intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Diện mạo văn hóa - xã hội của vùng đất Bến Tre trong các thế kỷ XVII - XX

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:210

90
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn tham khảo luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Diện mạo văn hóa - xã hội của vùng đất Bến Tre trong các thế kỷ XVII - XX sau đây để nắm bắt được những nội dung về điều kiện tự nhiên của vùng đất Bến Tre; diện mạo văn hóa – xã hội của vùng đất Bến Tre trong các thế kỷ XVII - XX; con người Bến Tre.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Diện mạo văn hóa - xã hội của vùng đất Bến Tre trong các thế kỷ XVII - XX

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH -------------------------- NGÔ VĂN ĐỨC DIỆN MẠO VĂN HÓA - XÃ HỘI CỦA VÙNG ĐẤT BẾN TRE TRONG CÁC THẾ KỶ XVII - XX LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH -------------------------- NGÔ VĂN ĐỨC DIỆN MẠO VĂN HÓA - XÃ HỘI CỦA VÙNG ĐẤT BẾN TRE TRONG CÁC THẾ KỶ XVII - XX Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẨN KHOA HỌC TS. TRẦN THỊ THANH THANH Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
  3. MỤC LỤC trang Mục lục MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA VÙNG ĐẤT BẾN TRE .........................9 1.1. Vị trí địa lý ...............................................................................................9 1.2. Quá trình kiến tạo, bồi đắp vùng đất Bến Tre ........................................10 1.3. Địa hình ..................................................................................................11 1.4. Thổ nhưỡng ............................................................................................14 1.5. Khí hậu ...................................................................................................17 1.6. Sông ngòi ...............................................................................................19 1.7. Thủy văn ................................................................................................21 1.8. Thực vật .................................................................................................23 1.9. Động vật .................................................................................................27 Chương 2. DIỆN MẠO VĂN HÓA – XÃ HỘI CỦA VÙNG ĐẤT BẾN TRE TRONG CÁC THẾ KỶ XVII – XX .................................................33 2.1. Đời sống xã hội ......................................................................................33 2.2. Đời sống vật chất ...................................................................................45 2.2.1. Sinh hoạt kinh tế ......................................................................45 2.2.2. Cách ăn uống, trang phục, nhà ở, đường sá và phương tiện đi lại ..............................................................................66 2.3. Đời sống tinh thần .................................................................................86 2. 3.1. Phong tục tập quán ..................................................................86 2.3.2. Tín ngưỡng – Tôn giáo ............................................................94 2.3.3. Giáo dục ................................................................................113 2.3.4. Văn học ..................................................................................121
  4. Chương 3. CON NGƯỜI BẾN TRE ......................................................................138 3.1. Con người Bến Tre trong đấu tranh với thiên nhiên ............................138 3.2. Đấu tranh với xã hội .............................................................................147 3.3. Đặc điểm tính cách của con người Bến Tre .........................................168 KẾT LUẬN ............................................................................................................176 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................188 PHỤ LỤC ...............................................................................................................195
  5. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Từ lâu, Bến Tre được nhiều người biết đến không chỉ với cái tên “xứ dừa”, mà còn là vùng đất anh hùng, nơi tôi may mắn được sinh ra và lớn lên. Tôi nhận thức được rằng, việc tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề về lịch sử của vùng đất này là trách nhiệm của bản thân. Bến Tre là một bộ phận của vùng đất Nam Bộ. Nam Bộ là vùng đất mới, vùng đất có nhiều đóng góp quan trọng đối với lịch sử dân tộc trên nhiều phương diện, trong đó có phương diện văn hóa. Sống trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, tự nhiên khác nhau, cư dân mỗi vùng, miền, mỗi địa phương có những biểu hiện đặc thù về phẩm chất, tính cách, có cả những mặt tích cực và hạn chế. Nghiên cứu những nét đặc thù về văn hóa, những truyền thống, phẩm chất, tính cách tốt đẹp của con người Bến Tre để phát huy những mặt tích cực, khắc phục những mặt yếu kém, hạn chế ở hiện tại và tương lai là việc làm hết sức cần thiết. Trong bài viết “Nghiên cứu lịch sử địa phương ở Nam Bộ” in trong tập sách Nam Bộ đất và người, Tiến sĩ Lê Hữu Phước cho rằng: “trong nhiều công trình lịch sử địa phương đã có (kể cả những tập địa chí), trong khi phần lịch sử đấu tranh được khắc họa đậm nét, thì những nội dung về lịch sử xây dựng, kinh tế – văn hóa – xã hội lại chưa được thể hiện tương xứng” [57, tr.145]. Tìm hiểu những vấn đề về văn hóa – xã hội của vùng đất Nam Bộ nói chung, từng địa phương trong vùng đất Nam Bộ nói riêng vẫn đang là vấn đề đặt ra đối với người nghiên cứu lịch sử. Với những lý do như trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu của luận văn là “Diện mạo văn hóa – xã hội của vùng đất Bến Tre trong các thế kỷ XVII – XX”. Việc nghiên cứu đề tài còn có ý nghĩa góp thêm cơ sở khoa học để lãnh đạo Tỉnh hoạch định chính sách văn hóa – xã hội cho tỉnh nhà, trong bối cảnh Đảng và Nhà nước đang chủ trương xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, không chỉ ở cấp vĩ mô, toàn quốc mà cụ thể ở cấp vùng, cấp địa phương.
