Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Diện mạo kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX
lượt xem 15
download
Mời các bạn tham khảo luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Diện mạo kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX sau đây để nắm bắt được những nội dung về môi trường tự nhiên - điều kiện cơ bản của diện mạo kinh tế An Giang; diện mạo kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX; cư dân An Giang - chủ thể làm nên diện mạo kinh tế An Giang.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Diện mạo kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX
- 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ---------------------------------- PHAN VĂN KIẾN DIEÄN MAÏO KINH TEÁ AN GIANG TRONG CAÙC THEÁ KYÛ XVII - XX Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam Mã số : 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. TRẦN THỊ THANH THANH Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
- 2 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU An Giang là một tỉnh ở miền Tây Nam Bộ thuộc Đồng bằng sông Cửu Long. Cách đây hơn 300 năm, khi người Việt đặt chân đến vùng này, về cơ bản, đây là một vùng đất hoang vu chưa được khai phá, sình lầy, sông rạch chằng chịt, cây rừng rậm rạp, với hàng nghìn trâu rừng tụ họp. Nhưng không đầy ba thế kỷ sau, An Giang trở thành một vùng đất trù phú, một vựa lúa lớn của cả nước. Việc dựng lại diện mạo kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX có ý nghĩa quan trọng đối với việc tìm hiểu sự phát triển kinh tế An Giang ngày nay. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, dưới sự lãnh đaọ của Đảng Cộng sản Việt Nam, kinh tế An Giang đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng, nhất là sản lượng lương thực trong những năm gần đây luôn luôn đứng đầu cả nước. Tìm hiểu kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX có ý nghĩa quan trọng, giúp cho địa phương vạch ra những chính sách, định hướng, giải pháp phát triển kinh tế An Giang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Trong những năm qua, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về tình hình kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long, góp phần không nhỏ trong việc nhận thức lại quá khứ, cung cấp những cơ sở khoa học cho việc quy hoạch phát triển kinh tế của vùng. Một hệ thống đề tài về kinh tế của mỗi tỉnh trong các thế kỷ XVII - XX vẫn là mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Mặt khác, đề tài này còn góp phần giáo dục thế hệ trẻ lòng yêu quê hương, con người An Giang cần cù và sáng tạo trong lao động sản xuất, anh dũng, kiên cường trong chống giặc ngoại xâm; từ đó có thái độ và trách nhiệm trong việc góp phần xây dựng quê hương An Giang giàu đẹp.
- 3 Mục đích của luận văn là dựng lại bức tranh lịch sử về kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX, tập trung nghiên cứu tất cả các mặt hoạt động kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp và giao thông vận tải. Qua đó, thấy được những biến đổi của kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX. Trên cơ sở nghiên cứu các mặt hoạt động của kinh tế An Giang, tác giả rút ra được một số đặc điểm cơ bản về kinh tế An Giang. Tìm ra thế mạnh của kinh tế An Giang, góp phần vào việc hoạch định chính sách kinh tế của tỉnh. Đồng thời nêu được những tác nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng của chúng đến đời sống nhân dân An Giang trong các thế kỷ XVII - XX, từ đó có những kiến nghị cho việc phát triển kinh tế An Giang trong giai đoạn hiện nay. Tôi sinh ra, lớn lên và công tác tại An Giang, việc nghiên cứu kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX sẽ giúp tôi giảng dạy tốt lịch sử địa phương, cũng như việc biên soạn tài liệu dạy học lịch sử địa phương An Giang cho các trường phổ thông hiện nay. Việc nghiên cứu này còn góp phần bổ sung nguồn tư liệu tham khảo cho giáo viên giảng dạy lịch sử địa phương An Giang. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Chủ đề của luận văn là Diện mạo kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX. Tác giả đi sâu tìm hiểu các hoạt động kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp và giao thông vận tải, cũng như những tác động của những hoạt động đó tới đời sống nhân dân An Giang trong bốn thế kỷ qua. Về không gian, vùng đất An Giang từ thời chúa Nguyễn cho đến khi thực dân Pháp chiếm Nam Kỳ có địa giới rất rộng, bao gồm An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, một phần Đồng Tháp và Bạc Liêu ngày nay. Luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề lịch sử thuộc phạm vi không gian địa giới tỉnh An Giang ngày nay. Khi
- 4 giới hạn phạm vi nghiên cứu, tác giả có tính đến sự thay đổi về địa giới hành chính qua các thời kỳ lịch sử. Về thời gian, luận văn giới hạn trong các thế kỷ XVII - XX. Cụ thể là từ năm 1620, là năm vua Chân Lạp Chey Chetta II xin cưới công nương Ngọc Vạn, con của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, từ đây, vua Chân Lạp tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt đến khai phá đất đai và định cư sinh sống ở vùng đất Nam Bộ, trong đó có An Giang; và đến năm 2000, là năm kết thúc thế kỷ XX, bước sang kỷ nguyên mới, cũng là năm An Giang đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội sau hơn 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới. 3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Khi thực hiện đề tài “Diện mạo kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX”, tác giả kế thừa nghiêm túc và có chọn lọc các kết quả nghiên cứu trước đây liên quan đến đề tài, bao gồm các nội dung về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, yếu tố con người và các nhân tố khác có tác động đến kinh tế An Giang. Trước hết là những công trình được ghi chép của nhà Nguyễn. Quyển Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn (1726 - 1783) được viết vào khoảng năm 1776, thời điểm đang diễn ra cuộc khẩn hoang, mở rộng lãnh thổ về phía Nam. Do vậy, tác phẩm có những tư liệu quý về cảnh quan, môi trường thiên nhiên, những biến động kinh tế và chính trị vùng sông Tiền, sông Hậu nói riêng, vùng đất Nam Bộ nói chung. Tác phẩm Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825) được viết vào thời vua Gia Long (1802 - 1820). Đây là quyển địa phương chí đầu tiên đề cập một cách khái quát về địa giới, khí hậu, vùng đất, con người, sản vật, núi sông, phong tục và tình hình kinh tế vùng đất Nam Bộ nói chung, trong đó có vùng đất An Giang nói riêng ở các thế kỷ XVIII - XIX.
