intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Biến đổi gia đình người Dao Quần Trắng ở xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:136

25
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu cấu trúc, chức năng, các mối quan hệ và một số nghi lễ trong gia đình truyền thống của người Dao Quần Trắng; chỉ ra sự biến đổi của gia đình trên các phương diện chính là cấu trúc, chức năng, mối quan hệ gia đình và các phong tục, nghi lễ có liên quan đến chu kỳ đời người; phân tích và đánh giá những biến đổi của gia đình người Dao Quần Trắng từ Đổi mới đến nay; lý giải những nguyên nhân của sự biến đổi và chỉ ra xu hướng biến đổi của gia đình người Dao Quần Trắng hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Biến đổi gia đình người Dao Quần Trắng ở xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- ĐỖ VĂN KIÊN BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH NGƢỜI DAO QUẦN TRẮNG Ở XÃ TÂN HƢƠNG, HUYỆN YÊN BÌNH, TỈNH YÊN BÁI LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội-2013
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- ĐỖ VĂN KIÊN BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH NGƢỜI DAO QUẦN TRẮNG Ở XÃ TÂN HƢƠNG, HUYỆN YÊN BÌNH, TỈNH YÊN BÁI LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Chuyên ngành: Dân tộc học Mã số: 60 22 70 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Sỹ Giáo Hà Nội-2013 2
  3. BẢNG KÊ NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT CNH: Công nghiệp hóa CTQG: Chính trị quốc gia HĐH: Hiện đại hóa KHXH: Khoa học xã hội KHXH&NV: Khoa học Xã hội và Nhân văn Nxb: Nhà xuất bản 3
  4. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Diện tích và sản lượng cây trồng năm 2012 19 Bảng 2.2: Thành phần dân tộc xã Tân Hương (theo hộ và nhân khẩu) 20 Bảng 2.3: Phân bố người Dao Quần Trắng ở xã Tân Hương theo đơn vị 26 hành chính Bảng 3.1: Tuổi kết hôn lần đầu của người Dao Quần Trắng (trước 1986) 34 Bảng 3.2: Người quyết định hôn nhân (trước 1986) 35 Bảng 3.3: Tuổi kết hôn lần đầu của người Dao Quần Trắng (sau 1986) 38 Bảng 3.4: Người quyết định hôn nhân hiện nay 38 Bảng 3.5: Quy mô gia đình thời điểm trước 1986 41 Bảng 3.6: Quy mô gia đình của người Dao Quần Trắng ở Tân Hương hiện nay 42 Bảng 3.7: Cấu trúc gia đình theo thế hệ (trước 1986) 43 Bảng 3.8: Cấu trúc gia đình theo thế hệ hiện nay 43 Bảng 3.9: Số con trong gia đình người Dao Quần Trắng ở Tân Hương 44 (trước 1986) Bảng 3.10: Số con trong gia đình người Dao Quần Trắng ở Tân Hương 47 hiện nay Bảng 3.11: So sánh vai trò của giáo dục của gia đình và nhà trường 57 4
  5. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 2 4. Nguồn tài liệu và giả thiết khoa học 3 5. Đóng góp của luận văn 3 6. Cấu trúc luận văn 4 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, 5 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 5 1.1.1. Những nghiên cứu về gia đình và biến đổi gia đình 5 1.1.2. Những nghiên cứu về người Dao và nhóm Dao Quần Trắng 8 1.2. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu 9 1.2.1. Một số khái niệm sử dụng trong luận văn 9 1.2.2. Một số hướng tiếp cận lý thuyết 12 1.2.3. Phương pháp nghiên cứu 15 Tiểu kết chƣơng 1 17 5
  6. CHƢƠNG 2: NGƢỜI DAO QUẦN TRẮNG 18 VÀ GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG CỦA HỌ 2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu 18 2.1.1. Địa bàn nghiên cứu: Xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái 18 2.1.2. Giới thiệu về người Dao Quần Trắng ở huyện Yên Bình, tỉnh Yên 21 Bái 2.2. Gia đình truyền thống của ngƣời Dao Quần Trắng 28 2.2.1. Phân loại gia đình 28 2.2.2. Loại hình gia đình truyền thống của người Dao Quần Trắng 29 Tiểu kết chƣơng 2 31 CHƢƠNG 3: BIẾN ĐỔI CẤU TRÚC, CHỨC NĂNG 33 VÀ MỐI QUAN HỆ GIA ĐÌNH TRƢỚC VÀ SAU ĐỔI MỚI 3.1. Biến đổi cấu trúc gia đình 33 3.1.1. Cấu trúc (quan hệ) hôn nhân 33 3.1.2. Cấu trúc gia đình theo số khẩu (quy mô) 40 3.1.3. Cấu trúc gia đình theo thế hệ 42 3.2. Biến đổi chức năng gia đình 44 3.2.1. Chức năng tái sản xuất con người 44 3.2.2. Chức năng kinh tế 49 3.2.3. Chức năng giáo dục 53 6