  6. Chúng ta biết rằng, tình yêu đất nước bắt nguồn từ tình yêu quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi gắn bó với cuộc đời của mỗi con người ngay từ thời thơ ấu. Trang bị tri thức lịch sử địa phương để qua đó bồi dưỡng, giáo dục lòng yêu nước, yêu quê hương cho thế hệ trẻ, vì thế, hết sức cần thiết. Qua nghiên cứu đề tài, tôi hy vọng sẽ mở rộng hiểu biết của mình về lịch sử địa phương, sử dụng kết quả nghiên cứu phục vụ cho việc giảng dạy lịch sử địa phương cho học sinh. Việc nghiên cứu diện mạo văn hóa – xã hội của vùng đất Bến Tre, ở một mức độ nhất định, còn là việc làm nhằm góp thêm tư liệu để nghiên cứu diện mạo văn hóa – xã hội vùng đất Nam Bộ. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU “Diện mạo văn hóa – xã hội” được hiểu là bức tranh văn hóa – xã hội được phản ánh qua tư liệu lịch sử. Văn hóa là hệ thống những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã sáng tạo ra trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên và xã hội. Văn hóa là một mảng của đời sống xã hội, gắn bó hữu cơ với tổ chức cuộc sống của cộng đồng cư dân. Văn hoá vừa là sản phẩm mà một cộng đồng dân cư tạo ra, vừa là nhân tố tác động đến hoạt động của cộng đồng dân cư. Vùng đất Bến Tre là một bộ phận của Nam Bộ, mà Nam Bộ là một phần không thể tách rời của Việt Nam. Lịch sử khai phá, xây dựng và phát triển của vùng đất Bến Tre với những diễn biến phức tạp về chính trị, xã hội, văn hóa nằm trong bối cảnh chung của vùng đất Nam Bộ và chịu chung sự chi phối của bối cảnh cả nước. Do vậy, nghiên cứu diện mạo văn hóa – xã hội Bến Tre từ thế kỉ XVII – XX không thể tách rời diện mạo văn hóa – xã hội Nam Bộ cũng như diện mạo văn hóa – xã hội Việt Nam trong giai đoạn này. Trên quan điểm như thế, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định là:
  7. - Những yếu tố tác động đến diện mạo văn hóa và mối quan hệ giữa các yếu tố đó như: điều kiện tự nhiên, cư dân, con người trong đấu tranh với thiên nhiên, trong đấu tranh xã hội, … tại vùng đất Bến Tre vào các thế kỉ XVII - XX, trong bối cảnh của khu vực Nam Bộ và cả nước. - Những mảng, những lĩnh vực cụ thể của đời sống vật chất, đời sống tinh thần, đời sống xã hội của cư dân sống trên vùng đất Bến Tre. - Không gian nghiên cứu diện mạo văn hóa – xã hội là vùng đất Bến Tre, bao gồm cả những nơi trước đây không thuộc Bến Tre, nhưng hiện nay nằm trong địa phận Bến Tre. Thời gian nghiên cứu được xác định trong khoảng các thế kỷ XVII – XX, tức là từ khi có người Việt, người Hoa đến khai phá vùng đất Bến Tre cho đến thời điểm kết thúc một kỷ nguyên (năm 2000), mở ra một kỷ nguyên mới. 3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Các công trình sưu tầm, nghiên cứu về diện mạo văn hóa - xã hội của Bến Tre, có ba dạng: thứ nhất là những công trình có đề cập hoặc ít, hoặc nhiều tới Bến Tre trong đồng bằng sông Cửu Long; thứ hai là các công trình chung về tỉnh, trong đó có đề cập phần nào về diện mạo văn hóa – xã hội; thứ ba là những công trình nghiên cứu một mảng nào đó của diện mạo văn hóa – xã hội vùng đất Bến Tre. Ở dạng thứ nhất, có các công trình tiêu biểu, nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến văn hóa khu vực đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có Bến Tre (những yếu tố tác động đến văn hóa, những vấn đề về văn hóa – xã hội): - Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn được viết khoảng năm 1776, khi ông giữ chức Hiệp trấn tham vấn quân cơ ở Thuận Hóa. Đây là tập bút ký, cung cấp nhiều sử liệu quý về vùng đất phương nam như cảnh quan, tài nguyên, dân cư, chế độ ruộng đất, thuế khóa, binh chế… Từ thế kỷ XVIII trở về trước, vùng đất Bến Tre được đề cập trong Phủ biên tạp lục với tên gọi chung là vùng sông Tiền. - Tác phẩm Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức viết dưới thời vua Gia Long đề cập đến nhiều mặt như vị trí, giới hạn, tên các phủ, huyện, tổng, xã, thôn, phong tục, tín ngưỡng, quần áo, nhà cửa, hội hè,… của vùng đất Gia Định nói chung, trong đó có Bến Tre.