- 5 Bộ Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn, được vua Minh Mạng cho biên soạn vào năm 1821, gồm hai phần : Đại Nam thực lục tiền biên ghi chép giai đoạn lịch sử từ khi Nguyễn Hoàng vào Nam (1558) đến đời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1777); Đại Nam thực lục chính biên ghi chép Nguyễn Ánh bôn ba tìm cách khôi phục lại quyền lực (1777) đến năm vua Đồng Khánh mất (1889). Đây là bộ tư liệu ghi chép khá đầy đủ về vùng đất An Giang trong các thế kỷ XVII - XIX trên các phương diện kinh tế, chính trị, xã hội. Ngoài ra, Đại Nam thực lục còn khắc hoạ đậm nét về xã hội Việt Nam từ 1858 đến năm 1867, trong đó có vùng đất An Giang. Trong Quốc triều chánh biên toát yếu của Quốc sử quán triều Nguyễn, có đoạn miêu tả công việc đào kênh làm thuỷ lợi, công cuộc khẩn hoang lập đồn điền và sơ lược về sở hữu đất đai của một số làng thuộc vùng đất An Giang trước khi thực dân Pháp chiếm An Giang vào năm 1867. Địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh được lập năm 1836 dưới thời vua Minh Mạng, gồm 484 tập. Trong đó, Địa bạ An Giang có 43 tập bao gồm An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng và một phần tỉnh Đồng Tháp. Đây là tài liệu miêu tả sinh động, chính xác về các đơn vị hành chính, các loại đất đai, tình hình phân bố ruộng đất, thuế, cơ cấu cây trồng và các vấn đề xã hội khác ở tỉnh An Giang trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX. Bộ sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, được biên soạn vào năm Tự Đức thứ 29 (1875) và hoàn thành vào khoảng năm 1881. Trong tập Thượng của bộ sách có nhiều ghi chép về tình hình môi trường tự nhiên, kinh tế An Giang thế kỷ XIX. Đây là tư liệu quý khái quát phần nào bức tranh về tự nhiên, kinh tế An Giang dưới triều Nguyễn. Như vậy, thư tịch cổ viết về kinh tế An Giang khá phong phú, nhưng còn rời rạc và đan xen với nhiều sự kiện khác. Cho đến nay, việc nghiên cứu vùng đất An Giang trong các thế kỷ XVII - XIX nói chung, kinh tế An Giang nói riêng vẫn còn thiếu, rất cần tài liệu nghiên cứu chuyên khảo đề cập một cách hoàn chỉnh, có hệ thống về kinh
- 6 tế An Giang. Do đó, các tư liệu trên vẫn là nguồn chính cho việc tham khảo và đối chiếu trong quá trình nghiên cứu. Trong thời thực dân Pháp cai trị và trở lại xâm lược (1867 - 1954) có một số sách địa phương chí về tỉnh Long Xuyên, tỉnh Châu Đốc do người Pháp biên soạn như: Đặc khảo về tỉnh Châu Đốc (năm 1902), Đặc khảo về tỉnh Long Xuyên (năm 1905), Các tỉnh Nam Kỳ - Long Xuyên (năm 1907), Địa phương chí tỉnh Long Xuyên năm 1953, Địa phương chí tỉnh Châu Đốc năm 1953,... đề cập các mặt hành chính, kinh tế, văn hoá, xã hội. Đồng thời, năm 1941, công trình khai hoang ở An Giang đã được nhắc đến trong bài viết Mảnh sử liệu việc khai hoang ở Nam Kỳ dưới triều Nguyễn của tác giả Tiên Đàm (Báo Tri Tân, số 21). Thời kỳ 1954 - 1975 có nhiều công trình nghiên cứu về Nam Bộ, vùng đất An Giang hoặc có đề cập đến kinh tế An Giang được công bố. Dưới chính quyền Sài Gòn, Ban nghiên cứu Toà hành chính An Giang còn cho biên soạn các quyển địa phương chí như : Địa phương chỉ tỉnh Long Xuyên 1956, Địa phương chí tỉnh Châu Đốc 1956, Địa phương chí An Giang 1959, Địa phương chí An Giang 1961, Địa phương chí An Giang 1963, Địa phương chí tỉnh An Giang 1967, Địa phương chí tỉnh Châu Đốc 1968, Địa phương chí tỉnh An Giang 1973,… đã đề cập một cách tổng quát về lịch sử, danh lam thắng cảnh, điều kiện tự nhiên, hành chính, kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh. Quyển Tân Châu xưa của Nguyễn Văn Kiềm và Huỳnh Minh được biên soạn vào năm 1964 đã đề cập đến một phần đất An Giang. Đây là loại sách chuyên khảo viết về nơi định cư sinh sống sớm nhất của người Việt ở An Giang, sự quản lý của chúa Nguyễn ở vùng đất mới tiếp quản này. Ngoài ra, tác giả còn trình bày diện mạo vùng đất Tân Châu từ 1757 - 1965 qua các mặt kinh tế, địa phận, văn hoá, tín ngưỡng,.... Tác phẩm Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang được viết vào những năm 1970. Tác phẩm này viết về quá trình Nam tiến của dân tộc Việt Nam dưới thời các
