành người đã được tìm thấy ở Đông Nam Á. Những di cốt hóa thạch của người tối cổ, người tinh khôn;
  17. những công cụ đồ đá… được tìm thấy khắp nơi như: Việt Nam, Mianma, Thái Lan, Indônêxia, Philippin… Cũng giống các khu vục khác trên thế giới, quá trình phát triển của Đông Nam Á diễn ra liên tục từ giai đoạn đá cũ, đồ đá giữa, đá mới và giai đoạn kim khí. Vào khoảng đầu thiên niên kỉ II TCN, cư dân Đông Nam Á, mà trước tiên là cư dân ở vùng đồng bằng sông Hồng và ở Thái Lan đã biết đến công cụ bằng đồng thau. Tiếp đó, vào khoảng những thế kỉ tiếp giáp công nguyên, trên cơ sở phát triển của đồ đồng, đồ sắt bắt đầu được sử dụng phổ biến ở Đông Nam Á. Sự ra đời, phát triển của đồ sắt làm tăng năng suất lao động, khối lượng sản phẩm dư thừa của xã hội ngày càng nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc ở Đông Nam Á đứng trước ngưỡng cửa của xã hội có giai cấp và nhà nước. Một nhân tố quan trọng khác thúc đẩy nhanh quá trình hình thành các quốc gia Đông Nam Á đó là ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa. Thông qua con đường giao lưu buôn bán là chủ yếu, hai luồng văn hóa này đã thâm nhập, ảnh hưởng toàn diện và sâu sắc trên nhiều lĩnh vực như chữ viết, văn chương, tôn giáo, nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc… đối với cư dân Đông Nam Á. Bên cạnh đó, giữa các tiểu quốc trong khu vực vẫn thường có những mối quan hệ trao đổi sản phẩm và văn hóa. Chính những yếu tố này đã tạo tiền đề cho sự phát triển của xã hội ở khu vực Đông Nam Á. Những mầm mống đầu tiên của sự xuất hiện nhà nước ra đời. Từ khoảng đầu công nguyên đến thế kỉ thứ VII, hàng loạt các quốc gia sơ kì được hình thành và phát triển ở khu vực phía Nam của Đông Nam Á lục địa. Các vương quốc đầu tiên đơn thuần là những địa điểm quần cư hoặc cũng có thể là những nhà nước thực sự. Theo thống kê, có khoảng 30 tiểu quốc mang tính chất như thế được hình thành rải rác khắp khu vực Đông Nam Á; tiêu biểu là vương quốc Champa (Nam Trung Bộ Việt Nam ngày nay), Bơhavapura (Nam Khorat), Naravara (Óc Eo An Giang), Phù Nam (Nam Bộ Việt Nam ngày nay).
  18. Cũng vào thời điểm này, nhiều quốc gia của người Môn được thành lập. Trên lưu vực sông Mê Nam và Iraoadi, người Môn thành lập cho mình nhiều vương quốc nhỏ. Những vương quốc này bị lệ thuộc vào Phù Nam. Thế kỉ VII - VIII, tại khu vực hạ lưu sông Mê Nam, các quốc gia khác của người Môn là Dvaravati và Haripunjaya được thành lập. Khu vực sông Iraoadi vào thế kỉ IX cũng chứng kiến sự ra đời của hai vương quốc người Môn khác là Thaton (Sudhanmanvati) và Pêgu (Hamsavati). Trong khi đó, trên bán đảo Mã Lai, các vương quốc cổ như Kêda, Tambralinga, Tumasic cũng đã lần lượt xuất hiện từ khoảng thế kỉ II - III. Trên đảo Giava, vương quốc Taruma ra đời vào thế kỉ IV và thiết lập quan hệ buôn bán với nhiều nước, trong đó chủ yếu là Ấn Độ và Trung Quốc. Ngoài ra, còn nhiều vương quốc khác cũng lần lượt xuất hiện ở đảo Xumatơra và hạ lưu sông Hari ngày nay. Trong số nhiều tiểu vương quốc xuất hiện trong khoảng bảy thế kỉ đầu công nguyên, Phù Nam là vương quốc nổi bật. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp thu, truyền bá văn hóa Ấn Độ vào các quốc gia trong khu vực. Thời kì cực thịnh, Phù Nam đã bành trướng sức mạnh của mình, xâm chiếm, bắt các vương quốc, tiểu vương quốc khác lệ thuộc vào mình và đã có lúc chinh phục được hầu hết các tiểu quốc ở phía Nam bán đảo Trung Ấn. Tuy vậy, vì nhiều lí do khác nhau, Phù Nam nhanh chóng suy tàn vào thế kỉ VII. Trong khi đó, nhờ điều kiện sinh sống thuận lợi và tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ qua vai trò xúc tác của Phù Nam, các tiểu quốc lệ thuộc Phù Nam bắt đầu mạnh lên.Trên lãnh thổ rộng lớn của Phù Nam bắt đầu xuất hiện hàng loạt vương quốc độc lập. Quá trình này diễn ra trong khoảng thế kỉ VII - X. Đây cũng là giai đoạn ra đời của các quốc gia dân tộc - các quốc gia được hình thành trên cơ sở hợp nhất của các nước nhỏ theo địa vực tự nhiên, lấy một tộc đa số và phát triển nhất làm nòng cốt.