  8. - Nhà văn Sơn Nam nghiên cứu Nam Bộ dưới nhiều góc độ, như tên gọi của các công trình nghiên cứu: Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Đất Gia Định xưa, Nói về miền Nam - Cá tính miền Nam – Thuần phong mỹ tục Việt Nam, Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam, Đồng bằng sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa và Văn minh miệt vườn. - Toan Ánh trong các công trình nghiên cứu về Nếp cũ – Con người Việt Nam, Tín ngưỡng Việt Nam, khi đề cập đến diện mạo một số mặt văn hóa cả nước nói chung, Nam Bộ nói riêng, tác giả có đề cập đến một số hiện tượng văn hóa Bến Tre. Sau năm 1975, nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa Nam Bộ, trong đó có văn hóa Bến Tre, tiêu biểu như: Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường với Văn hóa và cư dân Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 1990; Huỳnh Lứa với Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 2000; Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh với Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 1992; Hồ Bá Thâm -Văn hóa Nam Bộ vấn đề và phát triển, Nxb Văn hóa Thông tin xuất bản năm 2003; Nguyễn Phương Thảo với Huyền thoại miệt vườn, Nxb Văn hóa Thông tin xuất bản 1994, Văn hóa dân gian Nam Bộ những phác thảo, Nxb Giáo dục xuất bản năm 1994; Trần Hồng Liên với Phật giáo ở Nam Bộ từ thế kỉ 17 đến 1945, Nxb TP. Hồ Chí Minh xuất bản năm 1996; Viện tôn giáo với công trình Bước đầu tìm hiểu Đạo Cao Đài (công trình của nhiều tác giả, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 1995); Lê Anh Dũng với công trình Lịch sử Đạo Cao đài thời kỳ tiềm ẩn 1920 – 1926, Nxb Thuận Hóa xuất bản năm 1996… Ở dạng thứ hai, diện mạo văn hóa – xã hội của Bến Tre được đề cập phần nào đó trong các công trình nghiên cứu nhiều mặt về tỉnh, tiêu biểu là: - Cuốn Monographie de la province de Bến Tre (Địa phương chí tỉnh Bến Tre) do người Pháp công bố năm 1930, trình bày khá hệ thống về vị trí địa lý, tự nhiên, sông ngòi, khí hậu, thủy lợi, tình hình kinh tế, cây trồng… nhưng nhìn chung còn sơ lược.
  9. - Tác giả Huỳnh Minh, trong nhiều sách khảo cứu các tỉnh, thành ở Nam Bộ được xuất bản vào những năm 60, đã đề cập vùng đất Bến Tre trong “Vĩnh Long xưa”, “Định Tường xưa”, “Kiến Hòa (Bến Tre) xưa”. Các tập sách này đã phác họa vùng đất Bến Tre qua một số chi tiết về lịch sử, địa lý, nhân vật, giai thoại, huyền thoại, di tích, thắng cảnh, cây dừa, địa danh năm xưa… - Trong công trình nghiên cứu Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam từ năm 1757 đến 1945 của tác giả Nguyễn Duy Oanh, Phủ Quốc Vụ Khanh Sài Gòn xuất bản năm 1971, tuy nội dung còn sơ lược, nhưng có thể tìm được những tư liệu về vùng đất Bến Tre trên các lĩnh vực địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa, việc tổ chức hành chính của chính quyền họ Nguyễn và thực dân Pháp, một số phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp, một số nhân vật lịch sử. - Ba Tri đất và người của nhiều tác giả, Ban chấp hành Đảng bộ Ba Tri xuất bản năm 1984, ngoài phần tư liệu về một số nhân vật lịch sử tiêu biểu gắn bó với Ba Tri, một số địa danh từng có những chiến công oanh liệt của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp, một số ngành nghề truyền thống, công trình còn đề cập một số di tích văn hóa của Ba Tri, về hát sắc bùa Phú Lễ… - Bình Đại địa chí của Huỳnh Văn Tháp, Phan Ngọc Đằng chủ biên, Ủy ban nhân dân huyện Bình Đại xuất bản năm 1987, cung cấp nhiều tư liệu ở nhiều lĩnh vực như địa lý, lịch sử, dân cư, kinh tế, văn hóa, giáo dục… của cù lao An Hóa nói chung, huyện Bình Đại nói riêng trong các thế kỷ XVII – XX. - Địa chí Bến Tre, do Thạch Phương, Đoàn Tứ chủ biên, cùng nhiều cộng tác viên trong các ngành khoa học khác nhau, do Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 2001 là công trình nghiên cứu tỉ mỉ, công phu, đề cập đến nhiều mặt về tự nhiên, dân cư, lịch sử đấu tranh cách mạng, văn hóa, giáo dục,… của vùng đất Bến Tre từ thế kỷ XVII – XX. Ở dạng thứ ba, những công trình sưu tầm nghiên cứu chuyên sâu, đề cập đến một số lĩnh vực văn hóa của Bến Tre như: Dân ca Bến Tre (Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Ty Văn hóa thông tin Bến Tre xuất bản 1981); Văn học dân gian Bến Tre (Nguyễn Phương Thảo, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 1988); Hát sắc bùa Phú Lễ Ba
  10. Tri – Bến Tre ( Huỳnh Ngọc Trảng, Nxb TP. Hồ Chí Minh xuất bản năm 1992); Tuyển tập văn học chữ viết Bến Tre (Nguyễn Phương Thảo – Nguyễn Nhị Hà sưu tầm, tuyển chọn, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 1996); Tìm hiểu một số hiện tượng văn hóa dân gian Bến Tre (Nguyễn Chí Bền, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 1997); Tang lễ người già ( của tác giả Lư Văn Hội, Sở Văn hóa thông tin tỉnh Bến Tre xuất bản năm 2002)… Nhìn chung, công trình nghiên cứu về vùng đất Bến Tre có khá nhiều. Mỗi công trình nghiên cứu đề cập một hoặc một số vấn đề có liên quan đến diện mạo văn hóa – xã hội của vùng đất này. Hiện chưa có công trình nào đề cập đầy đủ và có hệ thống về diện mạo văn hóa – xã hội vùng đất này qua các thời kỳ từ thế XVII – XX. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic: - Luận văn thuộc chuyên ngành khoa học lịch sử, do vậy, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử làm phương pháp chủ đạo trong quá trình nghiên cứu. Bức tranh văn hóa – xã hội được miêu tả dưới góc độ lịch sử, trong bối cảnh, không gian và thời gian cụ thể. - Phác họa bức tranh nghĩa là phải miêu tả, nhưng không chỉ dừng lại ở đó mà các sự kiện, hiện tượng, vấn đề đặt ra và giải quyết ở luận văn còn được phân tích, khái quát, nhận định, xem xét trong các mối liên hệ nhân quả, xem xét tính kế thừa, phát triển, mối liên hệ quá khứ - hiện tại- tương lai… Nói cách khác, người viết còn kết hợp giữa phương pháp lịch sử và phương pháp logic trong quá trình nghiên cứu luận văn. 4.2. Phương pháp tiếp cận hệ thống: - Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng không tồn tại riêng lẻ mà nó luôn nằm trong một hệ thống và chịu sự tác động, chi phối bởi các sự vật, hiện tượng khác. Diện mạo văn hóa – xã hội của Bến Tre trong các thế kỉ XVII – XX được xem như một bộ phận diện mạo của khu vực Nam Bộ và của cả nước vào khoảng thời gian này.