- 7 chúa Nguyễn, quá trình xác lập chủ quyền ở vùng đất Nam Bộ, trong đó có đề cập đến tình hình các mặt ở vùng đất An Giang. Thoại Ngọc Hầu và công cuộc khẩn hoang vùng Hậu Giang của Nguyễn Văn Hầu được xuất bản năm 1973. Tác giả viết về công trình đào kênh, mở đường, khẩn hoang lập làng ở An Giang của Thoại Ngọc Hầu vào giai đoạn cuối thời vua Gia Long đầu thời vua Minh Mạng. Quyển Lịch sử khẩn hoang miền Nam của Sơn Nam xuất bản năm 1973, cũng đã cung cấp những tư liệu về cuộc khẩn hoang lập làng ở vùng đất Nam Bộ nói chung, An Giang nói riêng vào thế kỷ XVIII - XIX. Người Chàm Hồi giáo miền Tây Nam phần Việt Nam của Nguyễn Văn Luận xuất bản năm 1973. Tác giả đề cập đến quá trình lịch sử, sinh hoạt kinh tế và đời sống văn hoá - xã hội của người Chăm ở An Giang trước năm 1975. Quyển Người Việt gốc Miên của Lê Hương xuất bản 1969, đã miêu tả sinh động về sinh hoạt xã hội, tôn giáo, văn hoá, giáo dục và kinh tế của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long nói chung, trong đó có sinh hoạt kinh tế của người Khmer An Giang. Ngoài ra, trong tác phẩm Gia Định xưa, nhà văn Sơn Nam đã đề cập đến vấn đề đất đai, thiên nhiên, phong thổ, phong tục, tập quán của vùng đất Nam Bộ và công cuộc khẩn hoang vùng biên giới Tây Nam. Từ sau năm 1975, có nhiều công trình nghiên cứu về đồng bằng sông Cửu Long và An Giang, với những vấn đề sâu hơn. Tác phẩm Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ do Huỳnh Lứa chủ biên, đã góp phần tìm hiểu sâu hơn về quá trình khai phá vùng đất Nam Bộ, trong đó có An Giang. Các tác giả đã khái quát quá trình di chuyển dân cư, khai hoang lập đồn điền, tổ chức sản xuất nông nghiệp, những biến đổi về mặt xã hội, .…
- 8 Quyển Những trang về An Giang của Trần Thanh Phương xuất bản 1984. Đây là quyển sách địa chí, đã đề cập đến thiên nhiên, con người, kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế An Giang trong các thế kỷ XVIII - XX. Trong Lịch sử An Giang của Sơn Nam được xuất bản vào năm 1988, tác giả đã đề cập đến những biến đổi về mọi mặt của vùng đất An Giang từ khi hoà hợp vào lãnh thổ nước ta đến thời Pháp thuộc. Quyển Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Cửu Long của Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường xuất bản năm 1990 đã nghiên cứu về các tộc người đang sinh sống trên mảnh đất Đồng bằng sông Cửu Long. Các tác giả đã đề cập đến mọi mặt trong sinh hoạt về mặt kinh tế - xã hội của cư dân đã từng sinh sống ở vùng đất này. Tác phẩm Về dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long xuất bản năm 1991 đã đề cập khá chi tiết về sinh hoạt kinh tế của các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa đang sinh sống ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, vùng đất An Giang nói riêng. Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh của Nguyễn Đình Đầu được xuất bản năm 1992. Tác phẩm cung cấp những tư liệu quý về quá trình khai hoang lập ấp, chế độ công điền công thổ ở An Giang từ khi lưu dân người Việt có mặt cho đến khi Pháp xâm chiếm vùng này vào năm 1867. Quyển Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX của Huỳnh Lứa xuất bản năm 2000. Tác giả có đề cập đến quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ, khai hoang lập ấp, công cuộc đào kênh, các hoạt động kinh tế ở An Giang trong hai thế kỷ XVIII - XIX. Bên cạnh đó còn có các tác phẩm Đồng bằng sông Cửu Long nghiên cứu và phát triển do Nguyễn Công Bình chủ biên, Nghề nông Nam Bộ của Trần Xuân Kiêm biên soạn năm 1992, Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam của Vũ Minh Giang chủ biên.
- 9 Ngoài ra, các bài viết trong các Kỷ yếu hội thảo khoa học như Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII - XIX do Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, Lịch sử phát triển kinh Vĩnh Tế, Lịch sử hình thành vùng đất An Giang do Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ An Giang và Sở Khoa học Công nghệ Môi trường tỉnh An Giang đã phối hợp với Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh tổ chức,... ; các bài viết trên các báo chuyên ngành được công bố thường xuyên có liên quan đến kinh tế An Giang. Những nội dung vừa được đề cập ở trên chưa có tính hệ thống, chưa có tính liên tục, chưa được đi sâu, trong đó có kinh tế. Nhìn chung, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về đề tài Kinh tế An Giang từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX. Như vậy, chủ đề này vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cho giới nghiên cứu. 4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Nguồn tài liệu Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi nghiêm túc kế thừa không chỉ tư liệu mà cả về lý luận của các công trình đi trước có liên quan đến đề tài. Nguồn tư liệu bao gồm : sách, báo, tạp chí có ở Thư viện Khoa học Xã hội, Thư viện Khoa học Tổng hợp, Thư viện Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện An Giang, Thư viện Cần Thơ. Bên cạnh đó còn có các bản báo cáo, tập địa chí được lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ An Giang, Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang, Cục Thống kê tỉnh An Giang, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II; các luận văn cao học và phó tiến sĩ lưu lại tại Thư viện Khoa học Xã hội, Thư viện Khoa học Tổng hợp. Ngoài ra, chúng tôi còn thu thập tài liệu điền dã để có thêm cơ sở nhận định về kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX.