  7. 3.3. Biến đổi mối quan hệ trong gia đình 58 3.3.1. Trong quan hệ vợ chồng (quan hệ ngang) 58 3.3.2. Trong quan hệ giữa các thế hệ (quan hệ dọc) 59 3.4. Tác động của biến đổi cấu trúc, chức năng, mối quan hệ gia đình 62 đến đời sống gia đình và xã hội Tiểu kết chƣơng 3 64 CHƢƠNG 4: BIẾN ĐỔI CÁC PHONG TỤC, NGHI LỄ 66 TRONG CHU KỲ ĐỜI NGƢỜI TRƢỚC VÀ SAU ĐỔI MỚI 4.1. Biến đổi các phong tục, nghi lễ trong sinh đẻ và nuôi con 66 4.1.1. Các phong tục, nghi lễ trong sinh đẻ và nuôi con trước Đổi mới 66 4.1.2. Biến đổi các phong tục, nghi lễ trong sinh đẻ và nuôi con 69 4.2. Biến đổi các phong tục, nghi lễ trong lễ cấp sắc 72 4.2.1. Các phong tục, nghi lễ trong lễ cấp sắc trước Đổi mới 72 4.2.2. Biến đổi các phong tục, nghi lễ trong lễ cấp sắc 77 4.3. Biến đổi các phong tục, nghi lễ trong cƣới xin 80 4.3.1. Các phong tục nghi lễ trong cưới xin trước Đổi mới 80 4.3.2. Biến đổi các phong tục, nghi lễ trong cưới xin 86 4.4. Biến đổi các phong tục, nghi lễ trong ma chay 89 4.4.1. Các phong tục, nghi lễ trong ma chay trước Đổi mới 89 4.4.2. Biến đổi các phong tục, nghi lễ trong ma chay 95 7
  8. 4.5. Tác động của biến đổi các phong tục, nghi lễ trong chu kỳ đời 97 ngƣời đến đời sống gia đình và xã hội Tiểu kết chƣơng 4 99 KẾT LUẬN 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO 104 PHỤ LỤC 108 1 Địa bàn nghiên cứu 109 2 Bản đồ tỉnh Yên Bái 110 3 Phiếu thu thập thông tin 111 4 Một số hình ảnh 118 8
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong đời sống các tộc người nước ta, gia đình là tế bào cơ bản của xã hội, giữ vai trò hạt nhân trong cấu trúc xã hội và có chức năng rất quan trọng. Bức tranh gia đình phản ánh sự đa dạng của thiết chế và trình độ xã hội ở các dân tộc. Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Thực tế, gia đình có sự ảnh hưởng và những tác động mạnh mẽ đến xã hội. Về phương diện văn hóa tộc người, gia đình có thể được coi như xã hội tộc người thu nhỏ, đồng thời chịu sự ràng buộc bởi điều kiện văn hóa xã hội của đời sống tộc người. Vì vậy, gia đình là thiết chế quan trọng bảo tồn và phát huy văn hóa tộc người. Với tư cách là tế bào, là thiết chế cơ bản của xã hội, gia đình luôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân, cộng đồng và tộc người cũng như sự phát triển của xã hội. Nhận thức về vị trí, vai trò của gia đình, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Gia đình là môi trường quan trọng để hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [5, tr 67]. Cùng với những bước chuyển mình rõ rệt trong đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước trong thời kỳ Đổi mới, gia đình các dân tộc Việt Nam, đặc biệt là gia đình của các dân tộc thiểu số trong đó có nhóm Dao Quần Trắng ở tỉnh Yên Bái đã và đang có những bước biến đổi mạnh mẽ. Chính sự phát triển kinh tế - xã hội trong gần ba thập kỷ qua đã có tác động nhiều chiều đến đời sống văn hoá - xã hội của người Dao Quần Trắng, trong đó có gia đình. Thiết chế gia đình của đồng bào đã có những biến đổi quan trọng cả về cấu trúc, chức năng, đặc điểm sinh hoạt và lối sống so với truyền thống. Những thay đổi đó đã tạo ra một diện mạo mới về gia đình của người Dao Quần Trắng ở tỉnh Yên Bái, đồng thời tác động lên văn hóa và lối sống của cộng đồng cư dân này. Bên cạnh sự biến đổi trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, những thay đổi của gia đình người Dao Quần Trắng với tư cách là tế bào và thiết chế cơ bản của cộng đồng đã diễn ra sự tương tác giữa truyền thống và hiện đại, văn hóa và phát triển. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ nhưng hết sức sinh động của quá trình biến đổi và phát triển văn hóa tộc người từ mấy thập kỷ nay ở miền núi Việt Nam. 9
  10. Vì vậy, việc nghiên cứu những khía cạnh trong biến đổi của gia đình người Dao Quần Trắng được đặt ra như một nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng về cả lý luận và thực tiễn trong việc bảo lưu và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống tộc người nói chung, phát huy những giá trị của gia đình nói riêng trong việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn miền núi. Hơn nữa, nghiên cứu về chủ đề này sẽ góp phần làm cơ sở cho các chủ trương, chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước đối với vùng dân tộc miền núi trong thời gian tới, thiết thực góp phần vào công cuộc phát triển cộng đồng người Dao Quần Trắng và các dân tộc nước ta. Cho đến nay, mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về người Dao nói chung, về gia đình người Dao nói riêng nhưng chưa có một công trình chuyên khảo về biến đổi gia đình của người Dao Quần Trắng ở một địa phương cụ thể. Với ý nghĩa đó, tôi quyết định chọn đề tài: “Biến đổi gia đình người Dao Quần Trắng ở xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái” làm đề tài luận văn thạc sĩ dân tộc học của mình. 2. Mục đích nghiên cứu 1. Tìm hiểu cấu trúc, chức năng, các mối quan hệ và một số nghi lễ trong gia đình truyền thống của người Dao Quần Trắng. 