  19. Chân Lạp là một quốc gia được hình thành như vậy. Vốn là thuộc quốc của Phù Nam, lợi dụng Phù Nam suy yếu, Chân Lạp đã đem quân đánh bại Phù Nam, phá bỏ sự lệ thuộc. Trên bán đảo Xumatơra, vương quốc Xri Vijaya ra đời vào thế kỉ VII đã nhanh chóng thực hiện việc bành trướng thế lực của mình ra toàn vùng phía Đông, phía Tây đảo Xumatơra, Bangka, sang cả Mã Lai; đánh chiếm vương quốc Taruma ở Tây Giava. Ở những khu vực khác, một số quốc gia được hình thành từ trước như Đại Việt, Champa... tiếp tục phát triển ngày càng mạnh. Đây được xem là thời kì tích lũy của các quốc gia dân tộc. Sau một thời gian chuyển tiếp từ thế kỉ VII đến thế kỉ X, các quốc gia dân tộc trong khu vực Đông Nam Á bước vào giai đoạn phát triển thịnh đạt từ khoảng thế kỉ X - XV. Sự phát triển thịnh đạt đó biểu hiện trước hết ở sự phát triển của nền kinh tế khu vực, sự ổn định tương đối về chính trị và sự hình thành một nền văn hóa dân tộc gắn liền với quá trình xác lập quốc gia. Thế kỉ IX - X được xem là mốc đánh dấu bước nhảy vọt mới và mở đầu một kỉ nguyên mới ở khu vực Đông Nam Á: kỉ nguyên độc lập dân tộc, mở đầu cho một thời đại phục hưng trên toàn Đông Nam Á với đặc điểm nổi bật là trở lại chính mình, là sự khẳng định ý thức dân tộc, một nền văn hóa dân tộc đã định hình. Ở Đại Việt, đó là sự kết thúc của thời kì Bắc thuộc và đồng thời là sự mở đầu của một thời đại mới: thời đại độc lập dân tộc, phục hưng dân tộc, phục hưng văn hóa Việt. “Nó mở đầu cho một thời đại của các triều Lý, Trần, Lê… oanh liệt một thời, không chỉ sánh ngang hàng với Tống, Nguyên, Minh ở Trung Quốc mà với cả những quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới lúc bấy giờ”. [37, tr.31]. Đây cũng là giai đoạn phát triển thịnh đạt của vương quốc Champa, dưới vương triều Indrapura. Sự phát triển thịnh đạt biểu hiện trước hết ở sự giàu có về kinh tế và sự tăng cường quyền lực của vương quyền, được dựa trên một lực lượng
  20. quân sự khá hùng mạnh. Champa đã ba lần tấn công phủ đô hộ An Nam vào các năm 861, 862, 865; tấn công vào lãnh thổ Chân Lạp và Đại Việt. Trong khi đó, từ thế kỉ IX, Chân Lạp cũng bước vào giai đoạn thịnh đạt và phát triển huy hoàng, trở thành một trong những vương quốc mạnh và ham chiến trận nhất khu vực. Quá trình xâm chiếm đất đai, tăng cường quyền lực được các vương triều Chân Lạp nối tiếp nhau thực hiện. Chân Lạp tấn công Champa, Đại Việt; thu phục vùng trung và hạ lưu sông Mê Nam, tiến tới phía bắc cao nguyên Khorat, đến tận Sayphong; thu phục địa bàn các vương quốc người Môn… Trên khu vực sông Iraoadi cũng diễn ra quá trình tranh chấp, xung đột của các tiểu quốc người Miến. Năm 1053, vương quốc Pagan (tiền thân của Miến Điện hay Mianma sau này) đã chinh phục vương quốc Pêgu và Thatơn, làm chủ hoàn toàn miền Nam. Tiếp đó, vua Anoratha lại tiến lên phía Bắc, chinh phục các tiểu quốc khác của người Miến và người Shan. Vương quốc Pagan không ngừng mở rộng và phát triển cường thịnh cho đến năm 1283 thì bị quân Nguyên tàn phá. Khu vực Đông Nam Á hải đảo cũng chứng kiến sự phát triển cực thịnh của quốc gia Mataram (tiền thân của quốc gia Inđônêxia). Quốc gia Mataram đã thống nhất cả hai đảo Xumatơra và Giava. Sau khi đánh thắng quân Nguyên, kinh đô được chuyển về Môgiôpahit, lập nên vương triều Môgiôpahit ở Inđônêxia với lãnh thổ rộng lớn bao gồm đảo Giava, Xumatơra, phần lớn Kalimanta, đảo Xulavêdi, bán đảo Mã Lai và quần đảo Môlucu. Đây là kết quả của hàng loạt các cuộc chinh phạt các tiểu quốc khác trong khu vực. Vương quốc Thái ra đời muộn hơn các quốc gia khác trong khu vực. Vó ngựa xâm lược của quân Mông Cổ xuống Đông Nam Á tạo nên những biến động lớn. Một bộ phận người Thái từ thượng nguồn sông Mê Kông di chuyển dần xuống phía Nam và lập lên các vương quốc Thái như: Lanna (kinh đô ở Chiềng Mai), La Hộc 1 , Sukhothay. Năm 1349, Ayuthaya đem quân xâm lược và bắt Sukhothay thần phục. 1 Đến năm 1347, kinh đô chuyển xuống Ayuthaya nên được đổi tên thành vương quốc Ayuthaya.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2