- 10 4.2. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, tác giả vận dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic : Đây là những phương pháp cơ bản sử dụng trong luận văn. Trong đó, phương pháp lịch sử đóng vai trò chủ đạo. Phương pháp hệ thống hoá : Hệ thống lại những vấn đề được viết tản mạn, rải rác trong các tư liệu và nhiều nguồn tư liệu khác nhau có liên quan đến kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX. Phương pháp hệ thống hoá là cơ sở để trình bày những nội dung trong luận văn. Phương pháp so sánh : Dùng phương pháp này để đối chiếu kinh tế An Giang ở các vùng địa phương trong tỉnh hoặc với các tỉnh khác trong vùng. Phương pháp liên ngành : Trong quá trình thực hiện đề tài, kết hợp chủ yếu các loại tài liệu và kế thừa thành tựu nghiên cứu của các ngành khác nhau như địa lý, kinh tế, thống kê,… Phương pháp khảo sát điền dã : Tác giả luận văn đã tiếp xúc với những người trồng lúa ở Long Kiến, nghề mộc ở Long Điền A (huyện Chợ Mới), nghề dệt ở huyện Tân Châu, nghề gốm ở huyện Tri Tôn, nghề đá ở Núi Sập, nghề sản xuất gạch ngói ở huyện Châu Thành, làm mắm ở thị xã Châu Đốc,… Đồng thời còn thu thập tài liệu điền dã để có thêm cơ sở nhận định về kinh tế An Giang trong bốn thế kỷ đã qua. 5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN Luận văn góp phần hệ thống hoá và làm phong phú khối lượng tư liệu liên quan đến tiến trình phát triển kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX. Nguồn tư liệu này được bổ sung vào tư liệu nghiên cứu kinh tế Nam Bộ nói chung. Luận văn còn đóng góp một số kết luận cụ thể về những thuận lợi và khó khăn của kinh tế An Giang trong bốn thế kỷ đã qua, rút ra những đặc điểm cơ bản kinh tế An
- 11 Giang trong các thế kỷ XVII - XX. Từ đó có những đề xuất và giải pháp nhằm phát triển kinh tế An Giang trong giai đoạn hiện nay. 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Luận văn gồm 207 trang, trong đó phần mở đầu 10 trang, nội dung chính 168 trang, kết luận 10 trang, tài liệu tham khảo 7 trang, phụ lục 12 trang. Luận văn được chia làm 3 chương. Chương 1 : Môi trường tự nhiên - điều kiện cơ bản của diện mạo kinh tế An Giang. Chương 2 : Diện mạo kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX. Chương 3 : Cư dân An Giang - chủ thể làm nên diện mạo kinh tế An Giang.
- 12 Chương 1 : MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN - ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN CỦA DIỆN MẠO KINH TẾ AN GIANG 1.1. Vị trí, địa hình 1.1.1. Vị trí An Giang là một tỉnh ở miền Tây Nam Bộ thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, nằm giữa sông Tiền, sông Hậu và có một phần diện tích nằm trong vùng Tứ giác Long Xuyên. Mặt khác, An Giang còn là một tỉnh biên giới vừa có đồng bằng, vừa có đồi núi, có nhiều tôn giáo và thành phần dân tộc Việt, Khmer, Hoa, Chăm sinh sống. Tỉnh An Giang có diện tích tự nhiên là 3.406,23 km2, dân số năm 2006 là 2.218.403 người [10, tr.19], đứng đầu các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long và đứng thứ 6 trên tổng số 64 tỉnh, thành phố. Tỉnh An Giang có 11 huyện, thị, thành phố trực thuộc gồm thành phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc và các huyện Châu Thành, Châu Phú, Thoại Sơn, Tri Tôn, Tịnh Biên, An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới; với 154 xã, phường, thị trấn. Phía bắc và tây bắc giáp Vương quốc Campuchia với đường biên giới dài 104 km, phía đông giáp với tỉnh Đồng Tháp 107,628 km, phía nam và đông nam giáp với thành phố Cần Thơ 44,734 km, phía tây nam giáp với tỉnh Kiên Giang 69,789 km. Chiều dài nhất của tỉnh An Giang theo hướng Bắc - Nam là 86 km và hướng Đông - Tây là 87,2 km, nơi hẹp nhất ở phía bắc là 20 km. Là tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long, nằm liền kề với thành phố Cần Thơ, cách Thành phố Hồ Chí Minh 190 km. An Giang có hệ thống giao thông thuỷ bộ rất thuận lợi. Quốc lộ 91 nối liền với quốc lộ 2 của Vương quốc Campuchia qua cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên (huyện Tịnh Biên); Tỉnh lộ 956 với Campuchia qua cửa khẩu quốc tế