2. Chỉ ra sự biến đổi của gia đình trên các phương diện chính là cấu trúc, chức năng, mối quan hệ gia đình và các phong tục, nghi lễ có liên quan đến chu kỳ đời người. 3. Phân tích và đánh giá những biến đổi của gia đình người Dao Quần Trắng từ Đổi mới đến nay. 4. Lý giải những nguyên nhân của sự biến đổi và chỉ ra xu hướng biến đổi của gia đình người Dao Quần Trắng hiện nay. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự biến đổi gia đình của người Dao Quần Trắng ở xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái trước và sau thời kỳ Đổi mới. 3.2. Phạm vi và địa bàn nghiên cứu Phạm vi nội dung của luận văn tập trung vào nghiên cứu những vấn đề về truyền thống và biến đổi trong gia đình của nhóm Dao Quần Trắng tại địa bàn nói trên. Bên cạnh đó, luận văn có so sánh đối chiếu vấn đề nghiên cứu với một số địa phương khác. Do biến đổi gia đình là mảng đề tài rộng lớn gồm nhiều nội dung nên trong khuôn khổ luận văn này, tập trung vào tìm hiểu một số nội dung 10
  11. cơ bản của biến đổi gia đình về cấu trúc, chức năng, mối quan hệ và một số nghi lễ cơ bản trong gia đình. Về phạm vi thời gian, chúng tôi chủ yếu tập trung vào những biến đổi của gia đình ở hai giai đoạn trước và sau Đổi mới. Địa bàn nghiên cứu mà chúng tôi chọn là xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Tân Hương là xã đặc biệt khó khăn (xã khu vực III) của huyện Yên Bình và cũng là một trong những xã tập trung đông người Dao Quần Trắng. 4. Nguồn tài liệu và giả thiết khoa học 4.1. Nguồn tài liệu Nguồn tài liệu chủ yếu được sử dụng trong luận văn là tài liệu điền dã được thu thập qua các đợt khảo sát tại địa bàn nghiên cứu. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát tại địa bàn làm hai đợt. Đợt 1, từ tháng 01 đến tháng 3 năm 2013; đợt 2, tháng 5 năm 2013. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các công trình nghiên cứu, các bài viết về người Dao, về gia đình và biến đổi gia đình của các học giả đã được xuất bản bao gồm sách, báo, tạp chí, thông báo khoa học, báo cáo khoa học, các luận án, luận văn, khóa luận của chuyên ngành nhân học/dân tộc học cũng như các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết về kinh tế - văn hoá - xã hội của xã Tân Hương, huyện Yên Bình và tỉnh Yên Bái. 4.2. Giả thiết nghiên cứu Với đề tài này, chúng tôi xác định một số giả thiết làm cơ sở cho việc nhận thức, đánh giá vấn đề cũng như quá trình quan sát, thu thập thông tin tại địa bàn, cụ thể như sau: Dưới tác động của biến đổi kinh tế - xã hội từ khi Đổi mới đến nay, gia đình người Dao Quần Trắng tại xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái đang có sự biến đổi mạnh mẽ trên nhiều phương diện. Tuy có sự biến đổi mạnh mẽ, nhiều yếu tố của gia đình truyền thống mất đi, một số yếu tố mới được khẳng định. Song, không vì thế mà mà gia đình mất đi vai trò của của nó với tư cách là một thiết chế xã hội quan trọng cả trong phạm vi bản làng và xã hội tộc người. Sự biến đổi của gia đình của người Dao Quần Trắng có tác động trở lại đến nhiều mặt trong đời sống văn hóa xã hội của họ. 5. Đóng góp của luận văn Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống về biến đổi gia đình người Dao Quần Trắng ở một địa bàn cụ thể. Nghiên cứu này có những đóng góp sau đây: 11