  11. - Các yếu tố, các lĩnh vực cụ thể của văn hóa được xem xét trong cùng một hệ thống, chịu chung tác động của những điều kiện, hoàn cảnh tự nhiên, lịch sử. - Với cách tiếp cận hệ thống, các yếu tố, các lĩnh vực cụ thể của văn hóa còn được xem xét trong mối quan hệ tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. 4.3. Phương pháp liên ngành: Xã hội loài người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Trong nghiên cứu lịch sử, việc sử dụng tài liệu, kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học có liên quan là rất cần thiết, giúp cho việc miêu tả, khôi phục đối tượng nghiên cứu được rõ ràng, làm cơ sở cho việc vững chắc cho việc giải thích, so sánh, đối chiếu các nguồn tư liệu khác nhau. Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết sử dụng những thành tựu, kết quả nghiên cứu ở một số ngành có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài như: khảo cổ học, địa lý học, văn học, kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, tôn giáo,… để so sánh, đối chiếu, miêu tả, dựng lại bức tranh văn hóa – xã hội của vùng đất Bến Tre trong các thế kỉ XVII – XX. 4.4. Phương pháp khảo sát điền dã: Tư liệu khảo sát điền dã cung cấp cho nhà nghiên cứu những hình ảnh, những câu chuyện, những hoạt động thực tế, sinh động. Đây là một trong những nguồn tư liệu quý giá trong công tác nghiên cứu lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, người viết đã trực tiếp khảo sát, tiếp xúc với các di tích, hiện vật lịch sử, văn hóa; phỏng vấn những người am hiểu những vấn đề có liên quan đến đề tài nhằm thu thập thêm thông tin, tư liệu, làm cơ sở để so sánh, đối chiếu với tư liệu thành văn, góp phần miêu tả bức tranh văn hóa - xã hội. 4.5. Phương pháp so sánh: - Việc sử dụng phương pháp so sánh trong nghiên cứu lịch sử là rất cần thiết, nhằm tìm ra sự giống nhau, khác nhau, nét chung, nét riêng, mối quan hệ nhân quả, sự kế thừa, phát triển của các sự kiện, hiện tượng. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã sử dụng phương pháp so sánh lịch đại để tìm ra sự giống nhau, khác nhau, kế thừa, phát triển theo thời gian của các yếu tố, hiện tượng văn hóa.
  12. Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng phương pháp so sánh đồng đại để nhận diện sự giống nhau, khác nhau, những điểm chung, những nét đặc thù của diện mạo văn hóa – xã hội Bến Tre với khu vực Nam Bộ và cả nước trong từng thời điểm, giai đoạn. 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Thông qua việc chọn lọc và phân tích tư liệu lịch sử, luận văn dựng lại bức tranh toàn cảnh về văn hóa-xã hội của Bến Tre qua các thời kì, trong các thế kỉ XVII-XX. Luận văn cung cấp thêm những thông tin về diễn trình văn hóa-xã hội của địa phương nhằm bổ sung tư liệu về vùng đất này, làm cơ sở cho việc biên soạn, giảng dạy lịch sử địa phương nhằm bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ lòng yêu quê hương, đất nước, ý thức trân trọng, giữ gìn và phát huy những thành quả, truyền thống mà các thế hệ cha anh đã xây dựng. Ở một mức độ nhất định, luận văn còn góp thêm cơ sở khoa học để lãnh đạo Tỉnh hoạch định chính sách văn hóa-xã hội của tỉnh nhà. 6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Về cấu trúc, ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được chia thành 3 chương. Chương I: Điều kiện tự nhiên của vùng đất Bến Tre Chương II: Diện mạo văn hóa – xã hội của vùng đất Bến Tre trong các thế kỉ XVII- XX Chương 3: Con người Bến Tre