- 13 Khánh Bình (huyện An Phú); sông Hậu, sông Tiền và mạng lưới kênh rạch là những tuyến giao thông thủy quốc tế quan trọng nối tỉnh An Giang với các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long và Campuchia qua cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương (huyện Tân Châu). Đây là điều kiện thuận lợi để An Giang phát triển và hội nhập kinh tế với các tỉnh trong khu vực, với nước ngoài, nhất là khu vực Đông Nam Á. 1.1.2. Địa hình An Giang có địa hình thấp dần từ biên giới Việt Nam - Campuchia xuống đến lộ Cái Sắn và từ bờ sông Tiền qua đến giáp ranh tỉnh Kiên Giang. An Giang có 2 dạng địa hình chính là đồng bằng và đồi núi. Địa hình đồng bằng chiếm 87% diện tích tự nhiên của tỉnh, có 2 loại chính đồng bằng phù sa và đồng bằng ven núi. Đồng bằng phù sa là do phù sa sông Tiền và sông Hậu bồi đắp hàng năm, rất bằng phẳng và có nhiều dạng. Dạng cồn bãi (còn gọi là cù lao), ở giữa cao và thấp dần sang hai bên như “cù lao Mỹ Hoà Hưng, cù lao Tiên, cồn Phó Ba (thành phố Long Xuyên), Bà Hoà (huyện Châu Thành), Bình Thuỷ, Khánh Hoà (huyện Châu Phú), Vĩnh Trường (huyện An Phú) trên sông Hậu; và cù lao Giêng (huyện Chợ Mới), cù lao Tây, cù lao Ma, Cái Vừng (huyện Tân Châu) trên sông Tiền” [79, tr.104]. Dạng lòng chảo, địa hình ở hai bên bờ sông cao hơn, thấp dần vào trong đồng ruộng, đó là khu vực giữa sông Tiền và sông Hậu, rõ nét nhất là huyện Phú Tân, vì nơi đây có ba mặt sông bao bọc. Dạng hơi nghiêng, ở phía hữu ngạn sông Hậu thuộc vùng trũng Tứ giác Long Xuyên, địa hình cao ở gần bờ sông Hậu rồi thấp dần vào trong đồng ruộng cho đến tận ranh giới tỉnh Kiên Giang. Dạng gợn sóng là một dạng phụ nằm trong khu vực dạng lòng chảo, được hình thành do sự kết nối đan xen các bãi bồi ven các sông nhánh và các rạch tự nhiên đã bị phù sa sông bồi lấp, tập trung chủ yếu ở cù lao Vĩnh Trường (huyện An Phú), các xã Vĩnh Hòa và Vĩnh Xương của huyện Tân Châu.
- 14 Đồng bằng phù sa ở An Giang ngày nay có nhiều thay đổi so với cách đây hơn 200 năm, những cánh đồng tràm mênh mông với vô số đàn ong xây tổ làm mật, những cánh đồng um tùm, đầy lau sậy hoang vu xưa kia, nay đã được khai thác hết để trồng lúa và cây hoa màu, cây ăn quả và cây công nghiệp ngắn ngày, từ một vụ đến hai, ba vụ mỗi năm. Đồng bằng còn bị chia cắt bởi hệ thống kênh đào, các tuyến giao thông đường bộ và các khu dân cư tập trung đông đúc. Đồng bằng ven núi tập trung chủ yếu quanh các chân núi ở 2 huyện Tri Tôn, Tịnh Biên. Dạng đồng bằng này có nhiều bậc thang ở những độ cao khác nhau, nhưng ở mỗi bậc thang thì khá bằng phẳng, không có độ nghiêng; chênh lệch độ cao giữa các bậc thang không lớn. Cách đây hơn 200 năm, trên những cánh đồng này là những thảm thực vật phủ xanh với nhiều chủng loài. Nhưng ngày nay được khai phá hết để trồng lúa, hoa màu và cây ăn quả, dẫn đến nguy cơ bị xói mòn dần và sa mạc hóa, đòi hỏi việc đa dạng hóa cây trồng, nhất là cây ăn quả. Địa hình đồi núi thấp chiếm 13% diện tích tự nhiên, tập trung chủ yếu ở 3 huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và Thoại Sơn; có hàng chục ngọn núi khá lớn, nhỏ, cao, thấp khác nhau. Đồi núi An Giang chia làm 2 dạng chính : dạng núi cao và dốc, dạng núi thấp và thoải. Dạng núi cao và dốc như núi Cấm, núi Cô Tô, núi Dài,… Dạng núi thấp và thoải, phần lớn các núi thấp nằm liền hoặc nằm kề các núi lớn như núi Nam Qui, Sà Lon, núi Đất,… Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức viết trước năm 1820 ghi chép về đồi núi ở An Giang gồm 19 núi, đó là : núi Thụy Sơn, núi Bảo Sơn (thuộc cụm núi Sập huyện Thoại sơn ngày nay), núi Ba Thê, núi Tà Chiếu, núi Trà Nghinh (thuộc cụm núi Ba Thê huyện Thoại Sơn ngày nay), núi Tượng Sơn, núi Cà Âm, núi Nam Sư, núi Khê Lạp, núi Toái Sơn, núi Tà Biệt, núi Ba Xui, núi Ngật Sum, núi Nam Vi, núi Đài Tốn, núi Chân Sum, núi Sâm Đăng, núi Đại Bà Đê và núi Tiểu Bà Đê (phần lớn các núi này nằm trên địa bàn 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên ngày nay [17, tr.49-52]. Tuy nhiên, sách Đại Nam nhất thống chí biên soạn hoàn thành vào năm 1882 đã đề cập