  12. Trên cơ sở điền dã, luận văn góp phần bổ sung những tư liệu mới về biến đổi gia đình qua nghiên cứu trường hợp xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái cho các nghiên cứu về gia đình của nhóm Dao Quần Trắng nói riêng, người Dao ở nước ta nói chung. Những phân tích nhân học/dân tộc học chủ yếu từ tư liệu thực địa của luận văn đã làm rõ xu thế biến đổi của gia đình người Dao Quần Trắng trước sự tác động của những nguyên nhân kinh tế - xã hội trong bối cảnh xã hội đang biến đổi mạnh mẽ ở nước ta thời kỳ Đổi mới, CNH - HĐH. Luận văn đã phân tích mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và biến đổi của gia đình người Dao Quần Trắng ở địa phương về cấu trúc, chức năng, mối quan hệ và một số nghi lễ tiêu biểu trong gia đình. Nghiên cứu này góp phần phát huy các giá trị văn hoá truyền thống trong sự thích ứng của gia đình trước sự biến đổi của xã hội nhằm xây dựng gia đình văn hóa ở cơ sở. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung chính của luận văn được cấu trúc thành 4 chương: Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu Chương 2: Người Dao Quần Trắng và gia đình truyền thống của họ Chương 3: Biến đổi cấu trúc, chức năng, mối quan hệ gia đình trước và sau Đổi mới Chương 4: Biến đổi các phong tục, nghi lễ của chu kỳ đời người trong gia đình trước và sau Đổi mới 12
  13. Chƣơng 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 1.1.1. Những nghiên cứu về gia đình và biến đổi gia đình Cùng với gia đình, biến đổi gia đình là một hiện tượng xã hội phổ biến trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, đặc biệt từ khi xã hội loài người chuyển từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang xã hội công nghiệp. Biến đổi gia đình là một đề tài có sức hấp dẫn lớn nên đã được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu ở các góc độ tiếp cận khác nhau như xã hội học, dân tộc học/nhân học, tâm lý học… Nhiều thập kỷ đã qua, những khía cạnh của biến đổi gia đình như cấu trúc, chức năng hay các mối quan hệ trong gia đình đã được tìm tòi, phát hiện và công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, các ấn phẩm khoa học. Một trong những công trình nổi tiếng bàn về gia đình là tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” (1884) của F. Engels. Dựa trên các kết quả nghiên cứu của nhà dân tộc học H. Morgan và quan điểm duy vật, F. Engels đã phân tích lịch sử nhân loại ở giai đoạn sớm, luận chứng quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và quá trình hình thành xã hội có giai cấp dựa trên chế độ sở hữu tư nhân. Trong tác phẩm này, F. Engels đã dành cả một chương (chương hai) để phân tích về gia đình. Bắt đầu bằng việc nghiên cứu nguồn gốc của gia đình trong sự vận động khách quan của quá trình phát triển gia đình từ chế độ quần hôn đến gia đình một vợ một chồng. Ông đã đề cập đến các loại hình gia đình trong lịch sử, các thiết chế hôn nhân và giải thích sự phát triển của các quan hệ gia đình trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. F. Engels khẳng định, gia đình là sản phẩm của lịch sử và nó tác động tích cực đến tiến trình xã hội. Theo ông, gia đình là một “khái niệm động”, thường xuyên có sự biến đổi về quy mô, kết cấu và chức năng theo diễn trình lịch sử. Có thể nói đây là một tác phẩm kinh điển chứa đựng những lý luận cơ bản về gia đình của chủ nghĩa Mác. Sau đó, những công trình nghiên cứu đáng kể về biến đổi gia đình đã xuất hiện ngay từ những năm 50 – 60 của thế kỷ XX gắn liền với tên tuổi của các nhà nhân học/xã hội học hàng đầu phương Tây như Talcott Pasons, G.P. Murdock, Wiliam Goode… Theo nhà nghiên cứu Mai Huy Bích, William Goode là một trong những 13
  14. nhà nhân học/xã hội học với những nghiên cứu về biến đổi gia đình được đánh giá cao, tiêu biểu là công trình “Cách mạng thế giới và những hình mẫu gia đình” (1963). Trong cuốn sách này, ông đã tìm hiểu gia đình trong xã hội công nghiệp hóa và cho rằng dưới tác động của công nghiệp hóa các mẫu hình gia đình đều thay đổi theo hướng trở lên giống nhau và giống với gia đình phương Tây. Đó là mẫu hình “gia đình vợ chồng” mà ở đó ít có quan hệ với họ hàng nội ngoại, cá nhân ít phụ thuộc vào gia đình và được mở rộng quyền tự do. Xã hội công nghiệp đã giải phóng con người vì nó tạo ra một mô hình gia đình tự do và bình đẳng hơn các xã hội trước đó. Sau Talcott Pasons và Wiliam Goode, các nhà nhân học Emily A.Schultz và Rober H. Lavanda cũng có những nghiên cứu về gia đình được công bố. Trong cuốn “Nhân học – một quan điểm về tình trạng nhân sinh” (2001), ở các chương XVIII – Thân tộc và chương XIX – Hôn nhân và gia đình, hai tác giả này đã đề cập đến những vấn đề cơ bản trong nghiên cứu nhân học về gia đình như các kiểu hôn nhân, các loại hình gia đình, cấu trúc gia đình và biến đổi gia đình theo thời gian. Nhìn lại tình hình nghiên cứu ở Việt Nam, những nghiên cứu về biến đổi gia đình xuất hiện nhiều từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây với những nhà nghiên cứu tiêu biểu Mai Huy Bích, Nguyễn Linh Khiếu, Lê Ngọc Văn, Vũ Tuấn Huy, Khuất Thu Hồng… Cho đến nay đã có số lượng lớn công trình nghiên cứu, sách, bài viết, các hội nghị và hội thảo về chủ đề này được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau: Trong hàng loạt các ấn phẩm đã xuất bản, đáng chú ý hơn cả, có một công trình mang tính hệ thống lý luận và thực tiễn về vấn đề gia đình và biến đổi gia đình ở nước ta là chuyên khảo “Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam” của tác giả Lê Ngọc Văn (2011). Tác phẩm này được kết cấu thành ba phần lớn. Phần thứ nhất, tác giả giới thiệu những vấn đề lý luận về gia đình và biến đổi gia đình1. Phần thứ hai đề cập đến thực trạng biến đổi gia đình ở Việt Nam, trong đó tác giả tập trung làm rõ sự biến đổi về chức năng, cấu trúc của gia đình. 1 Phần này gồm ba chương dựng nên “nền móng lý luận khá vững chắc” về gia đình và biến đổi gia đình. Nhiều khái niệm then chốt như gia đình, văn hóa gia đình và biến đổi gia đình cùng với những nhân tố và quá trình ảnh hưởng đến biến đổi gia đình như công nghiệp hóa, toàn cầu hóa, chính sách pháp luật của Nhà nước về gia đình được giới thiệu và làm rõ. Những quan điểm lý thuyết cơ bản dùng đề nghiên cứu gia đình cũng được giới thiệu và phân tích 14
  15. Phần thứ ba đề cập đến các quan điểm và giải pháp chính sách về những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay. Trong phần này, tác giả chỉ ra những vấn đề mới đặt ra từ sự biến đổi các chức năng của gia đình và cấu trúc của gia đình. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra năm nhóm giải pháp kiến nghị chủ yếu xây dựng gia đình Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế. Bên cạnh việc khái quát và hệ thống những vấn đề cơ bản của gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam hiện nay, tác giả đưa ra gợi ý cho những nghiên cứu về gia đình và biến đổi gia đình. Song, cuốn sách chủ yếu dừng lại ở việc nghiên cứu về biến đổi gia đình ở khu vực đồng bằng và đô thị mà chưa đề cập nhiều đến gia đình của các dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi. Tiếp theo, công trình nghiên cứu “Sự biến đổi và liên tục của gia đình nông thôn Việt Nam: những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu thử nghiệm ở Yên Bái” của Vũ Tuấn Huy và cộng sự dựa trên kết quả nghiên cứu liên ngành khá toàn diện về biến đổi gia đình nông thôn các dân tộc từ khảo sát thực địa tại Yên Bái. Đây là một nghiên cứu như tác giả đã chỉ rõ là thuộc dự án của nhóm “Micro” gồm sự liên kết của bốn cơ quan chuyên ngành: Viện Xã hội học, viện Dân tộc học, Trung tâm Địa lý nhân văn và Trung tâm nghiên cứu Gia đình và Phụ nữ nhằm xác định các vấn đề và phương pháp nghiên cứu liên ngành. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng, trong thời kỳ đổi mới, đời sống gia đình đã có nhiều thay đổi. Chẳng hạn, nếu như trước đây, hôn nhân chỉ diễn ra ở nội bộ tộc người thì hiện nay đã mở ra với các tộc người khác. Trong đời sống thường ngày, vị trí của người phụ nữ đã được nâng lên, quyền bình đẳng được tôn trọng và người phụ nữ có điều kiện hơn để tham gia vào các công việc bên ngoài gia đình. Mỗi gia đình sẵn sàng thay đổi và hình thành chiến lược sống mới để thích nghi với điều kiện xã hội mới v.v… Bên cạnh đó, Vũ Tuấn Huy còn có bài viết chuyên khảo “Những khía cạnh của sự biến đổi gia đình” in trong sách “Những nghiên cứu Xã hội học về gia đình” (1996) do Tương Lai chủ biên. Thông qua phân tích các khía cạnh như những vấn đề về hôn nhân và những quan hệ trong đời sống gia đình, nghiên cứu này đã chỉ ra rằng, gia đình Việt Nam đã và đang biến đổi dưới sự tác động của những biến đổi xã hội và giao lưu văn hóa, sự biến đổi đó không tách rời hoàn toàn với những đặc trưng của gia đình truyền thống Việt Nam, mà là một sự điều chỉnh, thích nghi với những hoàn cảnh và điều kiện xã hội mới. Tác giả cũng cho rằng, hiện đại hóa, công nghiệp hóa, đô thị hóa và các quá trình dân số là những yếu tố tác động đến đời sống gia đình. Tuy nhiên, những yếu tố này 15