  13. Chương 1 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA VÙNG ĐẤT BẾN TRE 1.1. Vị trí địa lý Bến Tre hiện nay là 1 trong 13 tỉnh nằm ở đồng bằng sông Cửu Long. Vùng đất Bến Tre được hợp thành bởi ba cù lao lớn là: cù lao An Hóa, cù lao Bảo và cù lao Minh, do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long: sông Mỹ Tho, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên bồi tụ qua nhiều thế kỉ. Nhìn trên bản đồ, vùng Bến Tre có hình chiếc quạt, đầu nhọn nằm ở thượng nguồn, các sông lớn giống như nan quạt xòe ra phía Biển Đông. Diện tích tự nhiên của Bến Tre là 2.315,01km2. Phía Bắc, Bến Tre giáp tỉnh Tiền Giang, ranh giới chung là sông Mỹ Tho; phía Tây và Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh, ranh giới chung là sông Cổ Chiên; phía Đông giáp Biển Đông, bờ biển dài 65km. Về tọa độ địa lý, điểm cực nam của Bến Tre nằm trên vĩ độ 9048’ bắc, thuộc huyện Thạnh Phú; cực Bắc nằm trên vĩ độ 10020’ bắc, thuộc huyện Châu Thành; điểm cực đông nằm trên kinh độ 106048’ đông, thuộc huyện Bình Đại; điểm cực Tây nằm trên kinh độ 105057’ đông, thuộc huyện Chợ Lách. Đường bộ đi từ thị xã Bến Tre đến thành phố Hồ Chí Minh (qua Tiền Giang và Long An) dài 86km. Quốc lộ 60 từ phà Rạch Miễu, qua thị xã Bến Tre, phà Hàm Luông, thị trấn Mỏ Cày, đến phà Cổ Chiên dài 35,39km. Quốc lộ 57 nối với quốc lộ 60 ở thị trấn Mỏ Cày, qua Chợ Lách, sang Vĩnh Long, đoạn trên đất Bến Tre dài 40,65km. Bến Tre có 6 tỉnh lộ. Tỉnh lộ 882 nối quốc lộ 60 từ ngã ba chợ Xếp đến quốc lộ 57, dài 10 km. Tỉnh lộ 883, từ ngã tư huyện Châu Thành đến Thới Thuận, Bình Đại, dài 58,33km. Tỉnh lộ 883B từ ngã ba Đê Đông đến bờ biển xã Thừa Đức dài 8,1km. Tỉnh lộ 884 từ ngã ba Tân Thành đến bến phà Tân Phú dài 24,45km. Tỉnh lộ 885 từ Thị xã đến Tiệm Tôm, Ba Tri dài 45,5km. Tỉnh lộ 886 từ ngã tư Phú Khương đến ngã ba Phú Hưng, tiếp giáp với đường tỉnh 885, dài 5,3km. Tỉnh lộ 887 từ Thị xã đến ngã ba Sơn Đốc, dài 23,57km. Tỉnh lộ 888 từ ngã ba Thom, Mỏ Cày đến Khâu Băng, Thạnh Phú, dài 51,62km.
  14. Trước đây, từ ba cù lao của Bến Tre, có thể đến miền Đông, miền Tây Nam Bộ bằng ghe thuyền đi sông, có thể xuống vùng Cà Mau, ra miền Trung bằng ghe thuyền đi biển. Ngược lại từ miền Trung vào, miền Đông xuống, miền Tây lên, người ta cũng có thể sử dụng những phương tiện tương tự như vậy. Từ khi có tàu thủy, ghe máy, sự giao lưu càng thuận tiện, tấp nập hơn. Đặc điểm địa lý này đã tác động đến nhiều mặt đến suốt quá trình hình thành, phát triển Bến Tre. 1.2. Quá trình kiến tạo, bồi đắp vùng đất Bến Tre Về lịch sử phát triển địa chất, theo kết quả nghiên cứu của ngành địa chất học[66, tr.187], vùng đất Bến Tre được hình thành ở giai đoạn sau cùng của sự bồi tụ đồng bằng sông Cửu Long, gắn liền với quá trình phân nhánh của sông Cửu Long. Đầu thời kỳ cận sinh, cách nay 70 triệu năm, một cuộc biển tràn nhỏ đã dìm phần cực nam của Bến Tre xuống dưới nước mặn, cùng lúc với khu vực Trà Vinh và Vĩnh Long. Vào thời điểm cách nay khoảng 40 triệu năm, biển rút ra, để lại trầm tích đất liền thô hạt. Đây là trầm tích chứa nước ngọt đầu tiên, nằm ở độ sâu trên 500m, bên dưới khu vực thị xã Bến Tre. Thời tân sinh cách nay 30 triệu năm, một cuộc biển tràn làm ngập toàn bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sau đó, biển lùi ra chút ít, nhưng khu vực đồng bằng sông Cửu Long, trừ An Giang (nhờ móng đá Bảy Núi khá cao), vẫn còn chìm trong biển nước. Tiếp theo, biển lùi thật nhanh, để lại trầm tích đất liền chứa nước lợ. Cách nay khoảng 8 triệu năm, một lần nữa biển lại tràn, lấp gần trọn khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đưa nước mặn đột nhập phù sa nước lợ trước đó, làm cho cả vùng đồng bằng bị mặn. Cuộc biển tràn lần này chấm dứt cách nay khoảng 3 – 4 triệu năm. Riêng khu vực Ba Tri, cách nay khoảng một triệu năm lại còn một cuộc biển tràn cục bộ. Đất Bến Tre chỉ mới xuất hiện trên mực nước biển từ khoảng 4.500 năm trở lại đây. Theo tài liệu của Sở Tài nguyên và Môi trường, khoảng 4.500 năm – 5.000 năm cách đây, có một cồn sông khá lớn xuất hiện ở phía dưới khu vực Chợ Lách hiện tại. Sau đó, một số giồng cát được hình thành ở phía đầu cồn, dấu vết ngày nay