- 15 đến danh từ Thất Sơn, Bảy Núi và ghi bổ sung thêm 4 núi là Tô Sơn, Ốc Nhẫm, Tà Biệt và Nhân Hòa. Ngoài núi Sập, núi Ba Thê (huyện Thoại Sơn), núi Sam (thị xã Châu Đốc), An Giang còn có một dãy núi nằm nối đuôi nhau chạy dài giáp vùng biên giới Việt Nam - Campuchia, gọi là Bảy Núi hoặc Thất Sơn, với 7 núi chính : núi Nước (Thủy Đài Sơn), núi Cô Tô (Phụng Hoàng Sơn), núi Két (Anh Vũ Sơn), núi Dài (Ngọa Long Sơn), núi Cấm (Thiên Cấm Sơn), núi Tượng (Liên Hoa Sơn), núi Năm Giếng (Ngũ Hồ Sơn). Trong đó, một số núi khá lớn như núi Dài, núi Cô Tô có độ cao trên 500 mét và núi có đỉnh cao nhất là núi Cấm (Thiên Cấm Sơn) 705 mét. Theo Gia định thành thông chí, đồi núi An Giang được mô tả : “Vách dốc ngậm mây, suối cong tắm ngọc, có những thứ giáng hương, tốc hương; cây cối um tùm, chim muông béo tốt” [17, tr.50]. Còn Đại Nam nhất thống chí ghi lại núi Sập : “Cách sông Thụy Hà 18 dặm rưỡi về phía tây, cao 30 trượng, chu vi 3 dặm, ba ngọn núi chồng chất, cây cối xanh um, cấm chặt cây” [60, tr.195]; hay núi Nam Vi “ ở cách huyện Hà Dương 8 dặm về phía tây nam, cao 30 trượng, chu vi hơn 8 dặm, cây cối um tùm, cấm chặt cây, khe sâu cỏ rậm, rất nhiều hươu nai hổ báo” [60, tr.196]. Theo Địa chí An Giang (năm 2000), tỉnh An Giang có 37 núi : TT Tên núi Độ cao Chu vi Vị trí núi (mét) (mét) (xã, huyện) 1 Núi Sập 85 3800 Thị trấn Núi Sập, Thoại Sơn 2 Núi Nhỏ 76 2200 Thị trấn Núi Sập, Thoại Sơn 3 Núi Bà 55 280 Thị trấn Núi Sập, Thoại Sơn 4 Núi Cậu 34 240 Thị trấn Núi Sập, Thoại Sơn 5 Núi Ba Thê 221 4220 Thị trấn Óc Eo, Thoại Sơn 6 Núi Nhỏ 63 700 Thị trấn Óc Eo, Thoại Sơn 7 Núi Tượng 60 970 Xã Vọng Đông, Thoại Sơn 8 Núi Trọi 21 400 Xã Vọng Đông, Thoại Sơn
- 16 9 Núi Chóc 19 550 Xã Vọng Đông, Thoại Sơn 10 Núi Nổi 10 320 Xã Phú Hữu, huyện An Phú 11 Núi Sam (Học Lãnh Sơn) 228 5200 Núi Sam, thị xã Châu Đốc 12 Phú Cường (Bạch Hổ Sơn) 282 9500 An Nông, huyện Tịnh Biên 13 Núi Dài (Ngũ Hồ Sơn) 265 8751 An Phú, huyện Tịnh Biên 14 Núi Két (Anh Vũ Sơn) 266 5250 Thới Sơn, huyện Tịnh Biên 15 Núi Rô 149 2250 An Cư, huyện Tịnh Biên 16 Núi Trà Sư (Kỳ Lân Sơn) 146 1750 Nhà Bàng, huyện Tịnh Biên 17 Núi Bà Vải 146 1400 Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên 18 Núi Đất Lớn 120 2120 Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên 19 Núi Bà Đắt 103 1075 Văn Giáo, huyện Tịnh Biên 20 Núi Cậu 100 1900 Thị trấn Tịnh Biên, Tịnh Biên 21 Núi Đất Nhỏ 80 450 Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên 22 Núi Mo Tấu 80 270 Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên 23 Núi Chùa 60 380 Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên 24 Núi Tà Nung 59 1450 Thị trấn Tịnh Biên, Tịnh Biên 25 Núi Cấm (Thiên Cấm Sơn) 705 28600 An Hảo, huyện Tịnh Biên 26 Núi Bà Đội 261 6075 Tân Lợi, huyện Tịnh Biên 27 Núi Nam Qui 213 8875 Châu Lăng, huyện Tri Tôn 28 Núi Bà Khẹt 129 1380 Chi Lăng, huyện Tịnh Biên 29 Núi Tà Lọt 69 870 Châu Lăng, huyện Tri Tôn 30 Núi Ba Xoài 58 550 An Cư, huyện Tịnh Biên 31 Núi Cà Lanh 41 1225 An Hảo, huyện Tịnh Biên 32 Núi Dài (Ngọa Long Sơn) 554 21625 Lê Trì, huyện Tri Tôn 33 Núi Tượng (Liên Hoa Sơn) 145 3825 Ba Chúc, huyện Tri Tôn 34 Núi Sà Lon 102 2325 Lương Phi, huyện Tri Tôn 35 Núi Nước (Thủy Đài Sơn) 54 1070 Ba Chúc, huyện Tri Tôn 36 Núi Cô Tô (Phụng Hoàng Sơn) 614 14375 Cô Tô, huyện Tri Tôn
- 17 37 Núi Tà Pạ 102 10225 An Tức, huyện Tri Tôn Nguồn : [79, tr.107] Tóm lại, do môi trường sinh thái có nhiều biến đổi hơn 200 năm qua, từ chỗ rừng rậm rạp, khe suối có nhiều nước đến chỗ rừng cạn kiệt và các khe suối khô như hiện nay, địa hình đồi núi ở An Giang có nhiều thay đổi. Các hoạt động khai thác đá xây dựng trong suốt nhiều năm qua ở núi Sam, núi Sập, núi Cô Tô,…. đã khoét sâu vào chân núi, sườn núi, làm cho hình dạng của các núi này thay đổi, mất vẻ đẹp tự nhiên và tác động xấu đến môi trường xung quanh. Những năm gần đây, An Giang có nhiều biện pháp tích cực để khắc phục thực trạng trên bằng cách đình chỉ mọi hoạt động khai thác đá, cát tại núi Sam, núi Sập; trồng cây gây rừng trên các đồi núi, xây dựng các hồ chứa nước,… trên vùng đồi núi Tri Tôn và Tịnh Biên. Khác với các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long, An Giang là tỉnh không chỉ có địa hình đồng bằng mà còn có đồi núi. Địa hình đồng bằng tương đối bằng phẳng, do phù sa bồi đắp hàng năm. Đất ở đây rất thích hợp cho việc trồng lúa và hoa màu. Còn đất ở địa hình đồi núi thì thích hợp với việc trồng cây ăn quả và trồng rừng. Ngoài ra, đồi núi An Giang không chỉ là thắng cảnh đẹp mà còn là nguồn tài nguyên lớn về khoáng sản, cây công nghiệp, là nơi có nhiều loại cây thuốc quí. Đá núi Sập, núi Sam, núi Cô Tô,… được dùng trong xây dựng và dụng cụ gia đình trong và ngoài tỉnh. Địa hình đồi núi An Giang còn là bức tường thành chống giặc ngoại xâm, bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc. 1.2. Sông, rạch, kênh và hồ 1.2.1. Sông An Giang là một trong hai tỉnh đầu nguồn sông Mê Kông. Sông Mê Kông bắt nguồn từ Tây Tạng (Trung Quốc), chảy theo hướng nam qua các nước Trung Quốc, Myanma, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Khi vào địa phận nước ta, sông Mê