  16. vẫn chưa đủ mạnh để tạo ra những biến đổi căn bản trong mô hình nơi ở và các quan hệ thân tộc. Gần đây, Hội thảo “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa và hội nhập” do Viện Gia đình và Giới tổ chức vào ngày 26/3/2012 tại Hà Nội là một trong những diễn đàn lớn thu hút nhiều nhà khoa học nghiên cứu về gia đình2. Hội thảo đã đề cập và làm rõ nhiều khía cạnh của gia đình trong đó có biến đổi gia đình do tác động của công nghiệp hóa và hội nhập. Mặt khác, gia đình và biến đổi gia đình ở các dân tộc Việt Nam cũng là chủ đề được nhiều luận văn, luận án chọn làm đề tài nghiên cứu. Gần đây nhất, luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Dân tộc học của tác giả Hoàng Phương Mai với tên đề tài “Gia đình người Sán Dìu ở xã Ninh Lai huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang - truyền thống và biến đổi” (2011) là một nghiên cứu về biến đổi gia đình của một tộc người ở một địa phương cụ thể. Luận văn đã đề cập đến các khía cạnh trong gia đình truyền thống và chỉ ra những biến đổi trong gia đình của người Sán Dìu trên các phương diện như quy mô, cấu trúc, chức năng, mối quan hệ và các nghi lễ trong gia đình, đồng thời cũng làm rõ các nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi trong gia đình. Nhìn chung, trong các công trình nghiên cứu về biến đổi gia đình ở nước ta mấy thập kỷ nay, chúng ta thấy rằng chưa có nhiều những nghiên cứu chuyên sâu về biến đổi gia đình của các dân tộc, nhất là ở một tộc người tại một địa phương cụ thể. 1.1.2. Những nghiên cứu về người Dao và nhóm Dao Quần Trắng Cho đến nay, người Dao là một trong những tộc người nhận được nhiều quan tâm nghiên cứu dân tộc học/nhân học ở Việt Nam của các nhà khoa học tên tuổi như Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Trần Quốc Vượng, Phan Hữu Dật, Lê Sỹ Giáo, Nguyễn Đình Khoa, Phạm Quang Hoan, Nguyễn Ngọc Thanh, Vương Xuân Tình, Lý Hành Sơn… Trong số đó, các tác giả đã đề cập đến hầu hết các lĩnh vực từ nguồn gốc lịch sử đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, ngôn ngữ v.v… của cộng đồng cư dân này. Những công trình trên đã đem đến cái nhìn khá tổng quát về dân tộc Dao ở Việt Nam. Tuy vậy, chỉ có một số công trình đề cập đến người Dao Quần Trắng. Từ rất sớm, nhóm tác giả Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến đã xuất bản công trình nghiên cứu khái quát về “Người Dao 2 Có 40 tham luận được trình bày chia làm bốn chủ đề: Những vấn đề chung về gia đình; tính đa dạng của gia đình; mối quan hệ gia đình; giá trị gia đình. 16
  17. ở Việt Nam” (1971). Có thể nói, cho đến nay đây vẫn là công trình phản ánh toàn diện và đầy đủ nhất về người Dao ở Việt Nam. Trên cơ sở các tài liệu điền dã, các tác giả đã khái quát về nguồn gốc lịch sử, tên gọi, địa bàn cư trú, các đặc trưng sinh hoạt kinh tế - xã hội…và những chuyển đổi trong đời sống của dân tộc Dao từ sau cách mạng tháng Tám 1945. Trong công trình này, nhóm Dao Quần Trắng nước ta đã được các tác giả đề cập đến ở một số nội dung (tuy còn sơ lược). Những nghiên cứu chuyên sâu trên nhiều khía cạnh đời sống xã hội tộc người về người Dao ở nước ta đã được công bố trong cuộc Hội thảo ở tầm quốc gia do Trung tâm Khoa học xã hội & Nhân văn quốc gia tổ chức năm 1995 với chủ đề “Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai”. Kỷ yếu hội thảo khoa học quan trọng này đã được xuất bản năm 1998, trong đó tập hợp nhiều nghiên cứu sâu về dân tộc Dao. Những tham luận tại hội thảo đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về đặc điểm dân tộc, sự phát triển kinh tế - xã hội và biến đổi văn hóa của dân tộc Dao. Tại hội thảo này, có một số bài viết dưới nhiều góc độ đã đi sâu nghiên cứu về nhóm Dao Quần Trắng. Bên cạnh đó, còn có một số công trình và bài viết về người Dao Quần Trắng ở một số địa phương như “Các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang” của Hà Văn Viễn và Hà Văn Phụng (1972); “Một sinh hoạt văn hóa lễ hội của người Dao Họ ở Lào Cai” của Lê Hồng Lý (1997); “Ứng xử của người Dao Họ (Dao Quần Trắng) ở Lào Cai với nguồn nước” của Trần Hữu Sơn (2008); “Thầy Shaman người Dao Họ ở Lào Cai (Nghiên cứu trường hợp ông Bàn Văn Xiêm)” của Phạm Văn Dương (2009) v.v …và một số bài báo giới thiệu về một số phong tục tập quán đặc sắc của người Dao Quần Trắng. Tựu trung lại, những công trình đề cập đến người Dao Quần Trắng ở nước ta còn rất sơ lược và tản mạn, hoặc chỉ khảo cứu ở một khía cạnh cụ thể. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu về biến đổi gia đình của người Dao Quần Trắng ở huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Chính vì vậy, nghiên cứu của chúng tôi nhằm bổ sung vào vấn đề còn bỏ ngỏ này. 1.2. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu 1.2.1. Một số khái niệm sử dụng trong luận văn Để thống nhất nội dung của một số thuật ngữ sử dụng trong luận văn, chúng tôi xin đưa ra một số khái niệm chính như sau: 1.2.1.1. Khái niệm gia đình Như đã đề cập ở trên, cho đến nay, trong các nghiên cứu khoa học trên thế giới và ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về gia đình từ những cách 17
  18. tiếp cận khác nhau và đã có nhiều định nghĩa về gia đình được đưa ra. Song cho đến nay gia đình là gì vẫn đang còn là vấn đề gây tranh luận và được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Theo nhà xã hội học Tương Lai, thuật ngữ này vẫn là một thuật ngữ được định nghĩa lỏng lẻo nhất trong từ vựng của các nhà xã hội học [44, tr 33]. Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước", F.Enggels đã đề cập đến khái niệm gia đình của Morgan: “Gia đình là một yếu tố năng động, nó không bao giờ đứng yên tại chỗ mà nó chuyển từ hình thức thấp lên hình thức cao khi xã hội phát triển từ hình thức thấp lên hình thức cao, khi xã hội phát triển từ giai đoạn thấp lên giai đoạn cao”. Định nghĩa này nhấn mạnh đến yếu tố “động” của gia đình, sự biến đổi của gia đình gắn liền với sự vận động biến đổi của xã hội. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mark đã đưa ra định nghĩa: “Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người còn tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [28, tr 41]. Với quan niệm này, gia đình được nhấn mạnh trên các khía cạnh quan hệ trong gia đình đó là quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống. Ở Việt Nam, khi bàn tới khái niệm gia đình, các tác giả cũng đưa ra các định nghĩa khác nhau. Theo Đại từ điển tiếng Việt, “Gia đình là tập hợp những người có quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống sống chung trong cùng một nhà” [3, tr 719]. Tác giả Ngô Công Hoàn trong cuốn “Tâm lý học gia đình” đưa ra định nghĩa: “Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội, có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý, có chung giá trị vật chất, tinh thần, ổn định trong các thời điểm lịch sử nhất định” [24, tr 9]. Tác giả Lê Ngọc Văn trong chuyên khảo “Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam” định nghĩa :“Gia đình là một nhóm người, có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống hoặc quan hệ nghĩa dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn nhân, cùng chung sống, có ngân sách chung” [16, tr 38] Qua các khái niệm trên, có thể thấy rằng sẽ không có một định nghĩa duy nhất cho gia đình trong mọi nền văn hóa, mọi chế độ xã hội và mọi thời kỳ lịch sử khác nhau. Mặc dù còn có các tiêu chí riêng để nhận diện gia đình nhưng cũng có những tiêu chí chung cơ bản đó là: Là một nhóm người (có từ hai người trở lên); có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống hay nghĩa dưỡng; cùng chung sống. Trong luận văn này, chúng tôi thống nhất sử dụng định nghĩa mang tính pháp lý về gia đình ở Việt Nam được ghi trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 18
  19. 2008 như sau: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau theo luật định”. Hộ gia đình Thông cáo về gia đình của Liên Hợp Quốc cho rằng: “Hộ là những người cùng chung sống dưới một mái nhà, có chung ngân quỹ”. Theo quan niệm này, hộ gia đình có thể là một người (độc thân), có thể là 2,3 …người cùng giới và khác giới sống chung với nhau. Năm 1989, Tổng cục Thống kê đưa ra khái niệm: “Hộ gồm những người có quan hệ hôn nhân hoặc ruột thịt hoặc nuôi dưỡng, có quỹ thu chi chung và cùng chung sống lâu dài”. Mỗi hộ gia đình có sổ đăng ký nhân khẩu gồm chủ hộ và các thành viên quan hệ với chủ hộ. Như vậy, gia đình và hộ gia đình là hai khái niệm khác nhau. Một gia đình có thể là một hộ nhưng có thể có hơn một hộ. Ở Việt Nam, khi nói đến gia đình, thường được hiểu đó là hộ và như vậy nhiều khi khái niệm gia đình được hiểu đó là khái niệm hộ. 1.2.1.2. Biến đổi gia đình Gia đình là một thiết chế xã hội và đương nhiên cũng là một phần của xã hội. Do đó, biến đổi gia đình cũng là một phần của biến đổi xã hội. Để hiểu được biến đổi gia đình cần hiểu biến đổi xã hội. Biến đổi xã hội có thể được hiểu là một quá trình chuyển đổi từ hình thái xã hội này sang một hình thái xã hội khác trên một trục thời gian. Hay cụ thể hơn là, ở thời điểm t1, có trạng thái x1, thời điểm t2 có trạng thái x2 …và đến thời điểm tn có trạng thái xn.. Từ biến đổi xã hội, có thể suy ra biến đổi gia đình, đó là một quá trình chuyển biến của gia đình từ trạng thái này sang trạng thái khác trên một trục thời gian. Trong luận văn này, chúng tôi xem xét sự biến đổi của trạng thái gia đình trên các phương diện cấu trúc, chức năng, mối quan hệ và một số phong tục, nghi lễ trong chu kỳ đời người. 1.2.1.3. Nghi lễ Theo từ điển tiếng Việt, “Nghi lễ là nghi thức và trình tự tiến hành của một buổi lễ” [44, tr 866]. Còn theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, nghi lễ là “những hoạt động mang tính truyền thống được thực hiện tại những thời điểm quan trọng trong đời sống và trong hoạt động sản xuất của con người. Phân biệt hai loại nghi lễ chính: Một loại gắn với chu kì đời sống con người (từ sinh đẻ, cưới xin đến ma chay) gọi là nghi lễ gia đình; một loại liên quan đến sản xuất 19
  20. nông nghiệp và các hoạt động kinh tế khác gọi là nghi lễ theo lịch”3. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ để cập đến một số nghi lễ gắn với chu kì của con người trong gia đình mà như khái niệm trên gọi là nghi lễ gia đình. 1.2.2. Một số hướng tiếp cận lý thuyết 1.2.2.1. Tiếp cận lý luận Mác xít Luận văn áp dụng nguyên lý và nguyên tắc phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử, cụ thể là: - Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan. Nguyên tắc này chỉ ra rằng, cần nghiên cứu sự vật, hiện tượng như chúng đang tồn tại thực tế, các kết luận phải xuất phát từ thực tế, không phán đoán chủ quan; để có hiểu biết đúng đắn về sự vật, hiện tượng, phải hướng tới cái bản chất, không hướng tới cái ngẫu nhiên, không ổn định. - Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự phát triển. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình nảy sinh, vận động (biến đổi) và phát triển; đều tồn tại trong một không gian và thời gian xác định. Khi nghiên cứu, cần nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong những giai đọan cụ thể và trong toàn bộ tiến trình phát triển; cần chú ý đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể làm nảy sinh vấn đề đó, tới bối cảnh hiện thực khách quan và chủ quan. Có như vậy sẽ giúp ta thấy được sự vận động, biến đổi cũng như lý giải được quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đó. - Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong một chỉnh thể toàn vẹn. Khi xem xét sự vật, hiện tượng cần phải đặt trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật, hiện tượng đó. Đồng thời, phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại với các sự vật, hiện tượng khác. Vận dụng các nguyên lý này vào nghiên cứu biến đổi gia đình của người Dao Quần Trắng, chúng tôi quan niệm gia đình là một thiết chế xã hội có mối liện hệ qua lại với các thiết chế xã hội khác trong chỉnh thể xã hội. Gia đình tồn tại và biến đổi trong những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể dưới sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. 1.2.2.2. Tiếp cận theo lý thuyết chức năng (hay chức năng – cấu trúc) Được khởi xướng từ G. Spencer và E. Durkheim và sau đó được phát triển và hoàn thiện bởi các học giả tiêu biểu như Malinowski, Radcliffe – Brown và Talcott Parsons. Đây là lý thuyết được ứng dụng nhiều trong các nghiên cứu xã 3 http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2