  15. hiện còn ở phía nam Chợ Lách. Một cù lao lớn thứ hai xuất hiện ở khu vực Châu Thành, tạo nên một cửa sông mới, đó là cửa sông Mỹ Tho. Cùng lúc đó, sông Ba Lai, sông Hàm Luông được hình thành. Các con sông này lấn biển và bồi đất rất nhanh chóng, tạo nên các giồng cát nằm sát nhau. Trước kia, Bến Tre vốn là những cù lao được hình thành riêng lẻ do phù sa của sông Tiền lắng đọng. Những nhánh sông chia cắt các cù lao cũng bị phù sa dần dần lắp nghẽn. Các cù lao dần dần được chắp lại với nhau, tạo nên Bến Tre như hiện tại. Trên địa bàn Bến Tre, dấu tích của những dòng sông cổ bị lấp vẫn còn ở nhiều nơi như Châu Thành, Chợ Lách, Mỏ Cày, Thạnh Phú. Đó là những dải đất phèn, những vùng đất thấp với nhiều hợp chất hữu cơ, đặc biệt là những dòng nước ngọt ngầm sâu hàng chục mét. Thực trạng sông Ba Lai hiện nay đang tái lập hình ảnh của các dòng sông cổ bị lấp. Sự bồi tích nhanh của sông Mỹ Tho làm cho sông Ba Lai bị nghẽn ở đầu phía trên. Do vậy, lòng sông đã bị xóa hẳn ở đoạn qua huyện Châu Thành, gần xóa ở đoạn qua huyện Giồng Trôm, sắp sửa bị xóa ở huyện Bình Đại. Xu thế bồi tụ vùng cửa sông ven biển ở Bến Tre vẫn đang tiếp diễn. 1.3. Địa hình Bến Tre thấp và bằng phẳng, độ cao trung bình từ 1 – 2m so với mực nước biển, có hướng thấp dần từ Tây Bắc đến Đông Nam. Phần đất cao thuộc khu vực Chợ Lách, Châu Thành, nằm ở phía bắc và tây bắc thị xã Bến Tre. Đây là khu vực của cồn sông cổ bị lũ hàng năm mang phù sa phủ lấp. Ngoài ra, ở các huyện ven biển như Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, rải rác trên bề mặt địa hình còn có các giồng cát. Giồng là kết quả tác động của dòng sông và sóng biển. Các giồng có dạng vòng cung hay rẻ quạt, cao từ 3 - 5m, chạy dài từ 5 – 7km theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, song song với đường bờ biển. Ở các khu vực này, nhiều địa danh mang từ giồng ở phía trước, như Giồng Trôm, Giồng Tre, Giồng Chuối… Giồng là đất lý tưởng cho cây dừa phát triển. Ngay cả những giồng mới ven biển, dừa cũng mọc được nhờ có lớp cát dày, độ thoát nước cao, không có phèn. Đất
  16. giồng là cát pha, nên không co rút, dễ nén, độ thoát nước cao, thích hợp cho việc xây dựng các công trình bán kiên cố. Giồng cổ là nền móng tốt cho nhà nhiều tầng, sân bay. Có nơi, giồng chuyển thành bưng, có đất cát pha sét. Đất này có thể được dùng làm gạch ép. Giữa hai giồng thường là một vùng trũng, được gọi là phẳng giữa giồng. Những phẳng giữa giồng rộng trên 1000m bắt đầu có tầng sinh phèn ở độ sâu 0,5 – 1m, bên dưới lớp phù sa mới nhất. Nếu đào bới ở những nơi này sẽ làm dậy phèn lên. Phẳng giữa giồng là nơi thích hợp cho các loại cây trồng như lúa, mía, hoa màu, với điều kiện phải có nước tưới, vì những khu vực này thường bị nhiễm phèn. Khi làm công tác thủy lợi, cần tránh việc làm dậy phèn ở sâu bên dưới. Ngoài đất giồng, đê tự nhiên hay đê sông cũng là phần đất cao. Đê thành lập vào mùa lũ, khi nước sông dâng lên cao, tràn qua hai bên bờ. Vật liệu thô, theo dòng nước trôi lơ lửng trên mặt nước, cũng tràn vào hai bên bờ. Năm này sang năm khác, vật liệu thô kế tiếp nhau lắng xuống, tạo ra bờ đê cao hơn đất liền bên trong. Đê tự nhiên là nơi cao ráo, có nhiều điểm nổi bật về nông nghiệp so với các loại đất khác ở các trũng. Mỗi năm, đê được bồi thêm phù sa mới, mang độ phì cao cho đất. Đất đê giữ độ ẩm tốt vào mùa nắng. Sau đất giồng, đê tự nhiên là nền móng tốt hơn hết so với các đơn vị bồi tích khác. Đất ở đê rất phù hợp cho việc sử dụng làm đất thổ cư, trồng cây ăn trái. Phía sau đê sông là khu đất thấp hơn, được gọi là bưng sau đê. Đất của bưng sau đê không có phèn. Nếu có phèn là do thảm thực vật úng thối tại chỗ tạo nên, với tổng lượng lưu huỳnh không quá 1%. Loại phèn nước ngọt này, nói chung, không gây hại đến cây trồng. Bưng sau đê ở Bến Tre thường phủ lên cồn sông cổ, đất ẩm, không phèn, nên bưng sau đê rất thích hợp đối với cây lúa, rau màu và cây dừa. Đây là một loại đất nông nghiệp khá tốt, song diện tích không lớn so với các loại đất khác. Trầm tích do lũ đưa về, gồm cát lơ lửng trong lòng nước và sạn sỏi chạy dài trên đáy sông. Chúng tích tụ lại thành lượn, gọi là lượn cát sông. Ban đầu lượn cát