- 18 Kông chia làm hai nhánh : nhánh ở phía đông gọi là sông Tiền và nhánh ở phía tây gọi là sông Hậu. Sông Tiền chảy qua Tân Châu, Sa Đéc, Vĩnh Long và đổ ra Biển Đông bằng 6 cửa : Cửa Tiểu, Cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, Cung Hầu. Đoạn chảy qua địa phận tỉnh An Giang dài khoảng 80 km, chiều rộng phía trên Vàm Nao lớn hơn 1.000 mét và phía dưới Vàm Nao từ 800 - 1.100 mét [74, tr.15]; độ sâu trung bình khoảng 20 mét và có nơi sâu khoảng 45 mét như tại khu vực thị trấn Tân Châu. Trịnh Hoài Đức đã ghi lại lợi ích của sông này : “…nước ngọt rưới nhuần bừa ruộng mạ, được thóc kể cả trăm lần…; ngòi rạch thì đầy rẫy cá tôm cua lươn, nhà tự đi bắt lấy để ăn” [17, tr.52]. Ngày nay, sông Tiền còn là ranh giới của 2 tỉnh An Giang, Đồng Tháp. Sông Tiền là trục giao thông thuỷ quan trọng, tàu thuỷ có thể chạy từ thành phố Hồ Chí Minh trên tuyến sông này lên đến Phnôm Pênh và ngược lại; là nguồn cung cấp nước tưới và phù sa cho các cánh đồng ở huyện Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới. Bên cạnh đó, sông Tiên còn có nhiệm vụ tải lũ và cung cấp nguồn thuỷ sản lớn cho tỉnh An Giang. Sông Hậu chảy song song với sông Tiền qua Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ và đổ ra Biển Đông bằng 3 cửa là Định An, Bát Xắc, Tranh Đề. Đoạn chảy qua tỉnh An Giang dài gần 101 km, trong đó chảy qua hai trung tâm đô thị lớn của tỉnh : thành phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc; chiều rộng phía trên sông Vàm Nao từ 500 - 900 mét, còn phía dưới Vàm Nao từ 800 - 1.200 mét; độ sâu trung bình khoảng 13 mét và có nơi sâu khoảng 45 mét như tại khu vực cửa đổ vào sông Vàm Nao. Sông Hậu là trục giao thông thuỷ xuyên suốt trung tâm của tỉnh từ thượng nguồn về hạ lưu; là nguồn cung cấp nước tưới, phù sa hầu hết đất đai sản xuất ở vùng trũng bờ tây sông Hậu (vùng Tứ giác Long Xuyên) bằng hệ thống kênh mương. Bên cạnh đó, sông Hậu còn cung cấp nguồn thuỷ sản chủ yếu của tỉnh An Giang. Sông Vàm Nao là con sông nối liền giữa sông Tiền và sông Hậu, chảy ven giữa thị trấn Phú Mỹ, xã Tân Hòa (huyện Phú Tân) và xã Kiến An, Mỹ Hội Đông (huyện Chợ Mới). Trước kia, người Việt gọi là kênh Vàm Nao bởi “còn hẹp, cạn, bãi
- 19 bùn. Hai bên bờ cây cối um tùm, cảnh vật sầm uất tối tăm, không ngớt vang lên những âm thanh rừng rú… Bây giờ những ngọn cây tre rừng hay những cành cây lớn hai bên bờ sông giao tiếp nhau, người có thể leo lên đu qua được. Lòng sông không sâu, rong, cỏ, nhất là lục bình từ thượng nguồn đổ xuống tấp vào, cá tôm theo đó dựa vào đây sinh sống. Do đó các loài cá lớn như cá sấu, cá mập, cá đao, rắn,… nom theo bắt mồi” [27, tr.18]. Vào đầu thế kỷ XIX, sách Gia Định thành thông chí ghi về con sông này : “Cửa trên ở phía nam sông Tiền Giang rộng 8 tầm, sâu 2 tầm, chảy về phía nam 75 dặm rưỡi, đến cửa dưới hợp với sông Hậu, bờ tây có sở thủ ngự, ven sông dân Kinh khai khẩn ruộng vườn, rừng rậm ở phía sau là sóc, sách của dân Cao Mên” [17, tr.57]. Trải qua thời gian, bờ dưới, phía Chợ Mới bị nước từ thượng lưu chảy xuống mạnh (nhất là mùa lũ) làm cho đất đứt chân, lở sụp từng mảng lớn. Mặt khác, nước tràn ồ sang hữu ngạn thành những con sóng khổng lồ, nước chảy xiết và xoáy cuộn tròn đã làm đánh đắm nhiều thuyền bè qua lại nơi đây. Cứ lâu ngày, đất càng bị sụp lở nhiều hơn, sông rộng lớn ra, từ đó “kinh Vàm Nao” được người ta gọi là “sông Vàm Nao”. Ngày nay, sông Vàm Nao rộng lớn rất nhiều so với thế kỷ XVIII, chiều dài của sông trên 6 km, rộng khoảng 700 mét, sâu khoảng 17 mét, có tác dụng làm cân bằng dòng chảy giữa sông Tiền và sông Hậu đoạn dưới Vàm Nao. Nhờ vậy, sông Vàm Nao hiền hoà hơn xưa, tàu bè tấp nập qua lại suốt ngày đêm, dưới sông không còn cá sấu; dọc hai bên bờ sông dân cư đông đúc, các cánh đồng lúa và vườn cây ăn quả quanh năm tươi tốt. Sông Bình Di và sông Châu Đốc, tại thị trấn Long Bình (huyện An Phú), sông Hậu chia hai nhánh, nhánh hữu hẹp hơn gọi là sông Bình Di dài 10 km. Sông Bình Di chảy đến Vĩnh Hội Đông rồi gặp sông Tà Keo và sông Châu Đốc. Từ ngã ba này, sông Châu Đốc chảy dài cho đến thị xã Châu Đốc thì hội tụ với sông Hậu, dài 18 km, rộng bình quân 150 mét, sâu trung bình 7 mét (có chỗ sâu 25 mét). Những con sông trên đóng vai trò rất quan trọng đối với đời sống kinh tế của nhân dân An Giang trong các thế kỷ qua, nhất là cung cấp nước ngọt cho sản xuất nông