  17. nằm dưới mặt nước, về sau nhô dần lên khỏi mặt nước và có thực vật phủ lên, trở thành cồn sông hoặc cù lao. Dọc các sông lớn còn có rất nhiều cù lao (cồn), được hình thành. Trên sông Mỹ Tho có Cồn Phụng, Cồn Tàu. Sông Hàm Luông có Cồn Ốc, Cồn Linh. Sông Cổ Chiên có Cồn Phú Đa, Cồn Dung… Đối với nông nghiệp, cù lao hay cồn sông có giá trị kinh tế khá cao. Đất cồn không có phèn, thích hợp cho nhiều loại cây trồng. Phần đất thấp, từ 1 – 1,5m, gồm có 2 dạng. Trước hết, đó là khu vực các lòng máng của các lòng sông cổ và mới, đã bị lấp hoàn toàn hoặc một phần bởi trầm tích lũ, cụ thể là các khu vực như Phước An, Phước Tú (Châu Thành), Phong Phú, Phú Hòa (Giồng Trôm). Dạng thứ hai là những vũng mặn cổ, hiện cũng đã được lấp đầy từng phần như xóm chợ cũ, Mỹ Hòa (Ba Tri), Bình Quới (Giồng Trôm). Phần đất trũng thật thấp ở khu vực ven biển, có độ cao không quá 0,5m. Phần đất này luôn luôn ngập dưới mực triều trung bình, bao gồm những đầm mặn và bãi thủy triều. Đất đầm mặn có nhiều ở Bình Đại, trở nên ít dần ở Ba Tri và Thạnh Phú. Bãi thủy triều có địa mạo bằng phẳng. Tuy vậy, mặt trên của bãi thủy triều bao giờ cũng có dấu vết của dòng nước và sóng. Bãi thủy triều gồm có hai loại. Loại thứ nhất là bãi cát thủy triều, nằm ở những nơi có sóng gió to. Loại thứ hai nằm ở những nơi khuất sóng, trong vũng kín hoặc nửa kín, bao gồm bùn pha sét và chất hữu cơ, nên được gọi là bãi bùn thủy triều. Bãi cát thủy triều có thể sử dụng làm bãi tắm phục vụ khách du lịch. Bãi bùn thuỷ triều, đến nay vẫn chưa thấy có công dụng gì đáng kể. Bãi thủy triều được bồi tích liên tục. Các tác giả quyển Địa chí Bến Tre (2001) cho biết, trong 21 năm, từ 1968 – 1989, tổng diện tích bồi tụ của Bến Tre là 61, 170 km2. Trong đó, huyện Bình Đại chiếm 19,807 km2, Ba Tri chiếm 16,989 km2, Thạnh Phú chiếm 24,373 km2. Tốc độ bồi tụ bình quân mỗi năm là 2,33 km2[18, tr.168-169]. Bãi thủy triều thuộc môi trường nửa nước nửa khô. Mỗi ngày, bãi bị ngập hai lần và bị phơi khô hai lần. Ở khu vực gần cửa sông, bãi thủy triều là môi trường
  18. sống thuận lợi của hàu, ngao, sò huyết. Nhiều nơi, người ta đã phát hiện được những đống vỏ lớn, nhân dân gọi đó là những mỏ hào, mỏ ngao, mỏ sò huyết. Ở Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú đều có lác đác những đống vỏ như vậy. Bờ biển Bến Tre chủ yếu là những bãi bồi rộng. Khi triều rút, bãi bồi trải rộng ra phía biển hàng ngàn mét, rất thuận lợi cho việc nuôi thủy sản nước mặn như nghêu, sò. Chất trầm tích ở bãi thủy triều chứa các loại vi sinh vật khá phong phú, là nguồn thức ăn cho các vật nuôi, đặc biệt là tôm. Địa hình vùng đất Bến Tre khá đa dạng, bị chia cắt bởi sông ngòi, kênh rạch, địa hình tương đối bằng phẳng, có những khu vực tương đối cao, như các giồng đất và đê tự nhiên, có những vùng đất thấp như bưng, trũng, bãi bồi. Những khu đất cao là nơi thuận tiện cho cư trú trong buổi đầu khai phá, để rồi, từ những khu đất cao này, các thế hệ lưu dân đã mở rộng diện tích khai phá xuống các vùng bưng, trũng. 1.4. Thổ nhưỡng Đất đai ở Bến Tre là sản phẩm của quá trình bồi tụ phù sa của đồng bằng sông Cửu Long. Do có lịch sử canh tác lâu đời, đất đai ở đây đã trải qua những biến chuyển quan trọng. Nhiều vùng đất mặn, đất phèn đã được ngọt hóa. Việc đào mương, lên liếp đã làm thay đổi gần một nửa diện tích đất đai trong tỉnh. Đất ở vùng Bến Tre gồm 4 nhóm chính: đất phù sa, đất mặn, đất phèn và đất giồng cát. Đất phù sa chiếm 66.471 ha (26,9% diện tích đất toàn tỉnh), phân bố chủ yếu ở khu vực tây bắc của tỉnh như Chợ Lách, Châu Thành, bắc Giồng Trôm và bắc Mỏ Cày. Loại đất này thích hợp cho việc phát triển nghề làm vườn, trồng cây ăn trái. Đất phù sa ở Bến Tre được hình thành từ trầm tích của các lòng sông cổ. Đây là những nơi quần cư sớm trong lịch sử khai thác đất Bến Tre. Các tầng đất sâu trên 50cm đã qua thời gian canh tác dài, bị thoái hóa nghiêm trọng, biểu hiện ở sự chai cứng trong các tầng đất. Nhóm đất phù sa ở Bến Tre có độ phì vào loại thấp, nguồn đạm tốt nhưng nguồn dự trữ lân không đủ. Một số nơi, đất đang có biểu hiện suy thoái, trong quá trình khai thác cần lưu ý đến việc bảo dưỡng.
  19. Đất mặn chiếm diện tích 96.730ha (43,22% diện tích toàn tỉnh) phân bố chủ yếu ở các huyện ven biển như Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Nhóm đất này được hình thành từ trầm tích hỗn hợp sông, biển, mang dấu ấn của tác động biển trong thành phần của đất. Loại đất mặn ít và trung bình phân bố ở địa hình từ 0,8 – 1,2m, cách xa biển và sông lớn. Loại đất này được canh tác khá lâu đời, mùa khô bị bỏ trống, chế độ bốc hơi mạnh, nên đất bị kết vón ở độ sâu 80 – 100cm. Loại đất mặn nhiều phân bố ở địa hình thấp hơn. Triều cường tràn lên làm cho tầng đất mặt có độ mặn cao rất khó rửa nhanh vào đầu mùa mưa. Loại đất mặn nhiều thường xuyên dưới rừng ngập mặn, phân bố ở khu vực ven biển Bến Tre, dưới các thảm rừng mắm, sú, vẹt. Loại đất này bị ngập thường xuyên do thủy triều, đất có độ mặn rất cao, không thuận lợi cho các loại cây trồng nông nghiệp. Nhìn chung, nhóm đất mặn không thuận lợi cho việc trồng trọt, song không có nghĩa là không thể khai thác được. Đối với loại đất mặn ít, chỉ nhiễm mặn trên bề mặt, có thể cải tạo để trồng lúa, mía, dừa… Loại nhiễm mặn thường xuyên (ven biển) thích hợp với các loại cây ngập mặn, có thể khai thác để trồng rừng, kết hợp nuôi thủy sản. Đất phèn chiếm diện tích 15.127 ha (6,741% diện tích toàn tỉnh), phân bố rải rác ở từ vùng ngọt, vùng lợ đến vùng mặn, cụ thể là ở những nơi có địa hình thấp, khó tiêu nước. Hầu hết đất phèn ở Bến Tre có tầng phèn sâu trên 50 cm, nên chưa phải là loại đất hoàn toàn hạn chế đối với sự sinh trưởng của cây lúa. Ở Bến Tre, các vùng đất phèn đều phát sinh từ nguồn gốc bưng, trũng hoặc sông cổ. Do quá trình bồi tụ của các dòng sông, các lớp đất phèn được phủ lên mặt bởi lớp trầm tích sông. Bằng các biện pháp đào mương, lên liếp, xẻ kênh, lập vườn, người dân đã làm cho các khu vực đất phèn trở nên thoáng khí và khô ráo. Tuy nhiên, ở một số nơi thuộc vùng lợ và vùng mặn (khu vực Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, trong mùa khô, sự xâm
  20. nhập mặn vào đất phèn làm cho đất vừa phèn, vừa mặn nên cây trồng rất khó sinh trưởng). Nói chung, đất phèn ở Bến Tre có thể tận dụng để canh tác lúa, nhưng năng suất thường không cao. Đất cát, chủ yếu là đất giồng, chiếm 14.248ha (6,44% diện tích toàn tỉnh). Loại đất này được hình thành bởi tác động của dòng sông và sóng biển trong quá trình lấn biển của vùng cửa sông. Dưới tác động của khí hậu và của con người qua hàng trăm năm, những giồng đất được hình thành sớm không còn tơi xốp như những giồng hình thành sau ở khu vực Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Ở những nơi không có cây che phủ, đất rất dễ bị thoát nước, tầng mặt thường rất khô. Loại đất này ít cua ở tầng mặt, nghèo hữu cơ, độ phì thấp, thiếu đạm nghiêm trọng. Do đất cát giồng có khả năng giữ nước và giữ phân kém, nên chủ yếu được sử dụng làm đất cư trú kết hợp với trồng rau màu và cây lâu năm. Kết quả khảo sát của Sở Tài nguyên và Môi trường từ 1990 – 2000 cho thấy, mặc dù đất đai ở Bến Tre có độ phì tiềm tàng đáng kể, nhưng mức độ sử dụng cho cây trồng còn hạn chế, do có sự hiện diện của nhiều chất đối kháng ở mức độ cao. Loại bỏ các yếu tố đối kháng này bằng các biện pháp canh tác hợp lý, chất lượng và năng suất cây trồng sẽ tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, ở một số khu vực, do sử dụng các biện pháp canh tác không hợp lý nên dẫn đến tình trạng đất bị thoái hóa, năng suất cây trồng bị giảm sút hoặc không tăng. Đất đai ở đây vốn rất nghèo lân, lượng đạm dễ tiêu và không hẳn dồi dào, việc thâm canh cây lúa đã làm cho đất mất dần những chất dinh dưỡng chủ yếu. Việc sử dụng hoàn toàn phân vô cơ và tập quán đốt rơm rạ đã làm cho đất mất dần sự tơi xốp và thiếu lượng hữu cơ cần thiết của quá trình chuyển hóa các chất dinh dưỡng. Ở những khu vực đất bị nhiễm mặn, mỗi năm chỉ gieo trồng được một vụ lúa vào mùa mưa, bỏ hóa ở mùa khô, không có thảm thực vật che phủ. Ở các huyện ven biển như Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, rừng ven biển bị khai hoang để trồng lúa, đất mất thảm thực vật che phủ, bị bốc mặn nghiêm trọng trong mùa khô, bị nứt nẻ và chuyển biến theo chiều hướng xấu.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0