- 20 nghiệp, thức ăn cá, tôm, cua, ốc,… và điều hoà khí hậu. Đồng thời, nó có một vị trí quan trọng trong hệ thống giao thông đường thuỷ, tạo mối giao lưu văn hoá giữa các vùng trong và ngoài vùng đất An Giang. Mặt khác, chế độ thủy văn ở An Giang phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ nước sông Mê Kông, hằng năm đều phải ngập lụt 1 - 2,5 mét. Đây là trở ngại lớn, ảnh hưởng rất lớn quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng đất An Giang. 1.2.2. Rạch Bên cạnh các con sông lớn, trên địa bàn An Giang còn có một hệ thống rạch tự nhiên. Theo Địa chí An Giang ghi : “Trải qua thời gian dài, một số rạch bị phù sa sông Tiền và sông Hậu chảy vào bồi đắp lâu ngày thành ruộng, một số được con người đào cải tạo thành các con kênh thẳng, nên số còn lại hiện nay không nhiều. Những rạch lớn ở An Giang hiện có là Mương Khai, Cái Đầm, Cái Tắc (huyện Phú Tân), Ông Chưởng, Cái Tàu Thượng (huyện Chợ Mới), rạch Long Xuyên (thành phố Long Xuyên), Chắc Cà Đao, Mặc Cần Dưng (Châu Thành) và rạch Cần Thảo (Châu Phú)” [79, tr.115]. Rạch Ông Chưởng có hình uốn khúc như một con rồng, là con rạch góp phần điều tiết nước từ sông Tiền chảy qua sông Hậu. Năm 1700, khi quan quân đóng tại Chợ Mới ngày nay, Nguyễn Hữu Cảnh quyết định: “Cho quân sĩ vét sâu, khơi rộng thêm nhánh sông Tiền rẽ ngang xuống sông Hậu, từ vàm Thủ Ngự Hùng Sai đến vàm Cái Hố” (tức rạch Ông Chưởng ngày nay) [25, tr.106]. Sông sâu, lòng rộng thuyền bè đi lại dễ dàng, nhất là dòng nước ngọt quý giá cho con người và trồng trọt. Theo Gia Định thành thông chí, sở dĩ rạch có tên Ông Chưởng là do “…phía tây bờ sông ở cửa trên có miếu thờ Khâm sai Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Công (tức Nguyễn Hữu Cảnh), đó là để dân cư nhớ ơn ông là người đầu dẹp nước Cao Mên để mở mang đất ấy mà làm miếu để thờ,…; lấy tên ông để đặt tên sông, là muốn cho người đời nghĩ đến công ơn ông mà không quên được” [17, tr.57].
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong nền nghệ thuật cổ Champa
97 p | 241 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố địa - chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau chiến tranh lạnh đến nay (12/1989 - 5/2008)
144 p | 250 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong lịch sử
130 p | 181 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa của vùng đất Nam kỳ với phương Tây đến đầu thế kỉ XX
167 p | 204 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867
216 p | 151 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử kênh đào Nam bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
69 p | 173 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam
125 p | 153 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thực trạng đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 đến nay
101 p | 188 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên (Thế kỷ XVII - XIX)
132 p | 153 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất Hà Tiên thế kỷ XVIII - XIX
164 p | 154 | 35
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang
108 p | 211 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản từ năm 1868 đến năm 1912
144 p | 153 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)
113 p | 177 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Melayu trong văn hóa Chăm - Quá trình định hình và phát triển
118 p | 138 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010 - Huỳnh Thị Thấm
141 p | 181 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Đức quốc xã trước chiến tranh thế giới thứ hai (1933 - 1939)
144 p | 138 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế du lịch huyện Sóc Sơn, Hà Nội (1986-2016)
98 p | 69 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế - Xã hội Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn (1802-1885)
101 p | 18 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn